Skip directly to content

MỸ CHÂU THAM VẤN - THƯỜNG XUYÊN NHƯ LÝ TÁC Ý

MỸ CHÂU THAM VẤN - THƯỜNG XUYÊN NHƯ LÝ TÁC Ý

MỸ CHÂU THAM VẤN - THUYỀN XUYÊN NHƯ LÝ TÁC Ý

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời lượng: [01:32:15]

1- THAY ĐỔI TƯ THẾ TRONG GIỜ TU ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ

Trưởng lão: Hôm nay Mỹ Châu về. Con trình lại cái sự tu tập, con có cái gì mà gặp khó khăn, hay hoặc cái trạng thái gì, con trình lại Thầy sẽ giúp cho con. Mỹ Châu đó con!

Phật tử Mỹ Châu: Dạ kính thưa Thầy! Con nhận thấy cái tâm con là tâm tham, sân, si. Cho nên trong cái hành động thường ngày thì con tỉnh thức để để tác ý xả tham, sân, si. Rồi trong Thiền Định đó, thì con ngồi một tiếng, thấy nó an toàn, nhưng mà sau đó thì cái chân con nó tê. Rồi cái con cũng trong vòng xong một tiếng rồi, thì sau đó con không mà biết đường nữa. Thành ra nó có bị gục.

Tong khi tu đó, thì con tu Định Niệm Hơi Thở kết hợp với lại Định Vô Lậu, thì con thấy rất là ổn, trong vòng một tiếng. Và rồi cái bây giờ con gặp khó khăn, là trong cái sự mà bị ngủ đó Thầy, kéo dài thì nó bị ngủ. Với nó làm như con bí đường rồi. Con ngồi được có một tiếng cái con bí. Dạ thưa Thầy, vậy kính nhờ Thầy chỉ dạy con thêm!

(1:45) Trưởng lão: Trong khi tu tập mà con gặp cái trường hợp mà nó xảy ra như vậy đó. Thứ nhất là cái phần mà Thầy dạy đó, là cái Thiền bốn thiền đó, là cái Thiền nó Hữu Sắc. Mà nói Thiền Hữu Sắc tức là nói Thiền của ý thức, chứ không phải Thiền của tưởng thức. Bởi vì trong một con người của chúng ta nó chia làm ba cái Thức.

Cái Thức thứ nhất là cái Sắc Thức, nó thuộc về thân, ý của chúng ta. Hiện giờ là chúng ta đang hoạt động bằng cái ý thức, còn khi chúng ta ngủ chiêm bao, nó là chúng ta hoạt động bằng cái tưởng thức. Còn khi mà cái người mà tu thì mà đạt Tam Minh, thì người ta sử dụng cái Thức Thức. Cho nên nó có ba cái Thức.

Vì vậy mà khi cái người tu theo đạo Phật đó, vào cái Thiền để nhập được các Định, theo đạo Phật thì phải dùng cái Thiền Định của ý thức, chứ không phải dùng của tưởng thức mà được. Cho nên cái tưởng thức phải loại trừ ra, không có được sử dụng nó ở trong cái sự tu tập Thiền Định. Vì vậy mà luôn luôn đạo Phật dạy chúng ta Như Lý Tác Ý, như cái Lý của đạo để mà tác ý, để giữ cái ý thức của mình. Cón nếu mình không tác ý thì mình sẽ mất cái ý thức.

Vậy cho nên thường thường là nhiếp tâm trong hơi thở hoặc đi kinh hành, đều là chúng ta thường xuyên tác ý nhắc. Nếu mà chúng ta không thường xuyên tác ý nhắc, thì cái ý thức nó bị lặng đi, và nó nhường lại cho tưởng thức nó hoạt động. Cho nên chúng ta sẽ bị lạc vào những cái Định Tưởng, tức là Định Vô Sắc.

Thì cho nên mà vì vậy mà khi mà con ngồi con còn cảm giác tê, thì nó chưa có rơi vào tưởng thức, nó còn ý thức, con mới biết nó tê đó. Chớ còn khi mà con rơi vào mà tưởng thức rồi, thì con không biết tê nữa đâu. Mặc dù là con thấy mình vẫn biết, nhưng không thấy tê đâu. Cho nên mà một cái người ngủ mà chiêm bao, thì họ bị co cái tay, họ mới, giấc mộng nó mới thực hiện. Khi đó họ bị tê mà họ không biết tê, mà họ thấy chỉ thấy một cái giấc mộng. Con lưu ý trên vấn đề đó.

(3:52) Cho nên khi mà ý thức chúng ta muốn biết cái thân mình tê hay là cứng, hay là này kia đó là ý thức. Còn cái tưởng thức thì nó không có cảm giác cái thân tê hay hoặc là cứng, hoặc là cảm giác này kia, nhưng mà nó có cái cảm giác riêng của nó. Cái thân nó không tê mà nó tưởng là tê. Cái thân nó không cứng mà nó tưởng là cứng. Cái thân không nặng mà nó tưởng là nặng. Cái đó là cái cảm giác của tưởng.

Còn cái thân của chúng ta tê thật sự, nó bị máu không lưu thông được, nó tê thật sự. Thì cái mà mình cảm giác tê thật sự đó là ý thức. Cái thân đau nhức chỗ nào, thì cái ý thức nó biết ngay chỗ đó. Cho nên đó là ý thức.

Ở đây cái phần tu tập của con đó, là con chỉ tu tới một tiếng đồng hồ, rồi con có cái lúc thì bị tê, nhưng mà nó không quan trọng đâu. Khi mà tê, thì con nên nhớ rằng, ở đây chúng ta tu về phần tâm, chứ không phải thuộc về phần thân. Vì thân, khi tâm mà thanh tịnh rồi, thì thân nó sẽ theo cái sự điều khiển của tâm. Còn tâm mà chưa thanh tịnh đó, thì chúng ta có tập cách gì đi nữa, thì cái thân nó cũng không có định được, mà nó lọt vào những cái định tưởng.

Cho nên khi mà tu tập đó, thì con nhớ khi bị tê, thì con cũng vẫn, khi mà vừa cái thân con vừa bị mới tê đó, thì con đừng có cố chấp mà mình phải ráng mình ngồi cho được một giờ. Mà con cứ giữ đúng cái tâm của con lúc bấy giờ đang tu ở cái pháp gì, thì con cứ đứng dậy, con sẽ đi, và con giữ cái tâm ở trạng thái đó, đến khi hết giờ thì con sẽ xả nghỉ.

Thí dụ như bây giờ con tu một giờ, mà khoảng 40 phút thì con bị tê, bị nghe cảm giác nó tê cái chân con, bắt đầu con đứng dậy. Con đứng dậy con đi kinh hành, thì con đi kinh hành, con vẫn giữ cái tâm của con ở trong cái hơi thở, chứ không có chú ý ở trên bước đi của con.

(5:52) Con vẫn giữ nó thở ra, hít vô, thở ra, hít vô. Thì con sẽ đứng dậy con đi đó, thì cái chân của con nó sẽ hết tê liền tức khắc, tức là xả chướng ngại pháp. Do đó con đi như, con đi cho đến khi mà đúng một giờ, rức là đi 20 phút nữa, thì nó sẽ đúng 1 giờ. Và khi đúng 1 giờ thì con cũng vẫn giữ cái tâm của con ở trạng thái con đang như con đang ngồi.

Thì như vậy là con đang ngồi tu suốt 1 giờ chứ không phải là nói rằng mình đi, hoặc ngồi. Nó nhiều cái oai nghi ở trong cái thân của mình. Mình cho rằng như vậy nó không đúng, không phải. Mình chỉ giữ cái tâm của mình, khi con đứng dậy thì con cũng cố gắng, con phải giứ cái tâm con ở trong hơi thở, rồi con bước đi con cũng giữ tâm trong hơi thở.

Nghĩa là tâm con duy nhất, mà có cái thân của con nó có nhiều cái hành động, thì như vậy thì suốt 1 giờ mà con tu hoặc là cao hơn, 2 giờ, 3 giờ, đều là tốt tất cả, nhưng mà cái tâm luôn lúc giờ đó, con tu sao mà con chín chắn ở trong cái, thí dụ như cái hơi thở của con, con nhiếp tâm. Và đồng thời thỉnh thoảng thì con tác ý ra, thì nó sẽ không bị lọt vô tưởng.

Và vì vậy mà con giữ cho hết giờ, hoặc là con tăng lên một hai giờ đồng hồ nữa cũng dễ dàng. Bây giờ con đi con thấy, bây giờ nó mỏi chân, nó hơi mỏi chân, thì bắt đầu con ngồi. Con ngồi, hoặc ngồi xếp bằng, hoặc ngồi ở trên một cái ghế, vừa là nghỉ, nhưng mà tâm vẫn tu, vẫn giữ tu. Cho nên con có thể tăng từ giờ này đến giờ khác, tâm con hoàn toàn nó không phóng dật.

Đó là cái trạng thái của tâm không phóng dật, là trạng thái của Định. Như vậy rõ ràng là con tu nó sẽ tiến bộ, còn con cứ cố chấp phải ngồi một hai tiếng, luôn luôn có cái oai nghi ngồi. Nhưng mà nhiều khi con ngồi như vậy đó, tâm con nó nhiều cái trạng thái ở trong đó, chứ nó không có duy nhất một trạng thái.

Còn con, cái thân con nó động, từ ngồi đến đứng, từ đứng đến đi, rồi thay thế cái oai nghi ngồi. Hồi nãy con ngồi xếp bằng, bây giờ thì con ngồi trên ghế, nhưng con giữ có một tâm duy nhất, tức là không có thay đổi cái tâm, mà cái thân thì con có thay đổi những cái oai nghi của nó. Do đó con sẽ thấy tiến bộ rất rõ ràng.

(8:05) Còn trái lại con cố chấp là phải ngồi, ngồi từ 1 tiếng đến 2 tiếng 3 tiếng thì trong lúc đó con quên là cái tâm của con nó có Định, chứ không phải là cái thân của con có Định. Vì vậy mà con phải thực hiện cái tâm trước, rồi sau này, con chỉ truyền lệnh thì cái thân con nó sẽ theo đó mà tự tu tập.

