071-TRAO ĐỔI Ý KIẾN VỀ KINH BÁT THÀNH.
Kính thưa quý độc giả và phật tử.
Chúng tôi vừa nhận được thư góp ý trao đổi về bài Kinh Bát Thành của đạo hữu Hung Phuong. Để khách quan và quý vị tiện theo dõi, trước khi trao đổi cùng độc giả và quý phật tử, chúng tôi xin giới thiệu nguyên văn lời trao đổi trong thư:
[Kính gởi: BBT GNCN.
Sau khi đọc bài Ý KIẾN ĐỘC GIẢ VỀ "CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT", chúng tôi có một ý nhỏ trao đổi cùng BBT GNCN sau đây có liên quan đến bài kinh BÁT THÀNH. Theo Kinh Trung Bộ do HT TM Châu dịch, xin trích:
“52. KINH BÁT THÀNH (Atthakanàgara Sutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Ananda trú ở Vesali (Tỳ-xá-ly), tại Beluvagàmaka (ấp Trúc Lâm).
Lúc bấy giờ gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka đến tại Pataliputta (thành Ba-la-lị-phất) có công việc. Rồi gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka (Bát thành) đi đến Kukkutarama (Kê Viên), đến một Tỷ-kheo, đảnh lễ vị này, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka thưa với Tỷ-kheo ấy:
- Bạch Tôn giả, Tôn giả Ananda nay an trú ở đâu? Chúng con muốn gặp Tôn giả Ananda.
- Này Gia chủ, Tôn giả Ananda nay ở Vesali, tại ấp Beluvagamaka.
Rồi gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka, sau khi làm xong công việc ở Pataliputta, liền đi đến Vesali, ấp Beluvagamaka, đến Tôn giả Ananda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, gia chủ Dasama người ở thành Atthaka thưa với Tôn giả Ananda:"
Như vậy theo bài Kinh trên thì BÁT THÀNH là tên một địa danh chứ không phải chỉ tám Pháp Môn tu độc nhất?! Chúng tôi xin quý Thiện hữu tri thức giúp giải nghi thắc mắc trên để sớm thoát khỏi Tâm Trạo Cử. Chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ giáo tận tình của BBT GNCN, thời gian qua chúng tôi học được rất nhiều từ trang nhà GNCN, xin nhận nơi đây lòng thành kính biết ơn!
Kính chúc toàn thể BBT GNCN luôn luôn thanh thản an vui.]
Hung Phuong batchanhdaogioidinhtue@gmail.com
Kính thưa quý vị!
Chúng ta may mắn sinh được làm người, lại may mắn gặp Phật pháp chân chánh do Bậc chân tu giảng dạy. Thật không có gì hơn thế. Bởi chúng ta như đã được gặp Phật ngay trong cuộc đời này.
Giáo pháp của đức Phật để lại quá nhiều và cô đọng, nếu không có Bậc tu chứng giảng giải thì mặc dù có pháp, con người vẫn cứ mò mẫm như đi trong đêm đen không đuốc soi đường. Bằng chứng là suốt mấy ngàn năm nay, biết bao nhiêu người học và tu tập theo Phật giáo, nhưng Phật đâu chẳng thấy, chỉ thấy toàn những trùng, ma kiến giải muốn diệt Phật giáo đến cùng.
Chúng ta phải làm gì để giữ gìn nền đạo đức nhân bản – nhân quả Phật dạy được trường tồn mãi với thời gian? Đó là khát khao, trăn trở của bao người đang hướng về chánh pháp.
Kính thưa quý vị!
Chúng tôi xin bắt đầu trao đổi về vấn đề đạo hữu Hung Phuong nêu trong thư. Những điều trao đổi của chúng tôi rất có thể còn nhiều thiếu sót và không chắc làm thỏa mãn quý vị. Nhưng chúng tôi mong muốn tất cả chúng ta, mỗi người đều hướng tâm về thiện pháp mang lại lợi lạc cho mọi người thì mọi sự đều trở nên thông suốt dễ dàng.
