Skip directly to content

141-QUẢ A-LA-HÁN TU KHÔNG KHÓ... TL Thích Thông Lạc.

1- Cái thấy, cái nghe, cái cảm thọ, cái tưởng, cái thức tri không phải của con người.

Lời Phật dạy: “Vậy này Bàhiya, ngươi cần phải học tập như sau: “Trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiya, ngươi không là chỗ ấy.”  

                                                                                               (Tạng Kinh Phật Tự Thuyết trang 298)

Chú giải:

Trong kinh Đại Thừa và Thiền Tông thường cho rằng: cái biết, cái thấy, cái nghe là Phật tánh, còn ở kinh này đức Phật lại dạy khác: “Cái biết, cái thấy, cái nghe không phải là ngươi, là của ngươi”. Sau khi ngộ được lý này, Bàhiya là một tu sĩ ngoại đạo đã giác ngộ được Niết-bàn và chứng quả A-la-hán.  

Câu chuyện xảy ra trong thời đức Phật như sau: Bà-la-môn Bàhiya được mọi người cung kính, tôn trọng, cúng dường… nên Ông nghĩ rằng: “Với ai là bậc A-la-hán hay đang đi trên đường A-la-hán, thì Ta là một trong những vị ấy”. Được biết những tư tưởng này, có một người thân của Bà-la-môn Bàhiya nói: “Này Bàhiya, ngươi không phải là A-la-hán và cũng không phải người đang đi trên con đường A-la-hán. Ngươi không có đạo lộ ấy. Ngươi nên đến yết kiến Tôn giả Gotama bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác thì người sẽ rõ”.

Sau khi đến gặp Tôn giả Gotama ba lần hỏi đạo, trong khi đức Phật đang đi khất thực, nên không thể giảng nói dài dòng được. Vì thế đức Phật chỉ thẳng: “Cái biết, cái thấy, cái nghe không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta”. Khi được đức Phật trả lời như vậy thì Bàhiya đã hiểu rõ con đường dẫn đến giải thoát không có gì hơn là các pháp trên thế gian này không có vật gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta, chỉ cần buông xuống biết là ngay đó chứng quả A-la-hán.

                “Buông xuống đi! Buông xuống đi!  
                 Chớ giữ làm chi có ích gì.  
                 Thở ra chẳng lại còn chi nữa.
                 Vạn sự vô thường buông xuống đi.” 

Buông xuống hết tất cả các bạn còn có cái gì, các bạn có biết không? Buông xuống hết chỉ còn là một tâm thanh thản, an lạc và vô sự các bạn ạ! Nơi đó là quả vị A-la-hán. Sau khi được Phật khai ngộ xong, thì hôm ấy Bàhiya đã bị bò húc chết. Trong lúc bị bò húc ông không bối rối sợ hãi, chỉ bình tỉnh giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự, vì lúc bấy giờ thân tâm này không phải là ông, là của ông, là bản ngã của ông, nên ông thanh thản, an lạc và vô sự trong trạng thái ấy (Đại Bát Niết Bàn).

Khi đám tang Ông xong, nhiều người đến hỏi Phật: “Bà La Môn Bàhiya chết đi về đâu?” đức Phật xác định: “Với thành tâm thưa hỏi pháp, với lòng tin bất diệt của Bà-la-môn Bàhiya khi nhận ra tất cả các pháp không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì ông chỉ còn nhận ra trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Nhờ sống trong trạng thái tâm bất động ấy, Ông đã nhập vào Đại Bát Niết Bàn và chấm dứt tái sanh luân hồi”. Các bạn hãy đọc kỹ lưỡng lại đoạn kinh này: “Này các tỳ-kheo. Hiền trí là Bàhiya đã hành trì tùy pháp, đúng pháp và không có phiền nhiễu Ta với những tranh luận về pháp. Này các tỳ-kheo, Bàhiya đã nhập Niết-bàn”.

Tóm lại người tu theo Phật giáo đâu phải tu tập khó khăn như người ta tưởng mà chỉ cần biết buông xả cho thật sạch dục và ác pháp thì quả A-la-hán ở tại đó. Thường trong kinh điển Phật giáo có người nghe Phật thuyết pháp xong liền chứng đạo. Điều này có thật hay không? Điều này có thật. Vì có nhiều người đã tu chứng quả A-la-hán mà không biết cứ nghĩ rằng quả A-la-hán là cao siêu, là tu tập khó chứng lắm, nhưng không ngờ nó lại ở trong tầm tay của mọi người. Người tu hành chỉ cần biết buông xả từ bỏ tâm tham, sân, si thì ngay đó là Niết-bàn, là chứng quả A-la-hán.

