Skip directly to content

XXIV. LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT KASSAPA

 

CATUVĪSATIMO KASSAPABUDDHAVAṂSO

 

***

[25]

Konāgamanassa aparena  - sambuddho dipaduttamo

kassapo nāma nāmena  - dhammarājā pabhaṅkaro. (1)

Sau (đức Phật) Konāgamana, có bậc Toàn Giác, đấng Tối Thượng Nhân tên Kassapa là vị Pháp Vương tỏa sáng hào quang.

 

Sa chaḍḍitaṃ kulamūlaṃ  - bahūnaṃ pāṇapūjitaṃ

datvāna dāyake dānaṃ  - pūrayitvāna mānasaṃ

usabhovāḷakaṃ bhetvā  - patto sambodhimuttamaṃ. (2)

Vị ấy đã xả bỏ tài sản gia đình dầu (tài sản ấy) được nhiều người trân trọng. Sau khi biếu tặng vật thí đến những người ăn xin và được tròn đủ ý nguyện, vị ấy đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng, ví như con bò mộng đã (được tự do sau khi) phá vỡ chuồng trại.

 

Dhammacakkaṃ pavattente  - kassape lokanāyake

vīsatikoṭisahassānaṃ  - paṭhamābhisamayo ahu. (3)

Trong khi đấng Lãnh Đạo Thế Gian Kassapa đang chuyển vận bánh xe Chánh Pháp, đã có sự lãnh hội lần thứ nhất là của hai mươi ngàn koṭi (hai trăm tỷ).

 

Catumāsaṃ yadā buddho  - loke carati cārikaṃ

dasakoṭisahassānaṃ  - dutiyābhisamayo ahu. (4)

Vào lúc đức Phật đi du hành ở thế gian trong bốn tháng, đã có sự lãnh hội lần thứ nhì là của mười ngàn koṭi (một trăm tỷ).

 

Yamakaṃ vikubbanaṃ katvā  - ñāṇadhātuṃ pakittayi

pañcakoṭisahassānaṃ  - tatiyābhisamayo ahu. (5)

Sau khi đã thể hiện sự biến hóa song thông, vị ấy đã giảng giải về bản thể của trí tuệ; đã có sự lãnh hội lần thứ ba là của năm ngàn koṭi (năm mươi tỷ).

 

Sudhammadevapure ramme  - tattha dhammaṃ pakittayi

tīṇi koṭisahassāni  - devānaṃ bodhayī jino. (6)

Ở tại thành phố của chư thiên Sudhammā xinh xắn, đấng Chiến Thắng đã giảng giải Giáo Pháp ở tại nơi ấy và đã giác ngộ ba ngàn koṭi (ba mươi tỷ) chư thiên.

 

Naradevassa yakkhassa  - apare dhammadesane

etesānaṃ abhisamayo  - gaṇanāto asaṅkhiyo. (7)

Trong lần thuyết giảng Giáo Pháp khác cho dạ-xoa Naradeva, đã có sự lãnh hội của những người ấy là không thể đếm được theo cách thức tính toán.

 

Tassāpi devadevassa  - eko āsi samāgamo

khīṇāsavānaṃ vimalānaṃ  - santacittāna tādinaṃ. (8)

Vị Thiên Nhân ấy của chư thiên đã có chỉ một lần hội tụ gồm các bậc Lậu Tận không còn ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như thế ấy.

 

Vīsatibhikkhusahassānaṃ  - tadā āsi samāgamo

atikkantabhavantānaṃ  - hirisīlena tādinaṃ. (9)

Khi ấy, đã có cuộc hội tụ của hai mươi ngàn vị tỳ khưu có đức hạnh vượt trội với sự hổ thẹn (tội lỗ) và giới hạnh như thế ấy.

 

Ahaṃ tadā māṇavako  - jotipāloti vissuto

ajjhāyiko mantadharo  - tiṇṇaṃ vedāna pāragū. (10)

Vào lúc bấy giờ, ta là người thanh niên bà-la-môn nổi tiếng với tên Jotipāla, là vị trì tụng, nắm vững chú thuật, thành thạo ba bộ Vệ Đà.

 

Lakkhaṇe itihāse ca  - saddhamme pāramiṃ gato

bhummantalikkhe kusalo  - katavijjo anāmayo. (11)

Ta đã đạt đến sự toàn hảo về khoa tướng mạo, về truyền thuyết, và về các phận sự chánh yếu, là vị rành rẽ về trời đất, có trí tuệ đã được hoàn tất, không sai lầm.

