133-PHÁP CĂN BẢN CỦA NGƯỜI TU SĨ (5). TL Thích Thông Lạc
Hạnh độc cư (tiếp theo).
Muốn tu hạnh sống độc cư phải tu tập ba giai đoạn:
1. Tập sống ít nói chuyện, chuyện gì đáng mới nói;
2. Tập sống riêng, làm việc riêng một mình;
3. Tập sống không làm việc.
Sau đây là phần thứ nhất của hạnh độc cư là:
Tập sống ít nói chuyện: Các con phải biết lựa chọn cái gì cần thiết mới nói, mới thưa hỏi; không cần thiết thì không được nói, không được thưa hỏi. Duy nhất chỉ thưa hỏi về chuyện tu tập và phải thưa hỏi riêng, không phải hỏi trước đại chúng vì hỏi như thế các con sẽ bị phân tán tâm lo ngại, khó tập trung. Phải hỏi thiện tri thức để chỉ cho rõ, hành cho đúng. Ngoài ra, những chuyện khác phải cẩn thận khi muốn nói ra. Không được hỏi linh tinh.
Có 20 điều để giữ gìn im lặng (tránh tiếp duyên)
1. Tránh nói chuyện tào lao, nhảm nhí.
2. Tránh kết tình nghĩa, kết bạn bè thân.
3. Tránh nghe chuyện người khác, vì chuyện người khác khiến tâm ta bị động, bất an, thường sanh ra nhiều chuyện và phải nói ra.
4. Tránh gặp nhau, vì gặp nhau dễ sanh nói chuyện. Nếu có gặp nhau thì không nói chuyện là tốt nhất.
5. Không nên đem sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm về tu hành của mình đi dạy người khác khi mình tu chưa xong, tức là bị tâm tham danh khoe khoang.
6. Thấy bạn mình tu sai, không được đến dạy bảo, mà phải báo cho thiện tri thức chỉ dạy người ấy, vì đến dạy bảo làm động mình, động người và thành quen thuộc với nhau nên không giữ hạnh độc cư được.
7. Thấy bạn đồng tu buồn khổ, không được đến an ủi, chia xẻ. Chỉ cần báo cho thiện tri thức giúp là đủ.
8. Tránh đổ lỗi người khác, vì như thế sẽ tạo duyên bất an trong tâm, gây nên cãi cọ, tranh tụng.
9. Tránh đi đến thất của người khác vì như thế là làm động mình và làm động tâm người.
10. Làm lao động chung, tránh nói chuyện cười đùa.
11. Khi giúp bạn đồng tu đang bệnh, tránh nói chuyện ngoài vấn đề thăm bệnh. Tốt hơn hết là chỉ hỏi thăm bệnh để dùng phương tiện trị liệu.
12. Khi làm việc chung với người khác nên tùy thuận để tránh cãi cọ, đổ thừa.
13. Thường tập sống thơ thẩn một mình để đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm.
14. Luôn giữ tâm thanh thản, an lạc và hướng tâm đến thanh thản, an lạc.
15. Thường giữ tâm vô sự, và hướng tâm đến vô sự.
16. Thường tránh xa các duyên để giữ tâm không bị phân tán.
17. Không nên đem tâm sự của mình nói cùng ai, ngoài người thiện hữu tri thức của mình.
18. Thấy việc làm nặng nhọc, cùng nhau chia xẻ làm, nhưng không được nói chuyện.
19. Thấy ai làm chưa xong, cùng làm phụ, nhưng không nói chuyện.
20. Thường sống im lặng trong và ngoài tâm, và hướng tâm đến sự im lặng.
Các con phải ghi nhớ 20 điều kể trên để giữ tâm im lặng. Tốt nhất là tránh xa, tránh xảy ra các duyên, tránh tạo các duyên mới để tâm không bị phân tán. Càng tiếp duyên thì càng tạo hoàn cảnh bất an, tâm bị phân chia, khó tu thành khối nội lực và tu tập sẽ dẫm chân tại chỗ, không tiến bộ được. Cố tránh duyên thì hoàn cảnh mới thuận tiện, yên vui tu hành. Các con nên nhớ độc cư ở giai đoạn I là Tịnh khẩu.
Tịnh khẩu là nói lời thanh tịnh, không nói lời bất tịnh. Tịnh khẩu là nói lời thiện, tức là nói lời làm vui lòng mình và vui lòng người. Nói lời bất tịnh là nói lời ác, làm đau khổ mình và đau khổ người. Tịnh khẩu là nói lời thiện, không có nghĩa là á khẩu, vì á khẩu là câm, không nói được. Thế nên các con phải cẩn thận kẻo rơi vào tu hình thức, ít nói mà thành nói rất nhiều. Chuyện gì cũng nói, khi tâm bung ra, phân tán nói thôi không hết như nước vỡ bờ.
