Huynh đệ tu viện Thường Chiếu thưa hỏi
Vì Thầy THÔNG LẠC đến sáng mai mới về, nên tối nay huynh đệ chúng tôi khẩn khoản thỉnh Thầy hoan hỷ cho chúng tôi tham vấn. Sau giờ xả thiền chúng tôi trải chiếu, bày trà nơi gian nhà trống và mời Thầy đến.
Thầy THÔNG QUÁN đã thay mặt huynh đệ hỏi trước.
- Thưa Thầy con nghe Thầy có dạy các pháp tu định và tu quán, các pháp này thế nào?
Thầy THÔNG LẠC bảo:
- Hai phép tu định và tu quán không khác với nhau đường lối của Thầy viện chủ chỉ là tuỳ căn cơ người học mà Thầy thiên về định hay về quán thôi (Thầy THÔNG LẠC có thói quen xưng “Thầy” gọi chúng tôi là “huynh đệ” có lẽ vì Thầy thấy thân mật, chúng tôi cũng thấy cởi mở).
Với người thông minh học nhiều – Thầy tiếp – Thầy cho họ pháp quán xả tâm để đi suốt con đường tri kiến giải thoát tận đỉnh. Ngay tri kiến giải thoát tận đỉnh là tâm bất động tức là Bất Động Tâm Định. Bất Động Tâm Định là mục đích của đạo Phật, người tu tập tới đây muốn nhập định nào cũng dễ dàng và thực hiện Tam Minh cũng không còn khó khăn. Muốn thực hiện là được liền, tức là phải dùng pháp hướng tâm. Cho nên trong kinh thường dạy: “Hướng tâm đến Túc Mạng Minh; hướng tâm đến Thiên nhãn Minh; hướng tâm đến Lậu Tận Minh v.v...”. Nhưng các huynh đệ hãy lưu ý: muốn đạt được tâm bất động như vậy mà không tu tập Tứ Niệm Xứ thì không bao giờ đạt được. Muốn tu tập Tứ Niệm Xứ sung mãn mà không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì Tứ Niệm Xứ chỉ là một pháp ức chế tâm, khiến cho hành giả rơi vào các loại thiền tưởng, có khi bị Tẩu Hỏa Nhập Ma.
Tùy căn cơ của mỗi người, đôi khi Thầy cho họ một câu hỏi khó giải để diệt ý thức phân biệt, nhờ đó nghi tình sẽ phát khởi, khi nghi tình phát khởi thì cái nghi chôn sâu vào tâm họ, chờ duyên khai phát cái nghi đó. Cái nghi bùng vỡ là pháp tưởng hiện tiền, 1.700 công án họ đều phá sạch, không một cái nào dấu họ được. Nhưng cái khuyết ở trường hợp này là trên đường đi họ dễ sanh ngã mạn, nói năng to lớn. Người thầy phải biết trị cái bệnh này biết “thằng này nói dóc”, chặn lại và sách tấn họ vượt qua tiếp, khéo chuyển kiến giải, tưởng giải thành tri kiến giải thoát. Đa số người kiến giải, tưởng giải ở phương tiện này đều phải hàm dưỡng nhiếp tâm, an trú tâm và sức tỉnh giác rất cao để bất động tâm chứng ngộ chân lí.
Còn với người trì độn ít học, Thầy chỉ họ tu Định Niệm Hơi Thở, từ đề mục thứ nhất cho tới đề mục thứ 19. Nếu họ vào định thật sự rồi, tức là vào chỗ tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Đó là chân lí thứ ba của đạo Phật trong Tứ Diệu Đế. Cái khuyết ở trường hợp này là họ dễ chìm trong si định, cái định si mê ham ngủ, lười biếng. Nếu người thầy khéo gỡ mối đưa họ qua khỏi trạng thái si mê này thì họ chứng đạo. Trường hợp người đi qua phương tiện tu Định Niệm Hơi Thở này, khi đạt được đề mục thứ 19 thì cũng là chứng ngộ luôn.
Thầy THÔNG VÂN thưa:
- Trong kinh pháp Bảo Đàn. Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Niệm khởi liền giác, không sợ vọng khởi, chỉ là đừng lầm vọng tưởng”. Lời dạy này có khác với Thầy chăng thưa Thầy?
