Skip directly to content

114-TRẢ LỜI CÂU HỎI VỀ TU TẬP (5). TL Thích Thông Lạc

22- Các đối tượng

Hỏi: Kính thưa Thầy, hằng ngày đối tượng thường xảy đến với chúng con: Vu oan, nói xấu chê mình.

             1- Phải xả tâm gì?
             2- Tác ý thế nào để xả không còn trong tâm?

Đáp: Phải xả tâm sân. Muốn xả tâm sân bình thường hằng ngày phải dùng câu tác ý: Tham, sân, si là ác pháp, làm cho ta khổ đau, tâm phải xa lìa, phải từ bỏ, phải đoạn trừ.

Khi đang sân hận thì ta nên uống một ly nước, ngồi trên ghế trong tư thế nào cũng được và cố gắng phòng hộ mắt, tai bằng cách tập trung tâm vào hơi thở và hướng tâm; “Tai phải nghe hơi thở ra, vô cho rõ ràng, không được nghe bên ngoài.

Khi hướng tâm xong thì đếm hơi thở 1, 2, 3, 4, 5 rồi nhắc lại câu pháp hướng, cứ tập tu như vậy khi nào tâm tập trung vào được hơi thở thì mới thôi hướng vì lúc bấy giờ tâm đã nhẫn được rồi.

Sau khi nhẫn được, mọi sự đều được trở lại bình thường thì lúc bấy giờ ta quán xét để sự việc vừa xảy ra thấu suốt, đó là ta đã quét sạch sự sân hận trong ta.

23- Xả tâm trạo hối

Hỏi: Thưa Thầy, mình phạm lỗi bị người chỉ trích, mắng chửi không tiếc lời, có người góp ý nhẹ nhàng để sửa đổi. Vậy phải:

              1- Xả tâm gì?
              2- Tác ý thế nào để xả?

Đáp: Mình làm lỗi bị người khác mắng chửi mạ nhục thì nên xả tâm trạo hối. Muốn xả tâm trạo hối thì phải quán xét tư duy sự lỗi lầm của mình.

             1- Khi quán xét sự lỗi lầm đó ta rút ra những kinh nghiệm không để sau này còn phạm lỗi nữa.
             2- Ta tư duy sự lỗi lầm này đáng để cho người khác chỉ trích mắng chửi thậm tệ để lấy đó răn nhắc mình, người chỉ trích mắng chửi ta là người làm ơn giúp ta nhớ mãi không quên để sửa lại những lỗi lầm của mình.
             3- Hằng ngày hướng tâm: “Ta phải sống, sống đúng đạo đức làm người không làm khổ mình khổ người.

24- Xả ngã chấp

Hỏi: Thưa Thầy, người khen mình, tán dương chuyện tốt có thật. Vậy:

             1- Trước pháp này xả tâm gì?
             2- Tác ý thế nào để không dính mắc trong tâm?

Đáp: Khi được khen tặng ta nên xả tâm chấp ngã. Muốn xả tâm chấp ngã, hằng ngày trong những giờ tu Định Niệm Hơi Thở hoặc đi kinh hành tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định ta nên hướng tâm:

Thân ngũ uẩn này không phải là ta, không phải của ta, không phải bản ngã của ta. Khi thân ngũ uẩn này chết rồi còn cái gì là ta nữa, khen chê mừng vui đâu còn có nghĩa lý gì với một người đã chết.

25- Xả Thân thọ

Hỏi: Thưa Thầy, thân có bệnh: bị cảm, bị thương, bị đau nhức trong xương trong thịt.

             1- Lúc này xả tâm gì?
             2- Tác ý để xả.

Đáp: Thân có bệnh, bị cảm hoặc bị thương thì phải xả thân thọ. Xả thân thọ bằng pháp hướng tâm. Ví dụ: Ta bị cảm nhức đầu, ta liền ra lệnh: “Đừng có nhức đầu nữa, hãy bình thường trở lại”.

Khi hướng tâm xong ta đừng nghĩ đến nhức đầu nữa thì lúc bây giờ phải tập trung vào hơi thở, nếu không có khả năng tập trung tâm vào hơi thở thì tìm một công việc gì làm, làm trong say mê thì nhức đầu sẽ hết liền.

Còn nếu tập trung tâm vào cái đau thì sẽ cảm thấy đau dữ dội. Đây là người mới tu tập pháp hướng tâm, còn người tu tập lâu về pháp hướng tâm thì sẽ có năng lực, chỉ cần hướng tâm là trạng thái thọ khổ sẽ lần lượt biến mất mà tâm khỏi tập trung vào đâu cả.