Trong Thanh Tịnh Đạo có một vị Thượng tọa tu chứng quả A-la-hán mà không biết, đến khi nhờ người thị giả đỡ ngồi dậy thì biết ngay đó là mình đã chứng quả A-la-hán. Các bạn hãy đọc một đoạn trong Luận Thanh Tịnh Đạo số 135 trang 74 nói về một vị Trưởng Lão bệnh đang nằm chờ chết. Tăng chúng và phật tử đến hỏi thăm Ngài tu hành có đắc địa vị siêu thế (A-la-hán) không? Ngài bảo: “Ta không đắc địa vị siêu thế nào hết”. Khi ấy có một vị tỳ-kheo trẻ tuổi làm thị giả theo hầu Ngài và bảo: “Bạch Đại Đức mọi người vì tưởng Ngài đã đắc Niết-bàn nên mới đi hàng chục dặm đường để đến đây hỏi thăm Ngài, Ngài trả lời như vậy, họ sẽ vô cùng thất vọng. Tu hành như Ngài không lẽ chỉ chết như một phàm phu thường tình thì đau lòng lắm!” Vị Trưởng Lão trả lời: “Này Hiền giả, vì muốn gặp đức Thế Tôn tương lai (Metteyya) nên ta không nỗ lực để đắc tuệ giác. Vậy bây giờ Hiền giả hãy đỡ ta ngồi dậy may ra có đắc chăng?” Vị tỳ-kheo liền đỡ Ngài dậy rồi đi ra. Khi vị tỳ-kheo ấy vừa ra khỏi, Trưởng Lão liền đắc quả A-la-hán và khảy móng tay ra hiệu, Tăng chúng tụ lại bạch Ngài:

- Bạch Đại Đức, Ngài đã làm một việc rất khó, là hoàn thành Thánh quả vào lúc lâm chung.

- Chư Hiền, việc ấy không khó. Nhưng Ta sẽ bảo cho chư Hiền biết là việc gì khó thật sự. Chư Hiền, từ khi xuất gia cho đến ngày nay, Ta không thấy có một hành vi nào Ta làm mà không ý thức, không có Chánh niệm kèm theo”.

Đọc đoạn luận trên đây chúng ta nhận xét câu: “Từ khi xuất gia cho đến ngày nay Ta không thấy có một hành vi nào Ta làm mà không ý thức, không có chánh niệm kèm theo. Đọc xong đoạn luận này chúng ta rất thấm thía cái khó của người tu hành theo đạo Phật không phải chỗ nhập Bốn Thánh Định, thực hiện Tam Minh chứng quả A-la-hán mà ở chỗ Tỉnh Giác Chánh Niệm. Có tỉnh giác chánh niệm ta mới buông xả sạch dục và ác pháp. Khi buông xả sạch dục và ác pháp là chứng quả A-la-hán, chứ không phải còn tu tập pháp môn nào cả. Đạo Phật thì chỉ có tu tập bấy nhiêu thôi.

Vị Trưởng Lão này đã trình bày cho chúng ta thấy pháp hành và kết quả của chánh niệm tỉnh giác. Nhưng Ngài không biết đó là chứng quả A-la-hán nên chờ đợi đức Thế Tôn tương lai để xác định chỗ tu của Ngài. Trong khi Ngài bệnh đau đang nằm chờ chết, không ngồi dậy nổi, mới khởi ý nhờ vị tỳ-kheo trẻ tuổi đỡ dậy trong khi mọi người đến thăm. Khi khởi ý muốn ngồi dậy, đó là Ngài đang sử dụng “Dục Như Ý Túc” nhưng Ngài không biết. Khi được ngồi dậy Ngài thấy mình không còn bệnh đau yếu đuối nữa, Ngài mới biết mình đã chứng quả A-la-hán vô lậu. Vì vô lậu nên tác ý muốn ngồi dậy bệnh liền biến mất và Ngài tự tại ra đi.

