061-THÊM VỀ: "TƯỞNG qua bài kinh PHÁP MÔN CĂN BẢN" - Phương Minh
Đọc bài “chủ đề Tưởng trong đạo Phật qua bài kinh Pháp Môn Căn Bản” của tác giả Minh Đạo, PM có mấy lời chia sẻ cùng quý phật tử và độc giả.
Bài viết, tác giả quan tâm lưu ý mọi người: “Chúng ta là những người phật tử đang tu học. Trên bước đường tu tập, chúng ta thường được các bạn đồng tu nhắc nhở ‘Khéo giữ gìn tâm ý, nếu không dễ lạc vào tưởng’. Câu nhắc nhở của bạn đồng tu chân thành quá, nhưng làm cho các tu sinh vẫn cảm thấy toát mồ hôi hột.”
Và tác giả đặt ra câu hỏi: “Vậy tưởng là gì? Chúng ta nên hiểu về tưởng như thế nào? Câu hỏi như khắc khoải chờ sự giải đáp.”
Thực ra với câu hỏi: “Vậy tưởng là gì?” đã được đức Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng giải rất rõ ràng trong nhiều bài viết của Ngài. Câu hỏi tiếp theo: “Chúng ta nên hiểu về tưởng như thế nào? thì chắc chắn không dễ dàng có một lời đáp chung để mọi người cùng hoan hỷ được. Vì là “tưởng” nên ai muốn hiểu ra sao tùy theo cái sự tưởng của mình nên khó chấp nhận nhau, dễ dàng “cho nhau nắm đấm vào mặt” nhưng lại “cảm thông” ngộ nhận “chúng ta đều là những người từ chứng ngộ mà ra” (như bài dẫn) nhưng ở mức độ hơn thua cao thấp khác nhau thôi. Thật là hết sức ngu si điên đảo.
Trình tự theo bài viết của Minh Đạo, chúng ta cùng nhau phân tách.
A- Câu chuyện thiền trong “Góp nhặt cát đá” dẫn hai anh em vị thiền sư, một lanh lợi hoạt bát, một đần độn ngu si cùng cố thủ một ngôi chùa. Họ học tập vì mục đích chỉ để nếu sau gặp người thách đấu hơn thua thì mình sẽ thắng và được “trụ chùa” giữ “giềng mối” Phật pháp. Nực cười, đáng thương cho Phật giáo phát triển và Thiền Đông Độ, đã bao năm truyền thừa mà ngày nay “giềng mối” Phật pháp của họ là cái gì?
Lần lượt một ngón tay, hai ngón tay, ba ngón tay giơ lên và cuối cùng là nắm đấm thoi vào mặt đối phương đến sây sẩm, choáng váng đầu óc, như thế là họ chợt “ngộ” ra sau cơn mê dài của mình. Những câu chuyện rất phi Phật pháp như loạt bài này và toàn bộ cuốn “Góp nhặt cát đá’ cũng như rất nhiều kinh sách của Phật giáo phát triển, Thiền Đông Độ, chúng ta khó tìm và chọn lọc được những điều có lợi ích cho việc tu hành đúng theo chánh pháp.
Ngày nay, nhìn vào cái kết cục chung sự thành tựu của Phật giáo phát triển và Thiền Đông Độ là chứng đạt thế giới Tây phương Cực Lạc, Phật Tánh, Bản Lai Diện Mục, Trí tuệ Bát Nhã… xuất phát từ những pháp tu “Niệm Phật Di Đà”, “Bồ tát độ hết chúng sanh thì thành Phật”, “Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, “Chăn trâu”, “Giữ ông chủ”, “Biết vọng liền buông”, “Tham thoại đầu, khán công án, khởi nghi tình”… cùng những kiểu thiền tư, thiền lự, thiền la, thiền hét, thiền thoi, thiền đạp… đã dẫn chúng phật tử đi vào ngõ cụt bế tắc không có đường ra.
Chúng ta cần khép lại, đào hố sâu, vùi lấp kỹ những loại kinh sách phi Phật pháp, phi nhân bản nhân quả để chúng không còn ngoi đầu dậy mê hoặc làm hại người phật tử. Những câu chuyện, những kinh sách này chỉ khởi lên trong lòng ta một sự xót thương đau đớn cho bao lớp người tu lạc pháp, chứ đâu có gì “tuyệt vời” mà thích thú bởi cái ngu si của kẻ khác.