Tất cả những bệnh tật khác của thân đều phải trạch pháp đúng bệnh trạng thì sẽ hướng tâm đúng bệnh của nó thì nó chóng lành, không còn đau nữa.

26- Xả Tâm thọ

Hỏi: Tâm bệnh: khi gia đình hoặc thân bằng quyến thuộc gặp phải tai nạn buồn khổ, chết chóc, nhớ thương, mất của cải tài sản, trước những biến cố này ta xả tâm gì? Tác ý như thế nào để xả?

Đáp: Thuộc về tâm bệnh ta nên xả tâm thọ.

Pháp hướng tâm để xả tâm thọ: “Thọ là vô thường, là vô ngã, ta không nên dao động trước các cảm thọ của tâm.

Những câu pháp hướng dùng để xả tâm thọ:

Tâm thương nhớ buồn phiền là ác pháp phải chấm dứt ngay liền.” “Tai nạn khổ đau là do nhân quả ác. Ta chẳng hề sợ hãi và dao động tâm, phải vui vẻ, thanh thản và an lạc để trả cho xong món nợ nhân quả.

Sự chết chóc là định luật hoại diệt của nhân quả, không ai tránh khỏi. Sao ta lại buồn thương đau khổ là điều sai, là vô minh, là ngu si.

Tài sản vật chất do ta làm ra chứ không phải vật chất tài sản làm ra ta. Vậy tài sản vật chất có mất mà ta buồn khổ là không đúng, là ngu si, là vô minh, ta hãy bình thường, an lạc và vô sự xem như không có.

27- Pháp môn dẫn tâm

Hỏi: Kính bạch Thầy, pháp Hướng Tâm Như Lý Tác Ý có lợi ích như thế nào? Xin Thầy giảng rõ cho chúng con được hiểu.

Đáp: Pháp Hướng Tâm có hai phần lợi ích và hiệu quả rất lớn cho những người tu tập theo đạo Phật:

              1- Giúp trí tuệ bén nhạy nhanh trước các pháp ác.
              2- Giúp cho tâm tạo ra một năng lực siêu việt không thể nghĩ  lường.
              3- Pháp hướng tâm là phương cách dẫn thân tâm vào chỗ giải thoát. Ví như: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra,” hoặc “an tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay ra,” hoặc “an tịnh tâm hành tôi biết tôi đưa tay vô.
              4- Pháp hướng tâm còn gọi là pháp huấn luyện tâm.

Như lời đức Phật đã dạy trong kinh và đã xác quyết pháp môn dẫn tâm là một bí quyết giúp chúng ta ly tham đoạn diệt mà không có pháp nào khác hơn: “Ta không thấy pháp nào khác” có nghĩa không còn pháp nào khác hơn là pháp “Như Lý Tác Ý.”

Để minh chứng lời dạy này, chúng tôi xin trích ra một vài đoạn kinh trong kinh Tăng Chi Bộ:

Ta không thấy một pháp nào, này các thầy tỳ-kheo, đưa đến sân chưa sanh được sanh khởi và sân đã sanh được tăng trưởng rộng lớn, này các tỳ-kheo, đó là đối ngại tướng trong tâm.

Này các thầy tỳ-kheo, đối ngại tướng trong tâm, nếu không Như lý tác ý sẽ đưa đến sân chưa sanh được sanh khởi và sân đã sanh được tăng trưởng rộng lớn.

Ở đây đức Phật đã xác định có tính cách quả quyết và nhất định một cách hùng hồn chỉ có pháp Như Lý Tác Ý làm sân đoạn diệt, nếu không có pháp Như Lý Tác Ý, thì không có pháp nào đoạn diệt được tâm sân.

Nếu muốn trừ tâm nghi mà ta không dùng pháp Như Lý Tác Ý thì sẽ không còn pháp nào diệt trừ tâm nghi được. Nên đức Phật dạy:

Ta không thấy pháp nào khác, này các thầy tỳ-kheo, đưa đến nghi hoặc chưa sanh được sanh khởi và nghi hoặc đã sanh được tăng trưởng rộng lớn, này các thầy tỳ-kheo, nếu không Như lý tác ý. Do không Như lý tác ý, này các thầy tỳ-kheo, nghi hoặc chưa sanh được sanh khởi và nghi hoặc đã sanh được tăng trưởng rộng lớn.   

Tâm tham dục cũng vậy, nếu không có pháp dẫn tâm vào Đạo thì khó mà ly tham đoạn dục. Nếu không có pháp dẫn tâm vào Đạo thì khó mà thành tựu được Đạo giải thoát. Nếu không có pháp dẫn tâm vào Đạo thì khó mà thành tựu Thiền định. Nếu không có pháp dẫn tâm vào Đạo thì khó mà thực hiện được Tam Minh.

