004-MỤC ĐÍCH TU HÀNH CỦA TU VIỆN CHƠN NHƯ - TL.Thích Thông Lạc
Hôm nay có một nhân duyên do hai bức thơ hỏi Thầy về sự tu chứng và chứng đạo lục thông. Vậy trước khi nói chuyện với quý thầy về hai bức thơ này, Thầy cùng với quý thầy niệm hồng danh đức Phật: “ Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”. (3 lần). Do duyên này Thầy sẽ nói rõ mục đích tu hành của Tu viện Chơn Như để quý thầy hiểu rõ hơn. Này quý thầy! Bây giờ quý thầy hãy lắng nghe cho kỹ để nhận rõ mục đích tu hành của chúng ta. Và cũng nhân dịp này Thầy khuyên quý thầy cần nên suy ngẫm lại mục đích tu hành ở đây có phù hợp với nguyện vọng thiết tha ao ước và điều mong cầu của quý thầy hay không. Nếu mục đích tu hành ở đây không đúng và không phù hợp với sự mong cầu và nguyện vọng của quý thầy thì quý thầy đừng nên theo tu hành, mà hãy chọn những pháp môn nào đúng nguyện vọng của mình thì thực hiện không phí thời giờ vô ích, không uổng cuộc đời tu hành của mình. Vả lại quý thầy đã bỏ cuộc đời để đi tìm đường giải thoát, đi tìm chân lý cứu cánh cho mình mà lại tu sai nguyện vọng thì làm sao tu hành được. Nếu có một người hỏi quý thầy: Thưa quý thầy, quý thầy tu hành để làm gì? Nếu quý thầy không rõ mục đích tu hành thì không thể nào trả lời được câu hỏi này. Và nếu quý thầy có trả lời chăng, cũng chỉ trả lời loanh quanh, mơ hồ, không đúng mục đích tu hành và nguyện vọng của mình. Thường con người hay chịu ảnh hưởng của các xu hướng khi nghe đồn đại huyền thoại, thần thánh hóa một bậc Minh Sư nào đó rồi tin bừa, tin đại, không chịu suy xét cho kỹ trước sau. Chỉ nông nổi vội vàng chấp nhận rồi nhắm mắt đưa cuộc đời vào tu hành, để đến khi vỡ lẽ không đúng với nguyện vọng thiết tha của mình và không thực hành được những gì mình mơ ước thì lúc bấy giờ mất hết niềm tin, bỏ cuộc tu hành, thối chuyển đạo tâm rồi đâm ra vô vọng như người mất phao. Hôm nay đã đúng lúc để được nghe Thầy trả lời chung cho tất cả mọi người muốn hướng về đây tu hành với Thầy. Vậy trước khi nghe Thầy trả lời riêng cho hai người cư sĩ này đã có thơ thưa hỏi, nhưng Thầy cũng sẽ trả lời chung cho tất cả quý thầy, quý Phật tử đang hướng về đạo Phật. Trước tiên quý thầy được nghe hai bức thơ của hai người cư sĩ đã gửi đến hỏi Thầy. Đây là bức thơ thứ nhất, Thầy sẽ đọc cho quý thầy cùng nghe: “Qui Nhơn ngày 23 tháng 11 năm 1992. Kính gửi thiền sư Thông Lạc, Được nghe biết về Thầy, con rất mừng. Con rất muốn về mảnh đất Tây Ninh để trực tiếp bái kiến Ngài, nhưng vì những lý do thuộc về tài chính, điều kiện thời gian không khắc phục được nên con đành viết thơ. Song vẫn hy vọng có một ngày nào đó con sẽ được ở cạnh Thầy. Thưa Thầy, quả rằng Thầy đã đáo đạt chân lý rồi chăng? Thầy cũng đã có luôn cả lục thông nữa. Con muốn được biết rõ sự thật này của Thầy để quyết chắc được rằng có giải thoát, không như Phật Thích Ca giới thiệu. Mọi lý thuyết đều có thể có được và đạt được, song thực hiện lý thuyết đó lại là một việc khác hẳn. Con đang là một cái