Chính chỗ này là chỗ tâm thanh thản, an lạc và vô sự là quả A-la-hán mà có ai ngờ đâu. Khi sử dụng năng lực của Tứ Thần Túc thì mới biết mình chứng quả A-la-hán. Hoặc có người chỉ thẳng cho ta thì ta mới nhận ra trạng thái tâm thân thanh thản, an lạc và vô sự là trạng thái chứng quả A-la-hán.

Trong thời đức Phật còn tại thế có nhiều vị Bà-la-môn đã tu tập được tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Nhưng không biết đó là quả A-la-hán nên khi nghe đức Phật khai ngộ thì họ mới nhận ra. Khi đã nhận ra mới biết mình đã chứng quả A-la-hán. Cho nên có những đoạn kinh khi đức Phật giảng xong là có người chứng quả A-la-hán ngay liền, là vì họ tu tập rất lâu mới chứng đạt được chỗ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác như vị Trưởng Lão trong Luận Thanh Tịnh Đạo đã nói: “Việc chứng quả A-la-hán không khó, nhưng Ta sẽ bảo cho chư Hiền biết là việc gì khó thật sự. Chư Hiền, từ khi Ta xuất gia cho tới ngày nay, Ta không thấy có một hành vi nào ta làm mà không ý thức, không có chánh niệm kèm theo”.

Vị Trưởng Lão tu như vậy, sống như vậy, làm sao không chứng quả A-la-hán được. Phải không các bạn? Cho nên các bạn đừng hỏi chứng quả A-la-hán. Mà hãy hỏi các bạn có Tỉnh Giác Chánh Niệm trong từng hành động của các bạn chưa? Quả A-la-hán không khó mà khó ở chỗ Chánh Niệm Tỉnh Giác, xin các bạn hãy lưu ý điều này để sự tu tập của các bạn có kết quả tốt đẹp.

2- Từ bỏ tâm tham

Lời Phật dạy: “Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe: “Này các tỳ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các ngươi không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Tham, này các tỳ-kheo! Là một pháp các ngươi hãy từ bỏ, Ta bảo đảm cho các ngươi không đi tái sanh.”

                                                              (Kinh Phật Thuyết Như Vậy trang 413 Chương I Tập Một Pháp).

Chú giải:

Kính thưa các bạn! Đọc qua lời Phật dạy trên đây chúng ta có đặt trọn lòng tin nơi lời này dạy hay không? Riêng chúng tôi khi tu tập Thiền Đông Độ bị bế tắc, không biết đường tiến tới nữa, nên đọc được lời dạy này chúng tôi nỗ lực hằng ngày tu tập với câu tác ý: “Tâm như đất ly tham, sân, si cho thật sạch, vì tâm tham, sân, si là ác pháp, là đau khổ”. Khi tác ý mỗi lần như vậy nếu có điều gì khiến tâm khởi lên tham, sân, si là chúng tôi quyết định dừng lại một cách kiên cường dũng mãnh, không để một phút giây tham, sân, si trong tâm mình tác động. Do đặt trọn niềm tin nơi những lời Phật dạy, vì thế, chúng tôi nhiếp phục tâm mình một cách dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức.

Trong lời dạy này chỉ cần có “từ bỏ tâm tham” là chấm dứt tái sanh luân hồi. Nhớ lời dạy nhất là lời dạy ấy có cả sự quả quyết của đức Phật: “Ta bảo đảm cho các Ngươi”. Vì thế, sáu tháng trời chúng tôi chuyên cần tu tập từ bỏ tâm tham, sân, si, đúng pháp như lý tác ý, thế là chúng tôi đã thành tựu đạo giải thoát, làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi như lời đức Phật đã bảo đảm.

Bởi vậy bài kinh này lấy tên là: Tập Một Pháp trong Tập Kinh Phật Thuyết Như Vậy. Để bảo đảm lời dạy này đức Phật đã đọc một bài kệ ngắn gọn:

                “Với tham bị tham đắm 
                 Chúng sanh đi ác thú (tái sanh) 
                 Bậc thiền quán chánh trí 
                Từ bỏ tham ái ấy
                Từ bỏ không bao giờ 
                Trở lại đời này nữa”. 