Thầy THÔNG LẠC bảo:
- Cái diệt niệm của Tiểu Thừa là diệt niệm ác, còn niệm thiện không diệt, cho nên Tứ Chánh Cần dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”, trong kinh Pháp Cú dạy: “Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành” hoặc “Thấy lỗi mình không thấy lỗi người”, để vào Bất Động Tâm Định. Cho nên khác với cái giác niệm của Đại Thừa. Với Đại Thừa niệm khởi mình chỉ biết thì nó không còn là vọng tưởng nữa. Tuy nhiên trong Thiếu Thất Lục Môn Tổ ĐẠT MA có dạy Lý nhập và Hạnh nhập. Người thượng căn khi nghe một câu liền ngộ và từ đó sống luôn với chỗ ngộ của mình đây gọi là lý nhập nhưng với người kém hơn phải nhờ Hạnh nhập, tức là tu định một thời gian mới có thể thấy tánh.
LỤC TỔ có bảo “Niệm trước không sanh là tâm, niệm sau không diệt là Phật”, “Trước niệm không sanh là Phật, sau niệm không thêm cái diệt chỗ đó là tâm”. Nếu giữ được như vậy lâu ngày thì thành viên mãn. Đó là theo pháp môn ảo tưởng của Đại Thừa, Thiền Tông nên chỉ nói suông, chứ không thể thực hiện được. Cho nên Tổ sư và các đệ tử nhiều đời nhiều kiếp chỉ chết cứng trong những kiến tưởng giải này không lối thoát, vì thế không ai làm chủ sanh, già, bệnh, chết được. Còn người nhập định như gốc cây cục đá, chẳng đem lợi ích gì cho mình, cho người. Những loại thiền định ngôn ngữ suông này nó đã diệt nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo xuống tận đáy vực thẳm. Vì thế, hỏi đến nền đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì từ thiền sư Tổ cho đến các thiền sư con đều không ai biết, họ chỉ biết kiến tánh thành Phật. Phật của họ là Phật phạm giới, tự tại vô ngại đói ăn khát uống mệt ngủ, nên ăn uống phi thời có sao đâu. Họ cho rằng dâm dục cũng đâu có mất Phật tánh, vì tánh Phật xưa nay đều có sẵn. Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh. Uống rượu ăn thịt như TẾ CÔNG, TUỆ TRUNG cũng đâu có mất Phật tánh.
- Thưa Thầy, có ý kiến Tổ sư thiền là đến siêu phương tiện, không qua thứ lớp định huệ đồng thời. Còn Thầy chia hai phương tiện như vậy có hợp chăng?
- Đây chỉ là phương tiện ban đầu của Thầy để đưa người mới học đến cửa. Thật ra không phải căn cơ người nào cũng giống nhau. Người thượng thượng căn một lần nghe là đốn chứng viên mãn. Người thượng căn có đốn ngộ cũng phải tiệm tu. Còn người trung, hạ căn phải có phương tiện mới xả tâm rốt ráo. Như ngài KHUÊ PHONG, tuy đã ngộ, nhưng Ngài tự thấy mình còn ái kiến nên bỏ vào núi tập định ngót mười năm mới sạch.
Thầy THÔNG QUÁN lại thưa:
- Thưa Thầy có dùng lối chỉ thẳng như các vị thiền sư không?
Thầy THÔNG LẠC bảo:
- Có, có khi qua cái dụng để chỉ cái thể, có khi đốn cơ gạt bỏ tri thức khiến họ ngộ nhập. Nhưng trường hợp này ít ỏi.
Một Thầy mới đến thiền viện thưa:
- Thưa Thầy con dùng lối sổ tức để tập tu ban đầu, nhưng trong mười hơi đang đếm vẫn còn vọng niệm xen lẫn.
Thầy THÔNG LẠC bảo:
- Vậy là còn thiếu phước nên tu thập thiện, sư đệ hãy phát nguyện tu thập thiện, bắt đầu khởi tu tập ngăn ác diệt ác pháp và sinh thiện tăng trưởng thiện pháp như trong kinh Thập Thiện dạy. Khi tu tập pháp này thuần thục rồi, thì sư đệ mới tiếp tục tu 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở thì sẽ không còn vọng tưởng xen lẫn vào nữa.
- Thầy THÔNG QUÁN lại hỏi:
- Nếu không tỉnh giác có bị các pháp cột trói không thưa Thầy?
