Skip directly to content

05- ĐỐI THOẠI VỚI TỲ-KHEO THÍCH NGUYÊN HẢI - Phương Minh

Cập nhật ngày : 30.07.2012    

 

Kính thưa quý vị độc giả,

Kinh thưa thầy Nguyên Hải.

Phương Minh đọc qua bài viết của thầy Nguyên Hải (tuy rằng Thư Viện Hoa Sen chưa đăng tải hết), thấy Thầy phê phán Trưởng Lão Thích Thông Lạc “có nhiều sai lầm, đúng sai lẫn lộn, sai nhiều hơn đúng…”. PM không rõ Thầy tu tập tới đâu? Thầy hiểu về Trưởng Lão những gì? Thầy chẳng biết lượng sức mình, lại có những lời phê bình bằng kiến thức mượn và còn thiếu nghiêm túc, Thầy hoàn toàn không hiểu biết gì về Phật giáo Nguyên Thủy.

Vào đầu với tiêu đề: “Đối Thoại Với Thầy Thông Lạc”, PM đã nhận ra ngay Thầy là một người còn rất kém hiểu biết. Thầy không hiểu thế nào là đối thoại ư? Trưởng Lão đã có khi nào đối thoại với Thầy chưa? Lẽ ra Thầy nên đặt tiêu đề là: “Độc Thoại Của Nguyên Hải Về Sách Của Thầy Thông Lạc” thì hợp lý hơn.

Thưa quý vị! Chúng ta sẽ trao đổi về nội dung những cuốn sách của Truỏng Lão Thích Thông Lạc, tức là chúng ta trao đổi về Phật giáo. Mà Phật giáo suốt mấy ngàn năm, từ khi đức Phật nhập diệt, rồi ngài A Nan thị tịch cho đến nay, thì Phật giáo gần như mất gốc. Bà La Môn giáo (Lục Sư ngoại đạo với 62 luận chấp tà kiến) sống lại đã quyết tâm tìm mọi cách tiêu diệt Phật giáo đến tận gốc rễ. Rất may cho Phật giáo, ngày nay vẫn còn có nhiều bậc tôn túc Hòa thượng, Thượng tọa tâm huyết với Phật giáo, tha thiết mong cầu tìm về với cội nguồn giáo lý chân chính của đức Phật Thích Ca.

Vấn đề quan trọng, đâu là Chánh Pháp của đức Phật, đâu là tà giáo ngoại đạo lẻn vào đạo Phật cũng vỗ ngực xưng tên: đây là Chánh Phật Pháp.

Thật khó phải không, thưa quý vị?

Có lẽ đã đến lúc chúng ta phải tìm ra một tiếng nói chung của Phật giáo. Bởi Phật giáo chỉ có một giáo lý chứ không hai. Vậy mà ngày nay có biết bao nhiêu Tông phái với những giáo lý khác nhau, ai cũng tự nhận rằng chỉ mình mới là chân chánh, còn lại là sai lầm. Điều vô lý hiển nhiên như thế, mà kẻ khù khờ nhất cũng dễ nhận ra, sao quý vị tu theo Phật giáo là đạo Trí Tuệ lại không nhận ra được nhỉ.

Vì sao? Thưa quý vị?.

Trước khi trao đổi về nội dung bài viết của thầy Nguyên Hải, PM xin phép được mạn đàm đôi nét về Phật giáo ngày nay để quý vị cùng chúng tôi, chúng ta cùng nhau hiểu biết, cảm thông và tha thứ cho nhau trên con đường trở về với Phật giáo chân chánh.

Thưa quý vị! Trong chúng ta, có lẽ ai cũng thừa nhận giáo lý của đức Phật với Bốn Chân Lý, Mười Hai Nhân Duyên… mà Ngài tuyên thuyết thì không thể là của ngoại đạo được. Chỉ với Tứ Diệu Đế đã nói lên đầy đủ nền tảng cơ bản tu tập hướng đến mục đích giải thoát khỏi kiếp trầm luân của đời người.