Vì hiểu sai cho nên con nghĩ rằng mình phải ngồi nhiều, hàng ngày nó tiến, thí dụ như con ngồi 1 giờ cho đến 1 giờ 10 phút, rồi 1 giờ 20 phút, 1 giờ rưỡi, cho đến 2 giờ rồi 3 giờ. Mà ngồi suốt như vậy mà không đau không này kia, thì con cho rằng một tiếng, thì không phải đâu. Nó không phải tiến bộ chỗ đó. Mà tiến bộ do cái tâm của con nó thanh thản, an lạc, và vô sự.

Bây giờ nó thanh thản, an lạc, vô sự, nhưng mà con thỉnh thoảng con nhắc cái tâm con, “tâm phải thanh thản an lạc vô sự”. Rồi con tiếp tục một cái thời gian, hoặc một phút con lại nhắc một lần nữa "tâm thanh thản, an lạc, vô sự". Như vậy rõ ràng là cái ý thức của con vẫn luôn luôn biết thanh thản, an lac, vô sự. Vì con còn có tác ý.

Bây giờ nó bị buồn ngủ, trong cái khoảng thời gian bị buồn ngủ tức là chứng tỏ rằng tâm tham sân của mình chưa ly, vì si còn, si là trạng thái buồn ngủ. Mà si còn thì tham sân nó vẫn còn, chưa hết, nó chưa ly ra. Cho nên vì vậy mình phải phá cho, thật sự mình phải phá cho thật hết si.

Mà muốn phá cho thật hết si, thì nó có những cái phương pháp mình có thể phá nó được. Ví dụ như trong một giờ đồng hồ con ngồi, con bị lặng đi, rơi vào trong cái thùy miên hay hôn trầm, hoặc là ngoan không. Khi mà bị rơi vào như vậy thì con mất cái trạng thái của tâm thanh tịnh của con, mất ý thức của con.

Cho nên con phải cẩn thận, là khi đầu giờ, 30 phút đầu, con ngồi con thấy tỉnh, nhưng mà 30 phút sau con đứng dậy con cũng vẫn giữ cái tâm ở trong cái hơi thở, mà con tiếp tục con tu. Và đồng thời con đi kinh hành, thì con đi động thân như vậy thì nó không có rơi trong hôn trầm, mà con vân thấy tâm con tiến bộ suốt một giờ không bị một chút xíu nào hôn trầm.

(10:11) Nếu mà nó bị hôn trầm thùy miên nặng hơn, nó làm cho con đi lảo đảo, không có thể chủ động được, tức là bị nặng. Vì vậy mà con phải dùng cái phương pháp 5 hơi thở, đi kinh hành 20 bước, ngồi xuống thở 5 hơi thở, rồi đứng dậy đi kinh hành 20 bước. Và mỗi oai nghi của con đều phải có nhớ truyền lệnh.

Truyền lệnh, thí dụ như bây giờ con ngồi xuống con ra lệnh "Ngồi", thì con, cái thân con ngồi xuống, Con biểu "chéo chân lên xếp bằng" thì nó, thân con sẽ chéo hai chân lên xếp bằng. Khi xếp bằng xong, con bảo "Thở", thì bắt đầu con thở. Con bảo "Đếm" thì con đếm 1, 2, 3, 4, 5. Con bảo "Đứng dậy", thì cái thân con đứng dậy. Con bảo "Đi", thì nó bước đi. Thì con nhắc lần nữa "Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành".

Thì lúc bây giờ, con nương vào hơi thở, tiếp tục con biết hơi thở ra, hơi thở vô. Rồi tác ý "Tâm thanh thản, an lạc và vô sự". Và cứ nhắc nó như vậy, cho đến khi mà con thấy nó không có buồn ngủ nữa, hoàn toàn tỉnh táo. Cứ 5 hơi thở đứng lên, 5 hơi thở đứng lên kinh hành, nhắc tới nhắc lui. Thì một lúc nó sẽ hết buồn ngủ, nó không còn buồn ngủ nữa.

Và nó cũng không còn rơi trong ngoan không nữa, nó không rớt trong không. Bởi vì nó rớt trong không thì coi như là con không còn tỉnh thức nữa, mất tiêu đi. Cho nên nó sẽ sai đạo, nó không đúng cách. Vì vậy mà con cần phải tập trở lại. Trong khoảng thời gian con tu 1 giờ, con đừng để cái hôn trầm xen vô trong đó, dù là một sát na, một giây mà có rớt trong hôn trầm, thì niệm si con vẫn còn.

Con phải hoàn toàn tu 1 giờ, là hoàn toàn con biết cái lúc nào nó sẽ sắp ngủ, nó sắp thùy miên, nó hôn trầm, thì lúc bấy giờ con chuẩn bị 5 hơi thở đi kinh hành 1 vòng, 5 hơi thở đi kinh hành 1 vòng, thì con tu hết giờ, hoàn toàn con không bị hôn trầm và nó không lọt hôn trầm lúc nào hết. Hãy ráng siêng năng tu tập, lúc này là lúc phá hôn trầm, thùy miên rất khó, chứ không phải dễ.

(12:14) Nó khi mà muốn buồn ngủ, mà cái thời gian của mình nó chưa hết, tức là, thí dụ như mình muốn tu 1 giờ, mà mới có 40 phút mà nó buồn ngủ rồi, nhưng nó hơi buồn ngủ thôi, chứ còn con để mà nó gục xuống vầy là trật rồi, nó sai rồi. Nó biết rằng mình sắp buồn ngủ trong giờ này rồi, thì lúc bấy giờ con thay đổi oai nghi liền.

5 hơi thở, ngồi xuống, đứng dậy đi 20 bước, ngồi xuống 5 hơi thở. Cứ, con cứ như vậy, cho đến khi hoàn toàn con thấy rằng nó tỉnh, thật tỉnh, nó không còn buồn ngủ nữa. Tức là tâm thanh thản, an lạc vô sự một cách thoải mái và dễ chịu, nó an ổn, thì lúc bây giờ nó rất tỉnh.

Còn nó lặng lặng mất, nó làm cho con có cái vẻ mà mệt nhọc, lười biếng đó, thì lúc bây giờ coi chừng nó sẽ bị hôn trầm thùy miên nó đánh vào. Đó thì cách thức phá thì phải phá như vậy. Chỉ có 5 hơi thở, đi kinh hành 1 vòng thì con sẽ phá sạch.

Còn cái tê, bất kỳ con ngồi bán già hay kiết già, mà cái thân con vừa tê hoặc là nó có cái cảm giác đau, thì đứng dậy ngay liền, xả liền, không được ngồi lâu. Bởi vì theo đạo Phật, thì chúng ta tu, để trong những giờ phút tu, dù là 1 phút, 1 giây đi nữa cũng phải thấy sự giải thoát, không có để chướng ngại ở trên thân của mình, dù là thân thọ, không có để chướng ngại.

Cho nên, thí dụ như một con muỗi mà vừa cắn chúng ta nghe cảm giác ngứa, thì chúng ta đuổi con muỗi, và đồng thời chúng ta phải xả nó đi, bằng cách chúng ta gãi nơi ngứa đó, chứ không phải nói "Bây giờ tôi ngồi thiền, tôi nhiếp tâm, tôi không có động chạm đến", điều đó thì đó là sai. Mục đích của đạo Phật là giải thoát, không làm cho chúng ta khổ, không làm chúng ta chịu đựng, có cái chịu đựng ức chế trong đó.

Cho nên đối với đạo Phật là tìm cách xả ngay cái ác pháp đó liền, không để. Đó thì hôm nay con nhớ, và trong những ngày mà ở đây thì tập, rồi sẽ trình bày. Ngày mai 7 giờ Thầy gặp lại, con sẽ tu tập lại, để mà cách thức phá. Thí dụ như từ 7 giờ tối cho đến 10 giờ, mà khoảng từ 9 giờ cho đến 10 giờ, là khoảng buồn ngủ, thì con cố gắng con tu tập nhiều oai nghi ở trong cái khoảng thời gian đó, thì con sẽ phá sạch.

Làm sao phá cho sạch được cái niệm si, tức là cái trạng thái buồn ngủ, thì con sẽ ly được tham, sân. Tham sân con sẽ ly được. Cho nên nhớ kỹ trong vấn đề mà tu tập này. Con còn hỏi Thầy gì thêm nữa không?

2- BỊ LỌT VÔ TƯỞNG THÌ KHÔNG CÒN ỨC CHẾ

(14:46) Phật tử: Dạ kính bạch Thầy! Thường là ở nhà con thì, 8 giờ hoặc 9 giờ con ngủ, con ngủ tới 1 giờ khuya con thức dậy. Rồi ở chùa đó Thầy, rồi con ngủ sớm như vậy có bị phạm lỗi không thưa Thầy?

Dạ, rồi cái hôm trước con ngồi thiền đó, thì con thấy hình như là cái tâm trí nó yên dữ lắm. Nhưng mà thay vì ngồi 1 tiếng, mà con thấy cái sức nó yên ổn rồi đó, có thể ngồi tới 3 tiếng hoặc là 4 tiếng cũng khỏe ru. Mà con thấy ở trong cái tinh thần con cũng như cái máy vậy Thầy. Nó chạy cũng như cái sợi dây trơn vậy, nó chạy nó cuốn hoài hoài hoài hoài vậy nè.

Thành ra con suy nghĩ nếu mà cái trạng thái như vầy đó, mình bây giờ mình ngồi được 1 tiếng mà nó như vậy hoài đó, có thể tới 3 tiếng thì cũng dễ dàng thôi mà. Con không biết cái trạng thái đó nó có sai gì không thưa Thầy?

Trưởng lão: Con thấy, thay vì cái hơi thở của mình, thở ra, thở vô mình chỉ biết, nhưng bây giờ con thấy như nó chạy một cái vòng, nó cảm giác như nó chạy, tự động nó như vậy, thì con thấy nó làm cho mình cũng an ổn lắm.

Và đồng thời mình thấy nó, nó không có cái gì đối với cái thân của mình nó làm cho chướng ngại, có thể con từ 1 giờ con có thể ngồi 2, 3 giờ nó vẫn dễ dàng không khó khăn, nhưng mà đều rơi vào trạng thái tưởng con.

Phật tử: […​]

Trưởng lão: Nó quần quần cái này, đúng rồi. Nếu mà nó quần ở trên đầu con như vậy, thì nó là cái trạng thái tưởng. Nó thường thường là lúc bấy giờ, như vậy là con chỉ xả nó đi, đừng có chấp nhận nó, xả. Bởi vì cái tâm của mình thanh thản thì cái thân phải thanh thản, nó không có một cái gợn, một cái gì lăn tăn ở trên đó hết, thì nó mới đúng.

