Chánh Đạo - Tà Đạo. Kì 02 (9-11)
9. KINH SÁCH PHÁT TRIỂN KHÔNG PHẢI PHẬT THUYẾT
Lời Phật dạy: “Này các tỳ-kheo! Có thể có tỳ-kheo nói: “Này Hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ như vậy là pháp, như vậy là luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư.”
Này các tỳ-kheo, các ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của tỳ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với kinh, đối chiếu với luật.
Khi đem so sánh với kinh, đối chiếu với luật, nếu chúng không phù hợp với kinh, không tương ưng với luật thời các ngươi có thể kết luận: “Chắc chắn những lời này không phải là lời của Thế Tôn và tỳ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm.” Và này các tỳ-kheo, các ngươi hãy từ bỏ chúng.
Khi đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với luật và nếu chúng phù hợp với kinh, tương ưng với luật thì các ngươi có thể kết luận: “Chắc chắn những lời dạy này phải là lời dạy của Thế Tôn và tỳ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh.” Này các tỳ-kheo, như vậy là đại giáo pháp thứ nhất, các ngươi hãy thọ trì.”
Kinh Trường Bộ tập 1, kinh Đại Bát Niết Bàn
Chú giải: Trước khi vào Niết Bàn, Đức Phật đã biết chắc người đời sau sẽ kiến giải, tưởng giải làm sai lệch giáo pháp của mình nên Ngài đã di chúc lại những lời sau cùng này để chúng ta cẩn thận đối chiếu với kinh sách Nguyên Thủy và kinh sách Đại Thừa.
Khi đối chiếu chúng ta mới nhận xét kinh sách Nguyên Thủy dạy đạo đức làm Người làm Thánh, đó là “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” hoặc “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng thiện pháp.”
Còn kinh sách Đại Thừa dạy: “Cúng bái, cầu siêu, cầu an, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, ngồi thiền ức chế tâm, lạy hồng danh sám hối cho tiêu tội v.v...” Như vậy kinh sách Đại Thừa dạy mê tín, sống trong thế giới ảo tưởng Niết Bàn, Cực Lạc Tây phương..
Đem giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa của các Tổ ra đối chiếu với giới kinh của Phật thì chúng ta thấy giới bổn không phù hợp, không tương ưng với giới kinh, một bên thì ngăn cấm như pháp luật không đúng với tinh thần tự giác, tự nguyện của đạo Phật.
Còn giới kinh dạy đạo đức làm Người làm Thánh để tâm hoàn toàn vô lậu và đúng theo tinh thần tự giác tự nguyện không có bắt buộc, không có khuyến dụ, không có mua chuộc.
Cho nên giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa và kinh sách Đại Thừa chắc chắn không phải Phật thuyết, mà do các Tổ chịu ảnh hưởng kinh Vệ Đà của Bà La Môn biên soạn ra nên không phù hợp và không tương ứng với những lời Phật dạy.
Đúng vậy, khi đem ra so sánh, chúng ta thấy rằng kinh sách Đại Thừa không phải Phật thuyết 100%. Cho nên những lời di chúc cuối cùng của Đức Phật đã dạy chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng để không bị những kiến giải, tưởng giải của các Tổ lường gạt. Như vậy, rõ ràng Đức Phật đã biết trước, sau này các Tổ sẽ làm sai lệch kinh sách Phật, cho nên Ngài đã chuẩn bị cho người đời sau còn có chỗ dựa vững chắc để loại trừ những tà pháp của ngoại đạo đang pha trộn trong giáo pháp Nguyên Thủy của Phật.
Đọc đoạn kinh này các bạn còn nghi ngờ chúng tôi nói kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông sai nữa không? Đúng là kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông không phải Phật thuyết.
Giáo pháp Đại Thừa là một giáo pháp mê tín, trừu tượng, mơ hồ, thường sống trong ảo tưởng, không thực tế, không thiết thực, nó được truyền thừa từ nước này sang nước khác trong một thời gian khá dài hơn hai ngàn năm. Cho nên những kinh sách này được kết tập của những người tu hành chưa chứng đạo, thành một tạng kinh xô bồ không biết bài kinh nào tu trước, bài kinh nào tu sau.