Mục đích của đạo Phật là “Giải Thoát”, đó là chân lý thứ ba “Diệt Đế” trong Tứ Diệu Đế. Đức Phật đã dạy: “… như nước biển chỉ duy nhất có một vị mặn, cũng vậy, giáo pháp của Như Lai chỉ duy nhất có một vị là Giải Thoát”. Vậy “Giải Thoát” là mục đích căn bản và quan trọng nhất của người tu sĩ và cư sĩ phật từ phải đạt được.

Thế nhưng! Thưa quý vị! Thực tế Phật giáo ngày nay đang hiện tiền trước mắt chúng ta. PM xin trích dẫn vài ví dụ thật rõ ràng mà mọi người đều có thể thấy hiểu được bằng ý thức của mình, không phải tưởng tượng mơ hồ, từ đó quý vị có thêm dự kiện để phân biệt đâu là chánh Phật giáo, đâu không phải là Phật giáo.

Ví dụ 1: Quý vị phật tử đều rõ, hiện nay Phật giáo Tây Tạng có vị Dalai Lama 14. Như vậy chắc chắn trước đó đã có các vị từ Dalai Lama 1, 2, 3,… 13, và tiếp trong tương lai sẽ có vị Dalai Lama 15, 16,… theo truyền thống của Tông phái Phật giáo này.

Không riêng vị Dalai Lama mà còn có các vị khác như: Đại Bảo Pháp Vương (hiện tại là Đại Bảo Pháp Vương 17), các vị Xa Ra Pháp Vương, Đại Tư Đồ Nhân Ba Thiết cũng cứ luân chuyến mãi ngôi vị (chỉ một người) chứ không thay đổi.

Như thế, chúng ta biết ngay rằng các Ngài tu tập nhưng chưa bao giờ giải thoát, vẫn còn trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, vẫn bị sinh ra từ trong dục nhiễm ô bất tịnh (Do bố mẹ sinh ra).

Như thế, chúng ta có tin rằng Phật giáo Tây Tạng thật sự là Phật giáo Nguyên Thủy chân chánh của đức Phật không?

Ví dụ 2: Mời quý vị đọc trích đoạn luận về Tứ Diệu Đế của Thiền sư Thích Nhất Hạnh như sau:

…“Sự thật thứ nhất là Dukha - Khổ. 

Tây phương dùng chữ illbeing để dịch chữ Dukha. Illbeing là khó ở, có bệnh tật, có cái gì không suông chảy, bế tắc. Illbeing là đối lại với wellbeing. Wellbeing là sự sảng khoái, sự thông suốt, an vui, không có vấn đề. Chữ khổ ở đây có nghĩa là không thoải mái, không hạnh phúc, không thông thoáng, bị bế tắc, khổ đau. Khi mình học thì thầy có thể dạy rằng, sự thật thứ nhất, Khổ đế, có nghĩa đời là khổ.

Nói đời là khổ thì cũng đúng nhưng chỉ đúng phần nào thôi và bắt buộc mình tin rằng đời chỉ có khổ. Đời chỉ là khổ thôi chứ không là cái gì khác, đó không phải là sự thật toàn vẹn. Giảng sự thật thứ nhất đời là khổ, life is illbeing chỉ đúng phân nửa sự thật vì đời cũng có thể rất vui, có thể thoải mái, thông thoáng, nhẹ nhàng, không phải chỉ bế tắc sầu khổ mà thôi. Cho nên sự thật thứ nhất không phải đời là khổ. Sự thật thứ nhất là khổ đau đang có mặt và hạnh phúc cũng đang có mặt”…

[Câu: “Sự thật thứ nhất là: khổ đau đang có mặt và hạnh phúc cũng đang có mặt” có thể tương ưng nghĩa với câu: (Sự thật là: Giữa đêm đông giá buốt “đang có mặt” mặt trời dịu dàng tỏa nắng cũng “đang có mặt”). Do vậy sự thật thứ nhất đời là khổ là chỉ đúng nửa sự thật.] (PM chua thêm câu này để quý vị hiểu rõ sự uyên bác Phật giáo của thầy Tổ chúng ta).