Bởi, thấy người tu Thiền định hiện giờ mà không có pháp dẫn tâm vào Đạo thì biết họ tu tà Thiền, tà định không thể có quả giải thoát được. Do thế, ta mới biết được pháp môn Như Lý Tác Ý là một pháp môn có lợi ích rất lớn trên bước đường tu tập, nếu không có pháp môn này, con đường tu tập chỉ hoài công vô ích mà thôi.

Đối với những người muốn thực hiện lòng từ, bi, hỷ, xả mà không có pháp Như Lý Tác Ý thì lòng từ, bi, hỷ, xả cũng không bao giờ có được. Để minh chứng điều này Đức Phật đã dạy trong Kinh Tăng Chi Bộ:

Này các thầy tỳ-kheo, như từ tâm giải thoát chưa sanh không sanh khởi và từ tâm không đi đến tu tập viên mãn, này các tỳ-kheo, nếu không Như lý tác ý. Nếu Như lý tác ý, thời từ tâm chưa sanh được sanh khởi và từ tâm sẽ được tu tập viên mãn.

Để minh chứng, một đoạn kinh đức Phật đã dạy trong Kinh Tăng Chi Bộ trang 31:

Ta không thấy một pháp nào khác, này các thầy tỳ-kheo, do pháp ấy các giác chi chưa sanh không sanh khởi, và các giác chi chưa sanh không đi đến tu tập viên mãn, này các tỳ-kheo, nếu không Như lý tác ý. Do không Như lý tác ý, này các thầy tỳ-kheo, các giác chi chưa sanh không được sanh khởi, và các giác chi không đi đến tu tập viên mãn.

Qua những lời dạy của đức Phật trên đây, quý thầy và quý phật tử đã thấy rõ giá trị của pháp Như Lý Tác Ý là một pháp môn có tầm cỡ vĩ đại cho đường tu tập của quý vị. Nếu không có pháp môn này thì không bao giờ quý vị ly tham đoạn diệt được tâm tham ưu của quý vị.

Nếu không có pháp môn này thì giới luật của quý vị không thể sống nghiêm chỉnh được. Nếu không có pháp môn này thì Thiền định quý vị không thể nhập được và nếu không có pháp môn này thì Tam Minh chỉ là một danh từ suông, một ảo mộng thần thông của loài người.

Tóm lại, không có pháp Như Lý Tác Ý thì con đường tu tập của đạo Phật chỉ là một giấc mộng mà thôi.

28- Đắm nhiễm, khó tiêu, tán loạn

Hỏi: Kính thưa Thầy, xin Thầy giảng rõ cho con hiểu: “Đắm nhiễm, khó tiêu, tâm thường sanh tán loạn” như thế nào?

Đáp: Đắm nhiễm, khó tiêu, tán loạn là những động từ kép.

              - Đắm nhiễm: có nghĩa là dính mãi, không bỏ được, thành thói quen, nghiện ngập, nghiệp lực.
              - Khó tiêu: có nghĩa là không dứt bỏ được, không xa lìa được, không tiêu hóa được.
              - Tán loạn: có nghĩa là tâm thường khởi niệm tưởng chuyện này đến chuyện khác không dứt, gọi là vọng tưởng lăng xăng.

"Đắm nhiễm khó tiêu tâm thường sanh tán loạn" nghĩa là: tâm dính mắc thành thói quen không bỏ được nên sinh ra nghĩ ngợi lung tung chuyện này đến chuyện khác. Tùy miên trong mỗi niệm tâm khởi ham thích chạy theo vật chất thế gian như: tiền tài, danh lợi, sắc đẹp, ăn ngủ phi thời khiến cho người tu sĩ ham mê chùa to Phật lớn trở thành những người phóng dật, chứ không còn là người tu sĩ giải thoát. Bởi, trước khi đắm nhiễm thì phải có phóng tâm, phóng tâm mà không kịp thời xả bỏ, đoạn diệt tâm niệm ấy thì bắt đầu tâm phóng dật, tâm phóng dật mà không đoạn dứt thì tâm đắm nhiễm.

Đức Phật dạy: “Đứng về phương diện nội phần, này các tỳ-kheo, Ta không thấy một phần nào khác bất lợi như vậy, này các thầy tỳ-kheo, như phóng dật. Phóng dật đưa đến bất lợi lớn.” (Tăng Chi Bộ Kinh Tập1, trang 36) .