Trong khi giáo lý của Phật giáo được chia ra làm tám lớp học và ba cấp rõ ràng, nó là một chương trình giáo dục đào tạo con người có đầy đủ đạo đức nhân bản - nhân quả, xây dựng lại cuộc sống của con người mà mọi người không còn làm khổ cho nhau nữa, biến thế gian này thành cảnh giới Thiên Đàng, Cực Lạc.
Kinh Đại Bát Niết Bàn thuộc Trường Bộ Kinh. Bốn lần Đức Phật xác định và nhắc nhở chúng ta phải cảnh giác kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông, phải đem so sánh kinh Nguyên Thủy, phải đối chiếu với luật và nếu không phù hợp với kinh, không tương ưng với luật của Phật thì chắc chắn kinh sách này không phải của Phật thuyết và những tỳ-kheo ấy đã tu tập giáo pháp sai lầm.
Do sự so sánh này chúng ta biết chắc quý thầy tu theo Đại Thừa và Thiền Tông là tu sai pháp tức là không tu tập đúng pháp của Phật thuyết. Từ xưa đến nay các Tổ trước tu sai, các Tổ sau thừa kế và cho đến thầy Tổ ngày nay cũng đều tu tập sai lầm cả.
Các thầy Tổ xa xưa cho đến các thầy Tổ ngày hôm nay đều giẫm theo lối mòn của nhau, nên người trước sai, người sau sai và người ngày nay cũng đều tu tập sai hết. Tu sai mà không biết mình sai. Thật là đáng thương!
Ngày nay chúng tôi may mắn hơn đã tu tập từ con đường giới luật, xây dựng mình một nền đạo đức sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai. Nhờ thế chúng tôi ly dục ly ác pháp hoàn toàn và đã thành tựu con đường giải thoát của Phật giáo chân thật.
Sau khi tu hành xong, nhờ có kinh nghiệm trong tu hành. Chúng tôi căn cứ vào những lời của Phật dạy vạch trần bộ mặt thật của Đại Thừa và Thiền Tông đã mạo danh kinh sách Đại Thừa là Phật thuyết để lừa đảo tín đồ Phật giáo.
Do tu hành sai pháp, các thầy Tổ Đại Thừa tu mãi mà chẳng có thầy Tổ nào làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Vì thế, khi tu hành chưa chứng đạo các Tổ kết tập kinh sách Phật không đủ khả năng soạn thảo chương trình giáo dục theo tám lớp (Bát Chánh Đạo) ba cấp (Giới, Định, Tuệ) nên kết tập kinh sách xô bồ không thứ lớp. Bài kinh trước bài kinh sau không rõ ràng và không triển khai nổi giới đức, giới hạnh, giới hành cùng ba muơi bảy pháp hành không cụ thể, thực tế và rõ ràng như trên đã nói
Đến ngày nay chúng tôi quyết định chấn chỉnh lại bộ giới luật đức hạnh Thánh tỳ-kheo Tăng, Thánh tỳ-kheo Ni và Thánh cư sĩ. Sau cùng, nếu có đủ thời gian chúng tôi biên soạn giáo trình tu tập cho tám lớp (Bát Chánh Đạo) để thành lập chương trình giáo dục đào tạo bậc A-la-hán (vô lậu).
Nhờ những bài kinh Nguyên Thủy này chúng tôi chỉ thẳng cho các bạn biết kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông sai, từ chỗ sai đó chúng tôi mới dựng lại những gì của Phật giáo đã bị thầy Tổ Đại Thừa ném bỏ.
Nhờ những bài kinh này chúng tôi quyết định vạch trần những kiến chấp sai lầm của các bạn, để may ra các bạn giác ngộ được những lời dạy chân thật của Phật và xả bỏ những kiến chấp sai lầm của Đại Thừa.
Nhờ những bài kinh này giúp các bạn sáng suốt để thấy những tưởng giải của các Tổ đã làm hư hoại biết bao nhiêu thế hệ con người tu theo Phật giáo hiện nay.