Hạnh độc cư khó lắm, nó là bí quyết thành công của thiền định. Độc cư có ba nhiệm vụ:
Một: Bảo vệ tâm tránh các duyên. Hai: Gom tâm hợp nhất thành khối. Ba: Làm cho tâm tuôn tràn ra hết.
Sáu năm trời tu khổ hạnh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là sáu năm tu ly dục. Nhờ đó Đức Phật tránh được các duyên, thu nhiếp thân tâm thành khối nội lực. Khi tâm đã thành khối có nội lực, Đức Phật đã xả bỏ khổ hạnh tối đa, vì khổ hạnh chỉ làm hại cho sức khỏe, chỉ giữ lại đời sống bình thường của một tu sĩ đi khất thực ăn ngày một bữa và chỉ khác năm anh em ông Kiều Trần Như là Ngài đã nhận thêm sữa do cô bé chăn dê cúng dường.
Trong 49 ngày dưới cội bồ đề, Đức Phật dùng nội lực nơi tâm đã có đem ra chiến đấu với nội tâm mình để ly dục ly bất thiện pháp. Lúc bấy giờ Đức Phật gọi là hàng phục Ma Vương, kế đó Đức Phật diệt tầm tứ, đóng mở sáu căn nhập Nhị Thiền, sau khi nhập Nhị Thiền Ngài loại trừ tưởng thức nhập Tam Thiền, sau khi nhập Tam Thiền xong Ngài dừng các hành trong thân nhập Tứ Thiền, nhập Tứ Thiền xong Ngài dẫn tâm đến Tam Minh thành tựu giải thoát.
Tóm lại, ly dục là lìa xa ý muốn của mình. Nghe nói ly dục thì rất dễ dàng, mà lìa xa ý muốn của mình thì khó vô cùng. Bậc Thánh như đức Khổng Phu Tử đến 70 tuổi mới dám tuyên bố: “Ta đến tuổi nầy mới làm theo ý muốn của mọi người.” Nghĩa là đến 70 tuổi ông mới ly dục và ác pháp nơi tâm ông.
Theo Thầy nghĩ, muốn ly dục lìa ác pháp thì ít ra phải ba năm rèn luyện. Còn tu lơ mơ thì 30 năm cũng chưa chắc đã làm được. Cái ý muốn của mình là cái gì? Là Bản ngã ác pháp. Bản ngã ác pháp không ly thì làm sao có Niết Bàn?
Vô Ngã ác pháp là Niết Bàn chứ không phải vô ngã là Niết Bàn, vì vô ngã ác lẫn thiện là cây đá. Đi tu cũng như đi học. Người ngoài đời nếu học không đến nơi đến chốn thì chẳng có ích lợi gì cho mình mà còn là gánh nặng cho xã hội.
Người tu cũng vậy, tu không đến nơi, đến chốn sẽ làm bại hoại tôn giáo, như hiện giờ chúng ta thấy phần đông tu sĩ Phật giáo tu không đến nơi đến chốn làm hư hoại Phật giáo. Người tu đến nơi đến chốn làm sáng tỏ Phật pháp qua gương hạnh sống của mình, khiến cho mọi người quy ngưỡng và tôn kính Phật pháp.
Chúng ta quyết chọn con đường tu thì phải tu cho đến nơi đến chốn. Người tu lừng chừng không có ích cho mình, cho người mà còn có hại cho tôn giáo.
Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình.” Tu là quyết tâm buông bỏ, bỏ để được giải thoát, thảnh thơi, an vui một đời. Bỏ cái gì? Bỏ lòng muốn.
Tóm lại, trong Giai đoạn I của Thiền định là giai đoạn Ly, dùng ba hạnh Ăn, Ngủ, Độc Cư làm đối tượng để tu tập, khắc phục cho được tâm ly dục. Các con nên nhớ, chúng ta là tu sĩ của đạo tu hạnh giải thoát thì thời gian nào, ngày nào, tháng nào, năm nào cũng là mùa Xuân, mùa Xuân vĩnh cửu trong tâm hồn của chúng ta, mùa Xuân không có nhân quả, mùa Xuân không có diễn biến luân hồi.
Vì thế chúng ta không có chúc thọ, không có mừng tuổi mùa Xuân thế gian. Hãy sống bình thường, hãy giữ tâm bình thường trước mọi diễn biến của không gian và thời gian bằng một tâm hồn thanh thản.
IV-1.2: Ly Bất thiện pháp
Ly là lìa xa, rời xa.
