VI. LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT SOBHITA
***
[7]
Revatassa aparena - sobhito nāma nāyako
samāhito santacitto - asamo appaṭipuggalo. (1)
Sau (đức Phật) Revata, vị Lãnh Đạo tên Sobhita là định tĩnh, có tâm thanh tịnh, không kẻ sánh bằng, không người đối thủ.
So jino sakagehamhi - mānasaṃ vinivattayi
patvāna kevalaṃ bodhiṃ - dhammacakkaṃ pavattayi. (2)
Ở tại ngôi nhà của mình, đấng Chiến Thắng ấy đã chuyển đổi tâm trí, đã đạt đến sự Giác Ngộ hoàn toàn, và đã chuyển vận bánh xe Chánh Pháp.
Yāva uddhaṃ avīcito - bhavaggā cāpi heṭṭhato
etthantare ekaparisā - ahosi dhammadesane. (3)
Từ địa ngục Avīci tính lên phía trên và từ cõi trời cao nhất tính xuống phía dưới, phần không gian ở giữa này đã có một tập thể (tụ hội) trong cuộc thuyết giảng Giáo Pháp.
Tāya parisāya sambuddho - dhammacakkaṃ pavattayi
gaṇanāya na vattabbo - paṭhamābhisamayo ahu. (4)
Đấng Toàn Giác đã chuyển vận bánh xe Chánh Pháp ở tại hội chúng ấy. Đã có sự lãnh hội lần thứ nhất là không thể nói được bằng cách tính đếm.
Tato paraṃpi desente - naramarūnaṃ samāgame
navutikoṭisahassānaṃ - dutiyābhisamayo ahu. (5)
Về sau vào lúc khác, trong khi thuyết giảng ở cuộc hội tụ của loài người và chư thiên, đã có sự lãnh hội lần thứ nhì là của chín chục ngàn koṭi.
Punāparaṃ rājaputto - jayaseno nāma khattiyo
ārāmaṃ ropayitvāna - buddhe niyyādayī tadā. (6)
Vào lần khác nữa, có vị vương tử dòng sát-đế-lỵ tên Jayasena sau khi cho trồng trọt khu vườn đã cống hiến đến đức Phật trong dịp ấy.
Tassa yāgaṃ pakittento - dhammaṃ desesi cakkhumā
tadā koṭisahassānaṃ - tatiyābhisamayo ahu. (7)
Trong khi công bố sự hiến dâng của vị ấy, bậc Hữu Nhãn đã thuyết giảng Giáo Pháp. Khi ấy, đã có sự lãnh hội lần thứ ba là của một ngàn koṭi.
Sannipātā tayo āsuṃ - sobhitassa mahesino
khīṇāsavānaṃ vimalānaṃ - santacittāna tādinaṃ. (8)
Bậc Đại Ẩn Sĩ Sobhita đã có ba lần tụ hội gồm các vị Lậu Tận, không còn ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như thế ấy.
Uggato nāma so rājā - dānaṃ deti naruttame
tamhi dāne samāgañchuṃ - arahantā satakoṭiyo. (9)
Đức vua tên Uggata ấy dâng cúng vật thí đến đấng Tối Thượng Nhân. Trong lần cúng dường ấy, một trăm koṭi vị A-la-hán đã tụ hội lại.
Punāparaṃ pūgagaṇo - dānaṃ deti naruttame
tadā navutikoṭīnaṃ - dutiyo āsi samāgamo. (10)
Vào lần khác nữa, có nhóm người thuộc đoàn thể dâng cúng vật thí đến đấng Tối Thượng Nhân. Khi ấy, đã có cuộc hội tụ thứ nhì của chín mươi koṭi vị.
Devaloke vasitvāna - yadā orohatī jino
tadā asītikoṭīnaṃ - tatiyo āsi samāgamo. (11)
Vào lúc đấng Chiến Thắng giáng trần sau khi đã cư ngụ ở cõi trời, khi ấy đã có cuộc hội tụ thứ ba của tám mươi koṭi vị.
Ahantena samayena - sujāto nāma brāhmaṇo
tadā sasāvakaṃ buddhaṃ - annapānena tappayiṃ. (12)
Vào lúc bấy giờ, ta là vị bà-la-môn tên Sujāta. Khi ấy, ta đã làm hài lòng đức Phật cùng các vị Thinh Văn bằng thức ăn nước uống.