Nhờ những bài kinh này chúng tôi chú giải, các bạn mới thấy những lời chúng tôi là chân thật không dối người, không phỉ báng các Tổ, mà chỉ nói lên một sự thật cách đây trên hai ngàn năm chưa bao giờ có một người nào dám nói thẳng nói thật. Phải không các bạn?
Đây cũng là một nhân duyên, là một phước báo lớn của chúng sanh cho các thế hệ mai sau. Vì vậy, hôm nay mới có một cuộc chấn chỉnh giáo pháp của Phật giáo vĩ đại như thế này. Vì Phật pháp là một lợi ích rất lớn cho chúng sanh, nên chúng tôi không ngại gian khổ, quyết tâm làm cho bằng được. Nhưng sự thành công ấy đều phải nhờ sự đoàn kết của Tăng, Ni và cư sĩ bốn phương.
“Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây dụm lại nên hòn núi cao.”
Chắc chắn cái đúng sẽ thắng cái sai, và cũng đến lúc cái sai phải được bỏ xuống. Phải không các bạn?
Tóm lại cái đúng không ai diệt nó được, nó sẽ được trường tồn với loài người mãi mãi.
10. TÁM THÁNH ĐẠO
Lời Phật dạy: “Này Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát Thánh Đạo, thời ở đấy không có đệ nhất Sa Môn, ở đấy không có đệ nhị Sa Môn, cũng không có đệ tam Sa Môn, cũng không có đệ tứ Sa Môn.
Này Subhadda, trong pháp luật nào có Bát Thánh Đạo, thời ở đấy có đệ nhất Sa Môn, cũng có đệ nhị Sa Môn, cũng có đệ tam Sa Môn, cũng có đệ tứ Sa Môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không Sa có Môn. Này Suhadda, nếu những vị tỳ-kheo này sống chân chánh, thời đại này không vắng những vị A-la-hán.”
Kinh Trường Bộ tập I, kinh Đại Bát Niết Bàn
Chú giải: Lời di chúc cuối cùng này đã xác định Chánh pháp của Đức Phật là Bát Chánh Đạo, ngoài Bát Chánh Đạo ra thì không có pháp môn được gọi là giáo pháp của Đức Phật. Bởi vì Bát Chánh Đạo là một chân lý trong bốn chân lý của Phật giáo.
Như các bạn đã biết, chúng tôi đã xác định Bát Chánh Đạo là tám lớp học của Phật giáo được chia theo ba cấp Giới, Định, Tuệ. Như vậy Bát Chánh Đạo là chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả cho mỗi người để biến cuộc sống thế gian này thành cõi Cực Lạc, Thiên Đường. Cho nên Đức Phật dạy người đệ tử lần cuối cùng của mình trước giờ nhập Niết Bàn là bài pháp này.
Tất cả giáo pháp của ngoại đạo, ngay cả kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông cũng không có Bát Thánh Đạo, thậm chí còn có Tâm Kinh Bát Nhã dạy: Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo (Vô khổ, tập, diệt, đạo). Cho nên hằng ngày trong các chùa thường tụng kinh: “Vô khổ, tập, diệt, đạo.”
Ngược lại, kinh sách Nguyên Thủy dạy: “Nếu pháp luật nào không có Bát Thánh Đạo là không có Sa Môn đệ nhất, đệ nhị, đệ tam và đệ tứ.”
Như vậy giáo pháp, giới luật của Đại Thừa và Thiền Tông không có Bát Chánh Đạo nên nó không phải là giáo pháp của Phật giáo.
Chỉ một đoạn kinh cũng đủ xác định kinh sách Đại Thừa không phải là kinh sách của Phật giáo. Kinh sách Đại Thừa là kinh của Bà La Môn mạo nhận là kinh sách Phật chứ thực chất của nó nằm gọn trong những bộ kinh Vệ Đà.
Kinh sách Nguyên Thủy phần đông trong những bài kinh như thế này đã xác định và phân biệt rõ ràng pháp nào của Phật và pháp nào của ngoại đạo, không thể lẫn lộn nhau được.