Bất thiện pháp là tham, sân, si, mạn, nghi, những thói quen tật xấu, những điều suy nghĩ, những lời nói, những hành động làm cho mình khổ, người khác khổ. Bất thiện pháp còn gọi là pháp ác, pháp hung dữ, pháp làm khổ đau.
Vậy muốn lìa xa pháp ác thì các con phải rèn luyện, tu tập ba đức:
1. Nhẫn nhục;
2. Tùy thuận;
3, Bằng lòng.
Các con nên lưu ý ba đức tính giải thoát nầy là để lìa xa các pháp ác, rất là khó tu:
- Nếu không biết tu đúng cách thì sẽ hoài công, vô ích.
- Không đủ nghị lực, bền chí, gan dạ, kiên trì, thì cũng bỏ cuộc tu hành giữa đường.
- Nếu không cầu xin pháp chỉ thẳng, đập thẳng mạnh mẽ của thiện hữu tri thức thì cũng khó mà tu được ba đức nầy vững vàng.
1, Nhẫn nhục: Thầy thường nhắn nhủ với các con cũng như Đức Phật ngày xưa đã dạy: Nhẫn một việc khó nhẫn, làm một việc khó làm. Đó là nhắc các con ly dục, ly bất thiện pháp để vào thiền định. Đây là một việc tu tập khó khăn vô cùng chứ không phải ngồi tréo chân hít thở hoặc giữ tâm không vọng tưởng là thiền định.
Người ta thường nói đường đi khó vì không biết đường. Các con cũng vậy. Khi tu không biết cách mà tu theo kiến giải của các nhà học giả thì đó là đường đi khó (vì chưa biết đường). Cố đi mà đường đi không thu ngắn lại, chỉ đi lòng vòng không có lối ra như con kiến bò trên miệng lu.
Khi đã biết đường thì dù cho khó đến đâu chúng ta cũng đi đến đích, chỉ cần có ý chí là thành tựu. Cũng như các con đã biết pháp tu thì mỗi bước đi sẽ thu ngắn quãng đường.
Trước khi bắt tay vào việc tu tập cụ thể ở phần hai của Giai đoạn I này, tức là Ly Ác pháp thì các con phải tu tập dứt điểm ở phần một là Ly Dục hay ít ra các con cũng phải sống đúng giới luật, thấy những lỗi nhỏ nhặt đáng sợ. Các con phải hoàn thành tâm mình Ly Dục, nghĩa là hoàn toàn Ly Chấp Ngã.
Người chưa ly dục hoàn toàn mà vội ly ác pháp là một hành động điên rồ, tu tập như vậy là nén tâm, chịu đựng, an phận. Cũng ví như người sống phạm giới, phá giới mà ngồi thiền nhập định thì chẳng có ích lợi gì.
Nếu người đang sống trong cảnh dục lạc thế gian, tâm chưa ly dục mà theo học hỏi những thiện pháp trong kinh sách thì chỉ mới gieo chủng tử ly dục, ly ác pháp của đạo giải thoát mà thôi. Không phải sự học hỏi, sự hiểu biết đó là ly dục, ly bất thiện pháp được. Nếu tâm chưa ly dục mà học hỏi kinh sách để tích lũy giáo pháp giải thoát của đạo Phật thì người nầy chỉ nuôi lớn bản ngã ác pháp chứ không ly dục ly ác pháp.
Nếu một người tâm chưa sống ly dục mà thường học hỏi những thiện pháp trong kinh sách để làm kiến giải riêng của mình, rồi dùng đó xả ly ác pháp và tâm ham muốn của mình thì không bao giờ ly dục ly ác pháp được, mà đó chỉ là lối tu tập đè nén tâm mình, hoặc tránh né tâm mình, hoặc trốn chạy tâm ham muốn và ác pháp mà thôi.
Người nào đang sống trong dục lạc thế gian mà tu Thiền định thì chẳng bao giờ nhập được định. Nếu có nhập được thì cũng chỉ rơi vào tà thiền, tà định mà thôi. Nếu một người còn sống trong dục lạc mà tu đức nhẫn nhục thì chẳng nhẫn nhục được gì mà ngược lại, đó là lối tu tập nén tâm, ức chế tâm làm cho tâm thêm đau khổ và thần kinh bị hưng phấn.
Nếu một người dùng hình thức bề ngoài để ly dục, mà trong tâm không ly dục, vội tu đức nhẫn nhục, cũng chẳng tu nhẫn nhục được gì. Trái lại tâm hồn còn thêm đau khổ. Giống như các con đã từng nói sự tu hành xả tâm phải bằng máu và nước mắt. Đó là sự tu sai do nén tâm chịu đựng nên mới thấy sự khổ như vậy, chứ tu đúng thì tâm bất động dù bất cứ pháp nào cũng không làm nó động tâm được.