Còn nó có cái gì, thí dụ như trên đầu con nó, con có cảm giác như nó quần quần vậy, tức là cái phần mà hoạt động của tưởng thức của con đó, tức là những cái tế bào não của con ở trên đầu bắt đầu nó hoạt động.

(16:55) Nó hoạt động, bây giờ con thấy nó an ổn vậy, con có thể ngồi lâu được, con có thể tăng lên cái thời gian rất dài được, rồi nó sẽ thời gian mà nó dài ra nhiều đó, thì nó sẽ phát ra ánh sáng, nó hào quang, thinh tưởng, sắc tưởng, nó sẽ phát ra. Chừng đó con sẽ thấy, nó rất nguy hiểm đó, nó không có tốt đâu. Và đồng thời cái thần kinh của con nó bị rối loạn. Cho nên cái trạng thái nó, hiện tượng của nó là nó sẽ bị rối loạn thần kinh sau này.

Cho nên thí dụ như con thấy những cái người mà họ tu, mà do ức chế mà họ không biết, cái vọng tưởng nó hết rồi. Thì bắt đầu, mới đầu thì ức chế, thì chúng ta còn ý thức chúng ta ức chế nó, nhưng mà sau khi mà cái tưởng nó hoạt động rồi, thì chúng ta không còn ức chế cho nên chúng ta thấy khỏe re à. Nhưng mà cuối cùng nó có cái sự hoạt động riêng của nó, nó tự động rồi, mình không chủ động, vì vậy đó là mình bị lạc.

Cho nên cái mục đích của đạo Phật là nhắm vào cái ý thức để mà chúng ta ly dục ly ác pháp, xa lìa những cái tâm tham, sân, si của chúng ta. Nhưng mà cái trạng thái, cho nên vì vậy mà có những cái trạng thái, vì khi tu mà có trạng thái gì mà xảy ra trên thân của chúng ta, nhất là trên cái đầu của chúng ta, nó có nhiều cái cảm giác, cảm giác thế này, cảm giác thế khác nó hiện ra.

Như vậy tất cả những cảm giác mà nó hiện ra, đều là chúng ta không chấp nhận. Mà không chấp nhận, thì muốn xả nó thì chỉ có cách là, bây giờ chúng ta đang ngồi, mà nó như vậy thì chúng ta đi kinh hành, chúng ta xả ra. Chúng ta không có tiếp tục ở trong cái pháp đó nữa, mà chúng ta thay đổi cái pháp tu.

Thay vì bây giờ mình nương vào hơi thở mình tu, thì bắt đầu nó bị như vậy, thì mình nương vào cái hành động mình đi mình tu. Mình đi mình biết mình đi, mình tu. Và đồng thời nếu mà mình mà khéo léo hơn, thiện xảo hơn nữa, thì mình có thể mình tác ý. Mình dùng cái ý thức của mình tác ý ra: “Những cái trạng thái tưởng này, những cái hoạt động này sai, hãy đi đi, không có được ở đây”, đuổi nó đi.

(18:44) Con sử dụng cái tác ý con đuổi nó đi, thì con sẽ lấy lại cái tâm, thân tâm nó bình thường. Nghĩa là hiện bây giờ thân tâm của con nó như bình thường như thế nào, thì khi tu, con kéo dài cái trạng thái tâm không phóng dật thì nó vẫn như thế nấy, chứ không có thay đổi cái gì hết. Bởi vì nó thuộc ý thức, chứ nó không thể nào mà tưởng thức được.

Cho nên vì vậy mà trên đầu con nó cũng bình thường, nó cũng không có cái gì hết, nhưng nó, khi mà tâm con nó không phóng dật, tức là nó không có cái niệm khởi ra, thì con sẽ thấy cái thân và cái tâm con nó an lạc. Cho nên đức Phật nói do ly dục sanh hỷ lạc, cái hỷ lạc này do ly dục mà sanh.

Còn bây giờ đó, mình chưa có ly hết dục, cái si mình còn, cái buồn ngủ mình còn, mà giờ nó lại xảy ra những cái trường hợp mà nó ở trên đầu của mình bằng trạng thái này, bằng trạng thái kia, thì tức là mình đã đã đi sai vào trong con đường thiền tưởng rồi.

Mình sẽ đứng, mình sẽ vào đó, thì coi như mình không có cái lối giải thoát được, mà mình kẹt ở trong những cái định tưởng đó, thì nó sẽ dẫn dắt mình đi vào trong cái thế giới tưởng, nó sai.

Cho nên vì vậy mà Thầy nghe tin con tu, Thầy rất lo, là sợ nó để lâu đó, thì nó thành cái thói quen đi, nó không tốt. Nhưng mà Thầy chuẩn bị cho mấy con hết rồi, cho nên mấy con cũng không đến đỗi, nhưng mà cũng lo. Lo là sợ nó có cái trục trặc gì đó, thì nó sai, rồi nó ảnh hưởng, rồi mình xả ra, nó thời gian, nó mất hết thời gian trên sự tu tập của mình.

3- NHỚ TÁC Ý ĐỂ KHÔNG LỌT VÔ TƯỞNG

Cho nên hôm nay thì con lưu ý, lưu ý cái phần bất kỳ, cái đầu của mình nó bình thường, mình ngồi thanh thản mà nó bình thường, thì nó tốt. Thân thì nghe nó an ổn, nó không có đau, không nhức, không gì hết thì tốt. Mà nó rất là bình thường, còn nghe trên đầu của mình nó có cái cảm giác gì lạ lùng, thì ngay đó là phải dùng pháp hướng đẩy lui liền.

(20:38) Con nhớ phải dùng pháp hướng: “mày là tưởng, không có được ở đây, phải đi". Và đồng thời con thay đổi oai nghi thì nó sẽ phá vỡ, nó không còn nữa. Tức là khi ngồi thì con đi, mà khi đi con bị thì con ngồi. Thì có như vậy thì con sẽ phá sạch. Và phá sạch để cái mục đích của mình, là mình rèn luyện cái pháp Như Lý Tác Ý.

Mình hằng ngày nhớ nhắc cái tâm “phải ly tham, sân, si”, hay hoặc là "tâm ly dục, ly ác pháp đi""nhập Sơ Thiền đi, chứ không có nhập bậy bạ được". Thì con cứ hướng tâm nhắc như vậy, rồi con tu tập tâm thanh thản. Càng thanh thản bao nhiêu, thì nó sẽ ly cái tâm bấy nhiêu, nhưng mà trong thanh thản đó, không phải do sự ức chế.

Thí dụ bây giờ con ngồi đây mà con tập trung, con biết hơi thở ra vô, ra vô, ra vô, cố gắng, thì nó không một cái niệm nào khởi, rất sợ cái điều này. Rất sợ cái điều này, tại sao? Tại vì khi mà cái tâm nó bám vô được cái hơi thở mà nó biết ra vô, thì chỉ trong cái thời gian chừng 5, 10 phút sau, thì cái tưởng thức nó sẽ xen vô nó làm việc và cái ý thức nó bị dừng.

Cho nên khi mà thấy cái tâm mình nó không phóng dật, thì thỉnh thoảng phải tác ý ra. Tác ý ra, đặng giữ cái ý thức của mình. Cho nên trong 16 cái đề mục mà tu tập Định Niệm Hơi Thở mà Phật dạy đó, cứ thỉnh thoảng lại tác ý. "Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra". Rồi "Quán vô ngã tôi biết tôi hít vô, quán vô ngã tôi biết tôi thở ra".

Tại sao 16 cái đề mục tác ý như vậy mà cứ phải tác ý hoài như vậy. Nghĩa là tác ý như vậy để giữ ý thức của chúng ta đừng để mất ý thức. Cho nên đức Phật mới dạy như vậy, chứ khi không mà đức Phật dạy để làm gì? Thay vì thôi mình biết hơi thở ra vô thì để cho nó tự biết ra vô, không phải là đi vào Định sao, còn lại bắt buộc chúng ta phải tác ý?

(22:26) Thật sự ra đọc trong kinh sách, thì chúng ta mới thấy có đạo Phật đặc biệt nhất ở chỗ này, còn tất cả những cái phương pháp khác mà tu như Sổ Tức Quan hay hoặc là Sổ - Tùy - Chỉ - Quán - Hoàn - Tịnh của Lục Diệu Pháp Môn đều nương vào hơi thở, mà chỉ biết hơi thở rồi chỉ biết ra biết vô, rớt vào tưởng không biết. Chỉ có đức Phật mới hiểu được cái chỗ này mà thôi.

Cho nên trong khi tu về hơi thở thì đức Phật buộc mình phải tác ý ra, phải tác ý ra. Thì các con cứ nhớ thỉnh thoảng tác ý để giữ cái ý thức của mình, không khéo nó mất ý thức. Mà nó mất ý thức thì tức là nó rơi vào tưởng thức. Cho nên nó khó chỗ đó, cho nên con thấy bây giờ đi kinh hành, thì con cũng phải tác ý ra. "Tâm như cục đất, tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành".

Cho nên trong những bài pháp mà Thầy dạy mấy con, là dựa vào cái ý của đức Phật dạy để mà chúng ta giữ gìn cái tâm của chúng ta trên mọi hành động nhưng luôn luôn bằng ý thức, chứ không được để nó lọt vào tưởng thức.

Cho nên có những cái gì các con thấy, ngồi mà nó an ổn, nó thích thú, nó không có một niệm gì xen vô. Bắt đầu đó, các con tưởng chắc có lẽ là Định, không phải đâu, nó rơi vào xúc tưởng hỷ lạc rồi. Nó là cái tưởng hỷ lạc của nó, nó thấy an ổn nó không vọng tưởng, coi chừng.

Còn bắt đầu nó có vọng tưởng ra vô ra vô, nó chưa có sao hết đâu. Mà mỗi cái vọng tưởng mà nó ra vô, để cho chúng ta triển khai tư duy, tức là Chánh Tư Duy suy nghĩ cái niệm đó, mà chúng ta triển khai cái trí tuệ suy nghĩ của chúng ta nó trở thành cái tri kiến giải thoát.

Cho nên chúng ta hiểu được cái niệm của chúng ta, nó Dục lâu, Hữu lậu, Vô Minh lậu hay là Thập Thất Kiết Sử, hay là Ngũ Triền Cái? Những cái niệm đó, nó mang cái tính chất của nó trong những cái pháp này.