Như đã nói ở trên, giáo pháp của Phật là một chương trình giáo dục đào tạo những bậc A-la-hán, chứ không phải là những lời thuyết suông như kinh sách Đại Thừa. Cho nên người nào đã tu học theo Phật giáo Nguyên Thủy đúng theo chương trình Bát Chánh Đạo thì không bao giờ bị Đại Thừa và Thiền Tông lừa đảo được.
Theo chúng tôi khuyên mọi người tu học theo Phật giáo thì nên dựa vào Bát Chánh Đạo và phải được sự hướng dẫn của một bậc thầy đã tu chứng quả A-la-hán thì con đường tu tập sẽ được dễ dàng hơn, không còn khó khăn và sợ bị lừa đảo tu sai lệch vào pháp môn của ngoại đạo.
Chúng tôi ước nguyện ngày mai sẽ có chương trình giảng dạy trong tám lớp học này thành lập và mở cửa đón nhận những người con thân thương của Phật giáo về tu học. Chừng đó Phật giáo mới được chấn chỉnh hoàn toàn, tà pháp không xen lẫn vào kinh sách của Phật được nữa.
Đó là ước vọng của chúng tôi, nhưng ngày mai có thành tựu được hay không là do phước của chúng sanh, riêng chúng tôi sẽ cố gắng làm hết sức mình để đền đáp công ơn muôn một của Đức Phật
Bát Chánh Đạo là chân lý của loài người, là phương pháp triển khai cuộc sống trên thế gian trở thành cảnh giới Thiên Đàng, Cực Lạc v.v… là chương trình giáo dục đào tạo đạo đức nhân bản - nhân quả của con người để trở thành những bậc A-la-hán (vô lậu) hoàn toàn. Bởi vậy Bát Chánh Đạo là báu vật vô giá nhất của loài người.
Khi năm anh em Kiều Trần Như được nghe Phật thuyết bài pháp này lần đầu tiên. Nghe xong, cả năm người đều trở thành những bậc pháp nhãn thanh tịnh, có nghĩa là các Ngài đã thấu rõ các pháp trên thế gian này như thật không còn một sự hiểu lầm lạc nào cả, không còn có một tôn giáo nào, một giáo pháp nào lừa đảo các Ngài được. Bao nhiêu kiến chấp những pháp môn của ngoại đạo từ xa xưa như kinh Vệ Đà các Ngài đều ném bỏ xuống hết. Vì thế, các Ngài mới được gọi là chứng pháp nhãn thanh tịnh.
Kính thưa các bạn! Chúng tôi đã vạch cái sai của Đại Thừa và Thiền Tông có chứng cứ lời Phật dạy hẳn hoi, để dựng lại giáo pháp đúng của Phật. Đó là Bát Chánh Đạo. Một chương trình giáo dục đào tạo những bậc A-la-hán. Thế mà các bạn chưa chịu nhận ra sao?
Hôm nay, đoạn kinh này, lời di chúc cuối cùng của Đức Phật: “Trong Giáo pháp và Giới luật nào không có Bát Chánh Đạo thì không có Sa Môn.”
Lời xác định này rõ ràng không còn ai chối cãi được. Lời dạy trên có nghĩa là trong giáo pháp và giới luật nào không có Bát Chánh Đạo là không có đệ tử của Ta.
Chữ Sa Môn có nghĩa là những người tu theo Phật giáo, khác với Bà La Môn là những người tu theo ngoại đạo. Trong đoạn kinh này Sa Môn chỉ cho những người đệ tử của Phật, chứ không phải Sa Môn giành riêng cho tu sĩ, các bạn đừng hiểu sai, nên hiểu chữ Sa Môn là chỉ chung trong giới đệ tử của Phật.
Chúng đệ tử của Phật gồm có:
1. Cư sĩ nam Sa Môn thứ nhất.
2. Cư sĩ nữ Sa Môn thứ hai.
3. Tu sĩ nam Tăng Sa Môn thứ ba.
4. Tu sĩ nữ Ni Sa Môn thứ tư.
Từ xưa đến nay người ta hiểu hai chữ Sa Môn là những chữ giành riêng cho giới tu sĩ (Tăng, Ni). Nhưng trong đoạn kinh này đã xác định chương trình tu học Bát Chánh Đạo mới có Sa Môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba và thứ tư.