- Không tỉnh giác là bị các ác pháp cột trói. Cho nên tu tập cần phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác. Chánh Niệm Tỉnh Giác có bốn giai đoạn tu tập:
1- Giai đoạn thứ nhất: Đi kinh hành bình thường, chỉ 10 bước đứng lại tác ý một lần: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Khi tác ý xong câu này rồi tiếp tục đi. Đi và đứng lại tác ý như vậy đúng 30’ mới xả nghỉ.
2- Giai đoạn thứ hai: Đi kinh hành bình thường, chỉ 10 bước đứng lại tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra một lần”. Sau khi tác ý xong rồi thở ra hít vô đúng 5 hơi thở ngưng lại thì tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Khi đi xong 10 bước đứng lại tác ý thở như trên. Tu tập như vậy đúng 30’ rồi xả nghỉ.
3- Giai đoạn thứ ba: Đi kinh hành bình thường, chỉ 10 bước ngồi xuống kiết già hay bán già lưng thẳng, mắt nhìn chóp mũi rồi tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Sau khi tác ý xong rồi thở ra, hít vô đúng 5 hơi thở, ngưng lại đứng dậy tác ý: “Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Khi đi xong 10 bước đứng lại rồi ngồi xuống tác ý thở như trên. Tu tập như vậy đúng 30’ rồi xả nghỉ.
4- Giai đoạn thứ tư: Đi kinh hành theo pháp Thân Hành Niệm, pháp này phải được trực tiếp với người có kinh nghiệm dạy, chứ đừng tự mình tu tập thì dễ bị sai lệch rất nguy hiểm. Pháp này mỗi hành động trong thân đều phải tác ý trước rồi mới hành động sau, có nghĩa là lệnh đâu thì hành động phải theo đó mà thi hành.
Thầy THÔNG QUÁN hỏi:
- Nếu không tỉnh giác cũng không bị vọng tưởng có bị các pháp cột trói không thưa Thầy?
- Nếu không tỉnh giác cũng không bị vọng tưởng có bị các pháp cột trói không. Đó là đã rơi vào không như cây đá rồi. Người tu hành mà để thành cây đá thì có ích lợi gì. Câu hỏi của sư đệ không bao giờ có trường hợp xảy ra như vậy. Không tỉnh giác tức là mê. Mê có hai ngả:
- Ngả thứ nhất là bị vọng tưởng.
- Ngả thứ hai là bị hôn trầm, thùy Miên, vô ký, ngoan không.
Hai ngả này xác định khi mê thì không chạy đâu khỏi, không rơi ngả này thì phải lọt ngả khác, cho nên không bị các pháp cột trói là không có.
Không tỉnh giác cũng không bị vọng tưởng là bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không rồi. Đã bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, còn tỉnh đâu mà các pháp cột trói. Có đúng như vậy không các huynh đệ.
- Cho nên không bị vọng tưởng lôi kéo thì ngay đó là tỉnh giác rồi, Có tỉnh giác thì các pháp làm sao trói buộc? Câu hỏi của sư đệ vô lý, chỉ đặt ra hỏi cho có hỏi chứ không có nghĩa lý gì cả.
Thưa các huynh đệ! Muốn thưa hỏi tu hành hay thưa hỏi để nói chuyện tào lao, người tu hành không phí thời gian vô ích. Sau này sư đệ muốn thưa hỏi thì phải thưa hỏi những câu hỏi có ý nghĩa trong vấn đề tu tập và cũng không nên hỏi những câu hỏi ngoài vấn đề.
Đưa cái ly ra thầy THÔNG QUÁN lại hỏi tiếp:
- Bạch Thầy, nếu bảo thấy cái ly là chạy theo vật, còn nói không thấy cái ly là phủ nhận sự hiện hữu vậy phải làm sao?
- Thấy cái ly mà chạy theo vật là phàm phu, không thấy cái ly là ngoại đạo chấp không (Đại Thừa Bát Nhã).
Thầy THÔNG QUÁN lại hỏi tiếp:
- Bạch Thầy các thiền sư ngồi thiền biết thân hay không biết thân?
- Thiền định có nhiều cấp độ nhập định, nên các trạng thái định cũng có rất nhiều. Thầy xin kể cho các sư đệ nghe Thiền định được phân làm hai loại:
1- Loại nhập định còn biết thân gọi là TÂM ĐỊNH.
