Skip directly to content

105-NGHĨA CÁC TỪ PHẬT HỌC CHƠN NHƯ - Tỳ khưu Từ Quang

NGHĨA CỦA CÁC CÂU, CÁC TỪ - Kì 3.

Vần B (tiếp theo)

Bà La Môn chân chánh (PhậtDạy.1) thì phải hội đủ những tiêu chuẩn:

1- “Ai biết được đời trước”. Biết được đời trước của mình là phải có Tam Minh. Trong Tam Minh có Túc Mạng Minh. Có Túc Mạng Minh mới biết được nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ của mình và của người khác.

2- Thấy Thiên giới, đọa xứ”. Phải có trí tuệ nhân quả thấy thiện và ác rất rõ ràng. Người thấy thiện ác rõ ràng là người có chánh tri kiến. Người có chánh tri kiến là người ly dục ly ác pháp. Người ly dục ly ác pháp là người tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Người tâm còn ham vui, thích tài sản, của cải, tiền bạc, nhà cửa sang đẹp thì chưa xứng đáng làm Thánh Tăng, Thánh Ni (Bà La Môn chân chánh).

3- Phải Ðạt được sanh diệt tận. Sanh là đời sống, sự sống; diệt là chết, sự chết; tận là tận cùng, cuối cùng, chấm dứt. Toàn nghĩa câu này là phải đạt cho được sự tận cùng sống chết của kiếp làm người.

4- Thắng trí, tự viên thành”. Thắng trí là trí tuệ chiến thắng mọi ác pháp và các cảm thọ, một trí tuệ không bao giờ chịu khuất phục trước mọi trở ngại, gian nan hay mọi việc khó khăn nào, luôn luôn giành phần thắng về mình. Người có thắng trí là người thành tựu đạo giải thoát.

5- Bậc Mâu Ni đạo sĩ” có nghĩa là năng nhơn, năng từ, năng mãn, năng tịch, v.v… Năng nhơn nghĩa là lòng thương người; năng từ là lòng từ bi; năng mãn là tâm tròn đầy đức hạnh; năng tịch là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Nghĩa của toàn câu kệ này là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được.

6- Viên mãn mọi thành tựu”. Viên mãn: là tròn đầy, đầy đủ, không còn thiếu khuyết một chỗ nào cả. Nghĩa của câu này là tất cả những pháp môn tu hành của Phật giáo đều đã tu hành xong.

Bà La Môn giáo (Đường Về.7) (ĐườngVề.8) (CầnBiết.1) là một tôn giáo lớn nhất của Ấn Ðộ, có trước Phật giáo. Bà La Môn giáo chia đời người Bà La Môn làm ba giai đoạn:

1- Bà La Môn giáo thiếu niên, thì phải học tập thông suốt kinh điển cúng bái tế lễ, đây là giai đoạn học tập (giống như các Thầy ứng phú của kinh sách phát triển).

2- Bà La Môn giáo trung niên, chuyên cúng bái tế lễ, sống ăn mặc như người thế tục giống như cư sĩ bây giờ, gọi là Phạm chí. Ðây là giai đoạn làm từ thiện (Bồ Tát Hạnh).

3- Bà La Môn Giáo tuổi già, bỏ nhà cửa gia đình thân quyến xuất gia đi tu nhưng đầu không có cạo. Ðây là giai đoạn tu hành của Bà La Môn giáo. Người cư sĩ tụng niệm, cúng tế, làm Bồ Tát hạnh là Bà La Môn tụng niệm. Cho nên hình thức tổ chức của Ðại thừa là của Bà La Môn giáo. Người cư sĩ hành nghề cúng tế tụng niệm là một Bà La Môn. Họ không phải là một người tu, mà là một người bình thường như thế tục, chỉ hơn người khác là có đọc kinh sách Vệ Ðà và các nghi thức cúng tế. Thọ giới Bồ Tát rồi tự xưng mình là Bồ Tát (giới Bồ Tát cũng tự họ đặt ra), nên bản chất ngã mạn tự kiêu của họ rất lớn. Những người này ta không nên trách, vì họ là cư sĩ Bà La Môn chứ không phải cư sĩ đạo Phật.

Bản thể tuyệt đối (ĐườngVề.4) Bản thể tuyệt đối, do các tôn giáo Ðại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông, Bà La Môn, v.v... tưởng ra, xây dựng bản thể tuyệt đối bằng “tưởng tri”. Bản thể tuyệt đối là tưởng tri của loài người và của các tôn giáo khác. Với trí hữu hạn của con người, mà đòi hiểu bản thể tuyệt đối của vạn hữu, cũng như dùng mắt thường mà muốn nhìn thấy vi trùng trong ly nước. Cho nên, Phật và A La Hán đều chứng đạt chân lí này, chứ không phải chứng đạt bản thể tuyệt đối mơ hồ của ngoại đạo. Người xả tâm sạch, không phải đạt được bản thể tuyệt đối mà chỉ làm chủ tâm mình (ly dục ly ác pháp), không còn phiền não đau khổ, thương, ghét, giận hờn, hận thù, v.v…

Bảy Diệu Pháp (CầnBiết.4) I- Lòng tin (Đức Phật có 12 danh hiệu, mỗi danh hiệu nói lên được Đức Hạnh và Trí Hạnh của Phật 1- Như Lai; 2- Ứng cúng; 3- A La Hán; 4- Chánh Đẳng Giác; 5- Minh Hạnh Túc; 6- Thiện Thệ; 7- Thế gian Giải; 8- Vô Thượng sĩ; 9- Điều Ngự Trượng Phu; 10- Thiên Nhân Sư; 11- Phật; 12- Thế Tôn). II – Lòng tàm, tự xấu hổ vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự xấu hổ vì thành tựu ác, bất thiện pháp”. III – Lòng quý, tự sợ hãi vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự sợ hãi vì thành tựu ác, bất thiện pháp. IV- Đa văn, nhớ nghĩ những điều đã nghe, tích tụ những điều đã nghe. Những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có văn nói lên phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, được trí suy tư, được chánh kiến thể nhập. V- Sống tinh cần tinh tấn, trừ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp. VI- Thành tựu niệm tuệ tối thắng, nhớ lại, nhớ lại nhiều lần những gì đã làm từ lâu, đã nói từ lâu. VII- Có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập đưa đến đoạn tận khổ đau.

Bảy Giác Chi (TrợĐạo) gồm có: 1- Niệm Giác Chi, 2- Tinh Tấn Giác Chi, 3- Khinh An Giác Chi, 4- Hỷ Giác Chi, 5- Ðịnh Giác Chi, 6- Xả Giác Chi, 7- Trạch pháp Giác Chi.

Bảy Kiết Sử (12Duyên) gồm có: 1- Ái kiết sử; 2- Sân kiết sử; 3- Kiến kiết sử; 4- Nghi kiết sử; 5- Mạn kiết sử; 6- Hữu tham kiết sử; 7- Vô minh kiết sử. Muốn giải thoát thì đoạn trừ tận gốc ngũ triền cái và thất kiết sử thì chứng đạo.

Bằng lòng (ĐườngRiêng) (Tạoduyên) vui lòng chấp nhận mọi ý kiến và việc làm của người khác không có chút gì còn chướng ngại trong lòng, tức là chấp nhận và vui vẻ. Bằng lòng mọi hoàn cảnh để tâm mình Bất Động.

Bậc A La Hán (ThanhQui) của Phật giáo phải từ sự chấp nhận giữ gìn Giới luật và oai nghi chánh hạnh; phải từ Lục hòa và ăn uống, ngủ nghỉ tiết độ, không ăn uống, ngủ nghỉ phi thời; phải từ sự phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý và luôn luôn sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt. Nhờ những pháp này mới sinh ra bậc A La Hán. A La Hán có nghĩa là không còn tham sân si. Vậy khi đã chứng quả A La Hán mà vị này lại tự tại vô ngại phạm mà vào các pháp sống của A La Hán, khi oai nghi chánh hạnh không có, lục hòa không có thì đó là A La Hán của ngoại đạo. Trong tập thể có một vị A La Hán tự tại vô ngại đói ăn khát uống mệt ngủ thì còn gì là A La Hán nữa.

Bậc đại tu hành chẳng lạc nhân quả (ĐườngVề.4) Chữ “lạc” ở đây có nghĩa là rơi, bị, nghĩa là bậc đại tu hành không bị nhân quả tác dụng thân nhân quả duyên hợp, đó là hiểu sai. Đã mang thân nhân quả thì phải có tai nạn, bệnh tật; thân nhân quả vẫn là thân nhân quả không thể thay đổi được, dù người đó tu đã thành Phật. Nhưng tu đúng theo pháp của đức Phật, thì tâm không dao động trước tai nạn, bệnh tật và kế đó dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ, làm cho các cảm thọ khổ, lạc, bất khổ bất lạc, không tác động được vào thân và tâm và còn khắc phục chuyển hóa khổ thọ, lạc thọ ra khỏi thân tâm (Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu). Pháp của Phật, tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết thì nghiệp nhân quả làm sao chi phối được tâm người tu chứng. Nghiệp nhân quả tuy có nhưng không chi phối được tâm người tu chứng, tức là người tu chứng làm chủ nhân quả; làm chủ nhân quả tức là làm chủ nghiệp, chứ không phải làm chủ cái thân nhân quả duyên hợp như ông già chồn đã nói. Còn bảo không mê muội như Thiền Tông mà không làm chủ được các thọ, thì không đúng pháp Phật.

Bậc duyên giác (PhậtDạy.4) người ngộ được 12 nhân duyên, tu tập ngay trên các cảm thọ. Thọ sinh ra ái dục. Muốn bẻ gẫy ái dục thì phải yểm ly ba thọ. Muốn yểm ly ba thọ thì Ðịnh Niệm Hơi Thở phải tu tập nhiếp phục và an trú tâm cho được nhuần nhuyễn trong hơi thở, nhiếp tâm và an trú tâm cho được trong thân hành niệm nội hay ngoại. Ðó là những pháp yểm ly các thọ. yểm ly các thọ là một hành động đạo đức tự thân tâm. Khi yểm ly ba thọ được thì tham dục bị đoạn diệt. Tham dục đoạn diệt là tự thân đã giải thoát và giải thoát hoàn toàn.

Bậc Hiền Trí (PhậtDạy.1) Người chỉ lỗi và khiển trách chúng ta để chúng ta trở thành người tốt, có đạo đức; bậc Hiền Trí dám nói thẳng, dám chỉ lỗi, dám khiển trách những chỗ sai lầm của cuộc đời cũng như trong Ðạo, để cho mọi người biết mà cố gắng sửa sai. Bậc Hiền Trí sửa đời, sửa đạo vì Ðời và Ðạo chưa bao giờ toàn thiện. Bậc Hiền Trí nói thẳng cái gì đúng nói là đúng, cái gì sai nói là sai.

Bậc ly dục ly ác pháp (TruyềnThống.1) là những bậc nhập vào dòng Thánh (nhập lưu), nên được gọi là Thánh đệ tử Phật.

Bậc Mâu Ni đạo sĩ (PhậtDạy.1) là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được.

Bậc Mâu Ni đạo sĩ Viên mãn mọi thành tựu (CầnBiết.3) là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được.

Bậc Thánh nhân (ĐườngVề.6) là những người biết xấu hổ, biết sửa sai; biết xấu hổ, biết sửa sai tức là biết độc cư sống trầm lặng, sống trầm lặng, tức là cuộc sống Thánh thiện; cuộc sống Thánh thiện là cuộc sống của những bậc Thánh nhân, cho nên người phàm phu tầm thường không thể nào sống độc cư nổi.

Bậc thiện hữu tri thức (12Duyên) là bậc tu hành đúng chánh pháp của Phật và đã tu chứng đạo. Người tu hành chân chánh, đầy đủ công đức siêng năng, không lười biếng, xa lìa tâm kiêu mạn, nhẫn nhục, nhân từ, một mình ở nơi thanh vắng tu tập, một mình đạt được Niết bàn, diệt trừ tham, sân, si, ở chỗ ô nhiễm mà không bị ô nhiễm, ở chỗ ngu si mà không bị ngu si ám ảnh, ở chỗ đắm nhiễm mà không bị đắm nhiễm, ở chỗ đáng trụ mà không trụ, ở chỗ đáng ở mà không ở, thân hành động ngay thẳng, miệng nói lời chân thật, ý nghĩ chân chánh, thân làm việc thanh tịnh, có lòng nhân từ vô hạn, biết đủ trong sự ăn mặc, và mang bát đi khất thực để gây phúc lành cho chúng sanh. Bậc tu chứng đạo mới đủ khả năng hướng dẫn người khác tu hành đúng chánh pháp của Phật.