Kính thưa các bạn! Vậy tâm tham ái là gì? Tham là sự tham lam, ham muốn, thường con người ai cũng có tâm tham lam và ham muốn: nhưng có người tham muốn nhiều, lại có người tham muốn ít. Muốn từ bỏ tâm tham muốn là các bạn nên lưu ý từng hành động nhỏ nhặt của các bạn như: ăn, uống, ngủ nghỉ, vui chơi, giao tiếp với bạn bè v.v… khi muốn từ bỏ tâm tham muốn các bạn phải xem xét kỹ lưỡng từ cái ăn, cái mặc, cái vui chơi xem coi nó còn tham ăn, tham ngủ, tham nói chuyện không? Ăn ngủ và nói chuyện là tướng tham sẽ hiện nơi đó. Khi tướng tham còn hiện nơi đó là tâm các bạn chưa thanh tịnh, tâm chưa thanh tịnh dù các bạn có muốn tu pháp nào đi nữa thì các bạn cũng đều là tu sai pháp, tu lạc đường cả. Do đó sự tu tập của các bạn chỉ uổng công mà thôi.

Bởi vậy khi tu tập từ bỏ tâm tham thì các bạn nên xem mình ưa thích ăn cái này cái kia không? Nếu còn thích ăn cái này cái kia thì tâm các bạn còn tham ái. Biết tâm còn tham ái thì các bạn phải cố gắng nhiếp phục tâm mình để từ bỏ tâm tham ăn, tham uống, tham ngủ nghỉ phi thời. Khi từ bỏ được tâm tham ăn là các bạn không ăn uống phi thời, không ăn uống lặt vặt, đúng giờ thì ăn, không đúng giờ thì không ăn. Và không bao giờ thèm ăn cái này hay thèm ăn cái kia. Như vậy các bạn đã lìa hay từ bỏ tâm tham ăn.

Trong giới luật Phật có giới cấm không ăn phi thời. Không ăn phi thời là đức hạnh ly tâm tham của một vị tu sĩ. Thế mà giới này, các tu sĩ Đại Thừa và Thiền Tông đều vi phạm ăn uống phi thời, có nghĩa các thầy Đại Thừa tâm tham ăn chưa từ bỏ. Chưa từ bỏ tâm tham ăn mà muốn kiến tánh thành Phật thì Phật đó là Phật còn tham ăn ư! Vậy mà muốn được sau khi chết được trực vãng Tây Phương Cực Lạc thì những pháp môn này tu hành không bao giờ có giải thoát thật sự, chỉ là một ảo tưởng mà thôi. Phải không các bạn?

Bài kinh Tập Một Pháp đã xác định rõ ràng như vậy không còn có một giáo pháp nào lừa đảo chúng ta được nữa. Không lìa tâm tham mà muốn chứng quả A-la-hán, muốn kiến tánh thành Phật và muốn trực vãng Tây Phương Cực Lạc, thì đó là giấc mộng các bạn a! Đây là con đường từ bỏ tâm tham đưa đến làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi mà đức Phật đã thường nhắc nhở chúng ta:

“Này Vàsettha, nay ở đời đức Như Lai xuất hiện là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, đức Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ với thượng trí, thế gian này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người lại tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh”.

(Trường Bộ Kinh tập 1, trang 425 kinh Tevija thuộc tạng kinh Việt Nam do Hòa Thượng Minh Châu dịch).

Khi được nghe đức Phật dạy đạo đức làm người, làm Thánh, sống không làm khổ mình, khổ người tức là dạy sơ thiện, trung thiện, hậu thiện. Nghe dạy đạo đức như vậy ai mà không muốn tu. Phải không các bạn? Chỉ có từ bỏ được tâm tham là các bạn đã chấm dứt được sanh tử luân hồi, chứng quả vô lậu A-la-hán, quá dễ dàng không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức. Vậy mà mọi người chịu ảnh hưởng của Đại Thừa cứ nghĩ rằng quả A-la-hán tu rất khó khăn.  

Vậy các bạn hãy nghe tiếp lời đức Phật: “Người gia trưởng hay con vị gia trưởng hay một người sinh ở giai cấp hạ tiện nào nghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp người ấy sinh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, vị ấy suy nghĩ: “Đời sống gia đình đầy những phiền trược, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình”. Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa và xuất gia từ bỏ gia đình, sống không nhà cửa!” (gia đình) .

“Khi đã xuất gia như vậy, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp, thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Mạng sống trong sạch, giới hạnh đầy đủ, thủ hộ các căn, chánh niệm tỉnh giác và biết tri túc”.