Sopi maṃ buddho byākāsi - sobhito lokanāyako
aparimeyye ito kappe - ayaṃ buddho bhavissati. (13)
Đức Phật ấy, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Sobhita, cũng đã chú nguyện cho ta rằng: “Trong vô lượng kiếp tính từ thời điểm này, người này sẽ trở thành vị Phật.
Ahu kapilavhayā rammā - nikkhamitvā tathāgato
padhānaṃ padahitvāna - katvā dukkarakārikaṃ. (14a)
Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).
Ajapālarukkhamūlasmiṃ - nisīditvā tathāgato
tattha pāyāsaṃ paggayha - nerañjaramupehiti.
Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).
Nerañjarāya tīramhi - pāyāsaṃ adi so jino
paṭiyattavaramaggena - bodhimūlamhi ehiti.
Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy hưởng dụng món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quý đã được dọn sẵn.
Tato padakhiṇaṃ katvā - bodhimaṇḍaṃ anuttaraṃ
assattharukkhamūlamhi - bujjhissati mahāyaso.
Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề tối thắng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.
Imassa janikā mātā - māyā nāma bhavissati
pitā suddhodano nāma - ayaṃ hessati gotamo.
Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.
Anāsavā vītarāgā - santacittā samāhitā
kolito upatisso ca - aggā hessanti sāvakā
ānando nāmupaṭṭhāko - upaṭṭhissatimaṃ jinaṃ.
Kolita và Upatissa không còn lậu hoặc, tham ái đã lìa, có tâm an tịnh và định tĩnh sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng này.
Khemā uppalavaṇṇā ca - aggā hessanti sāvikā
anāsavā vītarāgā - santacittā samāhitā.
Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu, không còn lậu hoặc, tham ái đã lìa, có tâm an tịnh và định tĩnh.
Bodhi tassa bhagavato - assatthoti pavuccati.
citto ca hatthāḷavako - aggā hessantupaṭṭhakā.
Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’ Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu.
Nandamātā ca uttarā - aggā hessantupaṭṭhikā
āyu vassasataṃ tassa - gotamassa yasassino.
Nandamātā và Uttarā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”
Idaṃ sutvāna vacanaṃ - asamassa mahesino
āmoditā naramarū - buddhavījaṅkuro ayaṃ.
Sau khi nghe được lời nói này của bậc Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại mừng rỡ (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”
Ukkuṭṭhisaddā vattanti - apphoṭenti hasanti ca
katañjalī namassanti - dasasahassī sadevakā.
Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên thốt lên những tiếng reo hò, vỗ tay, nở nụ cười, chắp tay cúi lạy (nói rằng):
Yadimassa lokanāthassa - virajjhissāma sāsanaṃ
anāgatamhi addhāne - hessāma sammukhā imaṃ.
“Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lãnh Đạo Thế Gian này thì chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.
Yathā manussā nadiṃ tarantā - paṭititthaṃ virajjhiya
heṭṭhā titthaṃ gahetvāna - uttaranti mahānadiṃ.
Giống như những người đang băng ngang giòng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua giòng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.
Evameva mayaṃ sabbe - yadi muñcāmimaṃ jinaṃ.
anāgatamhi addhāne - hessāma sammukhā imaṃ. (14b)
Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này thì chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”
Tassāpi vacanaṃ sutvā - tuṭṭho saṃviggamānaso
tamevatthamanuppattiyā - uggaṃ dhitimakāsahaṃ. (15)
Nghe được lời nói của vị ấy, được hoan hỷ, với tâm trí phấn chấn, ta đã thực hiện sự nỗ lực tích cực nhằm theo đuổi chính mục đích ấy.
Sudhammaṃ nāma nagaraṃ - sudhammo nāma khattiyo
sudhammā nāma janikā - sobhitassa mahesino. (16)
Thành phố có tên là Sudhamma, vị vua dòng sát-đế-lỵ tên là Sudhamma, người mẹ của vị Đại Ẩn Sĩ Sobhita tên là Sudhammā.
Navavassasahassāni - agāraṃ ajjhāvasi so
kumudo nāḷinī padumo - tayo pāsādamuttamā. (17)
Vị ấy đã sống đời sống gia đình chín ngàn năm. Có ba tòa lâu đài tuyệt vời là Kumuda, Nāḷinī, và Paduma.
Ticattāri sahassāni - nāriyo samalaṅkatā
makilā nāma sā nārī - sīho nāmāsi atrajo. (18)
Có bốn mươi ba ngàn phụ nữ được trang điểm. Nữ nhân ấy (người vợ) tên là Makilā. Con trai tên là Sīha.