Kinh Bát Thành là một trong 152 bài kinh thuộc Kinh Trung Bộ, tạng kinh Pàli. Trong đó mỗi bài kinh đều có tựa đề riêng theo tên nhân vật có liên quan (Trưởng giả, gia chủ, du sĩ lõa thể, Bà la môn, Vương tử…), hoặc theo địa danh, hoặc theo tên với địa danh, với pháp và với một số vấn đề khác…
Chỉ xét riêng tập II gồm 50 bài kinh (từ kinh số 51 – 100) chúng tôi nhận thấy tựa đề các bài kinh thuộc các nhóm sau:
- Tựa đề theo tên người gồm các kinh: 51; 54; 55; 56; 58; 62; 63; 64; 65; 69; 73; 74; 75; 76; 77; 78; 79; 80; 81; 82; 83; 85; 86; 91; 92; 93; 94; 95; 96; 97; 98; 99; 100. (Tổng cộng 33 bài).
- Tựa đề theo địa danh gồm các kinh: 67; 68; 70; 84. (Có 04 bài).
- Tựa đề theo tên người (+) địa danh có kinh: 61. (Có 01 bài).
- Tựa đề theo tên người (+) pháp gồm các kinh: 71; 72. (Có 02 bài)
- Số bài kinh còn lại tựa đề liên quan đến những vấn đề khác. (Có 09 bài).
Ý kiến của đạo hữu Hung Phuong nêu: “Như vậy theo bài Kinh trên thì BÁT THÀNH là tên một địa danh chứ không phải chỉ tám Pháp Môn tu độc nhất?
Vấn đề cần bàn ở đây là chúng ta nên hiểu tựa kinh là “Thành Bát Thành” (theo địa danh) hay “Pháp Bát Thành” (theo pháp).
Nếu muốn nói về “Thành Bát Thành” (địa danh) thì có nghĩa lý gì khi mà Atthaka chỉ là nơi cư trú của gia chủ Dasama. Quý vị cùng đọc lại:
“Rồi gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka (Bát Thành) đi đến Kukkutarama (Kê Viên), đến một tỷ-kheo, đảnh lễ vị này, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka thưa với tỷ-kheo ấy:
- Bạch Tôn giả, Tôn giả Ananda nay an trú ở đâu? Chúng con muốn gặp Tôn giả Ananda.
- Này Gia chủ, Tôn giả Ananda nay ở Vesali, tại ấp Beluvagamaka.”
Nếu đặt tựa đề kinh theo địa danh thì có thể dùng địa danh chính nơi bài kinh được tuyên thuyết. Trong trường hợp này thì tựa kinh phài là “Kinh Beluvagamaka” hay “Kinh Vesali”, là nơi ngài Ananda giảng cho gia chủ Dasama nghe. Nay lý giải tựa đề kinh theo địa danh (Atthaka) thì sẽ có rất nhiều tên kinh tương tự. Bởi thành Atthaka có thể có rất nhiều gia chủ khác đã đi đến nơi này, nơi kia thưa hỏi đức Thế Tôn hoặc các vị Thánh Tăng thời bấy giờ.
Trong 50 bài kinh tập II kinh Trung Bộ chúng tôi tìm thấy có 04 bài kinh mang tựa đề theo địa danh:
Bài kinh số 67: Kinh Catuma. “Một thời Thế Tôn ở tại Catuma trong rừng cây Kha-lưu-lạc (Myrobalan)”.
Bài kinh số 68: Kinh Nalakapana. “Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Kosala (Câu-tát-la) tại Nalakapana, rừng cây Palasa”.
Bài kinh số 70: Kinh Kitagiri. “Rồi Thế Tôn ở tại Kitagiri, một thị trấn xứ Kasi”.
Bài kinh số 84: Kinh Madhura. “Một thời Tôn giả Mahakaccana (Ðại Ca-chiên-diên) trú ở Madhura, tại rừng Gunda”.
Như vậy cả 4 bài kinh mang tựa theo địa danh đều là những nơi đức Thế Tôn, và Thánh Tăng cư trú, thuyết pháp. Không lẽ “Thành Bát Thành” (Atthaka), nơi cư trú của gia chủ Dasama (người cầu pháp) lại được đặc cách đặt tựa đề cho bài kinh sao? Trường hợp này rất hy hữu (khó chấp nhận).
Thêm nữa, nếu là tựa theo địa danh thì không phù hợp với nội dung bài kinh đã thuyết. Bài kinh do gia chủ Dasama thưa và ngài Ananda giảng những pháp độc nhất đi đến thành tựu cứu cánh. Đó là mục đích duy nhất của tất cả những ai mong cầu thoát khổ đến với đạo Phật. Nếu muốn nói về địa danh thì địa danh này (thành Atthaka) không giúp ích gì cho sự tâm cầu giải thoát cả.