thư viện đầy sách và đóng cửa, chả ích lợi chi hết cho chính con và người khác. Con chỉ mong gặp Minh Sư chân thật. Con cứ tin rằng có thật Như Lai là có Minh Sư. Kể cả Phật Thích Ca, con nghĩ Ngài chỉ là nhân vật của huyễn sử được mọi người thần thoại hóa thân, hóa thiên. Bạch Thầy! Thầy nghĩ biết gì về chúa Jésu? Chúa Jésu có phải là Tánh Không, là Hiện Hữu Nhiệm Màu, là Chơn Như, là Chân Lý Giải Thoát? Kính mong Thầy bỏ ít thời giờ hồi đáp thơ cho con. Hay nếu Thầy có dịp tiện và là con có nhân duyên với Thầy, con được gặp Minh Sư để đạt đích cuộc đời thì mong Thầy ghé về Qui Nhơn để con được cầu hỏi và hưởng từ phúc của Thầy phát tác bao trùm lấy con. Kính chào Thầy. Con: Nhơn”. Và đây là bức thơ thứ hai, Thầy sẽ đọc để quý thầy nghe bức thơ này: “Qui Nhơn ngày 01 tháng 01 năm 1993. Ơi Thầy Thông Lạc ơi, Thầy đã gần 70 tuổi rồi phải không? Con xin phép được xưng con là phải. Thầy là thiền sư chân chánh và đã đạt đạo rồi ư? Có thể có một người như thế thật sao? Có thể có chân lý thật để đạt ư hở Thầy? Thầy ơi, chân lý của Thầy nhận ra là gì đó? Thầy có thể chia sẻ cùng con chăng? Liệu Thầy có phải cũng mơ theo một cách riêng của Thầy như con đã từng biết, từng thấy hàng trăm giấc mơ độc đáo đủ dạng, đủ loại? Thầy ơi, Thầy có lục thông đúng nghĩa thực sự chứ không phải nghĩa bóng theo kiểu phải hiểu như trí tuệ Bát Nhã Ba-la-mật chứ? Hay là chỉ những lời đan dệt của một số đệ tử hâm mộ Thầy? Con cứ mê mải mệt nhoài trong cả đống các kết luận, mà mỗi kết luận là một chân lý của một giáo phái. Các chân lý đều bất toàn và phi lý ở một góc độ nhất định. Con có những chứng minh cụ thể không thể chối cãi nổi. Con đã từng tự thuyết phục và an ủi mình chịu du di cho một chân lý khả dĩ dễ ưa nhất, có lợi lạc cho mọi người và cho mình nhất, song lại không thể chịu được. Chúa Jésu con cũng đã từng kinh nghiệm Ngài. Thú vị, hay lắm, song con lại có những chứng minh khác cụ thể, rõ ràng để phủ nhận Ngài. Còn kinh Lăng Nghiêm, Viên Giác của đức Thích Ca Mâu Ni, con cũng có kinh nghiệm của khoảng 2/3 các cung bậc trong đó, kể cả ma và từng lớp chứng đạo. Và với sách tâm thần hiện đại con cũng là bệnh nhân chính cống. Thầy ơi! Thầy Lê Ngọc An ơi! Hiện giờ có một vị Minh Sư mà con cũng chưa đủ điều kiện để nhận ra Minh Sư hay là Tiên Tri giả, Giáo Sư giả, Ma vương diệu nữa. Đó là Vô Thượng Sư Thanh Hải bên trời Tây kia, thuyết pháp hay tuyệt vời, lại rất hợp với hầu hết các kiến giải của con về đạo. Song còn một ít dị biệt khác khiến con băn khoăn và nghi ngại nên chưa quyết định nên theo để được truyền tâm ấn hay không. Vì tâm ấn theo kiểu Phật truyền cho ngài Ca Diếp hay Huệ Năng truyền cho Châu đệ tử ngày xưa, về bản chất khác 1800. Hay bây giờ là lúc gần tận diệt nên mở rộng cửa và thu hồi đại trà? Con cũng chưa biết rõ Thầy, song Thầy có vẻ kín nhiệm, chẳng chịu xưng là Phật. Giống kinh Lăng Nghiêm Phật Thích Ca có dạy là đấng A-la-hán, Bồ-tát chỉ khi tịch diệt mới tạo để lộ tung tích. Với lại