Nimitte caturo disvā - pāsādenābhinikkhami
sattāhaṃ padhānacāraṃ - caritvā purisuttamo. (19)
Sau khi nhìn thấy bốn điều báo hiệu, bậc Tối Thượng Nhân đã ra đi bằng tòa lâu đài[1]và đã thực hành sự nỗ lực bảy ngày.
Brahmunā yācito santo - sobhito lokanāyako
vattacakko mahāvīro - sudhammuyyānamuttame. (20)
Được đấng Phạm Thiên thỉnh cầu, vị Lãnh Đạo Thế Gian, đấng Đại Hùng Sobhita có bánh xe (Chánh Pháp) đã được chuyển vận ở vườn thượng uyển Sudhamma tuyệt vời.
Asamo ca sunetto ca - ahesuṃ aggasāvakā
anomo nāmupaṭṭhāko - sobhitassa mahesino. (21)
Asama và Sunetta đã là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả của bậc Đại Ẩn Sĩ Sobhita tên là Anoma.
Nakulā ca sujātā ca - ahesuṃ aggasāvikā
bujjhamāno ca so buddho - nāgamūle abujjhatha. (22)
Nakulā và Sujātā đã là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu. Và khi ấy trong lúc giác ngộ, đức Phật ấy đã giác ngộ ở cội cây Nāga.
Rammo ceva sunetto ca - ahesuṃ aggupaṭṭhakā
nakulā ceva cittā ca - ahesuṃ aggupaṭṭhikā. (23)
Ramma và luôn cả Sunetta đã là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu. Nakulā và luôn cả Cittā đã là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu.
Aṭṭhapaṇṇāsaratanaṃ - accuggato mahāmuni
obhāseti disā sabbā - sataraṃsīva uggato. (24)
Cao năm mươi tám ratana (14 mét rưỡi), vị Đại Hiền Triết chiếu sáng tất cả các phương như là mặt trời mọc.
Yathā suphullaṃ pavanaṃ - nānāgandhehi dhūpitaṃ
tatheva tassa pāvacanaṃ - sīlagandhehi dhūpitaṃ. (25)
Giống như khu rừng lớn nở rộ hoa tỏa hương với các hương thơm khác loại, tương tợ y như thế lời tuyên thuyết của vị ấy tỏa hương với các hương thơm của giới.
Yathāpi sāgaro nāma - dassanena atappiyo
tatheva tassa pāvacanaṃ - savanena atappiyaṃ. (26)
Cũng giống như biển cả không thể được thỏa mãn bởi sự ngắm nhìn, tương tợ y như thế lời tuyên thuyết của vị ấy không thể được thỏa mãn bởi sự lắng nghe.
Navutivassasahassāni - āyu vijjati tāvade
tāvatā tiṭṭhamāno so - tāresi janataṃ bahuṃ. (27)
Tuổi thọ được biết là kéo dài đến chín mươi ngàn năm. Trong khi tồn tại đến chừng ấy, vị ấy đã giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.
Ovādaṃ anusiṭṭhiñca - datvāna sesake jane
hutāsanova tāpetvā - nibbuto so sasāvako. (28)
Sau khi đã ban lời giáo huấn và nhắc nhở các chúng sanh còn lại,[2]vị ấy cùng với các vị Thinh Văn đã phát cháy giống như ngọn lửa rồi đã Niết Bàn.
So ca buddho asamasamo - te ca sāvakā balappattā
sabbaṃ tamantarahitaṃ - nanu rittā sabbasaṅkhārāti. (29)
Đức Phật ấy là vị tương đương với các bậc không thể sánh bằng, và các vị Thinh Văn ấy là đã thành tựu các năng lực, tất cả đều hoàn toàn biết mất, phải chăng tất cả các hành là trống không?
Sobhito varasambuddho - sīhārāmamhi nibbuto
dhātuvitthārikaṃ āsi - tesu tesu padesatoti. (30)
Đức Phật Sobhita, đấng Toàn Giác cao quý đã Niết Bàn tại tu viện Sīha. Đã có sự phân tán xá-lợi từ xứ sở ấy đến khắp các nơi.
Sobhitabuddhavaṃso chaṭṭho.
Lịch sử đức Phật Sobhita là phần thứ sáu.
--ooOoo--