Khi mà chúng ta hiểu được nó ở trong cái tánh chất của pháp nào, thì ngay đó chúng ta xả nó liền, nhưng chúng ta biết nó ác thi chúng ta phải xả nó liền, chúng ta biết nó thiện, thì chúng ta tăng trưởng nó lên. Cho nên con đường tu của đạo Phật vạch cho chúng ta tu rõ ràng, nhưng mà vì chúng ta tu sai một chút là chúng ta lọt vô tưởng, là vì chúng ta quên tác ý.

(24:38) Cho nên đức Phật nói “Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý”, phải không, mình khéo mình tác ý ra. Bây giờ mình hít thở nè: "Tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra, tôi hít vô tôi biết tôi hít vô". Thì bây giờ tôi đang thở ra hít vô, nhưng tôi không tác ý thì tôi trật. Mà tôi vẫn phải tác ý, vì "Tôi hít ra, tôi biết tôi hít ra, tôi thở vô, tôi biết tôi thở vô".

Thì lúc bấy giờ đó, mình thở ra vô, thì thay vì mình để tự nó biết thì nó cũng vẫn biết, nhưng mà nếu mà để tự nó biết thì một lúc nó bị mất ý thức. Cái ý thức nó không còn biết nữa, mà cái tưởng thức nó biết. Còn bây giờ mình khéo tác ý ra, thì cái ý thức nó không mất. Cho nên đức Phật nói: ”Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý”, chứ không có được mà ngồi im im, ngồi im lìm để cho nó tự biết đâu, không được! Mà phải khéo tác ý ra, khéo tác ý.

Bây giờ tôi đang tu trong hơi thở, thì tôi nhắc "Tôi hít vô, tôi biết tôi hít vô; tôi thở ra tôi biết tôi thở ra", rồi tôi hít vô, tôi thở ra, tôi để cho nó tự biết một thời gian chừng 1 phút đi, rồi bắt đầu tôi nhắc một câu nữa: "Tôi hít vô tôi biết tôi hít vô, tôi thở ra tôi biết tôi thở ra".

Rồi kéo dài một thời gian tự động nó biết thở ra vô. Mà thời gian tự động nó biết thở ra vô trong 1 phút nó chưa bị rơi đâu, nó chưa bị rớt đâu. Thì tôi lại tác ý ra một lần nữa, tôi giữ cái ý thức của tôi ra một lần nữa.

Cho nên đức Phật nói cái Định đó là cái Định diệt Tầm mà giữ Tứ. Các con hiểu, diệt Tầm là cái sự tư duy, suy nghĩ trong đầu của mình, mình không có tư duy, suy nghĩ, mà cái Tứ là tác ý ra, cứ tác ý ra. Cho nên cái Định đó gọi là Định diệt Tầm mà giữ Tứ. Vì vậy mà sau khi mà chúng ta diệt tất cả những cái Tầm, mà cái Tứ của chúng ta thì luôn luôn lúc nào chúng ta cũng tác ý ra luôn luôn.

Như vậy rõ ràng là, chứ cái tâm của chúng ta để tập cho nó không phóng dật, vì nó luôn luôn nó biết hơi thở bằng ý thức của nó, chứ không phải bằng tưởng thức. Phải không, các con thấy hiểu chỗ đó chưa?

Cho nên vì vậy mà vô đầu tiên đức Phật dạy Định Niệm Hơi Thở, thì "Tôi hít vô, tôi biết tôi hít vô, tôi thở ra, tôi biết tôi thở ra""Hít vô dài, tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài"“Hít vô ngắn, tôi biết tôi hít vô ngắn, thở ra ngắn, tôi biết tôi thở ra ngắn", thì hai cái tác ý.

4-TU THEO HƠI THỞ TỰ NHIÊN, ĐỪNG ĐIỀU KHIỂN DÀI NGẮN

(26:54) Kế đó thì chúng ta thấy đức Phật dạy chúng ta phải tu theo cái hơi thở tự nhiên, đừng có thở dài, đừng có điều khiển. Hơi thở chúng ta bình thường, vừa mà chúng ta lại tập cho nó dài ra thì không được. Mà cũng đừng có, hơi thở chúng ta bình thường mà tập cho nó thở ngắn, nhanh hơn chút thì cũng không được.

Còn cái câu đầu là để, cái câu mà "Hít vô, tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra", đó là tác ý để giữ cái ý tú của chúng ta. Còn hai câu sau, thì Phật muốn nhắc chúng ta là hơi thở bình thường, thì chúng ta thở. Cái đặc tướng thở của chúng ta nhanh thì chúng ta thở nhanh, dài chúng ta thở dài, ngắn chúng ta thở ngắn, đừng có sửa cái hơi thở trong này.

Cái ý của cái câu đó là như vậy. Cho nên vì vậy đức Phật sợ một bước sau đó, một lúc sau khi mà cái tâm chúng ta bị lọt vào trong tưởng, thì cái hơi thở chúng ta bị chậm, chậm lại, nó ngắn, nó dài ra, nó không còn ngắn nữa. Cho nên vì vậy đức Phật sợ chúng ta rớt vào ở trong cái hơi thở tưởng.

Cho nên thay vì hơi thở Thầy bình thường là 3 giây một hơi thở, bây giờ Thầy nghe nó an ổn, nó không có vọng tưởng, thì bắt đầu nó thở chậm trở lại. Nó thở chậm nó có thể 5 giây hoặc là 10 giây một hơi thở, thì đó là sai rồi, không được. Cho nên vì vậy mà nhắc để cho mình giữ lại hơi thở của mình là 3 giây, nó là cái 3 giây bình thường, chứ không được thở 5 giây hay 10 giây.

Mà hễ cảm thấy nó như nó chậm thì chúng ta nhắc, hơi thở ngắn thì chúng ta thở ngắn, mà hơi thở dài chúng ta thở dài. Cho nên cái ý của đức Phật muốn ở chỗ này để mà chúng ta giữ cái hơi thở 3 giây của chúng ta bình thường mà thôi, không được thở dài hơn, mà không được thở ngắn hơn. Đó là cách thức để giữ cái hơi thở bình thường.

5- MUỐN CÁI GÌ THÌ PHẢI TÁC Ý CÁI NẤY

(28:31) Đó thì nội trong cái bài Định Niệm Hơi Thở, mà để đức Phật dạy chúng ta tu tập, thì đức Phật rất cặn kẽ. Khi cái thân chúng ta ngồi mà bất an, thì chúng ta phải quan sát cái thân của mình, rồi mình phải nhắc cái thân, dùng cái pháp hướng để nhắc cho cái thân nó an: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". Nhắc đến khi nào mà cái thân nó an ổn thì chúng ta không nhắc nữa.

Phải không, bây giờ cái tâm của mình nó cứ nó sanh vọng tưởng, nó ra vô, lúc thì nó nhớ cái này, lúc nhớ cái kia, cho nên mình cũng nhắc: "An tịnh tâm hành, tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành, tôi biết tôi thở ra". Thì trong cái bài Định Niệm của hơi thở, nương vào hơi thở để cho thân và tâm này nó được an tịnh. Đó là cách thức tu.

Bây giờ cái thân chúng ta không an tịnh, thì chúng ta nhắc an tịnh thân, còn cái tâm chúng ta không an tịnh thì chúng ta nhắc cái tâm bảo nó phải an tịnh. Cho nên muốn được, chúng ta muốn được cái gì thì chúng ta phải tác ý cái nấy, để cho cái thân và tâm chúng ta nó làm theo cho được, và như vậy là chúng ta đang tu Tứ Như Ý Túc, Dục Như Ý Túc.

Muốn cái tâm thân của mình được an ổn, muốn cái tâm của mình không có loạn tưởng, thì mình phải hướng tâm, mình phải tác ý. Mà nó có lợi hai mặt, một mặt thứ nhất là rèn luyện trở thành một cái nội lực của tâm, mặt thứ hai nó lợi ích, là nó giữ được cái ý thức của chúng ta suốt cái thời gian tu tập nó không mất ý thức. Mà không mất ý thức thì chúng ta không bị điên loạn, không có bị rối loạn thần kinh.

6- ĐỂ LỌT TƯỞNG MẤT Ý THỨC LÀ BỊ ĐIÊN

(30:18) Bởi vì một cái người mà tu tập mà ở trong cái ý thức hoàn toàn hoạt động, thì cái người đó không bị rối loạn thần kinh, không bị điên. Còn cái người mà bị mất ý thức, thì cái người đó bị điên, họ hoạt động theo cái kiểu tưởng thức. Cho nên cái người điên, họ đâu có biết họ điên. Họ đang hoạt động trong cái tưởng thức của họ.

Nhưng chúng ta thấy họ nói một câu nói mà lặp đi lặp lại mãi, hoặc là những cái hành động, hoặc là cái ngôn ngữ người đó nói nó không có đúng, nó không có đúng cái ý thức làm việc. Cho nên mình mới biết họ là điên, họ nói, mình nghe mới đầu thì nghe nó đúng, nhưng mà lát nữa họ lặp trở lại lần nữa, lại lặp lại lần nữa thì mình biết người này đang sai rồi, đang lạc rồi, nó không còn ý thức chủ động nữa, mà cái tưởng thức nó hoạt động, cho nên biết nó sai.

Đó, thì như vậy là các con nên nhớ rằng cái sự tu tập cẩn thận nhất là phải thường xuyên, phải giữ cái ý thức của mình. Và từ đây về sau thì con cố gắng, luôn luôn con phải giữ gìn, khi mà nó an ổn thì con thay đổi nhiều oai nghi, với một cái tâm duy nhất mà có nhiều oai nghi, thì nó sẽ không bị lạc vào ở trong cái trạng thái của tưởng. Nhất là cái đầu con mà nó quần quần, thì cái điều đó là phải xả gấp, không được để.

Ở trước, ở đằng trước có một vị thầy cũng tu, cái đầu nó quần, nó bắt đầu đầu tiên thì nó quần, sau này nó làm như là nó đảo lộn tất cả những cái thần kinh ở đầu, nó rung chuyển cả toàn cái đầu. Và đồng thời thì thầy đó trình bày cho Thầy, thì từ hôm đó tới nay thì thầy xả rất nhiều và thầy cũng được an ổn.