(Trích trong bài: Tứ Diệu Đế. Tháng 10.2008 - Chân Tịnh Ý phiên tả & biên tập: Pháp thoại của Sư ông Làng Mai ngày 21.05.2008 tại tổ đình Từ Hiếu - Huế - Chân Minh hiệu đính và cập nhựt 13.10.2008).. Nguồn: Thư Viện Hoa Sen .

Quý vị cũng tìm hiểu thêm, một số bài giảng của thầy Nhất Hạnh đã giảng, trong thời khóa tu tập của Làng Mai, mỗi tuần đều có “một ngày làm biếng”, ngày ấy tu sĩ Làng Mai thoải mái ngủ nghỉ đến bao nhiêu cũng được!!!

Ở ví dụ 2, PM không dám ý kiến nhiều, chỉ tiếc rằng Tứ Diệu Đế, mà cụ thể là Khổ Đế đức Phật dạy, nay chỉ còn đúng có một nửa. Sự thật mà chỉ đúng có một nửa thì là một sự giả dối không thể chấp nhận được. Rồi mỗi tuần “một ngày làm biếng” trong quá trình tu tập thì có còn đúng với Chánh Tinh Tấn trong Đạo Đế đức Phật dạy không? Chúng ta cùng suy ngẫm, thầy Nhất Hạnh dạy như vậy là đúng theo Phật giáo chân chánh hay đang dạy đệ tử cách đập phá đạo Phật đến nát tan?

Thưa thầy Nguyên Hải, Thầy đã biết những sự thật mà PM vừa dẫn ra ở hai ví dụ trên hay chưa? Sự thật như thế thì là đúng hay sai trong Phật giáo? (Những ví dụ về sự sai lầm và phá Phật giáo thì nhiều lắm). Bất đắc dĩ PM phải dẫn các ví dụ ra như vậy chứ thật lòng không muốn chút nào. Nhưng nếu không dẫn ra thì lấy gì đối chứng làm sáng tỏ sự thiên kiến cố chấp của Thầy đối với Trưởng Lão Thích Thông Lạc.

Trưởng Lão Thích Thông Lạc là người đã thực tu theo giáo pháp Nguyên Thủy và thực chúng như đức Phật xưa kia. Thế nhưng Thầy không tin, chỉ vì Thầy không hiểu Phật giáo đấy thôi, thưa thầy Nguyên Hải.

Đến đây PM xin bắt đầu trao đổi về bài viết “Đối Thoại Với Thầy Thông Lạc” của Thầy.

Kính thưa quý vị! Thưa thầy Nguyên Hải!

Bài viết (tác phẩm) của Thầy quả có một sự chuẩn bị khá kỹ lưỡng và công phu, thế nhưng nó chẳng có giá trị gì để giúp ích cho người phật tử hướng thượng, mà còn gây thêm sự nghi ngờ Phật giáo chân chánh, khiến trí tuệ người phật tử thêm u tối.

Xưa đức Phật đã dạy hàng đệ tử của mình: “Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, các ngươi chớ có vì vậy sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn. Này các Tỷ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi sanh lòng công phẫn, tức tối, tâm sanh phiền muộn, thời như vậy sẽ có hại cho các ngươi. Nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các ngươi công phẫn và phiền muộn, thời các ngươi có thể biết được lời nói của những kẻ ấy là đúng hay sai lạc chăng?” 

Ngày nay đức Trưởng Lão cũng khuyên răn các đệ tử của mình, khi có ai chỉ trích Ngài, phỉ báng giáo pháp của Ngài giảng dạy thì: “Các con phải biết im lặng như Thánh và trải lòng từ bi yêu thương tha thứ cho họ, bởi vì họ đang tức giận, họ là người đang đau khổ, phải yêu thương họ…”.

Do vậy PM không dám nói nhiều (khi có người chỉ trích, phỉ báng Trưởng Lão và giáo pháp Ngài dạy), chỉ có mấy ý trao đổi thật vắn tắt và ngắn gọn, mong thầy Nguyên Hải và quý vị hiểu cho.