Khởi đầu bằng sự phóng tâm, nếu chúng ta thiếu sự phòng hộ và bảo vệ sáu căn thì không có người nào là không có sự phóng tâm. Cho nên người mới bắt đầu tu hành là phải lấy giới luật phòng hộ sáu căn, tức là phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình. Nhất là pháp “Độc Cư” dùng để phòng hộ sáu căn không cho tiếp xúc sáu trần thì ít phóng tâm và dần dần sẽ không còn phóng tâm nữa. Không còn phóng tâm nữa thì đó là tâm đã ly dục ly ác pháp.  

Nếu không phòng hộ sáu căn thì tâm thường phóng tâm. Tâm thường phóng tâm mà không ngăn ngừa thì tâm phóng dật. Tâm phóng dật mà không đoạn diệt thì tâm đắm nhiễm, tâm đã đắm nhiễm thì khó mà đoạn trừ. Nếu đoạn trừ không được thì tâm sanh ra tán loạn, tâm sanh ra tán loạn là tâm bất an. Tâm bất an thì tham, sân, si, mạn, nghi, đầy đủ và thất kiết sử khó bứt được, giống như con cá đã mắc lưới, mắc câu thì chỉ còn chờ chết mà thôi.

Người tu hành mà còn đắm nhiễm, khó tiêu và tán loạn là người không thể nào sống độc cư được, họ thích nói chuyện, họ thích tranh luận, họ thích đi chơi, không bao giờ ở yên một chỗ.

Chúng ta không tu theo đạo Phật thì thôi, mà đã tu theo đạo Phật thì phải tu cho đúng pháp của Phật. Trước tiên, chúng ta phải lấy giới luật để phòng hộ giữ tâm mình, tức là chúng ta phải sống cho đúng Phạm hạnh. Sống không đúng Phạm hạnh thì tâm hay khởi niệm tức là phóng tâm.

Nếu không có pháp ngăn giữ phóng tâm mà lấy giới luật ngăn ngừa và phòng hộ tâm sẽ trở thành pháp môn ức chế tâm. Người tu sĩ chỉ biết có giới luật mà tu tập theo đạo Phật thì người tu sĩ ấy chấp giới, tức là lấy giới ức chế tâm. Và như vậy vô tình, người tu sĩ lấy giới ức chế tâm sẽ biến dạng giới luật, từ đó lý luận thêm thắt trong giới luật để tránh né phạm giới.

Do đó, kinh sách hiện giờ lệch lạc ý giới luật và ý kinh của Phật. Kinh sách Đại Thừa và Nguyên Thủy có nhiều điểm rất sai khác nhau mà các Tổ đã làm lệch lạc.

Cũng như các nhà sư Nam Tông hiện giờ, họ soạn viết ra một tập sách lấy tên là “Vấn Đề Ẩm Thực Trong Phật Giáo” của Jan Sanjivaputta viết và tỳ-kheo Thiện Minh dịch ra Việt ngữ. Theo lý luận của họ giống như con cọp lý luận ăn thịt người để nuốt cho trôi. Còn lý luận theo các nhà Đại Thừa thì cũng giống như con bò lý luận để ăn cỏ cho đỡ nghẹn.

Do đó khiến cho người sau tu hành phá giới, bẻ vụn giới và còn tạo thêm tội lỗi lén lút phá giới. Và chính như vậy là người tu sĩ chỉ còn có hình tướng tu hành, ngoài khéo che, khéo đậy trong sự đắm nhiễm của mình. Và đã bị đắm nhiễm như vậy thì xả bỏ rất khó như đã nói ở trên.

Một tu sĩ mà phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới là tu sĩ đã sống tà mạng, không còn là một tu sĩ chân chánh, những tu sĩ này là “những con sâu làm rầu nồi canh.” Bởi, những tu sĩ này đã làm cho những tu sĩ chân chánh xấu hổ.

Hiện giờ có nhiều người muốn theo đạo Phật tìm tu giải thoát, nhưng nhìn vào giới tu sĩ phá giới, phạm giới đang đắm nhiễm vật chất thế gian, đang sống trong chùa to Phật lớn có đầy đủ tiện nghi như những người giàu sang thì họ chẳng dám bước chân vào cổng chùa. Nếu có người đã mạnh dạn bước vào chùa thì lại càng thấy rõ ràng hơn và cuối cùng tâm dù muốn tu hành mà chẳng biết nơi đâu để mình tìm tu giải thoát.