 

Kassapassa bhagavato  - ghaṭikāro nāmupaṭṭhako

sagāravo sappatisso  - nibbuto tatiye phale. (12)

(Thợ làm đồ gốm) Ghaṭikāra, vị hộ độ của đức Thế Tôn Kassapa, là người có sự tôn kính, có sự vâng lời, đã đạt Niết Bàn trong quả vị thứ ba (Bất Lai).

 

Ādāya maṃ ghaṭikāro  - upagañchi kassapaṃ jinaṃ

tassa dhammaṃ suṇitvāna  - pabbajiṃ tassa santike. (13)

Ghaṭikāra đã đưa ta đi đến gặp đấng Chiến Thắng Kassapa. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của vị ấy, ta đã xuất gia trong sự chứng minh của vị ấy.

 

Āraddhaviriyo hutvā  - vattāvattesu kovido

na kvaci parihāyāmi  - pūremi jinasāsanaṃ. (14)

Sau khi đã khởi sự tinh cần và là người thông thạo trong các phận sự lớn nhỏ, ta không bỏ sót bất cứ điều gì và làm tròn đủ Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng.

 

Yāvatā buddhabhaṇitaṃ  - navaṅgasatthusāsanaṃ

sabbaṃ pariyāpuṇitvāna  - sobhayiṃ jinasāsanaṃ. (15)

Cho đến những gì đã được đức Phật nói lên tức là Giáo Pháp của bậc Đạo Sư gồm chín thể loại, sau khi học tập toàn bộ ta đã làm rạng rỡ Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng.

 

Mama acchariyaṃ disvā  - sopi buddho viyākari

imamhi bhaddake kappe  - ayaṃ buddho bhavissati. (16)

Sau khi nhìn thấy điều kỳ diệu ở nơi ta, đức Phật ấy cũng đã chú nguyện rằng: “Trong kiếp Bhadda này, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

Ahu kapilavhayā rammā  - nikkhamitvā tathāgato

padhānaṃ padahitvāna  - katvā dukkarakārikaṃ. (17)

Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

Ajapālarukkhamūlamhi  - nisīditvā tathāgato

tattha pāyāsaṃ samādāya  - nerañjaramupehiti. (18)

Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

Nerañjarāya tīramhi  - pāyāsaṃ paribhuñjiya

paṭiyattavaramaggena  - bodhimūlamhi ehiti. (19)

Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy hưởng dụng món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quý đã được dọn sẵn.

 

Tato padakkhiṇaṃ katvā  - bodhimaṇḍaṃ anuttaraṃ

assatthamūle sambodhiṃ  - bujjhissati mahāyaso. (20)

Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề tối thắng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

Imassa janikā mātā  - māyā nāma bhavissati

pitā suddhodano nāma  - ayaṃ hessati gotamo. (21)

Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

Kolito upatisso ca  - aggā hessanti sāvakā

anāsavā vītarāgā - santacittā samāhitā (22)

ānando nāmupaṭṭhāko  - upaṭṭhissatimaṃ jinaṃ.

Kolita và Upatissa không còn lậu hoặc, tham ái đã lìa, có tâm an tịnh và định tĩnh sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng này.

 

Khemā uppalavaṇṇā ca  - aggā hessanti sāvikā (23)

anāsavā vītarāgā  - santacittā samāhitā.

Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu, không còn lậu hoặc, tham ái đã lìa, có tâm an tịnh và định tĩnh.

 

Bodhi tassa bhagavato  - assatthoti pavuccati (24)

citto ca hatthāḷavako  - aggā hessantupaṭṭhakā.

Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’ Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

Nandamātā ca uttarā  - aggā hessantupaṭṭhikā (25)

āyu vassasataṃ tassa - gotamassa yasassino.

Nandamātā và Uttarā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.