Coi như là bị tu sai rồi, thì về đây Thầy chỉ cách thức xả, xả những cái sai đó, để cuối cùng trở lại với sự bình thường, thanh thản. Nhưng mà còn, thầy còn có những cái sai. Nhưng mà cái sai đó là cái, bởi vì rơi vào tưởng thì nó bị pháp tưởng. Cho nên thầy cứ nghĩ rằng mình sẽ nhập Tứ Thiền, mình sẽ chứng đạo bằng cách này, bằng cách khác. Thầy sẽ thấy thầy ly dục, ly ác pháp bằng cách này, bằng cách khác.

Thật sự đó là cái tưởng hết, nó không phải đâu. Khi nó ly dục rồi, thì cái người đó ít buồn ngủ, thầy nói thầy cũng không có buồn ngủ, chắc thầy ly hết rồi. Nhưng mà không phải, thầy bị mất ngủ. Cho nên con người thầy nó hơi ốm gầy và đồng thời nó, cái sức khỏe nó không có được trọn vẹn.

(32:42) Còn mà cái người mà người ta ly dục ly ác pháp người ta không ngủ, cái sức khỏe người ta nó trọn vẹn, nó không có, cái thân nó không có bị ốm yếu gầy quá gầy. Đó là một cái trường hợp. Cho nên con ở đây con nhỡ kỹ, khi mà nó có những cái trạng thái đó, thì con xả liền, đừng có để.

Xả bằng cách nào? Tác ý đuổi nó đi, thứ nhất. Cách thứ hai là con xả cái hành động mà con đang tu đó đi, con trở lại con tu con nhắc cái đi kinh hành hoặc là tu những cái hành động khác. Hay hoặc là ngồi quán xét một cái đề tài nào đó, thì nó sẽ phá đi, nó không còn nữa.

7- TU TỐT THÌ TRI KIẾN GIẢI THOÁT PHẢI TIẾN BỘ

Phật tử Mỹ Châu: Từ hôm mà con nghe lời Thầy dạy, là cái con không có ngồi nhiều, mà con tu tập trong cái công việc làm, con tỉnh thức để xả tâm. Là nhiều tối con chỉ ngồi 1 tiếng đồng hồ, từ khoảng, từ 3 giờ cho tới 4 giờ sáng thôi. Dạ thưa Thầy.

Trưởng lão: Trong cái sự tu tập con biết chuẩn bị như vậy rất tốt. Con tiếp tục tu và tiếp tục trong cuộc sống hằng ngày, khi mình tu đó mình áp dụng vào cái đời sống của mình trong hằng ngày, mình sẽ xả tâm trong những cái ác pháp, các đối tượng nó xảy ra. Mình chung đụng với mọi người, nó có những cái điều kiện mình xả ra, mình thấy cái điều đó nó không quan trọng nữa, thì con xả.

Mà cuối cùng thì con sẽ thấy để tự động cho cái tâm của mình nó tự động, nó quay vô nó định trong hơi thở của nó. Tức là tâm định trên thân đó. Để cho nó tự động nó quay thôi.

Mình tu tập là một lẽ, nhưng mà một cái lẽ của mình đó, là mình tu tập làm sao mình ly dục ly ác pháp, mình ngăn chặn hay hoặc diệt cái tham, sân, si của mình thôi. Còn cái Định, thì để cho tự cái tâm của mình nó định, chứ còn đừng có bắt nó ở trong hơi thở nhiều, kéo dài nhiều, mà để cho nó tự thôi.

(34:48) Còn mình tu tập thì chỉ khoảng thời gian 1 giờ trở lại, chứ không được tu hơn 1 giờ trong hơi thở. Tại sao vây? Tại vì tu nhiều hơn 1 giờ trong hơi thở, mình đương nhiên mình tưởng là mình tiến bộ, mình có tiến bộ trên sự tu, chứ không phải đâu. Con quan sát chỗ cái tâm của con nó tiến bộ hay không đó, và cuộc sống của con, và cái sức mà hiểu biết của con nó nhanh chóng thì con tiến bộ.

Thí dụ như có chuyện gì xảy ra, bắt đầu bây giờ đầu óc con khởi nghĩ ra một cái gì đó, nó giải quyết một cách rất là ổn, nó đem lại sự an lạc cho con, thì cái đó là cái tiến bộ của con, bằng cái trí tuệ của con, thì cái đó cái đúng. Còn cái mà con ngồi nhiều, con thấy không vọng tưởng mà con kéo dài 1 - 2 giờ, không phải tiến đâu, mà cái đó sẽ rớt vào ở trong những cái trạng thái của tưởng, nó sai.

Hễ ngồi nhiều yên lặng nhiều, tưởng là mình tiến bộ nhưng mà không tiến bộ. Mà trái lại khi nào có chuyện gì hoặc là có một cái niệm ở trong đầu con khởi ra, mà con có cái hiểu biết rất nhanh chóng, thì cái đó con tiến bộ. Đạo Phật nó tiến bộ bằng cái trí tri kiến giải thoát, bằng cái trí tuệ. Mà trí tuệ ở đâu thì nó đem lại cái sự hạnh phúc của con ở đó, nó làm cho con được an ổn.

Thì cái trí tuệ đó thì nó là đạo đức, nó không làm khổ mình, nó không làm khổ người. Cho nên trí tuệ ở đâu thì đạo đức ở đó. Đó là con đường giải thoát của đạo Phật, chứ không phải con đường không vọng tưởng, con đường mà ngồi im lặng phăng phắc, không có niệm gì, thì đạo Phật nó không phải cái mục đích đó đâu.

Mà cái mục đích là nó phải sống hiểu, hiểu để giải tỏa cái sự đau khổ của bản thân mình, và không làm khổ người. Thì cái đó là đức Phật đã xác định trong cái bài kinh Sô Na Đa, thì chúng ta thấy rất rõ ràng, là trí tuệ ở đâu là đạo đức ở đó, mà đạo đức ở đâu là trí tuệ ở đó.

Vì vậy mà mình có nhanh chóng trí tuệ, có một cái niệm, mình ngồi đây mà khởi một cái niệm, mà mình nhận ra cái niệm đó liền, mình biết liền, thì tức là cái trí tuệ mình đã hiểu biết cái niệm đó nó thuộc về nhân quả gì, do đó mình hiểu biết sắc bén như vậy, đó là mình tiến bộ rất nhiều.

(36:38) Bởi vì cái sự giải thoát của đạo Phật là giải thoát bằng cái sự hiểu biết, bằng cái trí tuệ để đưa mình thoát ra khỏi sự đau khổ. Cho nên con càng sâu sắc hơn nó càng thấy con, mỗi lần con suy tư về cuộc đời con, thì con thấy những cái gì nó lại sáng suốt hơn. Nó làm cho con xả được cái tâm con nhanh chóng, con không còn dính mắc nữa.

8- TÌM HIỂU THẬT KỸ RỒI MỚI BUÔNG XẢ ĐỂ TU

Như hôm qua chú Huệ, chú ngồi đây, chú nhỏ mà chú trình bày trên cái sự xả tâm của chú, Thầy thấy đúng là cái tuổi trẻ mà lại quyết xả tâm như vậy, thì chắc chắn là có ngày sẽ thành tựu.

Nghĩa là nỗ lực xả tâm như vậy, tức là từ cuốn kinh cuốn sách, từ cái băng từ cái này kia, chú nghĩ rằng bây giờ mình ngồi đọc sách này kia nọ thì tức là mình không có xả. Cho nên vì vậy mà chú dẹp, chú trả lại Thầy, gởi lại Thầy hết, để rồi cuối cùng, thật sự ra mình hoàn toàn xả.

Còn không khéo, chú nghe nói, nghe lời Thầy giảng, chú cũng đem dẹp hết, nhưng mà tâm chú không xả, dẹp nhưng mà cứ, ở trong tâm cứ ước ao muốn đọc hoặc là muốn nghe, mà không dám nghe, thì bị ức chế, càng khổ hơn nữa. Cho nên trong cái vấn đề mà tu tập, mà Thầy rất lo, là nhiều khi người ta ham quá, mà người ta ức chế người ta trên bước đường tu.

Chứ người ta phải xả thật sự, là mình hiện bây giờ mình không ham thật sự, mình hiểu biết như vậy, để cho mình thực hiện tu được như vậy, là không phải vì mình tham tu để cho mau, mà mình tu để đạt được sự giải thoát, giải thoát từng phút giây, từng giây, từng phút.

Mình ly tất cả những cái vật dụng mà không cần thiết đối với đời sống của mình, thì sự tư duy nó sáng suốt nó nhìn tất cả mọi cái để nó xả ra hết, cái này là cái trí tuệ. Mà cái trí tuệ nó xả nó mới hoàn toàn.

Còn bây giờ, chúng ta cố gắng ham thích để mà làm cho được, nhưng mà lòng chúng ta còn ưa thích, còn ham muốn cái đó, mà bắt buộc bây giờ chúng ta muốn được giải thoát, chúng ta cứ bỏ mà chúng ta không có sự hiểu biết cho nó cụ thể, thì coi chừng nó bị ức chế.

(38:42) Đó, cho nên những điều kiện này ấy, Thầy nhắc nhở cho các con tu tập đó, các con sáng suốt nhận định. Thí dụ như, cái mình đáng xả thì mình xả. Bây giờ mình cần phải còn phải nghe, cần phải nghe những cái băng của Thầy giảng, thì khoan xả đã.

Còn bây giờ nghe nông nổi quá, chúng ta đem xả hết, nhưng mà trong tâm thì nó chưa có hiểu rõ được cái đường lối tu, mà bây giờ bỏ hết để mà cho giải thoát, thì coi chừng chúng ta bị ức chế. Còn bây giờ chúng ta đã đọc, rồi nghiên cứu kĩ lưỡng hết cách thức tu tập như thế nào, xong hết rồi, bây giờ chúng ta không cần thiết nữa rồi, chúng ta chỉ còn có thực hành thôi.

Cho nên nhất định là không đọc, trả hết kinh sách, băng giảng gì chúng ta không cần nghe nữa hết, dẹp hết hoàn toàn, để mà lo tu. Lúc bấy giờ chúng ta đã hiểu biết rất là sâu sắc tới đường lối chúng ta tu, chỉ cần nhờ có một vị người hướng dẫn chúng ta tu mà thôi. Cái người đó có kinh nghiệm, thì người ta chỉ sao mình làm như vậy thôi.