Bất động (Phậtdạy.3) (CầnBiết.4) là không bị lay động

Bất động tâm (ĐườngVề.3) Ðức Phật đã xác định: “Mục đích của Ðạo Ta không phải chỗ giới luật, không phải chỗ thiền định, không phải chỗ trí tuệ, không phải chỗ thần thông, v.v... mà chỗ bất động tâm”.

Bất động tâm định (PhậtDạy.4) (ĐườngVề.2) (ĐườngVề.5) (ĐườngVề.6) (ĐườngVề.9) (ĐườngVề.10) (Tạoduyên) là loại thiền định giải thoát tâm hoàn toàn, sống trong trạng thái Niết bàn của chư Phật mười phương, do ly dục ly ác pháp, hay nói một cách khác hơn bất động tâm định là tâm không phóng đật, một quá trình tu tập bằng một cuộc sống đúng giới luật, không những không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả trong khi giữ gìn giới luật còn tu tập các pháp hành như: Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ... để làm cho thanh tịnh giới luật, nhờ giới luật thanh tịnh tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Bất động Tâm Ðịnh là trạng thái tâm không phóng niệm và không phóng dật, như Ðức Phật đã dạy: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Người thế gian không bao giờ sống và vào trong trạng thái Niết bàn đó được vì tâm người thế gian còn vọng động, còn ham thích. Bất động tâm định có một sức tĩnh thức tuyệt vời nhìn thấu suốt lý nhân quả trong các pháp, nên người nào đã thực hiện được, đều có một đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người. Nhưng muốn có một đạo đức như vậy thì cần phải trau dồi rèn luyện thân tâm trong giới luật và Tứ Chánh Cần, trong một thời gian rất dài, không phải giờ, một ngày mà có được. Bất động tâm định là một pháp môn thiền định, kết quả của sự ngăn ác và diệt ác pháp, một loại thiền định do giới luật sanh ra, tức là tâm bất động trước các ác pháp, trước các cảm thọ, chứ không phải bất động là không vọng tưởng, không niệm thiện niệm ác. Bất động tức là tĩnh thức trong niệm chơn chánh; niệm chơn chánh tức là niệm thiện. Niệm thiện tức là niệm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Người tu tập tới Bất Ðộng Tâm Ðịnh muốn nhập định nào cũng dễ dàng và thực hiện Tam Minh cũng không còn khó khăn, tức là phải dùng pháp hướng tâm. Muốn đạt được tâm bất động như vậy thì phải tu tập Tứ Niệm Xứ. Muốn tu tập Tứ Niệm Xứ sung mãn thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì Tứ Niệm Xứ chỉ là một pháp ức chế tâm, khiến cho hành giả rơi vào các loại thiền tưởng, có khi bị Tẩu Hỏa Nhập Ma. Bất Ðộng Tâm Ðịnh là một trạng thái Tứ Niệm Xứ sung mãn, trạng thái này có đủ 7 năng lực của Thất Giác Chi. Do 7 năng lực của Thất Giác Chi mới nhập vào trạng thái của Sơ Thiền là trạng thái tâm không phóng dật, tâm không phóng dật tức là tâm ly dục ly ác pháp, tâm đã thanh tịnh là tâm bất động khi chiến thắng các ác pháp bên ngoài nhờ tu Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu nơi các pháp thiện và pháp ác. Tham ưu luôn luôn dồn dập tới tấp nếu không đủ sức kham nhẫn, không đủ nghị lực chịu đựng, không đủ tri kiến giải thoát và không đủ trí tuệ nhân quả, thì phải bỏ cuộc tu hành. Muốn chiến thắng các pháp thuộc về Tứ Niệm Xứ như ở trên thì: 1/ Phải đầy đủ sức kham nhẫn. 2/ Phải có nghị lực dũng mãnh. 3/ Phải đầy đủ tri kiến giải thoát. 4/ Phải có trí tuệ nhân quả. Muốn có đủ sức kham nhẫn thì hằng ngày nên tu tập pháp hướng tâm: “Tâm bất động như núi đá, khen không mừng, chê không buồn, chửi mắng, mạ nhục không giận, phải trơ trơ như tường đồng vách sắt”. Những câu hướng tâm này cần phải thuộc lòng và phải luyện tập cho có lực, khi gặp các pháp ác đến tới tấp thì mới đủ sức kham nhẫn vượt qua và cuối cùng mới xả tâm được. Bất Ðộng Tâm Ðịnh là Vô Tướng Tâm Ðịnh. Bất động tâm định là một loại thiền định rất cần thiết và lợi ích cho cuộc sống con người trên hành tinh này.

Bất thiện (ĐườngVề.2) có nghĩa là ác pháp. Đức Phật dạy về bất thiện (mười pháp ác) “Sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói lưỡi hai chiều là bất thiện, nói lời phù phiếm là bất thiện, nói lời hung ác là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện”.

Bất thiện pháp (ThiềnCănBản) là tham, sân, si, mạn, nghi, những thói quen, tật xấu, những điều suy nghĩ, những lời nói, những hành động làm cho mình khổ, người khác khổ. Bất thiện pháp còn gọi là pháp ác, pháp hung dữ, pháp làm khổ đau. Muốn lìa xa pháp ác thì phải rèn luyện, tu tập ba đức: 1. Nhẫn nhục. 2. Tùy thuận. 3. Bằng lòng.

Bất tịnh (ĐườngVề.6) là chẳng trong sạch, bất tịnh còn có nghĩa là ác pháp.

Bất tử (PhậtDạy.2) nghĩa là không chết.

Bất tử giới (CầnBiết.2) trạng thái thân tâm bất động.

Bẻ gãy mười hai nhân duyên (12Duyên) tức là làm cho chúng không còn hợp lại được nữa. Làm cho chúng không còn hợp lại được nữa thì hành giả có đầy đủ ý chí dũng mãnh kiên cường bằng cách giữ gìn tâm Bất Động trước các ác pháp và từng tâm niệm của mình từng phút giây đang khởi lên liên tục.

Bệnh (TâmThư.2) là do nghiệp của nhân quả thiện ác. Có thân chưa ra khỏi nhân quả thì thân phải còn bệnh, đó là một sự tất yếu của đời sống con người, một qui luật tự nhiên của nhân quả. Muốn không sợ bệnh thì nên nhiếp tâm và an trú tâm trong thân hành nội.

Bệnh đau (TâmThư.2) là do nhân quả giết hại và ăn thịt chúng sinh. Người ăn chay trường mà còn bệnh đau là do tâm ý còn ác, tuy không ăn thịt chúng sinh, nhưng còn giết hại chúng sinh như kiến, muỗi và các vật khác, họ chưa thật lòng yêu thương tất cả sự sống của chúng sinh. Bệnh đau bướu ở bất cứ nơi đâu trên thân đều do nhân quả kiếp trước thường hay đánh đập loài chúng sanh. Muốn chuyển nghiệp này thì phải sống đúng năm giới và tập an trú vào cánh tay đưa ra đưa vào. Khi an trú vào cánh tay xong thì tác ý: “Bệnh bướu này chuyển biến thay đổi lành lặng như xưa”.

Bệnh khổ (ĐạoĐức.2) Bệnh khổ là cơ thể bệnh tật, đau nhức khó chịu như: đau bụng, nhức đầu, ngứa ngáy, mệt mỏi, bất an, nóng, lạnh, tê, chóng mặt, v.v... Bệnh khổ là một sự thật hiển nhiên, nên nó là chân lý của con người. Do mọi người đều chấp nhận “Bệnh khổ” nên nó là chân lý.

Bi tâm (PhậtDạy.1) là lòng thương xót trước cảnh thương tâm, bất hạnh của chúng sanh. Nếu một người tu tập rèn luyện được lòng thương xót tất cả chúng sanh, khi lòng thương xót ấy hiện tiền thì tất cả ác pháp như tham, sân, si, mạn, nghi đều không tác dụng vào tâm mình. Do đó, tâm vô lậu hoàn toàn và chứng quả A La Hán ngay liền, có đầy đủ thiền định và Tam Minh.

Bi vô lượng (4Tâm) là lòng thương vô bờ bến trước nỗi khổ của chúng sanh. Người có lòng bi không đành lòng ngồi yên nhìn sự thống khổ của chúng sanh. Đành rằng sự đau khổ của thế nhân là cái duyên nhân quả, nhưng lòng bi không cho phép chúng ta làm ngơ. Phải dùng lời khuyên bảo, thăm hỏi, có hành động cứu giúp (khi thấy con vật bị gãy chân, ta ôm nó vào lòng, xoa nhẹ trên vết thương). Hành động đó, thời gian đó quý báu hơn là vàng bạc, ngai vàng của nhà vua. Làm được việc ấy thì lòng ta cũng cảm thấy hân hoan. Khi giúp cho chúng sanh được an vui, hạnh phúc, ta cũng tìm cách giúp cho chúng sanh xa lìa nhân ác, để sống vui, chứ không phải chỉ giúp họ khi họ bị khổ. Và khi họ cứ rơi vào đường khổ thì phải dạy cho họ hành động thiện, tập nhân tốt để tránh quả khổ. Trau dồi tâm từ là ngăn ngừa những điều kiện có thể làm cho chúng sanh đau khổ, còn trau dồi tâm bi là nhắm ngay vào sự đau khổ của chúng sanh để mà xoa dịu, an ủi. Muốn được như vậy thì lúc nào ta cũng trau dồi, nhắc nhở tâm ta hãy thương người đang sân. Khi nào rảnh rỗi thì phải tự nhắc tâm như thế, chớ không phải đợi đến lúc sân hận nổi lên mới áp dụng. Nếu thường xuyên thực tập, nhắc nhở như thế thì khi thấy một người đang sân với ta, ta mới có thể thương được.

Bí quyết cốt tủy giải thoát của đạo Phật (PhậtDạy.1) là ly dục, ly ác pháp thì được giải thoát, chỉ cần siêng năng tu tập là đạt được kết quả ngay liền. Kẻ nào vô minh thường bị tham ái trói buộc thích thú vui chơi chỗ này, chỗ kia thì sự đau khổ và tái sanh luân hồi không thể tránh khỏi; còn kẻ nào, an vui, tâm hồn lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Do tâm hồn được như vậy thì sẽ chấm dứt tái sanh luân hồi chắc chắn.

Bí quyết thành công sự giải thoát của Phật giáo (Tạoduyên) là sống Ðộc Cư.

Bí quyết thành tựu của Ðạo Phật (Phậtdạy.3) 1- Giữ tâm không phóng dật. 2- Thích sống nhàn tịnh.

Biên Kiến (CầnBiết.2) là chấp một bên, nghiêng về một phía, đó là những thành kiến rất cực đoan. Biên kiến có nhiều lối chấp sai lầm, trong đó, lớn nhất là 3 kiến chấp: 1- Thường kiến: Là một loại luận thuyết mơ hồ trừu tượng, cho rằng người chết còn linh hồn; cho rằng có thế giới siêu hình, có bản thể vũ trụ, có tiểu ngã, đại ngã, có thần thức, có Phật tánh, có Thiên Ðàng, có Ðịa Ngục, có Ngọc Hoàng Thượng Ðế, có Chúa trời, có thần, quỷ, ma, v.v... Những người chấp thường kiến là những người thường sống trong mê tín, lạc hậu, sống trong mộng tưởng, xây dựng cảnh giới siêu hình, thường cầu cúng, tế, lễ bái, và ước vọng làm những điều thiện để khi chết được sanh lên Cực Lạc Thiên Ðàng của cõi Trời, cõi Niết Bàn hay cảnh giới chư Phật. Thiền tông, Mật tông đều thuộc về thường kiến. 2- Ðoạn kiến: Là một loại luận thuyết chết cứng, khô cằn, cho chết là hết, không còn gì cả. Loại luận thuyết này khiến cho con người mất hết niềm hy vọng về tương lai. Cho nên người Ðoạn kiến đặt ra câu hỏi: “Tương lai không có thì hiện giờ để làm gì? Ngày mai chết là hết”. Vì vậy, con người chấp đoạn kiến thì làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu, chẳng còn biết nghĩ đến ai cả, sống chỉ quay cuồng trong dục lạc, sống theo kiểu hiện sinh không có ngày mai. Người chấp đoạn kiến là những người không thông suốt môi trường sống hợp duyên của các pháp. 3- Vừa thường vừa đoạn kiến: Có một luận thuyết cho rằng các pháp trong thế gian này vừa có vừa không, như ngài Long Thọ: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Ðó là lối lý luận trườn uốn như con lươn, để rồi Ngài đẻ ra trí tuệ Bát Nhã chơn không, thành ra thường kiến. Cuối cùng, Ngài cũng như các nhà thường kiến khác, nhưng giỏi khéo lý luận để che mắt thiên hạ, chứ kỳ thực Chơn Không của Ngài đâu có khác gì thần thức, linh hồn, đại ngã, Phật tánh, bản thể vạn hữu, chỉ có khác danh từ mà thôi.

Biến mãn một phương (TruyềnThống.1) có nghĩa phủ trùm khắp cùng khắp một phương, không có chỗ nào là không có lòng thương yêu nơi phương ấy, hay nói cách khác là lòng thương yêu tất cả chúng sanh không có bỏ sót một loài nào trong phương đó.

Biết rõ được chánh pháp (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là biết cách tu tập của pháp Tứ Niệm Xứ. Biết cách tu tập của pháp Tứ Niệm Xứ thì không cần phải đi tìm pháp tu tập thiền định nào khác nữa. Người tu tập theo thiền xả tâm của Tứ Niệm Xứ thì vọng niệm đến càng tốt, vì có đối tượng dùng “Pháp Tác Ý” trong chánh tư duy. Nhờ có tu tập như vậy tri kiến giải thoát sẽ hiện bày. Do tri kiến giải thoát hiện bày thì sở hành và tham trước không còn. Sở hành và tham trước không còn thì tâm không phóng dật; tâm không phóng dật thì thành chánh giác. Người tu thiền hiện nay khi ngồi hoặc đi kinh hành thấy không vọng niệm là cho mình tu tập có kết quả tốt, còn có vọng niệm xen vào là cho tu tập xấu, không tốt. Đó là một quan niệm hết sức sai lầm trong vấn đề tu tập để làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Biệt trú (TruyềnThông.1) là sống độc cư một mình, sống đúng Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Người sống biệt trú như vậy trong bốn tháng thì mới được Phật và chúng Tăng chấp nhận cho xuất gia làm đệ tử của Phật. Đức Phật ra điều kiện 4 tháng biệt trú, thì những người quyết tâm tu để cầu giải thoát tự nguyện xin đức Phật sống biệt trú 4 năm. Sống biệt trú 4 năm đó là những người tự nguyện sống trong giới luật của Phật giáo.

Bình đẳng (TâmThư.1) thuộc về đức, cho nên gọi Ðức Bình Ðẳng chứ không ai gọi Ðức Mặc Cảm. Khi gọi đức Mặc Cảm thì phải có thêm một danh từ đạo đức nào đó, còn riêng nó đứng một mình thì không được gọi là đức mà gọi là hạnh Mặc Cảm.

Bố thí (ĐườngVề.8) (10Lành) (ThiềnCănBản) là hạnh buông xả, buông bỏ, không chất chứa tài sản của cải, mà còn chia xẻ cho người nghèo khổ, bất hạnh. Bố thí là đem lòng thương yêu của mình đến với những người bất hạnh, an ủi và xoa dịu vết thương đau của họ. Việc làm bố thí như vậy thì phước báo sẽ đến với mình, mình sẽ được lòng thương của mọi người, gặp lúc nạn tai, mọi người sẽ an ủi và giúp đỡ lại mình, chứ không phải bố thí đem tiền bạc cho người là sẽ có phước báo lớn giàu sang, muốn gì được nấy. Đó là một góc độ đạo đức làm người. Bố thí không đúng pháp là bị người lừa gạt, nên không làm lợi ích cho mình, vì mình bị gạt; không làm lợi ích cho người vì tạo duyên cho người khác làm ác nhiều hơn (lường gạt người khác). Đức bố thí do lòng yêu thương là nhân quả thiện, nhưng nếu thiếu trí tuệ quan sát đối tượng được bố thí thì không thiện mà sự bố thí đó làm nhân quả ác vì tạo duyên cho người ác làm ác nhiều hơn. Trường hợp bố thí bị lừa gạt như đem hạt giống tốt gieo trên đất xấu khô cằn cỗi. Theo Phật giáo Nguyên Thủy bố thí phải có trí tuệ nhân quả. Khi thấy một người tàn tật hay gặp một người bị tai nạn hoặc một người ốm đau không tiền thang thuốc, đi bác sĩ hay đi bệnh viện. Ðây là nhân quả của những người này, họ đang trả vay, nhưng có nhân duyên kiếp trước nên kiếp này mới gặp ta trong hoàn cảnh này. Vậy ta nên giúp đỡ họ như thế nào cho đúng pháp: Thấy người tàn tật, biết rõ họ thật sự tàn tật thì giúp đỡ, còn gặp họ ở giữa đường thì ta nên tránh, vì người tàn tật đều có chỗ ở do các nhà từ thiện hoặc nhà nước, còn gặp người tàn tật ở ngòai đường, phần đông là những người giả dối, người tàn tật đi xin ăn ngoài đường làm nhục đất nước đó. Chúng ta không nên cho những người ăn xin ngoài đường. Người tàn tật bất hạnh trong xã hội đều có nhà dưỡng lão, nhà nuôi trẻ mồ côi, nhà nuôi những người khuyết tật, nhà tình thương nuôi dạy trẻ lang thang, v.v... Ðó là trách nhiệm của Nhà nước, của những nhà từ thiện. Người bố thí cho kẻ ăn xin ngoài đường là không đúng pháp, sự bố thí đó vô tình tạo thêm những người lừa gạt người khác và cũng vô tình làm nhục đất nước (Ðất nước ăn mày). Còn bố thí cho người bệnh tật thì không nên trao tiền cho họ mà ta nên đưa họ vào bệnh viện hay đi bác sĩ. Nếu bác sĩ bảo đó là bệnh thật thì chúng ta mới bỏ tiền ra bố thí, còn nếu chúng ta bận việc không đưa đi bác sĩ hay bệnh viện thì không nên bố thí. Bố thí là giúp người mà giúp người thì phải đem hết lòng ra giúp, chứ không thể bố thí theo kiểu lấy có. Bố thí theo kiểu lấy có là tạo duyên cho kẻ ác làm ác thêm (lừa đảo).

Bố thí Ba La Mật (ĐườngVề.10) (TâmThư.1) là bố thí mà người cho không biết mình cho và người nhận không biết mình nhận. Bố thí Ba La Mật là lối lý luận tánh KHÔNG của trí tuệ Bát Nhã.

Bố thí bất trụ tướng (10Lành) bố thí mà không nghĩ làm phước, không nghĩ được phước; bố thí là bỏ đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình ra để cho người khác đang cần được giúp đở. Bố thí là thể hiện tánh không tham lam tài vật của người.

Bốn chân lý (ĐạoĐức.2) được phối hợp lại chặt chẽ đúng cách, biến thành một cuộc sống cao đẹp, tuyệt vời của kiếp con người. Ðó chính là đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người.

Bốn cửa vào Đạo (12Duyên) cửa Vô Minh, cửa Lục Nhập, cửa Thọ và cửa Sanh để phá vòng tròn Mười Hai Nhân Duyên, là diệt thế giới quan đau khổ của con người. Mọi người phải tùy theo đặc tướng và hoàn cảnh của mình để chọn lấy một cửa trong mười hai cửa, mọi người hãy tinh tấn dõng mãnh tu tập để chứng đạt chân lý giải thoát.

Bốn Dự Lưu Chi (12Duyên) 1- Ðầy đủ lòng tin bất động đối với Phật, 2- Ðầy đủ lòng tin đối với Pháp, do đức Phật khéo thuyết, 3- Ðầy đủ lòng tin bất động đối với Chúng Tăng là đệ tử đức Phật, 4- Ðầy đủ lòng tin đối với giới luật đức hạnh do đức Phật chế, được các bậc Thánh quý mến.

Bốn đại (TrợĐạo) đất, nước, gió, lửa.

Bốn định (CữSĩTu) 1- Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. 2- Ðịnh Niệm Hơi Thở. 3- Ðịnh Vô Lậu. 4- Ðịnh Sáng Suốt.

Bốn định vô sắc (CầnBiết.3) gồm có: Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Bốn giai đoạn tỉnh thức (ĐườngVề.10): 1- Tỉnh thức khi chết vào thai mẹ. 2- Tỉnh thức khi ở trong bụng mẹ. 3- Tỉnh thức khi xuất thai. 4- Tỉnh thức trong khi còn bé. Bốn sự tỉnh thức này là những pháp môn tu tập để làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người.

Bốn giới trong lục hòa (CữSĩTu) 1- Khẩu hòa không tranh cãi. 2- Ý hoà cùng vui (vui theo tâm ý người, làm theo ý của người). 3- Có ý kiến hay cùng giảng giải cho nhau nghe, cho nhau hiểu cùng tu, cùng học. 4- Giới hoà đồng tu sống như nước với sữa; cùng khích lệ, sách tấn nhau giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trên bước đường tu tập.

Bốn loại Bà La Môn (CầnBiết.4) Trong thời Đức Phật còn tại thế Bà La Môn có thể chia ra: 1- Bà La Môn phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới. 2- Bà La Môn cúng bái tế tự, cầu siêu, cầu an, làm những điều mê tín, v.v... 3- Bà La Môn xây dựng thế giới tâm linh, sống trong ảo tưởng, mơ mộng hư ảo; lừa đảo, lường gạt người để được ngồi trong mát ăn bát vàng. 4- Bà La Môn chuyên tu tập luyện thần thông trừ tà, yểm quỷ, bắt ma trị bệnh bằng phù phép tạo ra một thế giới siêu hình huyền ảo khiến cho con người mất hết sức tự chủ, chỉ còn biết tựa nương vào Thần Thánh, Tiên, Phật hoặc Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Đức Phật đã tự cho mình là Bà La Môn “Ta gọi Bà La Môn” theo nghĩa Bà La Môn phải là những bậc: “Bậc trâu chúa, thù thắng. Bậc anh hùng, đại sĩ. Bậc chiến thắng, không nhiễm. Bậc tẩy sạch, giác ngộ”.

Bốn loại định căn bản của Phật giáo (ĐườngVề.4) 1- Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. 2- Ðịnh Vô Lậu. 3- Ðịnh Niệm Hơi Thở. 4- Ðịnh Sáng Suốt. Khởi đầu tu bốn loại định này bằng pháp môn Tứ Chánh Cần. Dùng bốn loại định này ngăn ác diệt ác pháp, khởi thiện tăng trưởng thiện pháp, tức là diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp. Đạo Phật ra đời đi từ sự tu tập sức tỉnh giác để giữ tâm trong chánh niệm, tức là xả tâm, ly dục ly ác pháp, không có một chút ức chế tâm nào cả. Lấy tâm nương hành động của thân nội và thân ngoại tập tỉnh thức chánh niệm, để xả dục, xả ác pháp, tránh không đi vào trạng thái tĩnh lặng, ức chế tâm của các tôn giáo khác mà đi vào trạng thái đoạn diệt tâm tham, sân, si khiến cho tâm thanh thản, an lạc và vô sự để đi vào trạng thái thanh tịnh bất động tâm, tức là định của đạo Phật.

Bốn Như Ý Túc (TrợĐạo) có Bốn Như Ý Túc thì mới nhập được Bốn Thánh Ðịnh, gồm có: 1- Tinh Tấn Như Ý Túc, 2- Ðịnh Như Ý Túc, 3- Tuệ Như Ý Túc, 4- Dục Như Ý Túc.

Bốn Niệm Xứ (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là phương pháp tu tập trên bốn chỗ của thân ngũ uẩn: thân, thọ, tâm và pháp, để đạt được ý thức ly dục ly bất thiện pháp, tức là ý thức không phóng dật (không khởi niệm).

Bốn Niệm Xứ là định tưởng (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) Sao lại gọi: “Bốn Niệm Xứ là định tưởng”? Khi mới bước chân vào tu tập Bốn Niệm Xứ thì phải tu tập 16 loại tưởng. Nhờ tu tập 16 loại tưởng này nên tâm mới sinh ra nhàm chán các pháp thế gian vì thấu suốt lý các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, uế trược, do qui luật nhân quả duyên hợp tạo thành chẳng có gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Do ý nghĩa này mà Bốn Niệm Xứ là Ðịnh Tưởng. Nên hiểu: “Ðịnh Tưởng chứ không phải Tưởng Ðịnh”.