1- Phần thứ nhất Dẫn Nhập: Thầy trích dẫn: “Và TTL viết[4]: “Cuối cùng tôi ngưỡng mong những bậc cao minh, giới đức, đạo hạnh, vì con người trên hành tinh này, vì đạo đức xã hội, vì lợi ích thiết thực chung cho con người và vì Ðạo Phật, hãy vui lòng chỉ dạy cho tôi những điều còn sai sót”.

Thầy biết không, đoạn văn này của Trưởng Lão là thể hiện nề nếp truyền thống văn hóa đạo đức đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam, ai cũng cần học tập. Thế nhưng có lẽ Thầy sống xa đất nước lâu ngày nên Thầy quên mất gốc nếp văn hóa ấy, do vậy Thầy thấy cần phải dạy cho Trưởng Lão một bài học. Xin thầy Nguyên Hải nhớ lại câu kinh Pháp Cú này:

“Người ngu biết mình ngu,

Nhờ vậy thành có trí.

Người ngu tưởng có trí,

Thật xứng gọi Chí Ngu”.

Có lẽ bài kệ này thật đúng với Thầy ở hai câu sau. Thầy đã đọc hầu hết sách của Trưởng Lão và còn đọc rất kỹ để đối chiếu, so sánh với kinh Nykàya (nhằm tìm ra lỗi để phỉ báng), thế mà Thầy chẳng hiểu được những lời dạy của Trưởng Lão thì thật quá uổng. Trưởng Lão viết bằng ngôn ngữ thời hiện tại, bằng tiếng Việt Nam, bằng sự thực tu thực chứng, thế mà Thầy còn không hiểu nổi. Vậy mà Thầy dám mong đọc kinh Nykàya của đức Phật với ngôn ngữ từ xa xưa và qua nhiều lần kiết tập, rồi lại qua một lần sai lệch của các nhà dịch giả nữa, để đem dạy lại cho Trưởng Lão. Chuyện ngu thật, cứ ngỡ như đùa.

2- Tiếp theo, vì tác phẩm của thầy Nguyên Hải tương đối dài và đề cập nhiều vấn đề, nhưng bất cứ mục nào của Thầy cũng tỏ lộ sự kém hiểu biết về Phật giáo chính thống. PM cảm rõ rằng, thầy Nguyên Hải đang sa lầy trong vũng bùn ô nhiễm và Thầy liều lĩnh bốc bùn ném bừa vào mọi người để họ cùng bẩn như mình, mong muốn kéo mọi người vào mông muội như mình. Đây là một ác ý của Thầy, thật đáng trách!

Do vậy PM chỉ có hai mục trao đổi với Thầy: 

1- Dẫn lại một số nhận xét của Thầy để Thầy suy xét lại.

2- Dẫn lại làm sáng tỏ ngay một số vấn đề mà Thầy không hiểu rõ.

1- ĐỀ NGHỊ THẦY XEM LẠI những lời nhận xét này của mình:

- Đức Thế Tôn dạy “Ngũ Uẩn giai không”. Ngã là Ngũ Uẩn. “Vô Ngã” là “Ngũ Uẩn giai không”. 

- Khi hành giả đạt được Tứ Thiền hoặc các Thiền cao hơn, thì các loại thần thông hiện ra nhiều hay ít, tùy thuộc hành giả nhập Thiền cao hay thấp.

- Không có Thiên Nhãn Minh cũng có thể hiểu đúng lời Đức Thế Tôn dạy trong Kinh Pháp Môn Căn Bản, nếu họ đọc kỹ.

- Như vậy thế giới siêu hình không phải là thế giới tưởng như TTL đã viết và gán ghép sai lầm.

- Các chùa cúng thí thực là đúng. Nhờ cúng thí thực, các ngạ quỷ (quỷ đói) khỏi đói khát và được tái sanh lên các cõi cao hơn.

- Thế nên đạo Phật có tám mươi bốn ngàn pháp môn cho nhiều căn cơ trình độ khác nhau để điều trị những tâm bệnh khác nhau của chúng sinh.