 

Idaṃ sutvāna vacanaṃ  - asamassa mahesino

āmoditā naramarū  - buddhavījaṅkuro ayaṃ. (26)

Sau khi nghe được lời nói này của bậc Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại mừng rỡ (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

Ukkuṭṭhisaddā vattanti  - apphoṭenti hasanti ca

katañjalī namassanti  - dasasahassī sadevakā. (27)

Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên thốt lên những tiếng reo hò, vỗ tay, nở nụ cười, chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

Yadimassa lokanāthassa  - virajjhissāma sāsanaṃ

anāgatamhi addhāne  - hessāma sammukhā imaṃ. (28)

Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lãnh Đạo Thế Gian này thì chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

Yathā manussā nadiṃ tarantā  - paṭititthaṃ virajjhiya

heṭṭhā titthaṃ gahetvāna  - uttaranti mahānadiṃ. (29)

Giống như những người đang băng ngang giòng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua giòng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

Evameva mayaṃ sabbe  - yadi muñcāmimaṃ jinaṃ

anāgatamhi addhāne  - hessāma sammukhā imaṃ. (30)

Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này thì chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

Tassāpi vacanaṃ sutvā  - bhiyyo cittaṃ pasādayiṃ

uttariṃ vattamadhiṭṭhāsiṃ  - dasapāramipūriyā. (31)

Nghe được lời nói của vị ấy, ta đã tăng thêm niềm tín tâm. Ta đã quyết định sự thực hành tối thắng để làm tròn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

Evamahaṃ saṃsaritvā  - parivajjento anācaraṃ

dukkaraṃ pakataṃ mayhaṃ  - bodhiyāyeva kāraṇā. (32)

Như thế, sau khi đã trôi nổi (luân hồi) và trong khi tránh xa điều sai trái, ta có điều khó thực hành được đã được thực hành, và nguyên nhân chính là vì quả vị Giác Ngộ của ta.

 

Nagaraṃ bārāṇasī nāma  - kikī nāmāsi khattiyo

vasati tattha nagare  - sambuddhassa mahākulaṃ. (33)

Thành phố có tên là Bārāṇasī, vị vua dòng sát-đế-lỵ tên là Kikī. Gia tộc vĩ đại của đấng Toàn Giác cư trú tại nơi ấy, trong thành phố.

 

Brāhmaṇo brahmadatto ca  - āsi buddhassa so pitā

mātā dhanavatī nāma  - kassapassa mahesino. (34)

Và vị bà-la-môn Brahmadatta ấy đã là người cha của đức Phật. Người mẹ của bậc Đại Ẩn Sĩ Kassapa tên là Dhanavatī.

 

Duve vassasahassāni  - agāraṃ ajjhāvasi so

haṃso yaso siricando  - tayo pāsādamuttamā. (35)

Vị ấy đã sống đời sống gia đình hai ngàn năm. Có ba tòa lâu đài tuyệt vời là Haṃsa, Yasa, và Siricanda.

 

Tisoḷasasahassāni  - nāriyo samalaṅkatā

sunandā nāma sā nārī  - vijitaseno nāma atrajo. (36)

Có ba lần mười sáu ngàn (bốn mươi tám ngàn) phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Sunandā. Con trai tên là Vijitasena.

 

Nimitte caturo disvā  - pāsādenābhinikkhami

sattāhaṃ padhānacāraṃ  - acari purisuttamo. (37)

Sau khi nhìn thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đã ra đi bằng tòa lâu đài và đã thực hành hạnh nỗ lực bảy ngày.

 

Brahmunā yācito santo  - kassapo lokanāyako

vattacakko mahāvīro  - migadāye naruttamo. (38)

Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Lãnh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng, bậc Tối Thượng Nhân Kassapa có bánh xe (Chánh Pháp) đã được chuyển vận ở tại vườn nai.

 

Tisso ca bhāradvājo ca  - ahesuṃ aggasāvakā

sabbamitto nāmupaṭṭhāko  - kassapassa mahesino. (39)

Tissa và Bhāradvāja đã là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Kassapa tên là Sabbamitta.

 

Anulā ca uruvelā ca  - ahesuṃ aggasāvikā

bodhi tassa bhagavato  - nigrodhoti pavuccati. (40)

Anulā và Uruvelā đã là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi là “Nigrodha.”

 

Sumaṅgalo ghaṭikāro ca  - ahesuṃ aggupaṭṭhakā

vijitasenā ca bhaddā ca  - ahesuṃ aggupaṭṭhikā. (41)

Sumaṅgala và Ghaṭikāra đã là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Vijitasenā và Bhaddā đã là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

Uccattanena so buddho  - vīsatiratanuggato

vijjulaṭṭhiva ākāse  - candova gahapūrito. (42)

Đạt đến chiều cao hai mươi ratana (5 mét), đức Phật ấy tương tợ như lằn tia chớp ở trên bầu trời, như là mặt trăng được quây quần bởi các thiên thể.