Bốn pháp giải thoát (PhậtDạy.4) là Thánh giới, Thánh định, Thánh tuệ, Thánh giải thoát. Tuy Bốn pháp nhưng tu tập pháp này thì thành tựu luôn ba pháp kia.

Bốn sự đau khổ (Tạoduyên) sinh, già, bệnh, chết

Bốn Thần Túc (Tứ Như Ý Túc) (PhậtDạy.4) (Tạoduyên) là năng lực siêu việt, phi phàm. Khi tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ tức là tâm thanh tịnh hoàn toàn không còn có tham, sân, si thì Bốn Thần Túc xuất hiện một cách tự nhiên. Bốn Thần Túc là biết một cách rõ ràng, cái biết này do thức uẩn. Bốn Thần Túc xuất hiện từ trong tâm Bất Động. Dùng thần lực Bốn Thần Túc nhập Bốn Ðịnh Hữu Sắc và thực hiện Tam Minh. Đức Phật đã xác định Bốn Thần Túc kéo dài mạng căn của mình từ một kiếp hay một phần kiếp còn lại; khả năng ấy phải lưu xuất từ tâm ly dục ly ác pháp; từ một tâm thanh tịnh hoàn toàn; từ một tâm bất động trước ác pháp và các cảm thọ. Ngay từ khi tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là đã kéo dài tuổi thọ. Khi nào họ muốn chết thì sử dụng Tứ Thần Túc để tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thánh Ðịnh và xuất ra khỏi trạng thái Tứ Thánh Ðịnh vào Niết Bàn thì bỏ thân tứ đại này.

Bốn thần túc làm chủ sanh già bệnh tử (ĐườngVề.5) có nghĩa: 1- Làm chủ được đời sống (sanh) tâm không còn tham, sân, si, giận, hờn, phiền não, lo rầu, ganh tị, thù oán, v.v… 2- Làm chủ cơ thể khi già yếu (già), khiến cho cơ thể già mà không yếu đuối, không lẫn lộn, không quên trước, quên sau, cơ thể quắc thước, khoẻ mạnh, cường tráng như một thanh niên. 3- Làm chủ đau ốm (bệnh), là đẩy lui tất cả bệnh tật ra khỏi thân. 4- Làm chủ khi chết (tử), là muốn chết hồi nào là chết ngay hồi ấy một cách tự tại. Bốn Thần Túc không phải là pháp môn tu tập mà là bốn thần lực do tu tập từ pháp môn Thân Hành Niệm mà có. Chính bốn năng lực Thần Túc là phương pháp sử dụng làm chủ sanh tử luân hồi. Ðó là pháp môn sau cùng của Phật giáo.

Bốn tinh cần (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là bốn pháp môn mà người đệ tử của Phật cần phải siêng năng tu tập hằng ngày không được biếng trễ. 1- Hằng ngày phải siêng năng chế ngự tâm mình (Tinh cần chế ngự). Chế ngự khác nghĩa với ức chế. 2- Phải siêng năng đoạn tận các ác pháp. Xin đừng hiểu lầm ác pháp là vọng niệm của mình. Ác pháp về tâm (khi có một tầm khởi lên, tầm ấy thuộc về tham, sân, si) và Ác pháp thuộc về thân (thân bị bệnh đau nhức chỗ này chỗ khác). 3/ Hằng ngày phải siêng năng tinh cần tu tập 37 pháp môn trợ đạo. Tu tập phải kỹ lưỡng, phải từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày, không lúc nào quên tu tập. Tu tập các pháp môn này chỉ có nương vào hành động nội và ngoại của thân chúng ta. 4/ Hằng ngày phải siêng năng tinh cần hộ trì các căn từng phút từng giây không được biếng trễ. Hộ trì các căn là pháp độc cư, một bí quyết tu tập để nhập các định và thực hiện Tam Minh. Bốn Tinh Cần là một tên khác của Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần là một phương pháp tu tập dùng ý thức ngăn ác và diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Một pháp môn dùng cho mọi người tu tập lúc mới bắt đầu theo Đạo Phật. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà mọi người mới giữ gìn giới luật trọn vẹn. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà giới luật không bao giờ vi phạm. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà tâm hồn mới được thanh thản, an lạc và vô sự. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà cuộc sống gia đình mới được an vui và hạnh phúc. Bốn tinh cần (Tứ Chánh Cần) là pháp môn tu tập làm cho giới luật thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm định, nên “Giới sinh định”. Muốn có thiền định thì chỉ cần tu tập giới luật cho thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh tức là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục ly ác pháp thì ngay đó là thiền định, đức Phật dạy: “ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Bốn Tinh Cần là Ðịnh Tư Cụ.

Bốn Tinh Cần là Định Tư Cụ (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) Bốn tinh cần là pháp môn tu tập làm cho giới luật thanh tịnh. Vì giới luật thanh tịnh là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm định, nên Đức Phật dạy: “Giới sinh định”. Muốn có thiền định thì chỉ cần tu tập giới luật cho thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh tức là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục ly ác pháp thì ngay đó là thiền định, nên Đức Phật dạy: “ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Khi biết rõ pháp môn thiền định của Phật do từ giới luật sinh ra thì không ai còn đưa ra một pháp môn nào khác để lừa đảo chúng ta được nữa. Vì lý do này nên lời dạy trong bài kinh nói: “Bốn Tinh Cần Là Định Tư Cụ” ngoài Tứ Chánh Cần ra thì không còn pháp môn nào khác nữa để tu tập thiền định đúng chánh pháp.

Bồ Tát (ĐườngVề.2) (Đường Về.7) là một người cư sĩ đang tu tập. Bồ Tát trong kinh Nguyên Thủy chỉ là một người mới tu hành, đang tu hành chưa chứng đạo, cho nên chẳng dám dạy ai tu hành cả. Ðức Phật răn nhắc điều này: “Tu chưa chứng đạo mà dạy người là giết người”. Trong kinh phát triển, Bồ Tát là một người tham danh, tu chưa tới đâu chỉ học trong mấy bộ kinh rồi tưởng giải ra làm lệch ý Phật, đẻ ra kinh sách phát triển dạy người tu hành mê tín trừu tượng ảo giác, khiến người tu hành theo Phật giáo mà thành tu pháp môn ngoại đạo.

Bồ Tát giới (CầnBiết.1) Ðại thừa chế ra Bồ Tát giới để cho hàng cư sĩ thọ giới Bồ Tát làm việc từ thiện, giúp mọi người cúng bái, tế lễ. Ðó là một hình thức của Bà La Môn giáo.

Bồ Tát Quan Thế Âm (Đường Về.7) là một vị Bồ Tát tưởng tượng của kinh sách phát triển, chứ trong lịch sử loài người, không có một Bồ Tát Quan Thế Âm. Ðạo Phật chỉ duy nhất có một đức Phật lịch sử trong loài người, đó là đức PhậtThích Ca Mâu Ni, người đã tự tìm ra một giáo pháp tu hành để đi đến giải thoát sự đau khổ của kiếp người.

Bộ giới cấm Patimokkha (ĐườngVề.1) là của các Tổ, chúng ta thấy có nhiều chỗ sai lầm rất lớn như: đức Phật là một người tu chứng đầy đủ trí tuệ, thế mà sau khi chế giới ra, giới luật đó lại được sửa đi, sửa lại năm lần bảy lượt.

Bộc lưu (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là dòng thác; dòng thác là chỉ cho sức mạnh của nước từ trên cao đổ xuống khó có ai vượt qua. Ở đây có năm bộc lưu, tức là năm dòng thác: 1- Dục bộc lưu: là dòng thác dục tức là sức mạnh của lòng tham muốn. 2- Hữu bộc lưu: là dòng thác của các vật sở hữu tức là sức mạnh dính mắc của các vật sở hữu. 3- Kiến bộc lưu: là dòng thác kiến chấp tức là sức mạnh của kiến chấp. 4- Vô minh bộc lưu: là dòng thác ngu si không thấy như thật các pháp tức là sức mạnh của ngu si khiến cho chúng ta thấy các pháp không như thật. 5- Ái bộc lưu: là dòng thác thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục tức là sức mạnh của bảy thứ tình, người tầm thường không thể vượt qua được. Vậy người tu sĩ Đạo Phật phải vượt qua năm dòng thác này mới tìm thấy sự chân thật giải thoát. Ngoài ra phải vượt qua thêm bộc lưu thứ sáu là Tưởng bộc lưu. Người vượt qua được sáu bộc lưu này là do tu thiền quán tức là Định Vô Lậu, chứ không phải thiền ức chế tâm cho hết vọng tưởng.

Buông xả (PhậtDạy.4) (ĐườngVề.3) (CầnBiết.5) xả bỏ của cải, tài sản, vật chất, nhà cửa, vợ con, anh em, chị em, cha mẹ và tất cả những người thân quyến thuộc, v.v... có nghĩa là sống một đời sống ly dục ly các ác pháp, khiến cho tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự. Nói buông xả, là nói đến một đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người, một đời sống đức hạnh tuyệt vời. Việc buông xả không phải một ngày một bữa mà thành tựu được. Buông xả có nghĩa là không dính mắc, chứ không có nghĩa tiêu cực không làm việc. Buông xả có nghĩa là sống một đời sống ly dục ly các ác pháp, khiến cho tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự. Buông xả là nói đến một đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người.

Buông xuống (TâmThư.1) bằng phương pháp hướng tâm, bằng phương pháp như lý tác ý, bằng phương pháp quán tư duy, bằng phương pháp nhân quả, bằng phương pháp Ðịnh Niệm Hơi Thở; bằng phương pháp tác ý tâm thanh thản an lạc và vô sự; bằng tri kiến giải thoát. Câu tác ý này thì sẽ buông xuống sạch: “Tâm phải thanh thản, an lạc và vô sự, các pháp thế gian là pháp vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta cả. Tất cả đều là pháp khổ đau, phải buông xuống và chấm dứt ngay liền.” Khi tác ý như vậy xong nên tác ý tiếp để dẫn thân tâm vào chỗ không đau khổ. Nếu tâm đang bị khổ đau thì nên tác ý câu này: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Tác ý xong liền đưa tay ra, vô, đếm đúng năm lần rồi lại tác ý câu trên. Nếu thân bị bệnh đau nhức bất cứ chỗ nào, bất cứ bệnh gì thì nên tác ý câu này: “Thọ là vô thường, cái bệnh nhức đầu này (bệnh gì nói rõ tên ra) phải ra khỏi thân ta. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Khi tác ý rồi im lặng đưa tay ra vô cho đúng năm lần rồi lại tác ý như trước. Khi chuyên cần tập luyện và giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì có một nội lực rất mạnh, một sức đề kháng kinh khủng, nó sẽ giúp đẩy lùi mọi chướng ngại pháp như: bệnh tật, phiền não, tai nạn, sợ hãi, lo rầu, thương ghét, giận hờn, v.v... Khi nghiệp đến thì chỉ cần tác ý: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tất cả các pháp đều vô thường hãy đi đi! Không được ở trong thân tâm Ta nữa. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Buông xuống các ác pháp là giải thoát, là hết khổ đau.

Buồn chán (ĐườngVề.3) là một trạng thái khổ đau, nó là ác pháp. Người tu hành theo Ðạo Phật nhất định không để tâm buồn chán, phải tìm mọi cách đẩy lui nó ra khỏi tâm, giúp cho tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Trên đường tu hành theo đạo Phật “chúng ta nên tu tập để nhàm chán đời sống thế gian, chứ không nên buồn chán”, buồn chán là vì không thỏa mãn được lòng ham muốn, còn nhàm chán có nghĩa là đã từng trải đời, thấy đời là một sự khổ đau chân thật không có gì vui chỉ là một chuỗi dài thời gian toàn là sự vô thường và khổ đau.

Buổi lễ thỉnh nguyện phát lồ sám hối (OaiNghi) Ở đây là tự giác thỉnh nguyện phát lồ sám hối, chứ không phải tụng kinh cầu sám hối. Vì thế phải tổ chức lễ thỉnh nguyện phát lồ sám hối vào buổi sáng 7 giờ ngày 14 và 30. Tổ chức buổi lễ thỉnh nguyện phát lồ sám hối vào buổi sáng được dễ dàng và minh bạch, không có phạm giới nào cả.

 

NGHĨA CỦA CÁC CÂU, CÁC TỪ - Kì 3.