- Thế Tôn Metteyya là Đức Phật Di Lặc. Thầy Thông Lạc không biết chữ Metteyya nghĩa là Di Lặc nên đã viết sai lầm. Metteyya là tiếng Pāli, tiếng Sanskrit viết là Maitreya, dịch ra tiếng Trung Hoa và Việt Nam là Di Lặc.

- Thật ra Bất Động Tâm Giải Thoát (P: Akuppa-cetovimutti) trong Tạng Kinh Nikāya chỉ cho các bậc Tâm Giải Thoát ở trạng thái Bất Động. Đây là các bậc đắc Diệt Thọ Tưởng Định và Lậu Tận Trí,

- Khi nói về cõi Trời, quý vị có công nhận TTL viết sáu đoạn trước mâu thuẫn với hai đoạn sau không? (Trích dẫn [51] đến [56] trong bài của Nguyên Hải).

Chỉ chừng ấy kiến chấp của Thầy, đủ thấy thực sự Thầy mê muội quá mất rồi, Thầy chẳng hiểu gì về Phật giáo Nguyên Thủy cả mà đòi sửa sai pháp của Trưởng Lão.

PM dẫn ra một số nhận xét của Thầy, thật oải quá khi đọc những dòng này. Một vị tu sĩ mà có những hiểu biết như trên thì xin Thầy cởi áo cà sa trả lại cho chùa, trở về đời mà sinh sống để bớt đi món nợ đàn na thí chủ. Uổng phí thay những giọt mồ hôi của mọi người đã làm ra hạt gạo củ khoai nuôi Thầy tu học. 

2- PM LÀM RÕ MỘT SỐ VẤN ĐỀ mà Thầy chưa hiểu:

­ Thầy dẫn chứng: “Sách Ðường Về Xứ Phật, tập 1, TTL viết[61]: “Ngay từ khi Ðức Phật  còn tại thế, chúng Tỳ Kheo còn có nhiều người sống không đúng Phạm hạnh, không ly dục ly ác pháp, nên Ðức Phật buộc lòng phải chế giới bổn Patimokha để ngăn cấm”. Ngược lại, cũng sách Ðường Về Xứ Phật, tập 1, TTL viết[62]: “Giới bổn Ba La Mộc Xoa Ðề là giới luật của các Tổ biên soạn viết ra”.

Và Thầy nhận xét: “Hai câu trên trong cùng một quyển sách Ðường Về Xứ Phật, tập 1, chữ PatimokhaBa La Mộc Xoa Đề đều cùng một nghĩa, nhưng câu trước thì TTL viết do Đức Phật chế, câu sau thì viết do các Tổ biên soạn. Ý TTL muốn nói gì? Có lẽ TTL viết tùy hứng, không cần suy nghĩ đúng hoặc sai”…

Thầy Nguyên Hải hãy đọc cho kỹ nguyên vẹn đoạn văn này: Tuy vậy, một trăm năm đầu ấy, ngay từ khi đức Phật còn tại thế, chúng tỳ-kheo còn có nhiều người sống không đúng Phạm hạnh, không ly dục ly ác pháp, nên đức Phật buộc lòng phải chế giới bổn Patimokha để ngăn cấm, nhưng từ khi có giới bổn ra đời, chúng tỳ-kheo lại càng vi phạm nhiều hơn. (Đoạn kinh này do lý giải của các Tổ trong các kinh Đại Thừa. Riêng chúng tôi nghiên cứu kinh sách Nguyên Thủy thì không phải vậy)”. (Tập I – ĐVXP [61])

Trưởng Lão đã viết rõ ràng: “Đoạn kinh này do lý giải của các Tổ viết ra trong các kinh Đại Thừa” (chứ Trưởng Lão không chấp nhận là Phật chế), thế mà Thầy dám bớt đi một nửa đoạn văn để đặt điều so sánh với đoạn khác: là giới luật của các Tổ viết ra. Thực sự thì hai đoạn ở hai nơi có khác gì nhau, giới luật đều là do các Tổ viết ra cả.