2- Loại nhập định không biết thân gọi là THÂN ĐỊNH.
Tâm định gồm có những loại định như sau:
1- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác
2- Định Vô Lậu
3- Định Niệm Hơi Thở
4- Định Sáng Suốt
5- Định Tư Cụ (Tứ Chánh Cần)
6- Định Tứ Niệm Xứ
7- Định Thân Hành Niệm
8- Định Từ Tâm
9- Định Bi Tâm
10- Định Hỷ Tâm
11- Định Xả Tâm
12- Định Tứ Bất Hoại Tịnh
13- Định Bất Động Tâm
14- Định Vô tướng Tâm
15- Định Diệt Tầm Giữ Tứ
16- Định Sơ Thiền
Thân định gồm có những loại định như sau:
1- Định Nhị Thiền
2- Định Tam Thiền
3- Định Tứ Thiền
4- Định Không Vô Biện Xứ Tưởng
5- Định Thức Vô Biên Xứ Tưởng
6- Định Vô Sở Hữu Xứ Tưởng
7- Định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
8- Định Diệt Thọ Tưởng
Còn riêng các loại thiền định khác của pháp Yoga, của Mật Tông, của Minh Sát Tuệ, của Thiền Đông Độ, của kinh sách phát triển Đại Thừa, của Pháp Vô Vi xuất hồn ông Tám, ông Tư, của Tiên Đạo Lão Tử, Trang Tử v.v... đều thuộc thiền định tưởng, không được ghép vào thiền của Phật giáo, vì những loại thiền định này không ly dục ly ác pháp, không thực hiện được Tứ Thần Túc và Tam Minh, nó thuộc về thiền định của ngoại đạo.
Thầy THÔNG QUÁN lại hỏi tiếp:
- Bạch Thầy, thiền sư khi không tiếp duyên, không khởi trí dụng, có thấy các pháp là huyễn hóa không?
- Khi không khởi trí dụng thì có pháp nào nói huyễn nói chơn?
Thầy THÔNG QUÁN lại thưa:
- Bạch Thầy, từ lâu chúng con có những thắc mắc về Thầy, nay xin Thầy hoan hỷ giải bày cho chúng con hết mọi nghi ngờ. Bạch Thầy lần trước con có nghe Thầy nói vấn đề tu do chim thú cúng dường, lại nghe Thầy xin Thầy viện chủ nhập NIẾT BÀN. Thầy còn thấy NIẾT BÀN nào để nhập chăng?
Thầy THÔNG LẠC thong thả bảo:
- Trong kinh Bát Thành có dạy tám pháp độc nhất, người tu hành chỉ cần ôm một pháp tu tập cũng đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn. Tám pháp ấy gồm có:
1- Từ tâm
2- Bi tâm
3- Hỷ tâm
4- Xả Tâm
5- Sơ thiền
6- Nhị thiền
7- Tam thiền
8- Tứ thiền
Người tu tập Từ tâm, tâm luôn luôn lúc nào cũng biết yêu thương, chứ không biết ghét giận hờn ai cả. Họ thực hiện đức hiếu sinh, không phải họ chỉ thương mọi người, mọi loài động vật mà còn thương tất cả cỏ cây sông núi, không khí nước uống v.v... Như ông Phú Lâu Na, Người đã thực hiện Từ tâm đến rốt ráo hiện tiền, nên chứng quả A La Hán cũng do từ pháp Từ Tâm Tứ Vô Lượng.
Một hôm ông Phú Lâu Na xin Phật đi giáo hóa ở một nước xa xôi. Đức Phật bảo:
- Dân ở đó hung dữ lắm, họ sẽ chửi mắng con đó.
Ông trả lời:
- Dân ở đó họ còn thương con, họ chưa lấy cây đánh con.
- Họ sẽ lấy cây đánh con.
- Dân ở đó họ còn thương con, họ lấy cây đánh con, chứ chưa lấy dao giết con.
- Họ sẽ lấy dao giết con.
- Dân ở đó họ còn thương con, họ lấy dao giết con, vì con còn mang thân này là còn khổ đau, mất thân này con vào Niết Bàn, không còn đau khổ nữa.
- Thôi! Con cứ đi, đi!