con được biết Thầy qua một người mà đối với con không phải xoàng về độ pháp trị tinh thần, tâm linh. Song anh ta vẫn còn mơ. Con cũng tin đại Thầy trước. Con xin hỏi Thầy những điều này. Ôi thật tội nghiệp cho con! Thầy là ai? Đã đến đâu? Là người thứ thiệt hay cũng thông thường như lắm kẻ mà con đã từng nghe ca tụng, và rồi con cũng đã từng tìm cách tiếp xúc để rồi thất vọng. Ôi! Phật khi xưa nói rõ ràng: “Ta là Phật đã thành, là đấng không đến không đi, là người giác ngộ hoàn toàn, đã giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, đã luôn được thường, lạc, ngã, tịnh”. Hiện Phật cũng có phải là người đang mơ còn mơ không? Và nếu vậy thì không cần nói Thầy cũng là một đệ tử mơ của Phật, một đệ tử xuất sắc. Xin Thầy cũng cứu vài dòng cho con, cọng rơm đang bị trôi trong nước lũ. Rất mong thơ Thầy. Thôi thì Thầy cứ giải lao là trò chuyện với cô phụ nữ tâm thần này vậy. Kính chào Thầy. Con: Nguyên Trí”. Quý thầy đã nghe xong hai bức thơ của hai cư sĩ. Đến đây quý thầy sẽ được tiếp tục nghe bức thơ trả lời của Thầy. Nội dung bức thơ trả lời của Thầy, quý thầy phải lắng nghe cho kỹ từng ý, từng lời văn. Nếu không sẽ không hiểu gì hết, chỉ hiểu chung chung thì chẳng ích lợi gì cho quý thầy. Đây là nội dung bức thơ, quý thầy hãy lắng nghe: Ngày 04 tháng 02 năm 1993. Kính gửi hai cư sĩ Nguyên Trí và Nhơn. Hai cư sĩ đã thành thật kể lại nội tâm bi quan của mình trên đường tìm chân lý vô vọng. Hiện giờ phải nói mọi người đã và đang tìm chân lý trong Phật giáo cũng như trong các tôn giáo khác đều mang một tâm niệm như hai cư sĩ nếu họ không tìm danh lợi trọng đó. Này hai cư sĩ, khi hai cư sĩ chưa gặp một người có kinh nghiệm sống thật trong đạo Phật hướng dẫn mà vội vàng đánh giá đức Phật thì tôi e rằng quý vị quá nông nổi. Quý vị dựa vào một đống kinh sách khổng lồ của Phật giáo hiện nay mà cho đó là con đường cứu cánh của đạo Phật, rồi ra công tìm kiếm ở trong đó không được, quý vị đâm ra hoang mang dao động, mất hướng rồi sinh tâm nghi ngờ, phỉ báng Phật pháp. Điều này rất là tội lỗi. Này quý vị, đống kinh sách đó toàn những thứ ô hợp, chỉ gạt được những kẻ mù mắt, những kẻ đầy tham vọng, khát chân lý mà thôi. Này hai cư sĩ, “đạo Phật thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy”. Thật vậy, ai sống đúng đời sống của đức Phật, người ấy sẽ thấy giải thoát ngay trong hiện tại, chẳng cần phải đi tìm đâu xa, chẳng cần phải nhiều thời giờ nghiên cứu học hỏi. Xưa Phật không để lại một cuốn kinh nào, chỉ nói những gì Ngài sống, Ngài biết, không có quảng cáo, không có viết lách kinh sách như thời đại chúng ta, không có nghĩa thời đại đức Phật chưa có chữ viết - bằng chứng là có các bộ kinh Vệ Đà – chỉ vì Ngài không hiếu danh. Này hai cư sĩ. Đạo Phật hôm nay không còn nữa. Đạo Phật ngày nay chỉ là một thứ tôn giáo do các thời đại, do hai giai cấp của con người đẻ ra. 1- Giai cấp trí thức đã biến Phật giáo thành một thứ triết lý cao siêu màu nhiệm tuyệt đỉnh để thỏa mãn nhu cầu