Như vậy sách Trưởng Lão viết sai lầm hay là Thầy bị thần kinh lú lẫn?

Còn hai chữ Patimokha và Pãtimoksha; Ba la mộc xoa đề và Ba la đề mộc xoa nếu thực có lầm lỗi, thì lỗi này không phải do Trưởng Lão không hiểu, mà do sai sót của người đăng nhập vi tính. Những lỗi nhỏ này Thầy nhắc nhở đúng, nhưng cả hai chữ này mọi người đều hiểu là giới luật. Phải không Thầy?

Thầy chỉ khéo bới lông tìm vết bụi bám trên thân người khác, còn những ung nhọt to kềnh đầy bất tịnh, nổi khắp trên thân thể mình thì Thầy không thấy. Thật tội nghiệp cho Thầy.

­ Ở chương VI phần III: TU TẬP 37 PHẨM TRỢ ĐẠO Thầy chỉ giới thiệu 37 phẩm trợ đạo như sau:

“1. Tứ Niệm Xứ
2. Tứ Chánh Cần
3. Tứ Như Ý Túc
4. Ngũ Căn
5. Ngũ Lực
6. Thất Bồ Đề Phần
7. Bát Chánh Đạo”. 

Có lẽ Thầy là một học giả cần mẫn nhưng thiếu thiện tri thức hướng dẫn, cho nên Thầy còn ngây thơ lắm. Thầy cứ đọc lại tiêu đề: Tu tập 37 phẩm Trợ Đạo, với các nội dung như Thầy dẫn có cả Bát Chánh Đạo. Thầy hãy bình tĩnh để mà nhận ra điều sai quấy này. Trợ Đạo cũng là Chánh Đạo có đúng không Thầy?

Chánh Đạo, Trợ Đạo lẫn lộn, thứ tự lớp lang chẳng biết cái nào trước, cái nào sau, như thế mà Thầy bảo Thầy chứng gì gì cao lắm, nên phải dạy cho Trưởng Lão bớt sai đi. Thật đáng cười quá cho Thầy. Mời Thầy xem lại trình tự tu tập của con đường Tám Chánh Đạo theo Phật giáo Nguyên Thủy mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên Thư Viên Hoa Sen, cũng ở mục ý kiến phản hồi (Bài Phật giáo Thiền Tông Thực Tế Đến Không Ngờ).

Thật ra trách Thầy sai thì cũng hơi tội nghiệp cho Thầy, bởi vì Thầy chỉ biết các Tổ trước dạy mình sao thì mình y kinh như vậy, đâu dám sửa lại, biết gì mà sửa lại. Khổ thế đấy, một người mù dẫn một đoàn người mù, hết lớp trước đến lớp sau kéo nhau xuống hố mà chẳng hề biết sợ. Có người chỉ cho biết thì xúm nhau vào phỉ báng. Kiến chấp như vậy biết ngày nào minh?

Ấy là chúng tôi chưa hỏi Thầy rằng thực hành tu tập các phẩm như Tứ Chánh cần, Tứ Niệm Xứ, Thất Bồ Đề phần … thì không biết Thầy trả lời sao. Học Phật giáo mà chỉ say mê với các cõi giới siêu hình,… mơ hồ không thực đó là Ma giáo chứ đâu phải Phật giáo mà Thầy ham thế. Hãy mau mau quay đầu trở lại hỡi thầy Nguyên Hải.

­ Tiếp theo một đoạn nhận xét này nữa của Thầy: “Chúng ta phải khen ngợi, tán dương cô Diệu Hồng, Diệu Thiện… chứ sao TTL lại chê trách họ?

Cô Diệu Hồng ngồi suốt tám tiếng đồng hồ trong trạng thái an lạc” là rất đáng khen ngợi. Cô Diệu Hồng bỏ về Long Hải là đúng. Đi học một vị Thầy dạy giáo lý Đạo Phật, nhưng Thầy đó nói đúng sai lẫn lộn, sai lầm về những lời dạy của Đức Thế Tôn trong Tạng Kinh Nikāya, thì ai có thể nói rằng vị Thầy đó đắc Tam Minh và Thánh Quả A La Hán?