B- Trở lại với câu hỏi “Tưởng là gì?”. Chúng ta cùng ôn lại một vài lời dạy của đức Trưởng lão Thông Lạc về Tưởng trong thân ngũ uẩn:
“1- Tưởng ấm là một duyên trong thân ngũ ấm. Thân ngũ ấm gồm có: 1, Sắc ấm; 2, Thọ ấm; 3, Tưởng ấm; 4, Hành ấm; 5, Thức ấm. Năm ấm này hợp lại thành thân người.
Vì thế thân người chia ra làm hai phần:
1- Về phần hữu hình thì duy nhất chỉ có Sắc ấm (thân tứ đại).
2- Về siêu hình gồm có bốn ấm kia: Thọ ấm, Hành ấm, Tưởng ấm và Thức ấm.
Nhưng dù thế giới hữu hình hay siêu hình đều hoạt động do phần Sắc ấm, phần Sắc ấm rất quan trọng, nhất là bộ óc của con người. Thế giới hữu hình và thế giới siêu hình cũng do nó chỉ huy. Vì thế khi sắc thân hoại diệt thì bộ óc cũng hoại diệt theo. Bộ óc hoại diệt thì thế giới siêu hình cũng hoại diệt theo…” (ĐVXP tập III – NXB Tôn giáo Hà Nội 2011 - tr.197).
“2 - Sắc uẩn còn gọi là Sắc ấm hoạt động gồm có sáu thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, gọi chung là Sắc thức. Khi một người sống bình thường suy nghĩ, nói nín hay họat động làm bất cứ một việc gì, nói bất cứ một điều nào hay suy nghĩ bất cứ một điều gì thì sắc thức hoạt động tức là nhóm sáu thức trong đó có ý thức hoạt động. Ý thức còn gọi là Tri thức, là Tri kiến.
- Tưởng uẩn hoạt động khi nào lục thức ngưng hoạt động. Lục thức ngưng hoạt động là lúc chúng ta đang nằm ngủ chiêm bao. Trong giấc chiêm bao chúng ta cũng nghe, thấy, biết, ngửi, cảm giác rõ ràng. Cái biết trong chiêm bao gọi là Tưởng thức. Như vậy Tuởng thức và Ý thức là hai thức chỉ giống nhau là cái biết, nhưng cái biết này có thì cái biết kia dừng lại.
- Thức uẩn hoạt động chỉ khi nào Sắc uẩn và Tưởng uẩn ngưng hoạt động. Muốn Sắc uẩn và Tuởng uẩn ngưng hoạt động thì phải nhập định thứ tư. Nhập định thứ tư là phải tịnh chỉ hơi thở. Khi tịnh chỉ hơi thở thì Thức uẩn hoạt động. Thức uẩn hoạt động tức là Tam Minh. Tam Minh gồm có: Túc mạng Minh, Thiên nhãn Minh, Lậu tận Minh. Tam Minh còn gọi là “Tuệ”. Tuệ Tam Minh là một cấp học thứ ba, cấp học cao nhất của Phật giáo.
- Thọ uẩn là sự cảm thọ của ba thức, khi các thức hoạt động thì Thọ uẩn có mặt.
- Hành uẩn là sự hoạt động của ba thức, khi ba thức hoạt động thì Hành uẩn có mặt.”… (ĐVXP tập VII – NXB Tôn giáo Hà Nội 2011 - tr.65).
“3- (Tưởng) trong thân ngũ uẩn nó là tưởng uẩn, còn gọi về thức thì nó gọi là tưởng thức; còn gọi về dục thì nó gọi là tưởng dục; còn gọi về vô minh nó được gọi là vô minh tưởng; còn gọi về trí tuệ thì nó gọi là tưởng tuệ; còn gọi về tri kiến (thấy) thì nó gọi là tưởng kiến; còn gọi về tri (biết) thì nó gọi là tưởng tri; còn gọi về năng lực thì nó là tưởng lực”… (ĐVXP tập VII – NXB Tôn giáo Hà Nội 2011 - tr.344).
“4- Tưởng uẩn tức là tâm uẩn. Tâm uẩn thuộc về loại vô hình, nó không có hình sắc như Sắc uẩn nhưng chúng ta cũng dễ nhận ra, nó thường khởi niệm tưởng, khi niệm có tức là tâm có, khi không niệm tức là tâm không, tâm không, không có nghĩa là không có tâm. Tưởng uẩn có ba trạng thái: 1- Niệm thiện; 2- Niệm ác; 3- Niệm không.