ảo tưởng của họ, và họ cũng biến Phật giáo thành một khoa tâm lý học tinh vi. 2- Giai cấp bình dân biến Phật giáo thành thần giáo để phục vụ đời sống của họ. Gần đây, khắp trên thế giới, con người biến Phật giáo thành một cơ quan từ thiện để phục vụ xã hội gọi là Bồ-tát hạnh. Vì thế hai cư sĩ tìm chân lý trong đống kinh sách ảo tưởng nên bảo sao chẳng thành mộng tưởng được. Tìm Phật giáo trong đống kinh sách của hai giai cấp này nên bảo sao chẳng vô vọng. Những điều đã dạy tu hành trong kinh sách từ nhiều thế kỷ nay, cho đến hôm nay vẫn chưa có ai thực hiện được quả A-la-hán. Chỉ chứng được những định tưởng thuộc về tà giáo ngoại đạo, không làm chủ được thân tâm, không làm chủ được tâm tham, sân, si và chấm dứt tái sanh luân hồi. Chỉ thể hiện những điều kỳ đặc, những thần thông gạt người, mê hoặc người để cầu danh cầu lợi. Bởi họ viết ra bằng những tưởng giải do tâm háo danh của họ. Họ viết ra, chính họ thực hành cũng chẳng được. Họ viết ra có rất nhiều điều phi lý nhưng khéo lý luận che đậy khiến con người không thể hiểu được. Họ viết ra tưởng chừng con người là cây đá, thế mà mọi người đều tin đó là của Phật. Họ viết ra như những nhà giải phẫu, phân tích con người manh mún từng mảnh nhỏ. Để làm gì? Để làm một trò chơi gút bắt tâm, để lý luận cho vui tai chứ không ích lợi gì cho con người cả. Họ viết ra những điều úp úp, mở mở để khiến cho con người tò mò tưởng chừng như trong đó có những điều kỳ đặc màu nhiệm, để rồi toàn là một thứ lý giải suông. Đã trải qua bao nhiêu thế kỷ, người ta đã tu theo những kinh sách này đều dở sống, đở chết. Thế mà cho đến hôm nay mọi người vẫn đều tin theo, chạy theo một cách mù quáng, không chịu nhìn lại cha đẻ của những pháp môn này, họ đã làm được những gì chưa? Nếu chỉ nhắm mắt tu đùa, tu đại, đến chừng thực hành không được thì lỡ dở cả đời người, rồi đây bổ ngửa ra cả đám vô vọng, thất vọng, đâm ra mất hết niềm tin cũng giống như hai cư sĩ bây giờ vậy. Con người thời nay cũng quyết tâm tu hành cầu giải thoát rất đông đảo, nhưng họ đang nuốt không vô, nhả không ra nhằm những triết lý cao siêu màu nhiệm. Còn đi tìm những người có kinh nghiệm thì chẳng biết tìm đâu ra, chỉ toàn gặp những bậc hôn sư lên đồng nhập xác, tự xưng ông này bà kia thì nhiều. Hoặc gặp những thiền sư miệng, đạo sĩ bùa chú thì không thiếu gì trong thời đại này. Trong thời đại này, quý vị có tìm được vị Minh Sư chân chánh, chắc quý vị cũng chẳng đủ niềm tin vì quý vị đang thần thánh hóa một vị Minh Sư siêu việt có đầy đủ thần thông, tam minh, lục thông. Vì thế mà quý vị chẳng bao giờ gặp được Minh Sư chân thật của quý vị. Xưa vua Loui đến thăm một vị hiền nhân trong thất viện của đức Phật thời bấy giờ. Nhà vua thấy ông ta đang xay bột giúp vợ làm bánh bán trong cảnh nghèo túng khốn khổ. Nhà vua liền ban cho vàng bạc châu báu nhưng ông khéo từ chối. Thế mới biết trong cái tầm thường có cái phi thường. Cái phi thường không phải ở thần thông phép tắc, mà cũng không phải ở chỗ màu nhiệm kỳ đặc ngoài sức con người làm được, mà ở chỗ con người làm được thoát ra khỏi sự cám dỗ danh, lợi, sắc, tài, ăn và ngủ của đời người. Và còn làm được của con người là thoát ra được khỏi những thú tính mà con người đã mang trong người. Này hai cư sĩ, hai cư sĩ đã từng nghe trên báo chí hoặc đài phát thanh đăng tin những đạo sĩ Ấn Độ dìm trong nước, chôn trong đất không chết, đi trên lửa, mặc áo mỏng bên trời Liên Xô dưới 00C không run rẩy. Đó là những trò gian xảo, lừa đảo gạt người, chỉ khổ công tu hành những pháp môn yoga hoặc những pháp môn khác để được người ta thần thánh mình. Và để làm gì? Để tìm danh lợi. Nếu được sự chứng kiến này, chắc quý vị sẽ xem họ là Minh Sư của mình. Này hai cư sĩ, chúng tôi tu theo đạo Phật không như lời người ta giới thiệu là đạt đạo, chứng đạo có lục thông. Chúng tôi tu theo đạo Phật thì rất thực tế hơn nhiều, không mơ mộng những điều như vậy. Tu tập để làm chủ thân và tâm của mình, để thoát khỏi bốn sự khổ đang ràng buộc chúng tôi: Sanh, già, bệnh và tử. Này hai cư sĩ, mục đích của đạo Phật là giải quyết bốn sự khổ này của loài người, để thoát ra khỏi sự trói buộc của nó. Chứ không phải đi tìm Lục thông, Tam minh, Phật tánh, Chơn như, Bản thể, mà cũng không phải đi tìm nghĩa lý trong các kinh sách, ngữ lục, công án v.v… tu thế này thế kia để có thần thông phép tắc, để triệt ngộ thông suốt các điều bí mật trong kinh sách. Chúng tôi tu theo đạo Phật cũng không xây dựng một thế giới Cực Lạc tưởng, một cõi trời tưởng để đến khi chết sanh về đó. Chúng tôi tu theo đạo Phật với một trí tuệ sẵn có của mình, biết chọn lựa cách sống của đức Phật: sống ly dục. Khi sống ly dục, chúng tôi thường chiến thắng lại tâm mình bằng trí tuệ và kinh nghiệm của tự bản thân, không dựa vào kinh sách nào cả. Sau khi tạo hoàn cảnh sống ly dục được, chúng tôi tiếp tục sống cuộc sống của đức Phật: sống đoạn dục. Khi sống đoạn dục, chúng tôi từng ức chế vọng tưởng nhưng không diệt và không đè nén nó, biết dẫn dắt nó tưới mát tâm chúng tôi khiến cho đời sống chúng tôi tâm được an vui và giải thoát khỏi mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng. Chúng tôi không phải là thiền sư và cũng không đạt đạo. Chúng tôi cũng không thấy chân lý gì để đạt. Chúng tôi chỉ sống như mọi người khác nhưng sống thật giải thoát khỏi tâm ham muốn của mình. Chúng tôi không có lục thông, không có bùa chú linh thiêng và cũng không có gì kỳ đặc độc đáo cả. Chúng tôi là một người thường, không phải là A-la-hán, Bồ-tát hay là Phật. Chúng tôi chỉ là người biết sống, khéo sống. Chúng tôi sống không mơ mộng, không ước ao và không cầu mong một điều gì khác hơn là chúng tôi sống với ý thức sẵn có của mình. Chúng tôi thường biết rõ việc làm của mình, từng ý niệm của mình, từng hành động và lời nói của mình. Chúng tôi đã tự điều khiển và quản lý được tâm chúng tôi, do đó chúng tôi đã làm chủ được tâm hoàn toàn. Chúng tôi không còn nô lệ bất cứ một vọng tưởng nào của chúng tôi. Bệnh tật, tử