Như vậy Sa Môn là chỉ cho những người đệ tử của Phật, do đó giáo pháp và giới luật nào có Bát Chánh Đạo thì mới có đệ tử của Phật, còn giáo pháp và giới luật nào không có Bát Chánh Đạo là không có đệ tử của Phật.
Như vậy giáo pháp Mật Tông, Tịnh Độ Tông, Pháp Hoa Tông, Thiền Tông có Bát Chánh Đạo không? Hoàn toàn không. Phải không các bạn?
Cho nên, giáo pháp và giới luật của Đại Thừa và Thiền Tông đều không có nằm trong chương trình Bát Chánh Đạo thì làm sao gọi là giáo pháp của Đức Phật được. Chính nó là giáo pháp của kinh sách Vệ Đà.
Tóm lại, bài kinh này đã xác định giáo pháp của Phật là giáo pháp Bát Chánh Đạo rất rõ ràng.
Vậy mong các bạn hãy suy ngẫm đúng đắn, đừng để rơi vào tà kiến của các Tổ sư, đừng cố chấp những kiến giải của Đại Thừa, nó sẽ dẫn các bạn đi vào con đường sai lầm, uổng phí cả một đời tu theo Phật giáo mà không nếm được mùi vị giải thoát của Phật giáo. Thật là đáng thương!
11. LÒNG TIN PHẢI CÓ CĂN CỨ
Lời Phật dạy: “Thưa Tôn giả Gotama, câu chú thuật của các Tổ Bà La Môn, y cứ tiếng đồn, truyền thống và Thánh tạng Bà La Môn. Và ở đây các vị Bà La Môn chắc chắn đi đến kết luận: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai lầm.” Ở đây Gotama nói gì?
Nhưng này Bharadvaja, có một vị Tôn sư nào giữa các Bà La Môn đã nói như sau: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này: “Chỉ đây là sự thật ngoài ra đều là sai lầm.”
Thưa không, Tôn giả Gotama!
Nhưng này Baharadvaja, có một Tôn sư nào của các vị Bà La Môn, cho đến vị Tôn sư của các vị Tôn sư trở lui cho đến bảy đời. Các vị đại Tôn sư đã nói như sau: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm.”
Thưa không, Tôn giả Gotama!
Nhưng này Bharadvaja thuở xưa những vị ẩn sĩ giữa các Bà La Môn, những tác giả các chú thuật, những nhà tụng tán của chú thuật, đã hát, đã nói lên, đọc lên giống như các vị trước đã làm như là Atthaka, Vamaka, Vamadeva, Vasrttha, Vessamitta, Yamataggi, Angirase, Bharadvaja, Kassapa, Bhagu, những vị ấy đã nói như sau: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm?”
Thưa không, Tôn giả Gotama!
Này Bharadvaja. Ta nghĩ rằng lời nói của các Bà La Môn cũng giống như một chuỗi người mù, người trước không thấy, người giữa cũng không thấy, người cuối cũng không thấy. Này Bharadvaja, ngươi nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, có phải lòng tin của các vị Bà La Môn trở thành không căn cứ?”
Kinh Trung Bộ tâp II trang 724 Kinh Canki
Chú giải: Một thanh niên Bà La Môn tên là Kapathika hỏi Đức Phật: Một lòng tin vào Thánh tạng kinh điển chú thuật truyền thống từ xa xưa của Bà La Môn: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này. Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm.” Và Tôn giả Gotama nói gì về vấn đề này?
Khi được hỏi câu này Đức Phật trả lời bằng một câu hỏi khác ngay với những vị Bà La Môn hiện có mặt tại cuộc họp này. Các vị có ai dám xác định rằng: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm.” Tất cả các vị Bà La Môn đều im lặng không ai dám trả lời, chỉ có Bà La Môn Bharadvaja là người có uy tín nhất trong các vị Bà La Môn lên tiếng đại diện trả lời:
- Thưa không, Tôn giả Gotama!