Vần B (tiếp theo)

Bà La Môn chân chánh (PhậtDạy.1) thì phải hội đủ những tiêu chuẩn:

1- “Ai biết được đời trước”. Biết được đời trước của mình là phải có Tam Minh. Trong Tam Minh có Túc Mạng Minh. Có Túc Mạng Minh mới biết được nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ của mình và của người khác.

2- Thấy Thiên giới, đọa xứ”. Phải có trí tuệ nhân quả thấy thiện và ác rất rõ ràng. Người thấy thiện ác rõ ràng là người có chánh tri kiến. Người có chánh tri kiến là người ly dục ly ác pháp. Người ly dục ly ác pháp là người tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Người tâm còn ham vui, thích tài sản, của cải, tiền bạc, nhà cửa sang đẹp thì chưa xứng đáng làm Thánh Tăng, Thánh Ni (Bà La Môn chân chánh).

3- Phải Ðạt được sanh diệt tận. Sanh là đời sống, sự sống; diệt là chết, sự chết; tận là tận cùng, cuối cùng, chấm dứt. Toàn nghĩa câu này là phải đạt cho được sự tận cùng sống chết của kiếp làm người.

4- Thắng trí, tự viên thành”. Thắng trí là trí tuệ chiến thắng mọi ác pháp và các cảm thọ, một trí tuệ không bao giờ chịu khuất phục trước mọi trở ngại, gian nan hay mọi việc khó khăn nào, luôn luôn giành phần thắng về mình. Người có thắng trí là người thành tựu đạo giải thoát.

5- Bậc Mâu Ni đạo sĩ” có nghĩa là năng nhơn, năng từ, năng mãn, năng tịch, v.v… Năng nhơn nghĩa là lòng thương người; năng từ là lòng từ bi; năng mãn là tâm tròn đầy đức hạnh; năng tịch là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Nghĩa của toàn câu kệ này là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được.

6- Viên mãn mọi thành tựu”. Viên mãn: là tròn đầy, đầy đủ, không còn thiếu khuyết một chỗ nào cả. Nghĩa của câu này là tất cả những pháp môn tu hành của Phật giáo đều đã tu hành xong.

Bà La Môn giáo (Đường Về.7) (ĐườngVề.8) (CầnBiết.1) là một tôn giáo lớn nhất của Ấn Ðộ, có trước Phật giáo. Bà La Môn giáo chia đời người Bà La Môn làm ba giai đoạn:

1- Bà La Môn giáo thiếu niên, thì phải học tập thông suốt kinh điển cúng bái tế lễ, đây là giai đoạn học tập (giống như các Thầy ứng phú của kinh sách phát triển).

2- Bà La Môn giáo trung niên, chuyên cúng bái tế lễ, sống ăn mặc như người thế tục giống như cư sĩ bây giờ, gọi là Phạm chí. Ðây là giai đoạn làm từ thiện (Bồ Tát Hạnh).

3- Bà La Môn Giáo tuổi già, bỏ nhà cửa gia đình thân quyến xuất gia đi tu nhưng đầu không có cạo. Ðây là giai đoạn tu hành của Bà La Môn giáo. Người cư sĩ tụng niệm, cúng tế, làm Bồ Tát hạnh là Bà La Môn tụng niệm. Cho nên hình thức tổ chức của Ðại thừa là của Bà La Môn giáo. Người cư sĩ hành nghề cúng tế tụng niệm là một Bà La Môn. Họ không phải là một người tu, mà là một người bình thường như thế tục, chỉ hơn người khác là có đọc kinh sách Vệ Ðà và các nghi thức cúng tế. Thọ giới Bồ Tát rồi tự xưng mình là Bồ Tát (giới Bồ Tát cũng tự họ đặt ra), nên bản chất ngã mạn tự kiêu của họ rất lớn. Những người này ta không nên trách, vì họ là cư sĩ Bà La Môn chứ không phải cư sĩ đạo Phật.

Bản thể tuyệt đối (ĐườngVề.4) Bản thể tuyệt đối, do các tôn giáo Ðại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông, Bà La Môn, v.v... tưởng ra, xây dựng bản thể tuyệt đối bằng “tưởng tri”. Bản thể tuyệt đối là tưởng tri của loài người và của các tôn giáo khác. Với trí hữu hạn của con người, mà đòi hiểu bản thể tuyệt đối của vạn hữu, cũng như dùng mắt thường mà muốn nhìn thấy vi trùng trong ly nước. Cho nên, Phật và A La Hán đều chứng đạt chân lí này, chứ không phải chứng đạt bản thể tuyệt đối mơ hồ của ngoại đạo. Người xả tâm sạch, không phải đạt được bản thể tuyệt đối mà chỉ làm chủ tâm mình (ly dục ly ác pháp), không còn phiền não đau khổ, thương, ghét, giận hờn, hận thù, v.v…

Bảy Diệu Pháp (CầnBiết.4) I- Lòng tin (Đức Phật có 12 danh hiệu, mỗi danh hiệu nói lên được Đức Hạnh và Trí Hạnh của Phật 1- Như Lai; 2- Ứng cúng; 3- A La Hán; 4- Chánh Đẳng Giác; 5- Minh Hạnh Túc; 6- Thiện Thệ; 7- Thế gian Giải; 8- Vô Thượng sĩ; 9- Điều Ngự Trượng Phu; 10- Thiên Nhân Sư; 11- Phật; 12- Thế Tôn). II – Lòng tàm, tự xấu hổ vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự xấu hổ vì thành tựu ác, bất thiện pháp”. III – Lòng quý, tự sợ hãi vì thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, tự sợ hãi vì thành tựu ác, bất thiện pháp. IV- Đa văn, nhớ nghĩ những điều đã nghe, tích tụ những điều đã nghe. Những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có văn nói lên phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, được trí suy tư, được chánh kiến thể nhập. V- Sống tinh cần tinh tấn, trừ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp. VI- Thành tựu niệm tuệ tối thắng, nhớ lại, nhớ lại nhiều lần những gì đã làm từ lâu, đã nói từ lâu. VII- Có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập đưa đến đoạn tận khổ đau.

Bảy Giác Chi (TrợĐạo) gồm có: 1- Niệm Giác Chi, 2- Tinh Tấn Giác Chi, 3- Khinh An Giác Chi, 4- Hỷ Giác Chi, 5- Ðịnh Giác Chi, 6- Xả Giác Chi, 7- Trạch pháp Giác Chi.

Bảy Kiết Sử (12Duyên) gồm có: 1- Ái kiết sử; 2- Sân kiết sử; 3- Kiến kiết sử; 4- Nghi kiết sử; 5- Mạn kiết sử; 6- Hữu tham kiết sử; 7- Vô minh kiết sử. Muốn giải thoát thì đoạn trừ tận gốc ngũ triền cái và thất kiết sử thì chứng đạo.

Bằng lòng (ĐườngRiêng) (Tạoduyên) vui lòng chấp nhận mọi ý kiến và việc làm của người khác không có chút gì còn chướng ngại trong lòng, tức là chấp nhận và vui vẻ. Bằng lòng mọi hoàn cảnh để tâm mình Bất Động.

Bậc A La Hán (ThanhQui) của Phật giáo phải từ sự chấp nhận giữ gìn Giới luật và oai nghi chánh hạnh; phải từ Lục hòa và ăn uống, ngủ nghỉ tiết độ, không ăn uống, ngủ nghỉ phi thời; phải từ sự phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý và luôn luôn sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt. Nhờ những pháp này mới sinh ra bậc A La Hán. A La Hán có nghĩa là không còn tham sân si. Vậy khi đã chứng quả A La Hán mà vị này lại tự tại vô ngại phạm mà vào các pháp sống của A La Hán, khi oai nghi chánh hạnh không có, lục hòa không có thì đó là A La Hán của ngoại đạo. Trong tập thể có một vị A La Hán tự tại vô ngại đói ăn khát uống mệt ngủ thì còn gì là A La Hán nữa.

Bậc đại tu hành chẳng lạc nhân quả (ĐườngVề.4) Chữ “lạc” ở đây có nghĩa là rơi, bị, nghĩa là bậc đại tu hành không bị nhân quả tác dụng thân nhân quả duyên hợp, đó là hiểu sai. Đã mang thân nhân quả thì phải có tai nạn, bệnh tật; thân nhân quả vẫn là thân nhân quả không thể thay đổi được, dù người đó tu đã thành Phật. Nhưng tu đúng theo pháp của đức Phật, thì tâm không dao động trước tai nạn, bệnh tật và kế đó dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ, làm cho các cảm thọ khổ, lạc, bất khổ bất lạc, không tác động được vào thân và tâm và còn khắc phục chuyển hóa khổ thọ, lạc thọ ra khỏi thân tâm (Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu). Pháp của Phật, tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết thì nghiệp nhân quả làm sao chi phối được tâm người tu chứng. Nghiệp nhân quả tuy có nhưng không chi phối được tâm người tu chứng, tức là người tu chứng làm chủ nhân quả; làm chủ nhân quả tức là làm chủ nghiệp, chứ không phải làm chủ cái thân nhân quả duyên hợp như ông già chồn đã nói. Còn bảo không mê muội như Thiền Tông mà không làm chủ được các thọ, thì không đúng pháp Phật.

Bậc duyên giác (PhậtDạy.4) người ngộ được 12 nhân duyên, tu tập ngay trên các cảm thọ. Thọ sinh ra ái dục. Muốn bẻ gẫy ái dục thì phải yểm ly ba thọ. Muốn yểm ly ba thọ thì Ðịnh Niệm Hơi Thở phải tu tập nhiếp phục và an trú tâm cho được nhuần nhuyễn trong hơi thở, nhiếp tâm và an trú tâm cho được trong thân hành niệm nội hay ngoại. Ðó là những pháp yểm ly các thọ. yểm ly các thọ là một hành động đạo đức tự thân tâm. Khi yểm ly ba thọ được thì tham dục bị đoạn diệt. Tham dục đoạn diệt là tự thân đã giải thoát và giải thoát hoàn toàn.

Bậc Hiền Trí (PhậtDạy.1) Người chỉ lỗi và khiển trách chúng ta để chúng ta trở thành người tốt, có đạo đức; bậc Hiền Trí dám nói thẳng, dám chỉ lỗi, dám khiển trách những chỗ sai lầm của cuộc đời cũng như trong Ðạo, để cho mọi người biết mà cố gắng sửa sai. Bậc Hiền Trí sửa đời, sửa đạo vì Ðời và Ðạo chưa bao giờ toàn thiện. Bậc Hiền Trí nói thẳng cái gì đúng nói là đúng, cái gì sai nói là sai.

Bậc ly dục ly ác pháp (TruyềnThống.1) là những bậc nhập vào dòng Thánh (nhập lưu), nên được gọi là Thánh đệ tử Phật.

Bậc Mâu Ni đạo sĩ (PhậtDạy.1) là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được.

Bậc Mâu Ni đạo sĩ Viên mãn mọi thành tựu (CầnBiết.3) là bậc đạo sĩ đầy đủ những năng lực siêu việt không có một người nào hơn được.

Bậc Thánh nhân (ĐườngVề.6) là những người biết xấu hổ, biết sửa sai; biết xấu hổ, biết sửa sai tức là biết độc cư sống trầm lặng, sống trầm lặng, tức là cuộc sống Thánh thiện; cuộc sống Thánh thiện là cuộc sống của những bậc Thánh nhân, cho nên người phàm phu tầm thường không thể nào sống độc cư nổi.

Bậc thiện hữu tri thức (12Duyên) là bậc tu hành đúng chánh pháp của Phật và đã tu chứng đạo. Người tu hành chân chánh, đầy đủ công đức siêng năng, không lười biếng, xa lìa tâm kiêu mạn, nhẫn nhục, nhân từ, một mình ở nơi thanh vắng tu tập, một mình đạt được Niết bàn, diệt trừ tham, sân, si, ở chỗ ô nhiễm mà không bị ô nhiễm, ở chỗ ngu si mà không bị ngu si ám ảnh, ở chỗ đắm nhiễm mà không bị đắm nhiễm, ở chỗ đáng trụ mà không trụ, ở chỗ đáng ở mà không ở, thân hành động ngay thẳng, miệng nói lời chân thật, ý nghĩ chân chánh, thân làm việc thanh tịnh, có lòng nhân từ vô hạn, biết đủ trong sự ăn mặc, và mang bát đi khất thực để gây phúc lành cho chúng sanh. Bậc tu chứng đạo mới đủ khả năng hướng dẫn người khác tu hành đúng chánh pháp của Phật.