vong, đau khổ không làm chúng tôi sợ hãi. Chúng tôi lại cũng biết rõ chúng tôi không còn bị danh, lợi, sắc, ăn và ngủ lôi cuốn chúng tôi được nữa. Vả lại, chúng tôi cũng còn biết rất rõ ràng sanh, lão, bệnh, tử không còn trói buộc chúng tôi. Này hai cư sĩ, điều chúng tôi nói trên đây là sự thật, tin hay không tin là ở quý vị. Riêng chúng tôi chẳng cần ai tin mình hết, tôi giải thoát cho tôi, không thể giải thoát cho quý vị được. Như quý vị giải thoát cho quý vị, không thể giải thoát cho tôi được. Chúng tôi không có mộng làm Bồ-tát độ chúng sanh. Danh lợi đối với chúng tôi, tôi đã chấm dứt nó từ lâu. Cho nên Bô-tát đối với chúng tôi vẫn còn danh, còn lợi, chúng tôi hiểu rất rõ ràng điều này. Đến đây chúng tôi xin thành thật bảo quý vị, thực hiện được sự thật này là một công trình vĩ đại, khó hơn việc dời non lấp biển. Một người có đầy đủ ý chí, bền lòng chặt dạ, kiên trì mài sắt thành kim mới thực hiện được. Những người đứng núi này trông núi khác thì chẳng đời nào thực hiện được. Những người đi tìm thần thông phép tắc, tam minh lục thông thì cũng chẳng đời nào thực hiện được. Những người ban ngày thắp đuốc đi tìm chân lý như hai cư sĩ cũng chẳng thực hiện được. Một lần nữa chúng tôi xin thành thật khuyên hai cư sĩ nên sống một đời sống của người cư sĩ, giữ trọn đức hạnh làm người, ít ham muốn, biết san sẻ, biết nhận những lỗi nhỏ của mình và khắc phục tâm ham muốn của mình. Thế đủ hết rồi, đừng mơ gì nữa. Chúng tôi thăm, chúc hai cư sĩ thân tâm an lạc và thường vui vẻ. Tu viện Chơn Như. Kính thơ. Sau khi nghe bức thơ của Thầy trả lời, quý thầy đã rõ mục đích tu hành của Tu viện Chơn Như. Vậy quý thầy hãy xét lại mình, nếu quả chăng mục đích tu tập của quý thầy đúng vào mục đích này thì quý thầy hãy ở lại đây cùng Thầy tu tập dưới sự hướng dẫn tận tâm của Thầy. Bằng thấy mục đích tu hành này không phù hợp với nguyện vọng của mình thì Thầy rất hoan hỷ để quý thầy dời khỏi tu viện để đi tìm đúng mục đích mà quý thầy từng ôm ấp trong lòng. Quý thầy đừng nghĩ rằng thời kỳ mạt pháp không thể nào thực hiện được mục đích tu hành tại tu viện này. Điều nghĩ này sai. Tại sao? Tại vì trong mỗi thời kỳ đều có tu chứng. Tuy rằng người ta đã phân chia ba thời kỳ như trong kinh đã dạy: 1- Thời kỳ Chánh pháp. 2- Thời kỳ Tưởng pháp. 3- Thời kỳ Mạt pháp. Hòa thượng Thiền Tâm đã nói rõ trong cuốn Phật Học Tinh Yếu: Sao gọi là Chánh, Tưởng và Mạt pháp? Sở dĩ nói Chánh pháp vì chánh có nghĩa là chính. Trong thời kỳ này đức Thế Tôn tuy đã nhập diệt nhưng pháp nghi của Ngài chưa sửa đổi. Có giáo lý, có kẻ hành trì, có nhiều người chứng quả. Như trong kinh đã dạy, sau Phật nhập Niết-bàn 500 năm gọi là thời kỳ Chánh pháp, người tu có chứng quả A-la-hán. Sau thời kỳ Chánh pháp là thời kỳ Tưởng pháp. Nói Tưởng pháp vì tưởng có nghĩa tương tợ, tức là mường tượng. Trong thời kỳ này đạo quá chỉ còn mường tượng, pháp nghi lệch lạc, kinh điển giáo lý có nhiều sự sửa đổi, tuy giáo lý có, cũng có nhiều người hành