Skip directly to content

XVII. LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT TISSA

 

SATTARASAMO TISSABUDDHAVAṂSO

 

***

 

[18]

Siddhatthassa aparena  - asamo appaṭipuggalo

anantasīlo amitayaso  - tisso lokagganāyako. (1)

Sau (đức Phật) Siddhattha, bậc Lãnh Đạo hàng đầu của thế gian Tissa là không ai sánh bằng, không người đối địch, có giới hạnh vô biên, có danh vọng vô lường.

 

Tamandhakāraṃ vidhamitvā  - obhāsetvā sadevakaṃ

anukampako mahāvīro  - loke uppajji cakkhumā. (2)

Sau khi đã xua tan bóng đen tăm tối và chiếu sáng thế gian luôn cả các cõi trời, vị có lòng thương xót, đấng Đại Hùng, bậc Hữu Nhãn đã hiện khởi ở thế gian.

 

Tassāpi atulā iddhi  - atulā sīlasamādhiyo

sabbattha pāramiṃ gantvā  - dhammacakkaṃ pavattayi. (3)

Cũng có thần thông vô song, giới và định vô song, sau khi đạt đến sự toàn hảo về mọi phương diện, vị ấy đã chuyển vận bánh xe Chánh Pháp.

 

So buddho dasasahassamhi  - viññāpesi giraṃ suciṃ

koṭisatāni abhisamiṃsu  - paṭhame dhammadesane. (4)

Đức Phật ấy đã công bố lời diễn thuyết thanh tịnh ở trong mười ngàn thế giới. Hàng trăm koṭi đã lãnh hội trong cuộc thuyết giảng Giáo Pháp lần thứ nhất.

 

Dutiyo navutikoṭīnaṃ  - tatiye saṭṭhikoṭiyo

bandhanāto pamocesi  - sampatte naramarū tadā. (5)

Lần thứ nhì là của chín mươi ngàn koṭi. Lần thứ ba là của sáu mươi ngàn koṭi. Khi ấy, Ngài đã giúp cho nhân loại và chư thiên đã tề tựu lại được giải thoát khỏi các sự trói buộc.

 

Sannipātā tayo āsuṃ  - tissassa ca mahesino

khīṇāsavānaṃ vimalānaṃ  - santacittāna tādinaṃ. (6)

Bậc Đại Ẩn Sĩ Tissa cũng đã có ba lần tụ hội gồm các vị Lậu Tận không còn ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như thế ấy.

 

Khīṇāsavasatasahassānaṃ  - paṭhamo āsi samāgamo

navutisatasahassānaṃ  - dutiyo āsi samāgamo. (7)

Đã có cuộc hội tụ thứ nhất của một trăm ngàn bậc Lậu Tận. Đã có cuộc hội tụ thứ nhì của chín chục trăm ngàn (chín triệu) vị.

 

Asītisatasahassānaṃ  - tatiyo āsi samāgamo

khīṇāsavānaṃ vimalānaṃ  - pupphitānaṃ vimuttiyā. (8)

Đã có cuộc hội tụ thứ ba của tám chục trăm ngàn (tám triệu) bậc Lậu Tận, không còn ô nhiễm, đã nở hoa trong sự giải thoát.

 

Ahantena samayena  - sujāto nāma khattiyo

mahābhogaṃ chaḍḍayitvā  - pabbajiṃ isipabbajaṃ. (9)

Vào lúc bấy giờ, ta là vị sát-đế-lỵ tên Sujāta. Sau khi buông bỏ tài sản lớn lao, ta đã xuất gia làm ẩn sĩ.

 

Mayi pabbajite sante  - uppajji lokanāyako

buddhoti saddaṃ sutvāna  - pīti me upapajjatha. (10)

Khi ta đã xuất gia, đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã xuất hiện. Sau khi nghe được tiếng nói rằng: “Đức Phật!” khi ấy phỉ lạc đã phát khởi ở ta.

 

Dibbaṃ mandāravaṃ pupphaṃ  - padumaṃ pārichattakaṃ

ubho hatthehi paggayha  - dhunamāno upāgamiṃ. (11)

Sau khi nắm lấy hoa mạn-đà-la, hoa sen, hoa san hô của cõi trời bằng cả hai tay, ta đã vội vã đi đến.