Còn bây giờ tôi không thèm đọc, tôi không thèm khát khao, ước muốn gì nữa hết, nghĩa là tôi đã nghiên cứu kĩ hết rồi. Cái này rõ ràng là tôi nghiên cứu cái này, là tôi phải rõ ràng là đức Phật đã dạy những cái điều này rất rõ. Tôi đặt trọn niềm tin, đây là lời của đức Phật dạy không phải là lời của Thầy nói suông, mà tất cả những cái điều mà Thầy viết ra đều là của lời của Phật dạy.

Khi mà đọc đã hiểu rồi, đặt trọn niềm tin rồi, thì dẹp sạch không đọc nữa để thực hành để sống. Bây giờ Thầy dạy như thế nào làm như thế nấy, thì chắc chắn cái sự tu tập nó sẽ, thời gian nó sẽ ngắn, nó nhanh chóng hơn, nó sẽ thu lại cái thời gian mà đức Phật đã xác định cho chúng ta cái thời gian, cho chúng ta biết là 7 ngày, 7 tháng và 7 năm, nó không dài lắm.

Nhưng mà sau khi mà tu, thì trước khi mà chúng ta, để mà chúng ta tu tập, thì chúng ta phải hiểu biết rõ. Bởi vì nếu mà chúng ta không hiểu biết rõ cái giáo pháp đó cho rõ ràng, thì bán tín, bán nghi, tới chừng mà nó gặp cái trường hợp xảy ra cho thế này, thế khác, thì chúng ta chới với, chúng ta mất niềm tin. Mà mất niềm tin thì nghĩ rằng cái này chắc không phải Phật, mà do Thầy thuyết giảng cái này không đúng.

(40:47) Do vì vậy mà khi mình nghiên cứu, nghiên cứu kỹ. Cho nên Thầy nghe, vợ chồng của Như Đức và Như Hạnh, khi được về ở Việt Nam, tập luyện ở đây hơn năm, mười ngày, thì khi mà trở về nước, thì hai người này đọc nghiên cứu lại kinh sách nguyên thủy rất kĩ, mà đọc lại bằng tiếng Anh.

Cho nên có một lúc, có gởi bức thư về hỏi Thầy, những cái danh từ mà tiếng Anh nó nói như vậy thì cái nghĩa của Hòa thượng Minh Châu dịch như thế này, theo con nghĩ thì nó không có giống nhau. Như vậy là cái nghĩ như thế nào là giống nhau thì xác định cho cái nghĩa đó, để cho tụi nó thấy rằng cái nghĩa đó nó đúng.

Còn Hòa thượng Minh Châu dịch như vậy, là cái nghĩa chung chung, cái danh từ để chỉ cái nghĩa chung chung, nó chưa đúng lắm. Cho nên Thầy nói cái nghĩa này, các con hiểu qua cái danh từ Anh này rất đúng. Các con hiểu nghĩa đó rất đúng, rất đúng để mà thực hành. Cho nên nó nghiên cứu kỹ, sau khi nghiên cứu kĩ thì cái niềm tin của nó nó thấy rằng đây là lời của Phật dạy, không phải của Thầy dạy đâu, các con hiểu điều đó.

Cho nên khi mà nó tin rồi đó, thì nó nỗ lực nó thực hiện. Thầy nghĩ rằng, nếu mà cả hai vợ chồng nó mà thực hiện với cái niềm tin sâu sắc, thì cái thời gian tu nó không lâu. Nó khó là khó cái giai đoạn đầu, là vì mình không biết cái này có đúng của Phật dạy hay không, hay là Thầy chỉ là tưởng ra mà Thầy viết, tưởng ra mà Thầy dạy, hay hoặc là Thầy tưởng ra Thầy nói đây là Phật nói.

Nhưng mà những cái gì mà Thầy dạy, thì có cái bài kinh của Phật đã chứng minh cho những cái điều Thầy dạy. Thí dụ như hồi nãy Thầy dạy, đức Phật dạy mình có 16 cái đề mục tu về Định Niệm Hơi Thở thường phải tác ý. Mà trong cái bài kinh mà đức Phật dạy về Định Niệm Hơi Thở thì đức Phật có dạy, Định Niệm Hơi Thỏ phải khéo tác ý, nếu mà tu về Định Niệm Hơi Thở thì thường xuyên phải khéo tác ý.

(42:36) Vậy thì trong cái câu đó đức Phật nói khéo tác ý là tác ý cái gì? Thì trong cái bài Định Niệm Hơi Thở đức Phật nói: "Quán ly tham, tôi biết tôi hít vô. Quán ly tham, tôi biết tôi thở ra", thì khéo tác ý câu đó, chứ đâu phải là khéo tác ý cái gì? Các con hiểu chỗ đó. Cho nên vì vậy mà chính đức Phật đã dạy và qua cái kinh nghiệm mà tu tập của Thầy, Thầy đã đạt được kết quả Thầy mới hiểu cái chỗ này đúng.

Còn các nhà học giả dạy tới đây, họ chỉ biết thầm thầm, chúng ta biết thở ra, thở vô, chứ còn không có hiểu biết trong cái quán ly tham, quán ly sân, quán vô ngã như thế nào, họ không hiểu. Cho nên họ không có dạy chúng ta nó một cách cụ thể như đức Phật đã dạy. Tại vì người ta không hiểu. Chớ còn người ta hiểu, thì người ta đâu có dạy như vậy.

Vì người ta là học giả người ta đâu có tu, cho nên người ta không hiểu là ông Phật nói sao kỳ. Mình biết hơi thở ra, biết hơi thở vô, để cho nó biết như vậy nó đi vào Định chớ. Còn bây giờ, cứ tác ý ra như vậy, thì nó có cái ý như vậy làm sao nó bất định làm sao. Nhưng mà không ngờ cái Định của Phật là cái chỗ ly tham, sân, si, chứ không phải là cái Định ở chỗ mà không vọng tưởng.

Đó, cho nên người ta không có hiểu, vì vậy mà người ta biến dần cái pháp của Phật nó thành cái tà pháp, nó không có đúng cái ý của Phật. Bây giờ Thầy mới dạy cho nó đúng trở lại thì người ta thấy, không biết Thầy kiến giải hay là như thế nào, hay sao đây? Nhưng mà cái chuyện mà Thầy đã làm được rồi thì tức là Thầy đã có cái kinh nghiệm rồi, Thầy mới nói, ờ Phật dạy như vậy là mình phải làm như vậy.

Thì bây giờ chúng ta thấy rõ ràng cái lời đức Phật nói nó cụ thể quá mà. Đó, khéo tác ý ra, thì Định Niệm Hơi Thở phải khéo tác ý. Nếu mà mình tu Định Niệm Hơi Thở thì mình phải khéo tác ý. Mà mình không khéo tác ý thì nó sẽ bị tưởng rồi.

Cho nên vì vậy mà trải qua một cái thời gian tu tập, thì các con nhớ cái mục đích của chúng ta sẽ đạt được là phải tâm ly dục ly ác pháp, phải ngăn ác diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện. Cho nên có người nói rằng Thầy dạy như vậy là bị chấp vào trong cái thiện, bởi vì cái thiện mà còn ác, thì chúng ta còn thấy chấp thiện.

Nhưng mà cái ác nó hết sạch thì cái thiện chúng ta còn cái chỗ nào cái đối đãi của nó đâu mà gọi là chấp thiện nữa. Khi nó đã sạch hết cái ác thì đâu còn cái đối tượng của ác nữa đối với thiện, thì như vậy thiện nó cũng đâu còn.

(44:46) Cho nên cuối cùng mới đầu thì chúng ta thấy, mình phải tăng trưởng, mình sanh thiện mà tăng trưởng thiện, coi như là bị dính vào thiện chứ gì? Nhưng mà cuối cùng thì không còn ác nữa, bởi vì hồi đó mình còn dính thiện là tại vì còn ác. Mà khi ác nó sạch rồi, thì thiện nó đâu còn cái gì nữa đâu mà thiện, bởi vì không ác thì nó đâu còn thiện nữa, cho nên cả thiện nó cũng mất. Nó là vậy.

Chúng ta hiểu được như vậy thì chúng ta thấy con đường tu của đạo Phật. Mới đầu thì chúng ta nghe ông Phật dạy "Ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện", chúng ta, như vậy là ông Phật dạy chúng ta còn dính thiện. Còn Thiền Đông Độ dạy chúng ta không có dính cái thiện cái ác nào hết, cho nên hoàn toàn nó sạch trong.

Nhưng mà không ngờ nhờ cái thiện mà chúng ta diệt được cái ác, nhờ cái thiện mà chúng ta mới sống được an lành, mới được giải thoát. Nhưng mà cuối cùng cái ác nó sạch hết rồi thì cái thiện nó cũng đâu còn cái đối tượng của nó nữa đâu mà gọi là thiện, cho nên nó toàn thiện thì nó không còn có cái bị dính mắc cái chấp đó nữa.

Đó là những cái phương pháp và cách thức tu và cái sự suy nghĩ, để mà hiểu rõ được cái đường lối. Không khéo thì người ta sử dụng mà cái ngôn ngữ lý luận, thì mình không …​

9- NGƯỜI CƯ SĨ ĂN UỐNG THẾ NÀO CHO GIẢI THOÁT

Phật tử Mỹ Châu: Dạ kính bạch Thầy! Thầy dạy như là muốn ly dục, ly ác pháp thì phải một ngày ăn một buổi. Mà ý con thì ở nhà con cũng muốn như vậy lắm, nhưng mà có bữa thì làm được, còn có bữa thì con ăn hai bữa như vậy rồi là sao Thầy? Ở nhà con có thể là ăn hai buổi được không Thầy?

(46:28) Trưởng lão: Trong cái vấn đề mà tu tập ăn ngày một bữa, thì các con thấy rằng về một người tu sĩ, mà đạo Phật đó, đó là cái ăn ngày một bữa đó là cái Thánh hạnh của một vị tu sĩ. Còn các con là cư sĩ các con còn lao động, còn làm những công việc, cho nên các con ăn uống như thế nào mà giản tiện nhất không có cực khổ, để nhằm vào cái sự giải thoát hoàn toàn.