Ở đây các bạn nên hiểu câu hỏi của Đức Phật rất quả quyết và mạnh mẽ về Thánh tạng Vệ Đà kinh của Bà La Môn đúng hoặc sai. Vì thế câu hỏi này có hai câu trả lời:
1. Xác định; 2. Phủ định.
Ở đây các Bà La Môn không dám xác định mà trả lời phủ định vì trả lời phủ định là thành thật. Nếu trả lời xác định. “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này” thì Đức Phật sẽ hỏi: “Biết việc này như thế nào?”
Về vấn đề kinh tạng Vệ Đà, Đức Phật đã thấu suốt kinh tạng chú thuật này chỉ là thuyết ngôn ngữ suông, chưa có một vị nào chứng đắc chân lý ấy nên làm sao biết đâu trả lời cho chính xác. Nếu trả lời biết thấy mà không chính xác rõ ràng thì Đức Phật bác bỏ.
Mục đích của kinh Vệ Đà là những lý luận mơ hồ, ảo tưởng không thực tế, không cụ thể, nên làm sao lại dám bảo rằng: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm?”
Cho nên câu hỏi của Đức Phật đơn giản nhưng trả lời rất khó khăn. Ở đoạn kinh này chỉ có những người tu chứng đạo mới dám trả lời: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm?” Còn những người tu chưa chứng chân lý thì không bao giờ dám nói lời này.
Câu hỏi của Đức Phật: “Có Tôn sư vị Bà La Môn nào, dù cho đến bảy đời Tôn sư và những vị Bà La Môn Tổ sư sáng tạo ra kinh sách Vệ Đà và chú thuật đã chứng được chân lý đó chưa?”
Do thấu suốt toàn bộ Thánh kinh Vệ Đà là một loại kinh tưởng không thực tế. Mục đích mơ hồ, ảo tưởng. Một chân lý không rõ ràng như vậy thì làm gì có người tu chứng chân lý ấy. Do đó Đức Phật mới có câu hỏi: Tôn sư bảy đời và những Tôn sư sáng tạo ra kinh sách này có dám nói rằng: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này (tức là chứng đạo), chỉ đây là sự thật ngoài ra đều sai lầm?”
Người hỏi câu này là người đã chứng chân lý mới dám hỏi. Nếu chưa chứng chân lý thì không dám hỏi câu này. Tại sao vậy? Vì có chứng chân lý mới biết chân lý. Biết chân lý mới dám hỏi người khác.
Nghiệm xét qua đoạn kinh trên các bạn nhận xét về Thầy Thông Lạc. Tại sao Thầy Thông Lạc dám nói kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ sai?
Nếu Thầy Thông Lạc tu hành chưa chứng được chân lý giải thoát của đạo Phật thì Thầy có dám nói kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông sai không?
Nếu Thầy tu chưa chứng thì chỉ có thuyết giảng như các thầy Đại Thừa mà thôi. Vì thế, người tu chứng chân lý mới dám xác nhận pháp nào sai, pháp nào đúng.
Ngày xưa Đức Phật dám nói thẳng điều này, ngày nay Thầy Thông Lạc cũng vậy, khi tu chứng mới thấy được cái sai cái đúng
Trên hành tinh này loài người chỉ có bốn chân lý, bốn chân lý ấy phải chân thật, thực tế, cụ thể rõ ràng như chân lý của Phật giáo. Khổ, Tập, Diệt, Đạo mới thật là chân lý, dù mọi người tu chưa chứng đạo nhưng vẫn nhận thấy biết rõ ràng cụ thể, không có mơ hồ, trừu tượng, ảo tưởng. Bởi vậy kinh sách Đại Thừa sai là vì chân lý của Đại Thừa mơ hồ, ảo tưởng, trừu tượng cũng giống như kinh sách Vệ Đà của Bà La Môn.
Lấy câu hỏi của Phật trong kinh Canki thuộc kinh Trung Bộ tập II mà hỏi các vị Hoà Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng, Ni tu theo kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông đã có ai chứng được chân lý giải thoát làm chủ bốn sự khổ đau; sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi chưa?
Hay chỉ là chứng những chân lý ảo tưởng “Phật tánh, Bản lai, Cực Lạc Tây phương” do chứng những chân lý ảo tưởng nên chẳng biết phương pháp nào chuyển bệnh, làm chủ sự sống chết rõ ràng, cụ thể v.v...