Theo trên, chúng tôi loại trừ tựa “Kinh Bát Thành” theo địa danh (Bát Thành) là không phù hợp với nội dung bài kinh, cũng không tương nhập với tổng thể toàn bộ tạng kinh.
Có thể khả chấp hơn nếu đặt tựa đề kinh là “Kinh Dasama” theo tên người thì phù hợp với nội dung tổng thể tạng kinh. Nhưng điều đó đã không xảy ra.
Chỉ còn lại tựa kinh theo pháp là phù hợp:
“Rồi gia chủ Dasama, …đến Tôn giả Ananda, …thưa với Tôn giả Ananda: Bạch Tôn giả Ananda, có pháp độc nhất gì do Thế Tôn, bậc Tri Giả, …tuyên bố, nếu có tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần sống hành trì pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy được giải thoát, hay các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, hay pháp an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt?”
Lần lượt ngài Ananda giảng các pháp độc nhất và cuối cùng bài kinh kết luận:
“…như người tìm một kho tàng cất dấu, trong một lúc tìm được mười một kho tàng cất dấu. Cũng vậy, bạch Tôn giả, con đi tìm một pháp môn bất tử mà được nghe một lần mười một pháp môn bất tử. Bạch Tôn giả, như ngôi nhà người ta có đến mười một cửa, khi ngôi nhà bị cháy, thì chỉ do một cửa người ta cũng có thể thoát ra một cách an toàn. Cũng vậy, bạch Tôn giả, chỉ với một cửa bất tử trong mười một cửa bất tử này, con có thể đạt được sự an toàn cho con”.
Tựa là kinh “8 Thành tựu”, mà kết lại có đến “11 Thành tựu”. Như thế kinh điển đức Phật dạy “Chớ có tin…” là hoàn toàn chính xác. Nếu không gặp Bậc Thiện hữu tri thức chỉ dạy thì muôn đời các thế hệ phật tử mù mịt trong đêm đen không biết lối nào ra. Ai là người đã làm những điều sai trái này? Chúng ta không cần truy nguyên, chỉ cần phân biệt đúng đắn đâu thiện pháp thì hành, đâu ác pháp thì tránh bỏ. Như vậy được là tâm thanh thản an lành chẳng có gì sợ hãi.
Liên quan đến bài Kinh Bát Thành này, chúng tôi đã có dịp ghi chép lời thưa hỏi và trả lời của đức Trưởng lão Thích Thông Lạc tại Tu Viện Chơn Như. Xin giới thiệu để quý vị cùng tham khảo. (Nội dung câu hỏi và trả lời này đã được ghi âm phát hành đĩa video).
Câu hỏi: “Kính thưa Thầy! Đức Phật dạy Kinh Bát Thành (kinh Trung Bộ thuộc Tạng Nikaya) và Thầy đã giảng rõ trong cuốn Những Lời Gốc Phật Dạy. Sau khi học hỏi và suy tư, chúng con có mấy lời thưa hỏi về bài kinh này như sau:
Kinh Bát Thành gồm có tám pháp độc nhất là Bốn Thánh Định (Sơ, Nhị, Tam, Tứ thiền) và Bốn Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả).
Học pháp của Phật, của Thầy, chúng con hiểu Từ, Bi, Hỷ, Xả là bốn trong ba mươi bảy (37) pháp trợ đạo của con đường Giới – Định – Tuệ. Khi tu tập ba mươi bảy pháp trợ đạo tròn đầy, đặc biệt là khi tu tập Tứ Niệm Xứ sung mãn thì Bảy Năng Lực Giác Chi xuất hiện và có đủ Bốn Thần Túc. Lúc này hành giả muốn nhập vào Bốn Thánh Định đều dễ như trở bàn tay, như lấy đồ trong túi.
Như vậy, với tri kiến phàm phu chúng con nghĩ rằng trong ba mươi bảy pháp này có pháp tu tập và pháp thành tựu.
1- Pháp tu tập gồm có hai mươi sáu (26) pháp là: Ngũ căn (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân); Ngũ lực (Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ); Tứ Chánh Cần; Tứ Bất Hoại Tịnh; Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Niệm Xứ.
2- Pháp thành tựu có mười một (11) pháp còn lại là: Bảy Năng Lực Giác Chi và Bốn Thần Túc.