Bất động (Phậtdạy.3) (CầnBiết.4) là không bị lay động

Bất động tâm (ĐườngVề.3) Ðức Phật đã xác định: “Mục đích của Ðạo Ta không phải chỗ giới luật, không phải chỗ thiền định, không phải chỗ trí tuệ, không phải chỗ thần thông, v.v... mà chỗ bất động tâm”.

Bất động tâm định (PhậtDạy.4) (ĐườngVề.2) (ĐườngVề.5) (ĐườngVề.6) (ĐườngVề.9) (ĐườngVề.10) (Tạoduyên) là loại thiền định giải thoát tâm hoàn toàn, sống trong trạng thái Niết bàn của chư Phật mười phương, do ly dục ly ác pháp, hay nói một cách khác hơn bất động tâm định là tâm không phóng đật, một quá trình tu tập bằng một cuộc sống đúng giới luật, không những không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả trong khi giữ gìn giới luật còn tu tập các pháp hành như: Tứ Bất Hoại Tịnh, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ... để làm cho thanh tịnh giới luật, nhờ giới luật thanh tịnh tâm mới ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Bất động Tâm Ðịnh là trạng thái tâm không phóng niệm và không phóng dật, như Ðức Phật đã dạy: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. Người thế gian không bao giờ sống và vào trong trạng thái Niết bàn đó được vì tâm người thế gian còn vọng động, còn ham thích. Bất động tâm định có một sức tĩnh thức tuyệt vời nhìn thấu suốt lý nhân quả trong các pháp, nên người nào đã thực hiện được, đều có một đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người. Nhưng muốn có một đạo đức như vậy thì cần phải trau dồi rèn luyện thân tâm trong giới luật và Tứ Chánh Cần, trong một thời gian rất dài, không phải giờ, một ngày mà có được. Bất động tâm định là một pháp môn thiền định, kết quả của sự ngăn ác và diệt ác pháp, một loại thiền định do giới luật sanh ra, tức là tâm bất động trước các ác pháp, trước các cảm thọ, chứ không phải bất động là không vọng tưởng, không niệm thiện niệm ác. Bất động tức là tĩnh thức trong niệm chơn chánh; niệm chơn chánh tức là niệm thiện. Niệm thiện tức là niệm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Người tu tập tới Bất Ðộng Tâm Ðịnh muốn nhập định nào cũng dễ dàng và thực hiện Tam Minh cũng không còn khó khăn, tức là phải dùng pháp hướng tâm. Muốn đạt được tâm bất động như vậy thì phải tu tập Tứ Niệm Xứ. Muốn tu tập Tứ Niệm Xứ sung mãn thì phải giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh. Không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì Tứ Niệm Xứ chỉ là một pháp ức chế tâm, khiến cho hành giả rơi vào các loại thiền tưởng, có khi bị Tẩu Hỏa Nhập Ma. Bất Ðộng Tâm Ðịnh là một trạng thái Tứ Niệm Xứ sung mãn, trạng thái này có đủ 7 năng lực của Thất Giác Chi. Do 7 năng lực của Thất Giác Chi mới nhập vào trạng thái của Sơ Thiền là trạng thái tâm không phóng dật, tâm không phóng dật tức là tâm ly dục ly ác pháp, tâm đã thanh tịnh là tâm bất động khi chiến thắng các ác pháp bên ngoài nhờ tu Tứ Niệm Xứ để khắc phục tham ưu nơi các pháp thiện và pháp ác. Tham ưu luôn luôn dồn dập tới tấp nếu không đủ sức kham nhẫn, không đủ nghị lực chịu đựng, không đủ tri kiến giải thoát và không đủ trí tuệ nhân quả, thì phải bỏ cuộc tu hành. Muốn chiến thắng các pháp thuộc về Tứ Niệm Xứ như ở trên thì: 1/ Phải đầy đủ sức kham nhẫn. 2/ Phải có nghị lực dũng mãnh. 3/ Phải đầy đủ tri kiến giải thoát. 4/ Phải có trí tuệ nhân quả. Muốn có đủ sức kham nhẫn thì hằng ngày nên tu tập pháp hướng tâm: “Tâm bất động như núi đá, khen không mừng, chê không buồn, chửi mắng, mạ nhục không giận, phải trơ trơ như tường đồng vách sắt”. Những câu hướng tâm này cần phải thuộc lòng và phải luyện tập cho có lực, khi gặp các pháp ác đến tới tấp thì mới đủ sức kham nhẫn vượt qua và cuối cùng mới xả tâm được. Bất Ðộng Tâm Ðịnh là Vô Tướng Tâm Ðịnh. Bất động tâm định là một loại thiền định rất cần thiết và lợi ích cho cuộc sống con người trên hành tinh này.

Bất thiện (ĐườngVề.2) có nghĩa là ác pháp. Đức Phật dạy về bất thiện (mười pháp ác) “Sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói lưỡi hai chiều là bất thiện, nói lời phù phiếm là bất thiện, nói lời hung ác là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện”.

Bất thiện pháp (ThiềnCănBản) là tham, sân, si, mạn, nghi, những thói quen, tật xấu, những điều suy nghĩ, những lời nói, những hành động làm cho mình khổ, người khác khổ. Bất thiện pháp còn gọi là pháp ác, pháp hung dữ, pháp làm khổ đau. Muốn lìa xa pháp ác thì phải rèn luyện, tu tập ba đức: 1. Nhẫn nhục. 2. Tùy thuận. 3. Bằng lòng.

Bất tịnh (ĐườngVề.6) là chẳng trong sạch, bất tịnh còn có nghĩa là ác pháp.

Bất tử (PhậtDạy.2) nghĩa là không chết.

Bất tử giới (CầnBiết.2) trạng thái thân tâm bất động.

Bẻ gãy mười hai nhân duyên (12Duyên) tức là làm cho chúng không còn hợp lại được nữa. Làm cho chúng không còn hợp lại được nữa thì hành giả có đầy đủ ý chí dũng mãnh kiên cường bằng cách giữ gìn tâm Bất Động trước các ác pháp và từng tâm niệm của mình từng phút giây đang khởi lên liên tục.

Bệnh (TâmThư.2) là do nghiệp của nhân quả thiện ác. Có thân chưa ra khỏi nhân quả thì thân phải còn bệnh, đó là một sự tất yếu của đời sống con người, một qui luật tự nhiên của nhân quả. Muốn không sợ bệnh thì nên nhiếp tâm và an trú tâm trong thân hành nội.

Bệnh đau (TâmThư.2) là do nhân quả giết hại và ăn thịt chúng sinh. Người ăn chay trường mà còn bệnh đau là do tâm ý còn ác, tuy không ăn thịt chúng sinh, nhưng còn giết hại chúng sinh như kiến, muỗi và các vật khác, họ chưa thật lòng yêu thương tất cả sự sống của chúng sinh. Bệnh đau bướu ở bất cứ nơi đâu trên thân đều do nhân quả kiếp trước thường hay đánh đập loài chúng sanh. Muốn chuyển nghiệp này thì phải sống đúng năm giới và tập an trú vào cánh tay đưa ra đưa vào. Khi an trú vào cánh tay xong thì tác ý: “Bệnh bướu này chuyển biến thay đổi lành lặng như xưa”.

Bệnh khổ (ĐạoĐức.2) Bệnh khổ là cơ thể bệnh tật, đau nhức khó chịu như: đau bụng, nhức đầu, ngứa ngáy, mệt mỏi, bất an, nóng, lạnh, tê, chóng mặt, v.v... Bệnh khổ là một sự thật hiển nhiên, nên nó là chân lý của con người. Do mọi người đều chấp nhận “Bệnh khổ” nên nó là chân lý.

Bi tâm (PhậtDạy.1) là lòng thương xót trước cảnh thương tâm, bất hạnh của chúng sanh. Nếu một người tu tập rèn luyện được lòng thương xót tất cả chúng sanh, khi lòng thương xót ấy hiện tiền thì tất cả ác pháp như tham, sân, si, mạn, nghi đều không tác dụng vào tâm mình. Do đó, tâm vô lậu hoàn toàn và chứng quả A La Hán ngay liền, có đầy đủ thiền định và Tam Minh.

Bi vô lượng (4Tâm) là lòng thương vô bờ bến trước nỗi khổ của chúng sanh. Người có lòng bi không đành lòng ngồi yên nhìn sự thống khổ của chúng sanh. Đành rằng sự đau khổ của thế nhân là cái duyên nhân quả, nhưng lòng bi không cho phép chúng ta làm ngơ. Phải dùng lời khuyên bảo, thăm hỏi, có hành động cứu giúp (khi thấy con vật bị gãy chân, ta ôm nó vào lòng, xoa nhẹ trên vết thương). Hành động đó, thời gian đó quý báu hơn là vàng bạc, ngai vàng của nhà vua. Làm được việc ấy thì lòng ta cũng cảm thấy hân hoan. Khi giúp cho chúng sanh được an vui, hạnh phúc, ta cũng tìm cách giúp cho chúng sanh xa lìa nhân ác, để sống vui, chứ không phải chỉ giúp họ khi họ bị khổ. Và khi họ cứ rơi vào đường khổ thì phải dạy cho họ hành động thiện, tập nhân tốt để tránh quả khổ. Trau dồi tâm từ là ngăn ngừa những điều kiện có thể làm cho chúng sanh đau khổ, còn trau dồi tâm bi là nhắm ngay vào sự đau khổ của chúng sanh để mà xoa dịu, an ủi. Muốn được như vậy thì lúc nào ta cũng trau dồi, nhắc nhở tâm ta hãy thương người đang sân. Khi nào rảnh rỗi thì phải tự nhắc tâm như thế, chớ không phải đợi đến lúc sân hận nổi lên mới áp dụng. Nếu thường xuyên thực tập, nhắc nhở như thế thì khi thấy một người đang sân với ta, ta mới có thể thương được.

Bí quyết cốt tủy giải thoát của đạo Phật (PhậtDạy.1) là ly dục, ly ác pháp thì được giải thoát, chỉ cần siêng năng tu tập là đạt được kết quả ngay liền. Kẻ nào vô minh thường bị tham ái trói buộc thích thú vui chơi chỗ này, chỗ kia thì sự đau khổ và tái sanh luân hồi không thể tránh khỏi; còn kẻ nào, an vui, tâm hồn lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Do tâm hồn được như vậy thì sẽ chấm dứt tái sanh luân hồi chắc chắn.

Bí quyết thành công sự giải thoát của Phật giáo (Tạoduyên) là sống Ðộc Cư.

Bí quyết thành tựu của Ðạo Phật (Phậtdạy.3) 1- Giữ tâm không phóng dật. 2- Thích sống nhàn tịnh.

Biên Kiến (CầnBiết.2) là chấp một bên, nghiêng về một phía, đó là những thành kiến rất cực đoan. Biên kiến có nhiều lối chấp sai lầm, trong đó, lớn nhất là 3 kiến chấp: 1- Thường kiến: Là một loại luận thuyết mơ hồ trừu tượng, cho rằng người chết còn linh hồn; cho rằng có thế giới siêu hình, có bản thể vũ trụ, có tiểu ngã, đại ngã, có thần thức, có Phật tánh, có Thiên Ðàng, có Ðịa Ngục, có Ngọc Hoàng Thượng Ðế, có Chúa trời, có thần, quỷ, ma, v.v... Những người chấp thường kiến là những người thường sống trong mê tín, lạc hậu, sống trong mộng tưởng, xây dựng cảnh giới siêu hình, thường cầu cúng, tế, lễ bái, và ước vọng làm những điều thiện để khi chết được sanh lên Cực Lạc Thiên Ðàng của cõi Trời, cõi Niết Bàn hay cảnh giới chư Phật. Thiền tông, Mật tông đều thuộc về thường kiến. 2- Ðoạn kiến: Là một loại luận thuyết chết cứng, khô cằn, cho chết là hết, không còn gì cả. Loại luận thuyết này khiến cho con người mất hết niềm hy vọng về tương lai. Cho nên người Ðoạn kiến đặt ra câu hỏi: “Tương lai không có thì hiện giờ để làm gì? Ngày mai chết là hết”. Vì vậy, con người chấp đoạn kiến thì làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu, chẳng còn biết nghĩ đến ai cả, sống chỉ quay cuồng trong dục lạc, sống theo kiểu hiện sinh không có ngày mai. Người chấp đoạn kiến là những người không thông suốt môi trường sống hợp duyên của các pháp. 3- Vừa thường vừa đoạn kiến: Có một luận thuyết cho rằng các pháp trong thế gian này vừa có vừa không, như ngài Long Thọ: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Ðó là lối lý luận trườn uốn như con lươn, để rồi Ngài đẻ ra trí tuệ Bát Nhã chơn không, thành ra thường kiến. Cuối cùng, Ngài cũng như các nhà thường kiến khác, nhưng giỏi khéo lý luận để che mắt thiên hạ, chứ kỳ thực Chơn Không của Ngài đâu có khác gì thần thức, linh hồn, đại ngã, Phật tánh, bản thể vạn hữu, chỉ có khác danh từ mà thôi.