Phần đông đứng trước bệnh tật sống chết, các Ngài chỉ khéo lý luận “Chẳng muội nhân quả” để che đậy và lừa đảo phật tử. Càng tu hành thì càng phải trả nghiệp, dồn nghiệp v.v…
Chân lý của Phật là chân lý chuyển nghiệp, chứ đâu phải trả nghiệp, dồn nghiệp, nếu trả nghiệp, dồn nghiệp thì còn đâu là chân lý. Phải không các bạn? Người chứng được chân lý của Phật giáo Nguyên Thủy đều thấy biết cái sai của Đại Thừa rất rõ ràng, nhờ có tu chứng như vậy mới dám nói: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai lầm.”
Đức Phật đã chứng đạt chân lý giải thoát thật sự. Vì thế mới có bài kinh Canki lưu lại cho đến ngày nay, Ngài chỉ cho mọi người thấy chân lý của loài người chỉ có Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế gồm có: khổ, tập, diệt, đạo, ngoài ra không còn có chân lý nào khác nữa.
Một lần nữa Đức Phật đã xác định trong kinh Đại Bát Niết Bàn thuộc kinh Trường Bộ tập I: trang 659: “Này Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát Thánh Đạo thời ở đấy không có Sa Môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba và thứ tư.”
Câu nói này có nghĩa là trong giáo pháp nào không có Bát Thánh Đạo thời giáo pháp ấy không có tu chứng giải thoát sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi như đã nói trên, còn giáo pháp nào có Bát Chánh Đạo thì giáo pháp ấy có tu chứng.
Cho nên, những vị Tổ sư Tăng, Ni biên soạn và viết ra kinh sách Đại Thừa, không có vị Tổ sư nào dám bảo rằng: Ta chứng được chân lý như Đức Phật? Họ chỉ khéo lý luận bằng câu: “Người nào còn thấy mình tu chứng là chưa chứng.”
Thường các Tổ hay dùng câu: “Vô sở đắc.” Đó là lối che đậy lừa đảo tín đồ dễ nhất. Không có vị Tổ sư nào dám nói: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thậ,t ngoài ra đều là sai lầm.”
Đọc hết kinh sách Đại Thừa các bạn không bao giờ thấy có lời dạy như trong kinh sách Nguyên Thủy. Ở đây trong kinh sách Nguyên Thủy các bạn thường thấy Đức Phật và các vị đệ tử của Phật khi tu chứng thường tuyên bố: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa.”
Kính thưa các bạn! Khi các bạn đọc kinh sách Đại Thừa có thấy vị Tổ sư nào dám to tiếng tuyên bố: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm” như trong kinh Nguyên Thủy này không?
Trong kinh sách Nguyên Thủy thường nhắc đến các vị chứng đạt chân lý tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ đều tuyên bố như Phật đã tuyên bố: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa.”
Khi tuyên bố như vậy là biết mình đã tu xong. Người đã tu xong mới dám nói câu này: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm.” Người nói như vậy mới thật sự là đệ tử của Phật.
Khi tu chưa chứng thì thấy lỗi mình không thấy lỗi người, nhưng khi đã tu chứng thì không hèn nhát, không sợ hãi, dám nói thẳng nói thật như Đức Phật ngày xưa. Đúng là nói đúng, sai là nói sai; không tư vị, không xua nịnh ai cả, cũng chỉ vì một mục đích duy nhất là bảo tồn Chánh pháp của Phật.
Hầu hết đệ tử của Đức Phật trong kinh Nguyên Thủy, khi tu chứng đạt chân lý đều nói những lời trên đây. Vị đệ tử cuối cùng của Đức Phật, lúc Phật sắp nhập Niết Bàn, khi nghe thuyết giảng xong liền buông xả sạch các pháp thế gian, chứng đạt chân lý, ông dõng dạc tuyên bố trước mọi người và Đức Phật: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời khác nữa.”