Còn cái Thánh hạnh, thì người ta ăn ngày một bữa, trưa người ta ăn. Vì vậy mà do đó là người ta không có lao động, không có làm gì cả hết, người ta chỉ đi xin ăn, nó khác rồi. Cho nên Thầy mới dạy, đức Phật dạy các con thọ Bát Quan Trai, là một tháng hoặc thọ một ngày hai ngày thì những cái ngày đó thì các con sống đúng cái hạnh như Phật, các con ăn ngày một bữa.

Nhưng mà hoàn toàn ngoài tất cả các ngày khác, thì các con đang lao động đang sống cho cái gia đình của mình, mọi người trong gia đình của mình, thì do đó các con ăn thêm buổi sáng. Buổi chiều các con không ăn, các con uống nước cũng được. Hoặc buổi sáng các con uống sữa uống gì đó đơn giản, hoặc ăn bánh mì gì đơn giản, đừng có làm bữa ăn, mà nào là phải nấu nướng cái này kia cực khổ, đó là không giải thoát.

Còn bây giờ các con thấy cần thiết mình mua một người một ổ bánh mì, rồi chấm với nước tương hay hoặc là ăn với cái gì, ăn sữa hay gì đó. Các con đơn sơ các con ăn, thấy mình cũng xong cái bữa ăn, mà nó đơn giản, nó không có, khỏi cực khổ các con phải rửa bát, rửa chén này kia, rồi nấu nướng nữa.

Đó là mình chọn lấy một ngày, một ngày mình ăn cái bữa ăn chính cho gia đình mình sum họp với nhau trong bữa ăn. Còn cái phần mà buổi sáng và buổi chiều, thì ăn phụ mà thôi. Do đó như vậy thì con đường tu các con cũng vẫn tốt như thường, không phải các con còn tham ăn đâu.

Nghĩa là bây giờ các con xét mình, mình thấy mình không thích ăn đâu, nhưng mà vì các con không thể ăn trong một bữa mà các con còn lao động được. Nghĩa là các con còn lao động mà con ăn một bữa thì các con không thể làm nổi đâu. Cho nên vì vậy mà các con phải ăn thêm, nhưng mà ăn thêm rất là đơn giản.

(48:29) Còn những người tu sĩ mà ăn phi thời thì không đúng, là tại vì là không có lao động. Không có lao động mà lại ăn nhiều, làm cho người khác người ta gánh một gánh nặng của mình, thì cái đó là cái sai. Cái lòng mình không thể nào mà cho phép mình làm cái điều đó được.

Cho nên cái người tu sĩ người ta ăn một bữa, người ta ở không người ta không có lao động, cho nên một bữa người ta đủ sống rồi. Vì vậy mà người ta ăn một bữa rồi, thì người ta nỗ lực người ta ngồi không người ta tu. Hoặc là người ta tu rồi, người ta chỉ đi xin ăn, như đức Phật đã tu rồi, thì đức Phật chỉ đi xin ăn cho mình sống một bữa thôi, để mình đem cái khả năng của mình mình giáo hóa cho người ta, mình dạy người ta cái con đường tu tập, thì cái đó là cái đúng.

Còn đối với mấy con, mấy con đừng có, yên tâm, trong cái vấn đề không phải ăn mà không giải thoát, nhưng mình ăn mà mình phải suy nghĩ mình còn tham ăn hay không? À bữa nay bày ăn cái này cho ngon, mai phải làm cái kia cho ngon, mốt phải mua cái vật nọ làm cho ngon, thì cái này là không đúng.

Mình ăn để sống chứ không phải ăn cầu ngon, nhưng mà ăn để sống. Nhưng mà vì còn lao động, các con không nên mà tìm mọi cách sống như một vị tu sĩ, một vị Thánh Tăng, không được đâu, đừng có làm như vậy, mà các con đã tự ức chế thân tâm của mình, làm khổ lấy mình.

Cho nên đức Phật đâu có chấp nhận khổ hạnh. Ngày xưa đức Phật đi tu, rồi người ta dạy đức Phật ăn ít, tiết thực. Cho nên đức Phật ăn ít, ăn một ngày có vài ba miếng cháo, ít rất ít. Trong cái bữa ăn như vậy, ăn có miếng cháo, ăn quá ít, đức Phật không có đủ sức khỏe, mà đến đỗi mà đứng dậy không có nổi. Do đó đức Phật mới thấy rằng mình khổ hạnh như thế này nó chẳng ích lợi gì.

Cho nên đức Phật ăn lại, ăn một bữa, ăn no đủ một bữa, đủ sống cho cả ngày của mình để mình tu tập. Thì đức Phật thấy sức khỏe của mình bình thường. Thậm chí như đức Phật người ta cũng sữa dê, đức Phật vẫn uống mà.

Người ta nói đức Phật uống sữa dê như vậy là ăn mặn, đâu phải. Sữa là do cây cỏ của một con dê nó ăn, nó thành sữa, chứ đâu phải là sữa mà bắt con vật mà cắt cô nó rồi nặn ra lấy sữa, thì như vậy là đức Phật không ăn uống đâu.

(50:28) Còn cái này rõ ràng là con vật có chết chỗ nào đâu? Người ta chỉ vắt sữa người ta lấy ra, mà sữa là do cỏ con dê nó ăn, con bò nó ăn, người ta vắt ra, thì như vậy đâu phải là chất đó là chất mặn. Phải không, nó từ cỏ nó thành ra sữa chứ đâu phải là từ cái.

Phải chi mà con bò với con dê mà nó ăn từ thịt của chúng sanh mà nó thành sữa, thì do đó chúng ta gián tiếp, chúng ta uống sữa nó là có sự sát sanh. Trái lại con bò với con dê nó ăn cỏ mà nó có sữa chứ. Cho nên trong sữa đâu phải là có chất đau khổ trong đó đâu, các con thấy.

Đó cho nên vì vậy người ta lý luận những cái điều sai, mà chúng ta nghe thì nó hữu lý, bởi vì, trong cái thân động vật thì người ta cho đó là chất mặn, không đúng đâu.

Mục đích của đạo Phật tu ăn chay, không có nghĩa là như con bo ăn cỏ. Mà có cái ý thức, ý thức ăn chay của nó là phải hoàn toàn có cái lòng thương yêu của chúng ta đối với sự sống. Mà cho nên vì vậy mà ăn mỗi ngày một bữa, chúng ta cũng phải có cái lòng thương yêu đối với bản thân của chúng ta.

Chúng ta còn lao động, còn làm công việc, thì chúng ta không được quyền bắt ép nó phải ăn ngày một bữa mà chịu đựng những cái sự thiếu hụt của cái cơ thể nó cần cái nhu cầu ăn uống, mà bây giờ chúng ta ăn ít quá thì không được.

Đó cho nên vì vậy, một cái người mà quyết định mà xuất gia để làm tu sĩ thì chúng ta quyết định ăn ngày một bữa, vì chúng ta không có làm, cho nên chúng ta tránh được cái sự gánh nặng cho Phật tử người ta gánh mình. Ăn ngày ba bữa thì tức là mình phải ăn nhiều rồi.

Còn mình ăn ngày một bữa, dù muốn, dù ăn nhiêu cũng không ăn được nữa. Cho nên nó giảm bớt cái sự gánh nặng cho Phật tử, vì mình không có làm ra của nữa, mà tất cả cái ăn cái sống của mình đều là do mồ hôi nước mắt của Phật tử. Cho nên vì vậy mình ăn với lòng thương yêu của mình, cho nên mình ăn ngày một bữa.

Còn các con phải tự làm lấy sống, mà các con lại làm cho cái thân các con phải ăn ngày một bữa, các con sẽ thấy nó bị hao hụt đi, nó sẽ khổ sở nhiều. Cho nên vì vậy mà các con, bình thường các con cứ tu xả tâm. Và đồng thời trong cái ăn của các con, các con cũng thấy mình, sáng nay phải mua cái này mua cái kia ăn để ngon, thì các con còn dục đó, còn tham đó.

(52:43) Còn bây giờ ăn để sống các con thấy, có một ổ bánh hoặc là một chén cơm nguội các con ăn để sống trong cái buổi sáng của các con cũng được rồi, chứ không cần phải đòi hỏi. Thí dụ như bây giờ còn cơm nguội hay còn này kia các con lấy ra ăn, trong một bát buổi sáng cũng tạm được rồi, không có cái gì đâu mà các con ngại.

Cho nên ở đây mục đích chúng ta nhắm vào chỗ tham, sân, si của chúng ta mà thôi, để ly để xả nó, chứ không phải nhắm vào cái chỗ mà ăn. Mà khi trong một tháng, mà các con Thọ Bát Quan Trai, thì buổi sáng nhất định không ăn, buổi chiều nhất định không ăn, trưa ăn. Bởi vì ngày đó mình làm Phật mà. Mình tập làm Phật thì mình phải khác rồi, cho nên nó khác rồi.

Và vì vậy, khi mà tâm các con nó nhu nhuyễn, nó đi đến cái mức độ mà có thể nhập các Định, thì lúc bấy giờ các con sẽ trở thành một người tu sĩ thật sự, các con sẽ ăn ngày một bữa, các con mới nhập Định, nó trọn vẹn.

Là tại sao vậy? Tại vì Định nó không còn ăn uống nữa. Nghĩa là người nhập định 7, 8 ngày hay 1 tháng 2 tháng người ta đâu có ăn uống cái gì đâu, người ta vẫn ở trong Định, vẫn an ổn ở trong Định, đâu có cái gì mà khổ sở. Còn mình chưa nhập Định, thì mình còn là chiếc áo người cư sĩ, mình ăn uống đơn giản, đơn giản chừng nào tốt chừng nấy. Nói vậy là về cái phần ăn uống, con đừng có ngại.

Khi nào Thọ Bát Quan Trai thì giữ gìn đúng, mà không Thọ Bát Quan Trai thì không đúng. Thí dụ như bây giờ, con 1 tháng con thọ 15 ngày Thọ Bát Quan Trai, thì 15 ngày đó con phải sống cho đúng, ăn ngày một bữa, không sáng không ăn, không uống gì cả hết, không thêm một ly nước ngọt, không thêm một cái vật gì bánh kẹo gì cả hết, thì như vậy mói đúng trong Thọ Bát Quan Trai.

Còn ngoài ra còn 15 ngày khác con không Thọ Bát Quan Trai, con sống bình thường, nhưng ăn uống rất đơn giản. Mỗi khi ăn con đều có quán sát ở trên sự ăn con có thèm khát hay không, có muốn ăn hay không?