Biến mãn một phương (TruyềnThống.1) có nghĩa phủ trùm khắp cùng khắp một phương, không có chỗ nào là không có lòng thương yêu nơi phương ấy, hay nói cách khác là lòng thương yêu tất cả chúng sanh không có bỏ sót một loài nào trong phương đó.

Biết rõ được chánh pháp (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là biết cách tu tập của pháp Tứ Niệm Xứ. Biết cách tu tập của pháp Tứ Niệm Xứ thì không cần phải đi tìm pháp tu tập thiền định nào khác nữa. Người tu tập theo thiền xả tâm của Tứ Niệm Xứ thì vọng niệm đến càng tốt, vì có đối tượng dùng “Pháp Tác Ý” trong chánh tư duy. Nhờ có tu tập như vậy tri kiến giải thoát sẽ hiện bày. Do tri kiến giải thoát hiện bày thì sở hành và tham trước không còn. Sở hành và tham trước không còn thì tâm không phóng dật; tâm không phóng dật thì thành chánh giác. Người tu thiền hiện nay khi ngồi hoặc đi kinh hành thấy không vọng niệm là cho mình tu tập có kết quả tốt, còn có vọng niệm xen vào là cho tu tập xấu, không tốt. Đó là một quan niệm hết sức sai lầm trong vấn đề tu tập để làm chủ sanh, già, bệnh, chết.

Biệt trú (TruyềnThông.1) là sống độc cư một mình, sống đúng Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo. Người sống biệt trú như vậy trong bốn tháng thì mới được Phật và chúng Tăng chấp nhận cho xuất gia làm đệ tử của Phật. Đức Phật ra điều kiện 4 tháng biệt trú, thì những người quyết tâm tu để cầu giải thoát tự nguyện xin đức Phật sống biệt trú 4 năm. Sống biệt trú 4 năm đó là những người tự nguyện sống trong giới luật của Phật giáo.

Bình đẳng (TâmThư.1) thuộc về đức, cho nên gọi Ðức Bình Ðẳng chứ không ai gọi Ðức Mặc Cảm. Khi gọi đức Mặc Cảm thì phải có thêm một danh từ đạo đức nào đó, còn riêng nó đứng một mình thì không được gọi là đức mà gọi là hạnh Mặc Cảm.

Bố thí (ĐườngVề.8) (10Lành) (ThiềnCănBản) là hạnh buông xả, buông bỏ, không chất chứa tài sản của cải, mà còn chia xẻ cho người nghèo khổ, bất hạnh. Bố thí là đem lòng thương yêu của mình đến với những người bất hạnh, an ủi và xoa dịu vết thương đau của họ. Việc làm bố thí như vậy thì phước báo sẽ đến với mình, mình sẽ được lòng thương của mọi người, gặp lúc nạn tai, mọi người sẽ an ủi và giúp đỡ lại mình, chứ không phải bố thí đem tiền bạc cho người là sẽ có phước báo lớn giàu sang, muốn gì được nấy. Đó là một góc độ đạo đức làm người. Bố thí không đúng pháp là bị người lừa gạt, nên không làm lợi ích cho mình, vì mình bị gạt; không làm lợi ích cho người vì tạo duyên cho người khác làm ác nhiều hơn (lường gạt người khác). Đức bố thí do lòng yêu thương là nhân quả thiện, nhưng nếu thiếu trí tuệ quan sát đối tượng được bố thí thì không thiện mà sự bố thí đó làm nhân quả ác vì tạo duyên cho người ác làm ác nhiều hơn. Trường hợp bố thí bị lừa gạt như đem hạt giống tốt gieo trên đất xấu khô cằn cỗi. Theo Phật giáo Nguyên Thủy bố thí phải có trí tuệ nhân quả. Khi thấy một người tàn tật hay gặp một người bị tai nạn hoặc một người ốm đau không tiền thang thuốc, đi bác sĩ hay đi bệnh viện. Ðây là nhân quả của những người này, họ đang trả vay, nhưng có nhân duyên kiếp trước nên kiếp này mới gặp ta trong hoàn cảnh này. Vậy ta nên giúp đỡ họ như thế nào cho đúng pháp: Thấy người tàn tật, biết rõ họ thật sự tàn tật thì giúp đỡ, còn gặp họ ở giữa đường thì ta nên tránh, vì người tàn tật đều có chỗ ở do các nhà từ thiện hoặc nhà nước, còn gặp người tàn tật ở ngòai đường, phần đông là những người giả dối, người tàn tật đi xin ăn ngoài đường làm nhục đất nước đó. Chúng ta không nên cho những người ăn xin ngoài đường. Người tàn tật bất hạnh trong xã hội đều có nhà dưỡng lão, nhà nuôi trẻ mồ côi, nhà nuôi những người khuyết tật, nhà tình thương nuôi dạy trẻ lang thang, v.v... Ðó là trách nhiệm của Nhà nước, của những nhà từ thiện. Người bố thí cho kẻ ăn xin ngoài đường là không đúng pháp, sự bố thí đó vô tình tạo thêm những người lừa gạt người khác và cũng vô tình làm nhục đất nước (Ðất nước ăn mày). Còn bố thí cho người bệnh tật thì không nên trao tiền cho họ mà ta nên đưa họ vào bệnh viện hay đi bác sĩ. Nếu bác sĩ bảo đó là bệnh thật thì chúng ta mới bỏ tiền ra bố thí, còn nếu chúng ta bận việc không đưa đi bác sĩ hay bệnh viện thì không nên bố thí. Bố thí là giúp người mà giúp người thì phải đem hết lòng ra giúp, chứ không thể bố thí theo kiểu lấy có. Bố thí theo kiểu lấy có là tạo duyên cho kẻ ác làm ác thêm (lừa đảo).

Bố thí Ba La Mật (ĐườngVề.10) (TâmThư.1) là bố thí mà người cho không biết mình cho và người nhận không biết mình nhận. Bố thí Ba La Mật là lối lý luận tánh KHÔNG của trí tuệ Bát Nhã.

Bố thí bất trụ tướng (10Lành) bố thí mà không nghĩ làm phước, không nghĩ được phước; bố thí là bỏ đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình ra để cho người khác đang cần được giúp đở. Bố thí là thể hiện tánh không tham lam tài vật của người.

Bốn chân lý (ĐạoĐức.2) được phối hợp lại chặt chẽ đúng cách, biến thành một cuộc sống cao đẹp, tuyệt vời của kiếp con người. Ðó chính là đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người.

Bốn cửa vào Đạo (12Duyên) cửa Vô Minh, cửa Lục Nhập, cửa Thọ và cửa Sanh để phá vòng tròn Mười Hai Nhân Duyên, là diệt thế giới quan đau khổ của con người. Mọi người phải tùy theo đặc tướng và hoàn cảnh của mình để chọn lấy một cửa trong mười hai cửa, mọi người hãy tinh tấn dõng mãnh tu tập để chứng đạt chân lý giải thoát.

Bốn Dự Lưu Chi (12Duyên) 1- Ðầy đủ lòng tin bất động đối với Phật, 2- Ðầy đủ lòng tin đối với Pháp, do đức Phật khéo thuyết, 3- Ðầy đủ lòng tin bất động đối với Chúng Tăng là đệ tử đức Phật, 4- Ðầy đủ lòng tin đối với giới luật đức hạnh do đức Phật chế, được các bậc Thánh quý mến.

Bốn đại (TrợĐạo) đất, nước, gió, lửa.

Bốn định (CữSĩTu) 1- Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. 2- Ðịnh Niệm Hơi Thở. 3- Ðịnh Vô Lậu. 4- Ðịnh Sáng Suốt.

Bốn định vô sắc (CầnBiết.3) gồm có: Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Bốn giai đoạn tỉnh thức (ĐườngVề.10): 1- Tỉnh thức khi chết vào thai mẹ. 2- Tỉnh thức khi ở trong bụng mẹ. 3- Tỉnh thức khi xuất thai. 4- Tỉnh thức trong khi còn bé. Bốn sự tỉnh thức này là những pháp môn tu tập để làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người.

Bốn giới trong lục hòa (CữSĩTu) 1- Khẩu hòa không tranh cãi. 2- Ý hoà cùng vui (vui theo tâm ý người, làm theo ý của người). 3- Có ý kiến hay cùng giảng giải cho nhau nghe, cho nhau hiểu cùng tu, cùng học. 4- Giới hoà đồng tu sống như nước với sữa; cùng khích lệ, sách tấn nhau giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào trên bước đường tu tập.

Bốn loại Bà La Môn (CầnBiết.4) Trong thời Đức Phật còn tại thế Bà La Môn có thể chia ra: 1- Bà La Môn phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới. 2- Bà La Môn cúng bái tế tự, cầu siêu, cầu an, làm những điều mê tín, v.v... 3- Bà La Môn xây dựng thế giới tâm linh, sống trong ảo tưởng, mơ mộng hư ảo; lừa đảo, lường gạt người để được ngồi trong mát ăn bát vàng. 4- Bà La Môn chuyên tu tập luyện thần thông trừ tà, yểm quỷ, bắt ma trị bệnh bằng phù phép tạo ra một thế giới siêu hình huyền ảo khiến cho con người mất hết sức tự chủ, chỉ còn biết tựa nương vào Thần Thánh, Tiên, Phật hoặc Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Đức Phật đã tự cho mình là Bà La Môn “Ta gọi Bà La Môn” theo nghĩa Bà La Môn phải là những bậc: “Bậc trâu chúa, thù thắng. Bậc anh hùng, đại sĩ. Bậc chiến thắng, không nhiễm. Bậc tẩy sạch, giác ngộ”.

Bốn loại định căn bản của Phật giáo (ĐườngVề.4) 1- Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. 2- Ðịnh Vô Lậu. 3- Ðịnh Niệm Hơi Thở. 4- Ðịnh Sáng Suốt. Khởi đầu tu bốn loại định này bằng pháp môn Tứ Chánh Cần. Dùng bốn loại định này ngăn ác diệt ác pháp, khởi thiện tăng trưởng thiện pháp, tức là diệt ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp. Đạo Phật ra đời đi từ sự tu tập sức tỉnh giác để giữ tâm trong chánh niệm, tức là xả tâm, ly dục ly ác pháp, không có một chút ức chế tâm nào cả. Lấy tâm nương hành động của thân nội và thân ngoại tập tỉnh thức chánh niệm, để xả dục, xả ác pháp, tránh không đi vào trạng thái tĩnh lặng, ức chế tâm của các tôn giáo khác mà đi vào trạng thái đoạn diệt tâm tham, sân, si khiến cho tâm thanh thản, an lạc và vô sự để đi vào trạng thái thanh tịnh bất động tâm, tức là định của đạo Phật.

Bốn Như Ý Túc (TrợĐạo) có Bốn Như Ý Túc thì mới nhập được Bốn Thánh Ðịnh, gồm có: 1- Tinh Tấn Như Ý Túc, 2- Ðịnh Như Ý Túc, 3- Tuệ Như Ý Túc, 4- Dục Như Ý Túc.

Bốn Niệm Xứ (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là phương pháp tu tập trên bốn chỗ của thân ngũ uẩn: thân, thọ, tâm và pháp, để đạt được ý thức ly dục ly bất thiện pháp, tức là ý thức không phóng dật (không khởi niệm).

Bốn Niệm Xứ là định tưởng (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) Sao lại gọi: “Bốn Niệm Xứ là định tưởng”? Khi mới bước chân vào tu tập Bốn Niệm Xứ thì phải tu tập 16 loại tưởng. Nhờ tu tập 16 loại tưởng này nên tâm mới sinh ra nhàm chán các pháp thế gian vì thấu suốt lý các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, uế trược, do qui luật nhân quả duyên hợp tạo thành chẳng có gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Do ý nghĩa này mà Bốn Niệm Xứ là Ðịnh Tưởng. Nên hiểu: “Ðịnh Tưởng chứ không phải Tưởng Ðịnh”.