 

Vīsativassasahassāni  - āyu tassa mahesino

tāvatā tiṭṭhamāno so  - tāresi janataṃ bahuṃ. (43)

Tuổi thọ của bậc Đại Ẩn Sĩ ấy là hai chục ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đã giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

 

Dhammataḷākaṃ māpayitvā  - sīlaṃ datvā vilepanaṃ

dhammadussaṃ nivāsetvā  - dhammamālaṃ vibhajjiya. (44)

Sau khi đã tạo ra hồ nước Chánh Pháp, đã ban hành dầu thơm giới (đức), đã mặc vào tấm vải Chánh Pháp, đã phân phối tràng hoa Chánh Pháp.[5]

 

Dhammavimalamādāsaṃ  - ṭhapayitvā mahājane

keci nibbānaṃ patthentā  - passantu me alaṅkaraṃ. (45)

Sau khi đã thiết lập cho đại chúng tấm gương Giáo Pháp không tỳ vết, (vị ấy nói rằng): “Những ai mong mỏi Niết Bàn, hãy nhìn vào vật trang sức của ta.”

 

Sīlakañcukaṃ datvāna  - jhānakavacacammikaṃ

dhammacammaṃ pārupitvā  - datvā sannāhamuttamaṃ. (46)

Sau khi đã ban cho tấm áo giáp là Giới có tấm da chắn bảo vệ là Thiền phủ lên, sau khi đã trùm lên tấm da Giáo Pháp (là Niệm và Tỉnh Giác), sau khi đã ban cho tấm chiến bào tối thắng (là Tứ Chánh Cần).

 

Satiphalakaṃ datvāna  - tikhiṇañāṇakuntimaṃ

dhammakhaggavaraṃ datvā  - sīlasattuppamaddanaṃ. (47)

Sau khi đã ban cho tấm mộc che là Niệm, cây thương là Trí Tuệ sắc bén, sau khi đã ban cho cây gươm cao quý là Giáo Pháp và Giới nhằm mục đích trừ diệt kẻ thù.

 

Tevijjābhūsaṃ datvāna  - āveḷaṃ caturo phale

chaḷabhiññābharaṇaṃ datvā  - dhammapupphapilandhanaṃ. (48)

Sau khi đã ban cho vật tô điểm là ba Minh, vòng nguyệt quế là bốn Quả Vị, sau khi đã ban cho vật trang sức là sáu Thắng Trí và tràng hoa Giáo Pháp (là chín Pháp Siêu Thế).

 

Saddhammapaṇḍaracchattaṃ  - datvā pāpanivāraṇaṃ

māpayitvā abhayaṃ pupphaṃ  - nibbuto so sasāvako. (49)

Sau khi đã ban cho chiếc lọng trắng Diệu Pháp ngăn chặn các điều sai trái, sau khi làm hiện ra bông hoa Vô Úy, vị ấy đã Niết Bàn cùng với các Thinh Văn.

 

Eso hi sammāsambuddho  - appameyyo durāsado

eso hi dhammaratano  - svākkhāto ehipassiko. (50)

Chính vị này là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác không thể đo lường, khó thể đạt đến. Đây chính là Pháp Bảo đã khéo được thuyết giảng, hãy đến và thấy.

 

Eso hi saṅgharatano  - suppaṭipanno anuttaro

sabbaṃ samantarahitaṃ  - nanu rittā sabbasaṅkhārāti. (51)

Đây chính là Tăng Bảo đã thực hành đúng đắn và tối thượng, tất cả đều hoàn toàn biết mất, phải chăng tất cả các hành là trống không?

 

Mahākassapo jino satthā  - setabyārāmamhi nibbuto

tattheva tassa jinathūpo  - yojanubbedhamuggatoti. (52)

Đấng Chiến Thắng, bậc Đạo Sư Mahākassapa, đã Niết Bàn tại tu viện Assa. Ngôi bảo tháp của đấng Chiến Thắng dành cho vị ấy đã được dựng lên có chiều cao một do-tuần ở ngay tại nơi ấy.

 

Kassapabuddhavaṃso catuvīsatimo.

Lịch sử đức Phật Kassapa là phần thứ hai mươi bốn.

--ooOoo--