trì nhưng rất ít kẻ chứng đạo. Thời kỳ Tưởng pháp cách Phật 1000 năm. Sau thời kỳ này là thời kỳ Mạt pháp. Nói Mạt pháp vì Mạt là Làm – “Làm ý di mạc” nghĩa là mang manh nhỏ nhiệm như chót đầu lông chim nhỏ, như hạt bụi điểm sương. Trong thời kỳ này đạo quá suy vi, tuy có giáo lý kinh sách rất nhiều nhưng ít kẻ hành trì đúng pháp huống chi là chứng đạo. Theo kinh Nhân Vương nói: “Có giáo lý, có hành trì, không chứng quả gọi là Tưởng pháp. Có giáo lý, không hành trì, không chứng quả gọi là Mạt pháp”. Thật ra thời Tưởng pháp chẳng phải là không có quả chứng, song bậc chứng quả như sao buổi sáng trên nền trời khó tìm, khó gặp. Thời Mạt pháp chẳng phải là chẳng có người hành trì, song kẻ hành trì đúng theo giáo lý rất ít, hầu như không có nên gọi là không hành trì. Để kết luận buổi nói chuyện hôm nay, theo lời dạy của Hòa thượng Thiền Tâm dẫn chứng trong các kinh sách thì chúng ta nhận thấy cũng khá rõ ràng. Nhưng đó là kinh… Còn theo Thầy nghĩ trong ba thời kỳ này, thời kỳ nào cũng có người tu chứng quả A-la-hán… Đó là họ tu đúng. Tu đúng như thế nào? Thứ nhất là phải thực hiện giới luật nghiêm túc. Thứ hai là tập luyện thiền định phải đúng cách và phải do những kinh nghiệm của những bậc độc giác Phật. Còn những ai dựa vào kinh sách mà tu hành trong thời kỳ Mạt pháp thì khó thành tựu. Bằng chứng hiển nhiên chúng ta thấy hiện giờ người ta dựa vào kinh sách tu hành đã nhiều thế kỷ nay không thấy có ai chứng quả A-la-hán, chỉ toàn học giáo lý mà thôi. Tại sao vậy? Tại vì kinh điển đã bị người sau thêm thắt quá nhiều làm lệch lạc tất cả kinh nghiệm tu hành của đạo Phật. Cho nên xét về quá trình thời gian thì thời nào cũng có bậc độc giác Phật ra đời, đó là giữ gìn giềng mối của đạo Phật. Nếu không có các bậc này thì đạo Phật ngày nay sẽ đi về đâu. Chắc chắn sẽ trở thành một môn học cho người sau mà thôi. Chúng ta cũng nên xét kỹ, vì mục đích của đạo Phật hiện giờ đã bị lệch lạc cho nên khiến người sau chẳng biết đường lối nào tu hành. Sau khi quý thầy đã hiểu rõ mục đích tu hành tại đây và trong ba thời kỳ mà kinh sách đã chia cắt ra, nhưng kết luận chúng ta nhận xét kỹ trong mỗi quá trình thời gian của từng thời kỳ, thì thời kỳ nào cũng có bậc độc giác Phật xuất hiện ra đời. Nhưng có điều họ không phát triển kinh nghiệm tu hành sâu rộng trong mọi tầng lớp con người mà chỉ giữ mãi chiều sâu của đạo Phật còn trụ thế mà thôi. Bởi vì họ gặp một thế lực Phật giáo kinh điển chèn ép mạnh mẽ. Đây cũng là duyên của chúng sanh. Vậy một lần nữa Thầy khuyên quý thầy: sự tu hành là sự lợi ích cho bản thân cá nhân của quý thầy hơn tất cả. Quý thầy cứ tư duy cho chin chắn rồi thực hiện, đừng vội vàng nông nổi mà hãy cẩn thận và cẩn thận hơn. Đến đây Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay. Quý thầy cùng với Thầy niệm hồi hướng: Nguyện đem công đức này, Hồi hướng cho tất cả Phật tử và chúng sanh Đều trọn thành Phật đạo. Hết Phương Minh ghi chép từ đĩa CD do Tu viện Chơn Như phát biếu |
|||