Nên nhớ, ly dục là lìa xa cái tâm ham muốn chớ không phải ly vật dụng, vật chất. Một người sống ở rừng núi không có vật dụng gì như loài khỉ, vượn, người nầy ly vật dụng chớ không ly tâm dục. Loài vật cũng vậy, ly vật dụng chứ không phải ly tâm dục của nó. Người nghèo không có vật tùy thân, không phải là người ly dục. Người có đầy đủ vật chất trên thế gian mà không dính mắc vào những vật chất ấy, đó là người ly dục!
Người ăn thực phẩm dở mà không đòi thực phẩm ngon, không thích ngon, không chê dở, đó là người ly dục. Người ăn thực phẩm ngon mà không đòi ăn thực phẩm dở, đó là người ly dục. Người ăn thực phẩm dở mà đòi ăn thực phẩm ngon là người không ly dục. Ngược lại cũng vậy. Người không thèm ăn thực phẩm này, thực phẩm khác là người ly dục. Người còn thèm ăn thực phẩm này, thực phẩm khác là người chưa ly dục.
Ở cảnh động mà không đòi ở cảnh tịnh là người ly dục. Ở cảnh động mà đòi ở cảnh tịnh là người chưa ly dục. Người mặc áo đạo xuất gia tu hành mà tâm còn ham muốn cảnh thế gian là người chưa ly dục. Người xuất gia tu hành mà tâm còn làm những chuyện cầu danh ở thế gian là người chưa ly dục.
Ở cảnh động, cảnh chướng tai gai mắt mà không bị động, không thấy chướng tai gai mắt là người ly dục. Người nào luôn giữ tâm thanh thản là người ly dục. Người nào luôn giữ tâm vô sự là người ly dục. Người nào tâm không phóng dật là người ly dục. Người nào tâm chưa vô sự là người chưa ly dục. Người nào không giữ tâm thanh thản, tâm hay sanh chuyện nầy, chuyện kia, là người chưa ly dục.
Người thấy người khác có áo mới mà đòi hỏi áo mới là người chưa ly dục. Người thấy người khác có áo mới mà không đòi áo mới là người sống an phận thủ thường, chưa phải là người ly dục. Người thấy người khác có áo mới, mình cũng có áo mới mà không ham thích là người ly dục. Người đứng núi nầy trông núi nọ là người chưa ly dục.
Người sống trong cảnh tu hành nầy mà đòi hỏi cảnh tu hành khác là người chưa ly dục. Sống trong hoàn cảnh nầy mà vui với hoàn cảnh nầy là người ly dục. Người sống trong hoàn cảnh nầy mà đòi hoàn cảnh khác là người chưa ly dục. Cùng một công việc có nhiều người làm nhưng hôm nay không ai làm chỉ có một mình làm nên tâm sanh ra chướng ngại, đó là tâm chưa ly dục.
Còn biết bao nhiêu điều so sánh về vấn đề ly dục và không ly dục. Ở đây Thầy chỉ nêu ra một số vấn đề cụ thể để các con hiểu rõ trong khi tu tập ly dục cho đúng cách.
2, Tùy thuận: Điều quan trọng trong sự tu tập là luôn luôn tỏ lòng tôn kính ý kiến và việc làm của người khác. Đó là ý kiến và việc làm đúng, còn ý kiến và việc làm sai của người thì ta tùy thuận để ly ác pháp, nhưng không để bị lôi cuốn. Bởi vậy tu tập đức tùy thuận là một việc làm khó khăn vô cùng, không phải dễ làm. Chỉ có sống ly dục, tránh các duyên và bảo vệ tâm, giữ gìn sáu căn thì mới có thể ly dục ly ác pháp dễ dàng mà thôi.
Tùy thuận có hai chiều, tùy thuận người và tùy thuận mình:
- Tùy thuận người là tôn kính mọi lời nói, việc làm của người khác.
- Tùy thuận mình mà tôn kính mình thì không khéo mình chạy theo dục và nuôi ác pháp, nuôi ngã của mình.
Nên nhớ, tùy thuận mình là tùy theo khả năng của mình mà làm, tránh trường hợp nuôi dục, nuôi bản ngã. Tùy thuận là để ly dục ly ác pháp và diệt ngã. Mục đích của nó không phải ở ý kiến và việc làm của mình, mà chính là để được tâm hồn giải thoát, an vui, thanh thản. Đó cũng là bước đầu ngăn chặn và chấm dứt các duyên nhân quả không cho tiếp diễn theo nghiệp lực của nó.