Người tu Từ tâm như vậy từ trường thiện phóng xuất nơi họ ở, do đó tất cả chúng sanh đều sống bên họ không sợ hãi. Người tu hành có từ tâm như vậy, nên mới có những loài vượn hái trái cây cúng dường. Phật và những đạo sĩ tu khổ hạnh trong rừng thường xảy ra những trường hợp này.
Còn ở đây khi huynh đệ muốn cho chim thú cúng dường thì chim thú không cúng dường. Chim thú cúng dường là do từ tâm. Có đúng như vậy không các huynh đệ.
Thầy xin lập lại câu hỏi thứ hai của Thầy THÔNG QUÁN:
- Thầy còn thấy NIẾT BÀN nào để nhập chăng?
- Có lẽ lo tu thiền tri vọng nên sư đệ không học bài pháp Tứ Diệu Đế sao? Vậy Diệt đế là gì? Diệt đế không phải là Niết Bàn sao. Phật dạy: Người tu hành trước tiên phải giác ngộ chân lí rồi sau mới hộ trì và bảo vệ chân lí, nếu không ngộ được chân lí thì biết cái gì mà hộ trì, bảo vệ, Thiền Đông Độ không dạy sư đệ KIẾN TÁNH rồi khởi tu sao?
Năm anh em Kiều Trần Như nghe xong bài pháp này liền chứng quả A La Hán. Sư đệ không nhớ: Thiền Tông dạy: “KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT”. Vậy Phật là gì? Không phải Niết Bàn sao?
Nói nhập Niết Bàn là danh từ nói chứ từ khi kiến tánh thành Phật là đã nhập Niết Bàn chứ còn chỗ nào nữa. Cho nên người tu hành chứng đạo thì thân tâm đều luôn ở trong Niết Bàn. Thân tâm đều luôn ở trong Niết Bàn nên gọi là HỮU DƯ Niết Bàn, còn người tu chứng thân đã chết thì gọi là Vô Dư Niết Bàn.
Vậy sư đệ nói: Thầy còn thấy NIẾT BÀN nào để nhập chăng?
Tội nghiệp sư đệ quá, sư đệ đừng lấy những câu phá chấp của kinh sách Đại Thừa mà hiểu lầm rằng còn thấy Niết Bàn là chưa biết Niết Bàn.
Sư đệ đưa câu hỏi này ra chứng tỏ sư đệ không có nghiên cứu kinh sách, chỉ đọc một vài cuốn kinh Đại Thừa, giống như người trì độn công phu, tu tập trong ngu si.
Nói chân lí tức là nói một sự thật, một sự thật thì người chưa tu cũng phải nhận ra, nếu người chưa tu không nhận ra được thì đó đâu phải là chân lí. Như Phật Tánh đâu phải là chân lí, người tu gần chết mà còn chưa kiến tánh được huống là người chưa tu thì biết gì là Phật Tánh. Cho nên Phật Tánh không phải là chân lí. Còn Diệt Đế là chân lí. Tại sao dám khẳng định Diệt Đế là chân lí?
- Thứ nhất kinh thường nhắc đến bốn chân lí của Phật giáo.
- Thứ hai là bài kinh xác định là diệt hết lòng ham muốn.
- Thứ ba là chỉ định trạng thái hết lòng ham muốn, đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
- Thứ tư là trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Bốn điều nêu trên đây nếu người nào chưa tu cũng nhận ra được, đó là một trạng thái thật sự của con người, chứ không phải là cảnh giới bên ngoài, là con người không ai là không nhận ra được Chỉ có sư đệ THÔNG QUÁN hiểu lầm tưởng Niết Bàn mà Thầy THÔNG LẠC nói nhập là cảnh giới bên ngoài như cõi Cực Lạc hay cõi Thiên Đàng.
Nghe đến chỗ này các huynh đệ đều cởi mở, vui vẻ.
Sáng hôm sau Thầy THÔNG LẠC đã chào Sư phụ và từ giã huynh đệ ra về. Chúng tôi trân trọng xá Thầy, một đại sư huynh đã cho chúng tôi tấm gương tu hành lớn lao. Chúng tôi cũng nguyện theo tấm gương tinh tấn của Thầy vững bước đi theo đường mà Sư phụ đã vạch lối, con đường thiền giáo đồng hành mà trong đó việc tìm lại căn bản giáo lý đức Phật là điều quan trọng.
HẾT