 

Pātuvaṇṇaparivutaṃ  - tissaṃ lokagganāyakaṃ

tamahaṃ pupphaṃ gahetvā  - matthake dhāraye jinaṃ. (12)

Ta đã cầm lấy bông hoa ấy và đặt lên đỉnh đầu của đấng Chiến Thắng, bậc Lãnh Đạo Thế Gian Tissa đang được vây quanh bởi bốn thành phần (giai cấp).[2]

 

Sopi maṃ tadā byākāsi  - janamajjhe nisīdiya

dvānavute ito kappe  - ayaṃ buddho bhavissati. (13)

Khi ấy, ngồi giữa mọi người vị ấy cũng đã chú nguyện cho ta rằng: “Trong chín mươi hai kiếp tính từ thời điểm này, người này sẽ trở thành vị Phật.

 

Ahu kapilavhayā rammā - nikkhamitvā tathāgato

padhānaṃ padahitvāna  - katvā dukkarakārikaṃ. (14a)

Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

 

Ajapālarukkhamūlasmiṃ - nisīditvā tathāgato

tattha pāyāsaṃ paggayha - nerañjaramupehiti.

Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

 

Nerañjarāya tīramhi - pāyāsaṃ adi so jino

paṭiyattavaramaggena - bodhimūlamhi ehiti.

Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy hưởng dụng món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quý đã được dọn sẵn.

 

Tato padakhiṇaṃ katvā - bodhimaṇḍaṃ anuttaraṃ

assattharukkhamūlamhi  - bujjhissati mahāyaso.

Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề tối thắng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

 

Imassa janikā mātā  - māyā nāma bhavissati

pitā suddhodano nāma  - ayaṃ hessati gotamo.

Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

 

Kolito upatisso ca  - aggā hessanti sāvakā

anāsavā vītarāgā - santacittā samāhitā

ānando nāmupaṭṭhāko  - upaṭṭhissatimaṃ jinaṃ.

Kolita và Upatissa không còn lậu hoặc, tham ái đã lìa, có tâm an tịnh và định tĩnh sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng này.

 

Khemā uppalavaṇṇā ca  - aggā hessanti sāvikā

anāsavā vītarāgā - santacittā samāhitā.

Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu, không còn lậu hoặc, tham ái đã lìa, có tâm an tịnh và định tĩnh.

 

Bodhi tassa bhagavato  - assatthoti pavuccati.

citto ca hatthāḷavako  - aggā hessantupaṭṭhakā.

Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’ Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

Nandamātā ca uttarā  - aggā hessantupaṭṭhikā

āyu vassasataṃ tassa  - gotamassa yasassino.

Nandamātā và Uttarā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.

 

Idaṃ sutvāna vacanaṃ  - asamassa mahesino

āmoditā naramarū  - buddhavījaṅkuro ayaṃ.

Sau khi nghe được lời nói này của bậc Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại mừng rỡ (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

 

Ukkuṭṭhisaddā vattanti  - apphoṭenti hasanti ca

katañjalī namassanti  - dasasahassī sadevakā.

Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên thốt lên những tiếng reo hò, vỗ tay, nở nụ cười, chắp tay cúi lạy (nói rằng):

 

Yadimassa lokanāthassa  - virajjhissāma sāsanaṃ

anāgatamhi addhāne  - hessāma sammukhā imaṃ.

Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lãnh Đạo Thế Gian này thì chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

 

Yathā manussā nadiṃ tarantā  - paṭititthaṃ virajjhiya

heṭṭhā titthaṃ gahetvāna - uttaranti mahānadiṃ.

Giống như những người đang băng ngang giòng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua giòng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

 

Evameva mayaṃ sabbe - yadi muñcāmimaṃ jinaṃ

anāgatamhi addhāne - hessāma sammukhā imaṃ. (14b)

Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này thì chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

 

Tassāpi vacanaṃ sutvā  - bhiyyo cittaṃ pasādayiṃ

uttariṃ vattamadhiṭṭhāsiṃ  - dasapāramipūriyā. (15)

Nghe được lời nói của vị ấy, ta đã tăng thêm niềm tín tâm. Ta đã quyết định sự thực hành tối thắng để làm tròn đủ sự toàn hảo về mười pháp.