Kinh sách phát triển lấy niệm không làm Phật Tánh (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm hoặc chẳng niệm thiện niệm ác, Bản Lai Diện Mục hiện tiền)”… (ĐVXP tập II – NXB Tôn giáo Hà Nội 2006 - tr.114).
Chừng đó là đủ để chúng ta tư duy hiểu rõ ràng về Tưởng là gì. Vấn đề còn lại là “Chúng ta nên hiểu về Tưởng như thế nào?”. Đúng vậy, nên hiểu như thế nào để sử dụng Tưởng được tốt nhất cho quá trình tu tập con đường giải thoát, để hành giả không đến nỗi sợ hãi “toát mồ hôi hột” như Minh Đạo đã dẫn. Có lẽ chúng ta sợ hãi là vì từ xưa tới nay, mọi người tu tập theo bất cứ tông phái Phật giáo nào cũng đều lạc nẻo rơi vào tưởng. Ngay cả những tu sinh được bậc minh sư chứng đạo trực tiếp dạy dỗ chánh pháp cũng vẫn lạc vào tưởng. Chúng ta thầm biết ơn những tu sinh bị lọt vào tưởng phải bỏ cuộc tu hành, họ là những viên “đá quý” lót đường cho các lớp người sau đi có cơ hội vững vàng hơn (như lời đức Trưởng lão Thông Lạc đã dạy).
Thưa quý vị!
Như trên đã dẫn, trong thân ngũ uẩn thì 3 uần có cái biết, hay còn gọi là thức, đó là Sắc thức, Tưởng thức và Thức thức. Trong Sắc thức bao gồm 6 thức, tổng cộng toàn bộ là 8 thức. Hành giả tu tập chủ yếu dùng Ý thức (Sắc uẩn) để tu. Ý thức ở đây bao gồm 6 thức hay còn gọi là Tâm mà trong kinh Pháp Cú đức Phật dạy: “Tâm (Ý) dẫn đầu các pháp. Tâm (Ý) chủ, tâm (ý) tạo tác…”
Chúng ta cũng cần hiểu rõ và phân biệt Ý thức tưởng với Tưởng thức tưởng. Ý thức hoạt động luôn câu hữu, gắn liền với tưởng của Sắc thức. Ý thức tưởng do trí tư duy của Ý thức nhưng vẫn gọi là Tưởng. Bởi vì, ý thức của chúng ta chỉ nắm bắt, nhận biết vạn sự vạn pháp trong thời điểm hiện tại. Khi thời gian trôi qua, nếu muốn “nhớ” lại những sự kiện đã qua, bắt buộc chúng ta phải tư duy hồi tưởng, (hay những gì sắp tới buộc chúng ta phải tưởng tượng), đó là Ý thức tưởng. Do vậy trong tu tập cũng cần dùng tưởng để tu tập như đức Phật đã dạy:
“Này các Tỳ-kheo, có mười sáu Tưởng này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Thế nào là mười sáu Tưởng?
1- Tưởng bất tịnh
2- Tưởng vô thường
3- Tưởng chết
4- Tưởng khổ trên vô thường
5- Tưởng vô ngã trên khổ
6- Tưởng đoạn tận
7- Tưởng ly tham
8- Tưởng đoạn diệt
9- Tưởng vô ngã
10- Tưởng nhàm chán trong các món ăn
11- Tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới
12- Tưởng xương trắng
13- Tưởng trùng ăn
14- Tưởng xanh bầm
15- Tưởng nứt nẻ
16- Tưởng trương phồng
Này các Tỳ-kheo, mười sáu Tưởng này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh”. (Tăng Chi Kinh tập 4 trang 380).
“Sự quán tưởng 16 đề mục trên đây là để tu tập Định Vô Lậu. Định Vô Lậu là một loại định quán tưởng tuyệt vời để đi đến chứng thánh quả A La Hán. Vì pháp quán tưởng này dùng để tâm nhàm chán các pháp thế gian và nhờ đó mới diệt ngã xả tâm, ly dục ly bất thiện pháp hoàn toàn, chứ không như pháp môn của Đại Thừa và Thiền Tông dùng Tưởng pháp (thấy các pháp như mộng, như huyễn) để tránh né và để ức chế tâm cho hết vọng tưởng, cuối cùng rơi vào định Tưởng (chẳng niệm thiện niệm ác), mà tâm chẳng ly tham đoạn ác pháp. Qua 16 đề mục quán tưởng để tâm nhàm chán, nhờ có nhàm chán tâm mới xa lìa tham, sân, si, mạn, nghi”. (Lời Trưởng lão Thông Lạc).