Đoạn kinh trên đây là chỉ cho con đường Phạm hạnh mà những ai muốn làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi đều phải đi con đường này, không thể còn có một con đường nào khác hơn được nữa. Nếu có con đường nào hơn khác nữa thì đó không phải là con đường của đạo Phật mà đó là con đường lừa đảo của tà giáo ngoại đạo lường gạt người.

Xin các bạn nên lưu ý. Các bạn hãy đọc kỹ lại đoạn kinh trên, vì trước khi tuyên bố con đường này đức Phật đã xác định cho chúng ta biết: Bất cứ một người nào muốn đưa ra một giáo lý chỉ dạy con đường tu tập giải thoát sinh tử luân hồi thì phải là người chứng đạt được 10 danh hiệu như đoạn kinh trên đã nói:

                1- Bậc A-la-hán 
                2- Bậc Chánh Biến Tri 
                3- Bậc Minh Hạnh Túc
                4- Bậc Thiên Thệ 
                5- Bậc Thế Gian Giải 
                6- Bậc Vô Thượng Sĩ 
                7- Bậc Điều Ngự Trượng Phu
                8- Bậc Thiên Nhân Sư
                9- Bậc Phật 
               10- Bậc Thế Tôn 

Người chứng đạt được 10 danh hiệu này mới dám đưa ra con đường duy nhất cứu cánh giải quyết mọi sự khổ đau của kiếp người. Trong khi thực hành tu tập thì pháp hành rất thực tế, cụ thể qua những hành động sống đều được gắn liền trong đời sống bình thường hằng ngày, vì nó là đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người. Cho nên ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày mà tâm tham, sân, si đều đã được từ bỏ và đoạn diệt một cách tự nhiên. Bởi vậy không còn có con đường nào khác hơn được nữa.

Xin các bạn lưu ý và đọc lại đoạn kinh trên để hiểu thấu suốt lời dạy của Phật, nó không phải là lời nói suông mà là một sự sống của những bậc thánh A-la-hán. Cho nên các bạn đừng xem thường những lời dạy này. Đó là những lời dạy tâm huyết của đức Phật gửi lại cho đời sau một thông điệp nói về sự sống giải thoát mọi sự khổ đau của kiếp người mà đức Phật đã chỉ rõ mục đích của nó là tâm bất động trước các pháp ác và các cảm thọ, đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Kính thưa các bạn! Con đường ấy là con đường thánh thiện luôn luôn gắn liền với sự sống hằng ngày của mọi người rất chân thật, chứ không có mơ hồ, trừu tượng ảo giác chút nào, nó không giống như những con đường ảo tưởng của Đại Thừa và Thiền Tông.

Đây các bạn hãy lắng nghe đức Phật chỉ dạy con đường giải thoát rất thực tế và cụ thể. Sự giải thoát ấy chính nơi trạng thái tâm của các bạn mà không ai không nhận ra được:

              “Này Vàsettha, ngươi nói tỳ-kheo không có ái dục, Phạm thiên không có ái dục. Vậy giữa tỳ-kheo không có ái dục với Phạm thiên không có ái dục, có thể có một sự cọng hành, cọng trú không?
              - Thưa Tôn giả Gotama, có thể được.
              Lành thay! Này Vàsettha, tỳ-kheo sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú với Phạm thiên. Thật có thể có sự kiện ấy”.

Đọc đoạn kinh này ai cũng biết con người thường đau khổ là vì tâm ái dục. Nếu tâm dục ái hết thì con người giải thoát, không còn đau khổ nữa. Có phải vậy không các bạn? Đó là một sự chân thật cụ thể không mơ hồ trừu tượng mà không còn ai dám cho rằng đây là không đúng. Muốn từ bỏ tâm dục ái thì chỉ có con đường duy nhất của đạo Phật như đoạn kinh trên đã dạy, ngoài con đường ấy ra, thì không còn có con đường nào khác nữa. Cho nên, Bà-la-môn bảo rằng: “Đây là trực đạo, đây là chánh đạo. Mọi pháp môn đều dẫn đến nơi cứu cánh giải thoát”. Đó là lời nói suông. Lời nói suông là lời nói không chỉ rõ mục đích giải thoát rõ ràng, cụ thể.