Bốn pháp giải thoát (PhậtDạy.4) là Thánh giới, Thánh định, Thánh tuệ, Thánh giải thoát. Tuy Bốn pháp nhưng tu tập pháp này thì thành tựu luôn ba pháp kia.

Bốn sự đau khổ (Tạoduyên) sinh, già, bệnh, chết

Bốn Thần Túc (Tứ Như Ý Túc) (PhậtDạy.4) (Tạoduyên) là năng lực siêu việt, phi phàm. Khi tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ tức là tâm thanh tịnh hoàn toàn không còn có tham, sân, si thì Bốn Thần Túc xuất hiện một cách tự nhiên. Bốn Thần Túc là biết một cách rõ ràng, cái biết này do thức uẩn. Bốn Thần Túc xuất hiện từ trong tâm Bất Động. Dùng thần lực Bốn Thần Túc nhập Bốn Ðịnh Hữu Sắc và thực hiện Tam Minh. Đức Phật đã xác định Bốn Thần Túc kéo dài mạng căn của mình từ một kiếp hay một phần kiếp còn lại; khả năng ấy phải lưu xuất từ tâm ly dục ly ác pháp; từ một tâm thanh tịnh hoàn toàn; từ một tâm bất động trước ác pháp và các cảm thọ. Ngay từ khi tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự là đã kéo dài tuổi thọ. Khi nào họ muốn chết thì sử dụng Tứ Thần Túc để tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thánh Ðịnh và xuất ra khỏi trạng thái Tứ Thánh Ðịnh vào Niết Bàn thì bỏ thân tứ đại này.

Bốn thần túc làm chủ sanh già bệnh tử (ĐườngVề.5) có nghĩa: 1- Làm chủ được đời sống (sanh) tâm không còn tham, sân, si, giận, hờn, phiền não, lo rầu, ganh tị, thù oán, v.v… 2- Làm chủ cơ thể khi già yếu (già), khiến cho cơ thể già mà không yếu đuối, không lẫn lộn, không quên trước, quên sau, cơ thể quắc thước, khoẻ mạnh, cường tráng như một thanh niên. 3- Làm chủ đau ốm (bệnh), là đẩy lui tất cả bệnh tật ra khỏi thân. 4- Làm chủ khi chết (tử), là muốn chết hồi nào là chết ngay hồi ấy một cách tự tại. Bốn Thần Túc không phải là pháp môn tu tập mà là bốn thần lực do tu tập từ pháp môn Thân Hành Niệm mà có. Chính bốn năng lực Thần Túc là phương pháp sử dụng làm chủ sanh tử luân hồi. Ðó là pháp môn sau cùng của Phật giáo.

Bốn tinh cần (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là bốn pháp môn mà người đệ tử của Phật cần phải siêng năng tu tập hằng ngày không được biếng trễ. 1- Hằng ngày phải siêng năng chế ngự tâm mình (Tinh cần chế ngự). Chế ngự khác nghĩa với ức chế. 2- Phải siêng năng đoạn tận các ác pháp. Xin đừng hiểu lầm ác pháp là vọng niệm của mình. Ác pháp về tâm (khi có một tầm khởi lên, tầm ấy thuộc về tham, sân, si) và Ác pháp thuộc về thân (thân bị bệnh đau nhức chỗ này chỗ khác). 3/ Hằng ngày phải siêng năng tinh cần tu tập 37 pháp môn trợ đạo. Tu tập phải kỹ lưỡng, phải từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày, không lúc nào quên tu tập. Tu tập các pháp môn này chỉ có nương vào hành động nội và ngoại của thân chúng ta. 4/ Hằng ngày phải siêng năng tinh cần hộ trì các căn từng phút từng giây không được biếng trễ. Hộ trì các căn là pháp độc cư, một bí quyết tu tập để nhập các định và thực hiện Tam Minh. Bốn Tinh Cần là một tên khác của Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần là một phương pháp tu tập dùng ý thức ngăn ác và diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Một pháp môn dùng cho mọi người tu tập lúc mới bắt đầu theo Đạo Phật. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà mọi người mới giữ gìn giới luật trọn vẹn. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà giới luật không bao giờ vi phạm. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà tâm hồn mới được thanh thản, an lạc và vô sự. Do tu tập Tứ Chánh Cần mà cuộc sống gia đình mới được an vui và hạnh phúc. Bốn tinh cần (Tứ Chánh Cần) là pháp môn tu tập làm cho giới luật thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm định, nên “Giới sinh định”. Muốn có thiền định thì chỉ cần tu tập giới luật cho thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh tức là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục ly ác pháp thì ngay đó là thiền định, đức Phật dạy: “ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Bốn Tinh Cần là Ðịnh Tư Cụ.

Bốn Tinh Cần là Định Tư Cụ (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) Bốn tinh cần là pháp môn tu tập làm cho giới luật thanh tịnh. Vì giới luật thanh tịnh là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm định, nên Đức Phật dạy: “Giới sinh định”. Muốn có thiền định thì chỉ cần tu tập giới luật cho thanh tịnh. Giới luật thanh tịnh tức là tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục ly ác pháp thì ngay đó là thiền định, nên Đức Phật dạy: “ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Khi biết rõ pháp môn thiền định của Phật do từ giới luật sinh ra thì không ai còn đưa ra một pháp môn nào khác để lừa đảo chúng ta được nữa. Vì lý do này nên lời dạy trong bài kinh nói: “Bốn Tinh Cần Là Định Tư Cụ” ngoài Tứ Chánh Cần ra thì không còn pháp môn nào khác nữa để tu tập thiền định đúng chánh pháp.

Bồ Tát (ĐườngVề.2) (Đường Về.7) là một người cư sĩ đang tu tập. Bồ Tát trong kinh Nguyên Thủy chỉ là một người mới tu hành, đang tu hành chưa chứng đạo, cho nên chẳng dám dạy ai tu hành cả. Ðức Phật răn nhắc điều này: “Tu chưa chứng đạo mà dạy người là giết người”. Trong kinh phát triển, Bồ Tát là một người tham danh, tu chưa tới đâu chỉ học trong mấy bộ kinh rồi tưởng giải ra làm lệch ý Phật, đẻ ra kinh sách phát triển dạy người tu hành mê tín trừu tượng ảo giác, khiến người tu hành theo Phật giáo mà thành tu pháp môn ngoại đạo.

Bồ Tát giới (CầnBiết.1) Ðại thừa chế ra Bồ Tát giới để cho hàng cư sĩ thọ giới Bồ Tát làm việc từ thiện, giúp mọi người cúng bái, tế lễ. Ðó là một hình thức của Bà La Môn giáo.

Bồ Tát Quan Thế Âm (Đường Về.7) là một vị Bồ Tát tưởng tượng của kinh sách phát triển, chứ trong lịch sử loài người, không có một Bồ Tát Quan Thế Âm. Ðạo Phật chỉ duy nhất có một đức Phật lịch sử trong loài người, đó là đức PhậtThích Ca Mâu Ni, người đã tự tìm ra một giáo pháp tu hành để đi đến giải thoát sự đau khổ của kiếp người.

Bộ giới cấm Patimokkha (ĐườngVề.1) là của các Tổ, chúng ta thấy có nhiều chỗ sai lầm rất lớn như: đức Phật là một người tu chứng đầy đủ trí tuệ, thế mà sau khi chế giới ra, giới luật đó lại được sửa đi, sửa lại năm lần bảy lượt.

Bộc lưu (PhậtDạy.1) (CầnBiết.3) là dòng thác; dòng thác là chỉ cho sức mạnh của nước từ trên cao đổ xuống khó có ai vượt qua. Ở đây có năm bộc lưu, tức là năm dòng thác: 1- Dục bộc lưu: là dòng thác dục tức là sức mạnh của lòng tham muốn. 2- Hữu bộc lưu: là dòng thác của các vật sở hữu tức là sức mạnh dính mắc của các vật sở hữu. 3- Kiến bộc lưu: là dòng thác kiến chấp tức là sức mạnh của kiến chấp. 4- Vô minh bộc lưu: là dòng thác ngu si không thấy như thật các pháp tức là sức mạnh của ngu si khiến cho chúng ta thấy các pháp không như thật. 5- Ái bộc lưu: là dòng thác thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục tức là sức mạnh của bảy thứ tình, người tầm thường không thể vượt qua được. Vậy người tu sĩ Đạo Phật phải vượt qua năm dòng thác này mới tìm thấy sự chân thật giải thoát. Ngoài ra phải vượt qua thêm bộc lưu thứ sáu là Tưởng bộc lưu. Người vượt qua được sáu bộc lưu này là do tu thiền quán tức là Định Vô Lậu, chứ không phải thiền ức chế tâm cho hết vọng tưởng.

Buông xả (PhậtDạy.4) (ĐườngVề.3) (CầnBiết.5) xả bỏ của cải, tài sản, vật chất, nhà cửa, vợ con, anh em, chị em, cha mẹ và tất cả những người thân quyến thuộc, v.v... có nghĩa là sống một đời sống ly dục ly các ác pháp, khiến cho tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự. Nói buông xả, là nói đến một đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người, một đời sống đức hạnh tuyệt vời. Việc buông xả không phải một ngày một bữa mà thành tựu được. Buông xả có nghĩa là không dính mắc, chứ không có nghĩa tiêu cực không làm việc. Buông xả có nghĩa là sống một đời sống ly dục ly các ác pháp, khiến cho tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự. Buông xả là nói đến một đời sống đạo đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người.

Buông xuống (TâmThư.1) bằng phương pháp hướng tâm, bằng phương pháp như lý tác ý, bằng phương pháp quán tư duy, bằng phương pháp nhân quả, bằng phương pháp Ðịnh Niệm Hơi Thở; bằng phương pháp tác ý tâm thanh thản an lạc và vô sự; bằng tri kiến giải thoát. Câu tác ý này thì sẽ buông xuống sạch: “Tâm phải thanh thản, an lạc và vô sự, các pháp thế gian là pháp vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta cả. Tất cả đều là pháp khổ đau, phải buông xuống và chấm dứt ngay liền.” Khi tác ý như vậy xong nên tác ý tiếp để dẫn thân tâm vào chỗ không đau khổ. Nếu tâm đang bị khổ đau thì nên tác ý câu này: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Tác ý xong liền đưa tay ra, vô, đếm đúng năm lần rồi lại tác ý câu trên. Nếu thân bị bệnh đau nhức bất cứ chỗ nào, bất cứ bệnh gì thì nên tác ý câu này: “Thọ là vô thường, cái bệnh nhức đầu này (bệnh gì nói rõ tên ra) phải ra khỏi thân ta. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Khi tác ý rồi im lặng đưa tay ra vô cho đúng năm lần rồi lại tác ý như trước. Khi chuyên cần tập luyện và giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì có một nội lực rất mạnh, một sức đề kháng kinh khủng, nó sẽ giúp đẩy lùi mọi chướng ngại pháp như: bệnh tật, phiền não, tai nạn, sợ hãi, lo rầu, thương ghét, giận hờn, v.v... Khi nghiệp đến thì chỉ cần tác ý: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tất cả các pháp đều vô thường hãy đi đi! Không được ở trong thân tâm Ta nữa. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô.” Buông xuống các ác pháp là giải thoát, là hết khổ đau.

Buồn chán (ĐườngVề.3) là một trạng thái khổ đau, nó là ác pháp. Người tu hành theo Ðạo Phật nhất định không để tâm buồn chán, phải tìm mọi cách đẩy lui nó ra khỏi tâm, giúp cho tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Trên đường tu hành theo đạo Phật “chúng ta nên tu tập để nhàm chán đời sống thế gian, chứ không nên buồn chán”, buồn chán là vì không thỏa mãn được lòng ham muốn, còn nhàm chán có nghĩa là đã từng trải đời, thấy đời là một sự khổ đau chân thật không có gì vui chỉ là một chuỗi dài thời gian toàn là sự vô thường và khổ đau.

Buổi lễ thỉnh nguyện phát lồ sám hối (OaiNghi) Ở đây là tự giác thỉnh nguyện phát lồ sám hối, chứ không phải tụng kinh cầu sám hối. Vì thế phải tổ chức lễ thỉnh nguyện phát lồ sám hối vào buổi sáng 7 giờ ngày 14 và 30. Tổ chức buổi lễ thỉnh nguyện phát lồ sám hối vào buổi sáng được dễ dàng và minh bạch, không có phạm giới nào cả.