 

Khemakaṃ nāma nagaraṃ  - janasando nāma khattiyo

padumā nāma janikā  - tissassa ca mahesino. (16)

Thành phố có tên là Khemaka, vị vua dòng sát-đế-lỵ tên là Janasanda, người mẹ của bậc Đại Ẩn Sĩ Tissa tên là Padumā.

 

Sattavassasahassāni  - agāraṃ ajjhāvasi so

guṇaselanādiyanisabho  - tayo pāsādamuttamā. (17)

Vị ấy đã sống đời sống gia đình bảy ngàn năm. Có ba tòa lâu đài tuyệt vời là Guṇasela, Nādiya, và Nisabha.

 

Samatiṃsasahassāni  - nāriyo samalaṅkatā

subhaddā nāma sā nārī  - ānando nāma atrajo. (18)

Có đầy đủ ba mươi ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Subhaddā. Con trai tên là Ānanda.

 

Nimitte caturo disvā  - assayānena nikkhami

anūnakaṃ aḍḍhamāsaṃ  - padhānaṃ padahī jino. (19)

Sau khi nhìn thấy bốn điều báo hiệu, đấng Chiến Thắng đã ra đi bằng phương tiện ngựa và đã ra sức nỗ lực nửa tháng[3]không thiếu sót.

 

Brahmunā yācito santo  - tisso lokagganāyako

vattacakko mahāvīro  - yasavatīdāyamuttame. (20)

Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, bậc Lãnh Đạo hàng đầu của thế gian Tissa, đấng Đại Hùng có bánh xe (Chánh Pháp) đã được chuyển vận ở khu rừng tuyệt vời Yasavatī.

 

Brahmadevo udayo ca  - ahesuṃ aggasāvakā

samago nāmupaṭṭhāko  - tissassa ca mahesino. (21)

Brahmadeva và Udaya đã là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Tissa tên là Samaga.

 

Phussā ceva sudattā ca  - ahesuṃ aggasāvikā

bodhi tassa bhagavato  - asanoti pavuccati. (22)

Phussā và luôn cả Sudattā đã là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là “Asana.”

 

Sambalo ca siri ceva  - ahesuṃ aggupaṭṭhakā

kīsāgotamī upasenā  - ahesuṃ aggupaṭṭhikā. (23)

Sambala và luôn cả Siri sẽ là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Kīsāgotamī và Upasenā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.

 

So buddho saṭṭhiratano  - ahu uccattane jino

anūpamo asadiso  - himavā viya dissati. (24)

Cao sáu mươi ratana (15 mét), đức Phật, đấng Chiến Thắng ấy, không có vị tương đương, không có ai sánh bằng, được nhìn thấy như là núi Hy-mã-lạp.

 

Tassāpi atulatejassa  - āyu āsi anuttaro

vassasatasahassāni  - loke aṭṭhāsi cakkhumā. (25)

Tuổi thọ của vị có oai lực vô song ấy là tối thắng.[4]Bậc Hữu Nhãn đã tồn tại ở thế gian một trăm ngàn năm.

 

Uttamaṃ pavaraṃ seṭṭhaṃ  - anubhotvā mahāyasaṃ

jalitvā aggikkhandhova  - nibbuto so sasāvako. (26)

Sau khi đã thọ hưởng danh vọng lớn lao, tối thượng, cao quý, nhất hạng, vị ấy đã rực cháy như là khối lửa rồi đã Niết Bàn cùng với các vị Thinh Văn.

 

Valāhakova anilena  - suriyena viya ussavo

andhakārova dīpena  - nibbuto so sasāvako. (27)

Tương tợ như đám mây (biến mất) bởi làn gió, như là làn sương (biến mất) bởi mặt trời, như là bóng tối (biến mất) bởi ngọn đèn, vị ấy cùng với các Thinh Văn đã Niết Bàn.

 

Tisso jinavaro buddho  - nandārāmamhi nibbuto

tattheva tassa jinathūpo  - tīṇi yojanamuggatoti. (28)

Đức Phật, đấng Chiến Thắng cao quý Tissa đã Niết Bàn tại tu viện Nanda. Ngôi bảo tháp của đấng Chiến Thắng dành cho vị ấy đã được dựng lên cao ba do-tuần ở ngay tại nơi ấy.

 

Tissabuddhavaṃso sattarasamo.

Lịch sử đức Phật Tissa là phần thứ mười bảy.

--ooOoo--