Tương tự, chúng con nghĩ rằng trong các loại Định thì cũng có Định tu tập và Định thành tựu.
i- Định tu tập gồm có: Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Niệm Hơi Thở và Định Thư Giãn (Sáng Suốt).
ii- Định thành tựu là Bốn Thánh Định tức bốn Thiền hữu sắc gồm: Sơ, Nhị, Tam và Tứ thiền. (Bốn Thiền Vô Sắc là định của ngoại đạo nên chúng con không coi là thành tựu).
Thưa Thầy, chúng con là kẻ phàm phu hạ học, chúng con nghĩ chỉ có thể là bốn pháp độc nhất (Từ, Bi, Hỷ, Xả) của 26 pháp tu tập trong 37 pháp trợ đạo, nương theo bốn Định tu tập để bước theo con đường Giới – Định – Tuệ mới mong chứng đạt.
Còn bốn pháp độc nhất (Bốn thiền), chúng con thấy hành giả biết làm sao mà ôm một pháp này để đi tới được. Ví như một người muốn ôm một pháp độc nhất là Tam thiền hay Tứ thiền thì biết cách nào mà ôm. Hơn nữa, chưa tu tập để có Bốn Thần Túc thì chẳng bao giờ mơ đến Sơ thiền, sao lại dám mong ôm pháp Ba với Bốn thiền. Chính vậy mà suốt mấy ngàn năm nay, biêt bao nhiêu người đã học, đã tu mà chẳng có ai biết được tướng trạng của Sơ, Nhị, Tam, Tứ thiền ra sao. Bốn pháp độc nhất (Bốn thiền) đâu phải nói để mà chơi, để mọi người đắm mê trong vô vọng?
Những điều chúng con suy tư trên đây có sai lệch với giáo pháp không thưa Thầy? Vậy chúng con cúi mong tha thiêt cầu thỉnh Thầy mở mắt cho chúng con và các thế hệ mai sau được rõ, để cho chúng con và tất cả mọi người học pháp, hành theo pháp thì không còn mơ hồ về giáo pháp.
Thành kính biêt ơn Thầy!”
Trả lời: “Qua sự hiểu biết của mấy con về Ba Mươi Bảy (37) phẩm trợ đạo để tu tập như vậy thì quá đúng rồi. Hiểu biết được như vậy thì các con nên đi vào tu tập làm chủ sự sống chêt bằng cách nhập Tứ Thánh Định, bởi chỉ khi nào nhập được Tứ Thánh Định thì mới có đủ sức làm chủ sự sống chết.
Nhưng muốn nhập được Tứ Thánh Định thì chỉ có thân cận thiện hữu tri thức chứ không nên tự ý mà tu riêng một mình mình, hay tự động theo kinh sách mà tu được, vì kinh nghiệm thực tu nó khác, kiến giải của kinh sách nó khác.
Mấy con đọc kinh sách, mà kinh sách thì người hiểu thế này, người lại hiểu thế khác chứ đâu có phải người nào cũng hiểu giống nhau được đâu, cho nên đó chỉ là kiến giải.
Vì vậy, chỉ có người tu chứng đạo rồi thì người ta giải thích mới đúng ý nghĩa để cho chúng ta thực hiện được, chứ còn không thì mấy con sẽ lạc qua kiến giải, tưởng giải của người khác, thì đó là lạc đường. Bởi vì một câu nói trong kinh mà người hiểu vầy, người hiểu khác chứ không phải giống nhau. Cho nên rất là khó khăn chứ không phải dễ.
Vậy thì, theo như lời thưa hỏi trên đây của mấy con là rất đúng.
Khi muốn tu thì chúng ta phải gần gũi thiện hữu tri thức là điều cần thiết. Như mấy con cũng thấy rằng đức Phật thường khuyên dạy chúng ta nên thân cận thiện hữu tri thức. Không có thiện hữu tri thức hướng dẫn thì khó mà tu tập thành công được.
Trưởng lão Thích Thông Lạc”.
Trao đổi về vấn đề kinh Bát Thành mà đạo hữu Hung Phuong nêu ra, chúng tôi có lời đáp như trên. Mong đạo hữu Hung Phuong, quý độc giả và phật tử cùng có ý kiến thêm để làm sáng tỏ.
Theo chúng tôi nghĩ lời dạy của Trưởng lão về Kinh Bát Thành trong cuốn “Những Lời Gốc Phật Dạy” tập I là rất rõ ràng và đầy đủ.
Kính chúc quý vị mãi giữ vững niềm tin chánh pháp.
BBT/GNCN