Nhìn chung các tôn giáo không riêng gì Phật giáo, phần đông mọi tu sĩ đều đắm nhiễm. Sự làm thiện của những tu sĩ này đối với những người khác là sự cám dỗ người khác để theo tôn giáo mình, hoặc gây ảnh hưởng chánh trị với các nhà lãnh đạo quốc gia chứ không phải với tâm thiện thật lòng.

Họ làm thiện để được sanh lên Cực Lạc, Thiên Đường, chứ không phải làm thiện vì thương người bất hạnh. Họ làm thiện để danh hạnh phúc về sau cho họ. Họ làm thiện để được sự khen tặng là nhà từ thiện. Bởi, làm thiện như vậy là làm thiện đắm nhiễm. Có nhiều nhà từ thiện mà tai nạn xảy đến họ bảo rằng chúng tôi làm thiện mà sao không được phước.

Làm thiện để cầu danh, cầu lợi; làm thiện để được tiếng khen; làm thiện để móc nối làm ăn bất lương; làm thiện như vậy thì làm sao có phước được; làm thiện đó là làm thiện đắm nhiễm.

Chúng ta là những tu sĩ Phật giáo phải cố gắng tránh sự đắm nhiễm. Một người nghiện thuốc lá, rượu, cà phê, thuốc phiện v.v… là những người đắm nhiễm.

Một tu sĩ Phật giáo mà cầm một điếu thuốc lá, uống một ly bia hay uống một tách cà phê, chén trà đậm đặc là những tu sĩ đắm nhiễm. Những người tu sĩ đắm nhiễm này là những loài trùng bọ trong lông sư tử, họ chỉ còn biết lý luận để che đậy sự đắm nhiễm của mình bằng những danh từ rất tuyệt mỹ: “Trà đạo, rượu nghĩa.”

Một người bài bạc, đĩ thõa điếm đàng là những người đắm nhiễm, những người này được xem là những người đồi trụy xấu xa của xã hội. Vì đắm nhiễm, những người này sanh ra trộm cắp, giết người, cướp của, làm cho cuộc sống của mọi người bất an, xã hội rối loạn trật tự.

Người ta nói đến tình dục, tức là nói đến sự đắm nhiễm của nhục dục. Một người nam và một người nữ gần nhau sanh ra tình dục, tình dục là sự đắm nhiễm rất khó bỏ cũng ví như thuốc lá, cà phê, rượu, thuốc phiện v.v…

Tình dục là một sự khổ tuyệt cùng theo sau đó, nhất là người phụ nữ phải chịu bao nhiêu nỗi cay đắng, đau khổ của tình dục, gần như suốt đời của họ. Tục ngữ có câu: “Đàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển mồ côi một mình.

Đúng vậy, sau khi tình dục, bao nhiêu sự khổ đau đều đổ lên đầu của người đàn bà. Người ta bảo rằng không có sự đau khổ nào bằng sự đau bụng đẻ, thế mà người ta đắm nhiễm tình dục, người ta không thể bỏ được. Dù biết sự khổ như cắt da cắt thịt, gần như chết đi sống lại nhưng người ta vẫn không bỏ được tình dục, đó là sự đau khổ về thể xác chứ không phải hạnh phúc gì cả.

Khi sanh con ra họ còn tiếp tục chịu nhiều lao khổ; phải nuôi con cho lớn khôn; phải chịu hôi, chịu thối sự bài tiết của con; phải chịu cực nhọc khi con đau ốm; phải chịu nhọc nhằn nuôi con cho nên người, và còn biết bao nhiêu sự khổ khác nữa cho đến khi họ đi vào lòng đất.

Tình dục là khổ như vậy, nhưng khi đã đắm nhiễm nó thì hầu hết không có ai bỏ được. Nam nữ gặp nhau là ham thích liền. Biết tình dục là khổ mà vẫn chịu đi vào chỗ khổ đó, thật là điên đảo, ngu si.

Bởi vậy, người ta ca ngợi con người là một động vật thông minh, nhưng sự thật con người không thông minh mà con người là một động vật điên đảo, vô minh tự tạo ra cho mình biết bao nhiêu sự đau khổ để rồi phải gánh chịu sự khổ đau ấy từ kiếp này đến kiếp khác cũng chỉ vì sự đắm nhiễm. Cho nên lời Phật dạy: “Đắm nhiễm, khó tiêu, tán loạn” là vậy.

Bởi thế, người tu sĩ cũng như mọi người ở đời cần phải cảnh giác, đừng để thân tâm đắm nhiễm. Dù bất cứ một vật chất gì, nhỏ mọn đến đâu trong thế gian này thì chúng ta nên xem nó là một đối tượng khổ, do cảnh giác như vậy thì thân tâm mới được an lạc và hạnh phúc.