Khác với Ý thức tưởng (thuộc Sắc ấm) thì Tưởng thức tưởng (thuộc Tưởng ấm). Tưởng thức tưởng chỉ hoạt động khi nào Ý thức ngưng nghỉ hoàn toàn, thể hiện qua giấc chiêm bao, mộng mị khi ta ngủ, hoặc khi đang tu tập bị hôn trầm, thụy miên, vô ký, ngoan không.
Tóm lại, Tưởng nào đáng cho chúng ta cần dùng để tu tập, Tưởng nào khi nó xuất hiện thì chúng ta phải lập tức dừng ngay, xả bỏ chứ không được hoan hỷ, thích thú bám theo.
Ở trên đã dẫn, Tưởng có 3 trạng thái: Niệm thiện, Niệm ác, Niệm không. Hành giả tu tập Chánh niệm tỉnh thức trong Tứ Chánh Cần, khi tu tập có tỉnh thức thì luôn luôn biết niệm của thân hành trong hiện tại (như hơi thở hay bước đi…). Chểnh mảng, lơ đãng một chút, cái biết hiện tại bị mất thì lập tức tưởng (vọng niệm) xen vào. Vọng niệm có niệm (tưởng) thiện, niệm (tưởng) ác. Nếu là niệm ác thì ý thức tác ý ly, đoạn, diệt nó đi. Nếu là niệm thiện thì cứ mặc cho nó tự nhiên phát triển. Các pháp môn tà đạo dạy khi thấy (vọng) xuất hiện thì tác ý diệt bỏ sạch cả niệm thiện và niệm ác (pháp “Biết vọng liền buông”). Khi hết sạch cả niệm thiện, niệm ác thì niệm (tưởng) không nổi lên ngự trị. Kéo dài trạng thái này, hành giả sẽ mất hết Ý thức (Sắc uẩn), nhường vị cho Tưởng thức (Tưởng uẩn) hoạt động thay thế. Loại Tưởng này rất nguy hiểm mà các vị hành giả phải sợ “toát mồ hôi hột”.
Để kết phần này, PM xin dẫn lời đức Trưởng lão Thông Lạc dạy: “Trong pháp tu hành của Phật, chúng ta được phép dùng Tưởng để tu tập. Nhưng chúng ta phải hiểu khi dùng Tưởng có ích lợi về việc ly dục ly ác pháp trên thân tâm của chúng ta, chứ không phải dùng tưởng xuất hồn, tưởng hào quang, ánh sáng, tưởng Nhân điện, tưởng Khinh công, Khí công, Nội công, tưởng Phật Tánh, tưởng Cực Lạc, Thiên Đàng, tưởng thế giới siêu hình, tưởng trí tuệ Bát Nhã Tánh Không, tưởng Chân Không diệu hữu...”. (Những lời gốc Phật dạy - tập II, tr.105 - NXB Tôn giáo, Hà Nội – 2006).
C- Cuối cùng, về bài kinh Pháp Môn Căn Bản (kinh Trung Bộ), PM xin nhắc lại lời dạy của đức Phật: “Ba mươi ba cõi trời là Tưởng tri chứ không phải Liễu tri”. Và lời dạy của Trưởng lão Thông Lạc khẳng định lại chắc chắn: “Thế giới siêu hình, linh hồn người chết là mộng tưởng chứ không thật có”.
Đức Phật dạy, Trưởng lão Thông Lạc dạy như thế. Ai tin rằng đó là chánh pháp thì tin, chẳng tin cũng không sao. Nhưng hãy luôn nhớ rằng có 3 hạng người hiểu biết về thế giới với những trạng huống khác nhau.
Hạng thứ nhất (không Liễu tri): Những người tâm còn đầy dục hỷ, không Liễu tri thế giới. Đó là những người phàm phu ít nghe, những người nghe nhiều và tu theo tà pháp.
Hạng thứ hai (vị Thắng tri): Những người đã gặp được chánh pháp, có niềm tin chánh pháp, tu tập đúng chánh pháp, tuy chưa thành tựu nhưng không dục hỷ nên Thắng tri và có thể đi đến Liễu tri Niết bàn.
Hạng thứ ba (bậc Liễu tri): Đó là các vị A-la-hán và đức Phật Thích Ca thì không khác nhau, đều là các bậc Lậu hoặc đã đoạn tận, nhận biết rõ các Dục hỷ là nguyên nhân gây ra mọi đau khổ và Liễu tri vạn pháp, Liễu tri Niết bàn.