“Diệu Thiện ngồi thiền tịnh chỉ hơi thở từ 30 phút đến một giờ, thân bất động, tâm bất động” cũng rất đáng khen ngợi. Như vậy Diệu Thiện đạt được từ Đệ Tứ Thiền trở lên. Ngược lại, TTL viết là “có ích lợi gì cho bản thân” và như vậy người đọc sẽ hiểu, TTL tu Tứ Thiền, tịnh chỉ hơi thở cũng không “có ích lợi gì cho bản thân” của TTL. Có lẽ TTL sân hận và ganh tỵ khi thấy Diệu Thiện tu hành bằng, hoặc là cao hơn TTL. Diệu Thiện thuyết giảng bộ Đường Xưa Mây Trắng nói về Đức Thế Tôn, do Hòa Thượng Nhất Hạnh biên soạn, TTL lại ganh tỵ với Hòa Thượng Nhất Hạnh.

Nhận xét này PM để lại cho các cô Diệu Thiện, Diệu Hồng, là các tu sinh của Tu viện Chơn Như được Thầy tán dương khen ngợi, các cô trả lời Thầy. Nếu các cô im lặng có nghĩa là họ bảo rằng: Thầy chẳng hiểu biết gì về Phật giáo Nguyên Thủy mà cứ tán dương hàm hồ vô tích sự.

­ Cuối cùng PM xin gửi tặng thầy Nguyên Hải một bài pháp quý báu này mà có lẽ chưa bao giờ Thầy hiểu tới.

Lời Phật dạy: Người tu sĩ có 9 điều cần tu tập hằng ngày

“1. Phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh.

2. Sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt.

3. Chấp nhận giữ gìn giới luật.

4. Giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không cho dính mắc sáu trần.

5. Ăn uống phải tiết độ, không nên ăn uống phi thời.

6. Ban ngày khi đi kinh hành hay lúc ngồi, luôn luôn phải tẩy sạch tâm tư khòi các chướng ngại pháp.

7. Ban đêm canh đầu đi kinh hành hay ngồi, luôn luôn phải tẩy sạch tâm tư khỏi các chướng ngại pháp.

8. Ban đêm canh giữa phải nằm nghiêng, chánh niệm tỉnh giác, luôn luôn phải nghĩ đến thức dậy.

9. Ban đêm canh cuối thức dậy đi kinh hành hay ngồi, luôn luôn phải tẩy sạch tâm tư khỏi các chướng ngại pháp.”

Nếu Thầy nghiêm mật, tinh cần không gián đoạn, theo những lời dạy này trong mỗi ngày (và hàng ngày) thì chắc chắn lợi ích cho Thầy không nhỏ, cần gì nữa phải đi tìm những ngôn ngữ cao siêu, mù mờ, khó hiểu trong những tạng kinh mà Thầy đã dẫn ở bài “Đối Thoại…” của Thầy.

Xin thêm với Thầy mấy lời này:

Có câu: “Người học nhiều mà không tu là cái tủ đựng kinh sách”, xem ra Thầy cũng lắm sách đấy nhỉ. Chúng tôi nhắc nhở Thầy, nếu là sách quý, sách có giá trị thì người ta mới cất vào tủ, còn những thứ không giá trị gì mà lại gây hại, làm khổ cho mình và mọi người thì người ta bỏ vào sọt rác.

Trong những kinh sách Thầy dẫn chứng, chúng tôi đang phải dọn dẹp bỏ vào sọt rác nhiều lắm đấy, chỉ có rất ít sử dụng được thôi. Mong muốn Thầy đừng trở thành cái sọt rác mà uổng phí một cuộc đời tu sĩ.

Về vấn đề sức khỏe, Thầy cần đến bệnh viện nhờ một bác sĩ chuyên khoa thần kinh săn sóc cái đầu cho Thầy. PM dám chắc Thầy bị bệnh thiền rồi đấy.

                                               Thân ái chào Thầy.

                                                 Phương Minh.