Kính thưa các bạn! Từ khi có kinh sách Đại Thừa cho đến nay, các bạn chưa từng nghe các bậc tôn túc Tổ sư, từ người khởi sự biên soạn kinh sách Đại Thừa cho đến hiện nay các vị tôn túc Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni đều đã học và tu tập giáo pháp kiến giải, chưa có vị nào dám tuyên bố: “Tôi đã tu chứng đạo, làm chủ sanh, già, bệnh, chết, chấm dứt luân hồi.”
Chính vì con đường của Đại Thừa không thể tu chứng được, cho nên họ đâu dám nói. Mục đích giải thoát của Đại Thừa mù mờ, ảo tưởng không rõ ràng, không cụ thể. Vì thế, các thầy Đại Thừa giống như những người mù, một chuỗi người mù ôm lưng nhau, người trước không thấy, người giữa cũng không thấy và người cuối cũng không thấy.
Cho nên đâu dám bảo: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời khác nữa.”
Riêng Phật giáo Nguyên Thủy khi chứng đạt đều nói câu này mà còn dám nói: “Tôi biết việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm.”
Không thấy mục đích giải thoát cho nên lòng tin của các thầy Đại Thừa trở thành không có căn cứ. Nhưng lại muốn che đậy những điều sai lầm này nên các Tổ sư Đại Thừa bảo như trên đã nói:
“Ai thấy mình tu chứng đắc là chưa chứng đắc (vô sở đắc), chứng đắc không thấy mình đắc mới là chứng đắc.” Lời dạy này là một lối lý luận khéo léo gian xảo. Từ đó về sau các thầy Đại Thừa thường dùng những từ này “vô sở đắc.”
Khi chưa nghe ai nói chứng đắc cho nên người phật tử khó phân biệt người tu sĩ của Phật giáo tu chứng hay chưa tu chứng, còn xét về giới luật thì các Ngài lý luận: “Hạnh trực thì đâu cần giữ giới.” Cho nên “Tự tại vô ngại đói ăn, khát uống, mệt ngủ.” Do lý luận này nên mới có Nam Tuyền sát miêu, Lâm Tế chém rắn, Thượng Sĩ Tuệ Trung ăn thịt uống rượu và Tế Điên Hòa Thượng ăn thịt chó uống rượu li bì.
Giáo pháp tu hành phải đặt trọn lòng tin có căn cứ rõ ràng, cụ thể, thực tế, chứ không thể chỉ có lòng tin suông được. Nếu chỉ có lòng tin suông là lòng tin mù quáng.
Từ lâu quý phật tử đã đặt trọn lòng tin vào kinh sách Đại Thừa không căn cứ vững chắc. Kinh Đại Thừa là một loại kinh sách có một mục đích giải thoát mơ hồ, trừu tượng, ảo tưởng, không thực tế, không cụ thể. Cho nên Đức Phật dạy:
“Lời nói của các Bà La Môn cũng giống như chuỗi người mù, người trước không thấy, người giữa không thấy, người cuối cùng cũng không thấy. Này Bharadvaja, ngươi nghĩ thế nào? Có phải lòng tin của các Bà La Môn trở thành không có căn cứ?”
Xưa Đức Phật chỉ vạch giáo pháp của Bà La Môn sai như vậy. Hiện giờ chúng tôi cũng vậy, vạch trần bộ mặt thật của Đại Thừa từ bao lâu thế kỷ nay, biết bao nhiêu thế hệ trẻ đã bị lừa, chẳng có ai tu hành ra gì. Chỉ toàn là tu danh, tu lợi, tu chùa to, Phật lớn, tu ăn, tu ngủ. Thật là đau lòng. Phải không các bạn?
May ra chúng ta còn có những bài kinh Nguyên Thủy để so sánh, xác chứng kinh sách Đại Thừa là kinh sách của ngoại đạo lồng vào giáo pháp của Đức Phật để lừa gạt tín đồ Phật giáo, biến tín đồ Phật giáo thành tín đồ ngoại đạo mê tín, lạc hậu, chỉ có tin một cách mù quáng, để làm tay sai cho những người đầu cơ tôn giáo làm giàu trên mồ hôi nước mắt của hàng ngàn tín đồ. Và thiêu hủy biết bao nhiên tiền của tín đồ do từ lòng tin mê tín của tín đồ cả nước.