(54:33) Nếu nó muốn nhất định là không có cho cái lòng ham muốn nó, mà ăn để sống chứ không phải ăn mà tham ăn. Thì cái tu của con nó dùng cái trí tuệ, nó biết suy tư chín chắn trên cái sự ăn uống đời sống của nó thì nó sẽ được giải thoát. Con còn hỏi gì thêm nữa không con?

10- CÁC TRƯỜNG HỢP TU SAI DẪN ĐẾN RỐI LOẠN THẦN KINH

Phật tử Mỹ Châu: Dạ thưa Thầy hôm bữa con đi đó với bạn con có […​].

Trưởng lão: Thầy Thông Vân, thì cái bệnh của thầy Thông Vân thì cũng dễ không có cái gì khó khăn, bởi vì nó thuộc về cái, nó rối loạn tưởng thôi. Mà đã có nhiều lần kinh nghiệm rồi, cho nên cái kì này tuy rằng thầy có bị rối loạn, nhưng mà nó nhẹ hơn các kì trước nhiều.

Cho nên các con yên tâm bởi vì, mỗi lần mà về đây mà tập luyện đó, thì coi như là xả được một số rất lớn, cho nên cái thần kinh của thầy nó cũng bớt cái loạn. Kỳ này thầy cũng có rối loạn, nhưng mà rối loạn nhẹ, nó không phải như kỳ trước.

Nhưng mà trước khi mà nó sắp sửa xảy ra đó, thì bữa đó thì Thầy có họp chúng, tất cả chúng đến đây, thì cho nên thầy Thông Vân sau buổi sáng, thì buổi chiều thì Thầy Thông Vân có đến, nói: “Hôm nay con thấy sao con ngủ con lại bị rơi trong tưởng. Và con ngồi yên lặng thì con dễ bị rớt trong tưởng lắm.”

Thầy bảo bây giờ hoàn toàn là con không có nên ngồi nữa, mà không có nên nằm ngủ nữa, mà nên tập đi kinh hành thôi, tập đi kinh hành xả đi. Còn không thì phải về ở dưới Châu Đốc, trong cái cảnh động thì nó mới yên, chứ còn trong cảnh tĩnh như thế này, thì cái trạng thái tưởng nó sẽ bị dễ rớt lắm.Thầy bảo cái ý là bảo khi mà nó tưởng hợp như vậy đó, thì thầy phải ra tiếp duyên.

(56:31) Tiếp duyên tức là nói chuyện này kia chơi vậy đó, thì nó sẽ không có. Còn đằng này đó, có một mình thầy ở trong thất thấy cứ thầy ngồi hoài, ngồi miết nó rơi vô. Mà khi mà nó hiện tượng nó xảy ra như vậy, nó có như vậy rồi, thì nó thích ngồi lắm, nó không có muốn đi kinh hành đâu, nó ngồi. Cho nên thầy cứ thầy ngồi hoài.

Vì vậy mà nó rớt thầy trong có, bữa trước và bữa sau thầy đã bị liền. Cái bữa Thầy giảng là bữa sau thầy đã bị, nhưng mà cái ngày đầu thì nó nhẹ, nhẹ hơn. Nhưng mà Thầy có ra Thầy khuyên hãy xả đi đừng có ngồi, còn không thì phải nghe băng, phải nói chuyện phải này kia cho nó không bị rối loạn. Nhưng mà thầy thì ở ngoài thất đó có mình thầy à.

Cho nên vì vậy mà thầy từ ngày thầy đi về trong này thầy tu, thì cũng rất nghiêm chỉnh con, thầy Thông Vân là người tu hành rất nghiêm chỉnh. Thầy không cần gối không cần mền, không cần gì hết, thầy đem đồ vật dụng của thầy vừa đủ cho thầy, thầy đi đâu thầy đem vừa đủ cho thầy. Cho nên thầy đến đâu, thầy hoàn toàn là rất đơn giản, nên là đời sống của thầy rất đơn giản.

Nếu mà thầy không có bị bệnh này, mà được về đây mà tu trước khi mà Thầy chưa bị rối loạn đó, mà thầy được về đây, thầy là một người tu đạt được đạo sớm nhất đó. Cái con người của thầy là con người có quyết chí chứ không phải là con người không quyết chí.

Nhưng mà thầy bị rối loạn thần kinh thầy rồi. Cho nên hễ mà, khi tâm thầy nó vừa an là thầy bị, thầy rớt trong đó, nó rối, thần kinh thầy nó hoạt động, cái tưởng thức của thầy nó hoạt động, nó làm cản trở con đường tu thầy rất lớn, tội cho thầy! Mà vì trước kia thầy ham tu, thầy mới cũng rơi vào trong cái trạng thái bị rối loạn. Chứ nếu mà thầy tu chơi chơi như quý thầy khác, thầy không bị đâu.

Vì vậy mà, khi mà thầy xảy ra những cái trường hợp mà bệnh đau như vậy, sau này mà khi mà thầy về, thì gia đình có báo cho Thầy biết là thầy bị bệnh như vậy. Cho nên Thầy khuyên là cứ nên xả, không có nên tu. Nghĩa là xả tâm thôi, chứ không có được ngồi nhiếp tâm nữa, nhưng mà thầy không có nghe, thỉnh thoảng là thầy bị rớt.

(58:35) Cho nên thầy lần đầu thì nó nặng, lần kế này thì nó nhẹ hơn nó không có, lần này thì nó không có đến đỗi nào đâu. Cho nên thầy Thông Vân sẽ trở lại bình thường, nhưng mà cái điều kiện của thầy Thông Vân hiện giờ đó, phải tạo cái điều kiện, gia đình của thầy phải có tạo điều kiện.

Thầy cũng dự định là hôm nào có dịp Thầy về Châu Đốc, thì Thầy sẽ bàn với cái người em của thầy Thông Vân, đừng có nhốt thầy ở trên một cái phòng như vậy, mà nên tạo cho thầy một cái cơ sở. Và đồng thời Thầy sẽ hướng dẫn cho thầy Thông Vân là tạo cho thầy có cái cơ sở để cho Phật tử đến Thọ Bát Quan Trai thầy hướng dẫn. Rồi khi mà Phật tử tu tập đến mà tiếp xúc này kia, thầy sẽ không bị cái điều đó nữa.

Và đồng thời hướng dẫn cho thầy cách thức thầy xả tâm trong cái hoàn cảnh động. Cúng như các con sống ở trong gia đình hiện giờ, các con xả cái tâm của mình, mọi cái thứ đều đến với các con, các con sẽ xả. Đó là giúp cho thầy để vượt qua, để cho cái thần kinh của thầy nó ổn định hoàn toàn, thì lúc bấy giờ, thì thầy cũng xả rất nhiều thì cái tâm của thầy nó được an ổn nhất, và đồng thời thầy sẽ vào Định được.

Chứ bây giờ thầy vào Định là sẽ bị trở, bị cản trở liền. Nghĩa là tâm thầy nó an định, nó an định nó không phóng dật là thầy bị lọt trong tưởng liền, cái tưởng nó hoạt động liền. Cho nên nó mới làm cái, coi như là cái hàng rào tưởng đó nó đã che đậy thầy mất đi, thầy không có thể nào đi qua hàng rào tưởng này được.

Khi mà thầy, cái tâm của thầy nó yên tĩnh nó không vọng tưởng để mà nó đi vào cái Định hoàn toàn để mà nó, nó không phóng dật đó, nghĩa khi cái tâm thầy nó vừa không phóng dật là thầy bị cái trạng thái tưởng nó đến nó hoạt động liền. Cho nên nó cản con đường của thầy, thầy không còn cái lối để mà tiến tới được. Cho nên chỉ còn cách thức là thầy phải xả.

(1:00:20) Cho nên hầu hết là Thầy thấy, hầu như là, một số người tu tập mà về đây mà gặp Thầy, đều là tu sai hết. Cũng như vừa rồi ở, một cái cô ở ngoài Phước Sơn, cô đó cư sĩ, cô tu cô cứ hướng tâm cô nhắc, cô biêt biết biết, đi đi đi đi, nắm nắm nắm. Hễ cô lấy cái gì thì cô cứ ra lệnh nó lấy, cứ làm như vậy. Cho nên bây giờ cô đã trở thành một thói quen mất rồi.

Trời Thầy nói thật sự nguy hiểm, rất là nguy hiểm, chứ không phải là cái điều kiện tu như vậy là không nguy hiểm. Nó thành ra một cái thói quen, như vậy rất là khó bỏ. Mà nếu mà nó đi tới một cái giai đoạn nào nữa, thì nó sẽ trở thành nó, cái trí cái tưởng nó hoạt động thì nó thay thế cái ý thức được rồi. Thì hễ mình vừa đụng tới nó là nó hoạt động thì mình lại mất tự nhiên rồi, mình thành điên rồi.

Cho nên nó nguy hiểm vô cùng là tu sai là Thầy thấy nó cực lắm. Đó, đó là một cái vấn đề. Thà là mình không tu, mà tu thì tu đúng pháp, mà tu trật pháp là chết đó, nó rất khổ. Cho nên vì vậy mà cái trường hợp các con thấy, trường hợp ở đây nó nhiều người họ tu ở đâu họ đến đây. Mà họ tu tất cả những cái sai họ đến đây, thật sự ra đến đây Thầy chỉ sửa họ lại thôi. Chứ họ, họ là toàn là những người mà gọi là điên đó.

Cho nên vi vậy như thầy Thiện Thuận, con thấy ở trên Tây Ninh thầy tu về thiền xuất hồn, thầy đến đây, thì thầy bị tẩu hỏa nhập ma. Mà do cái trạng thái mà thầy nhiếp tâm để mà tưởng ra thầy sống trong tưởng, như hồn mình xuất đó, do đó thầy về đây, thầy bị cái tưởng nó rất mạnh, cho nên vì vậy mà thầy bị nó hoạt động. Coi như toàn thân thầy nó sôi lục bục, thầy cảm giác như vậy.

Cho nên Thầy phải phá, cho nên vì vậy mà Thầy khuyên thầy không có nên mà tu cái đó nữa. Vì vậy mà thầy trở về Tây Ninh, thầy nói rằng nếu mà con giữ gìn giới luật được, thì con mới dám tu, mà giữ gìn giới luật không được, thì thôi con xả hết, con không dám tu.Đó đó, Thầy đã cứu được thầy Thiện Thuận.

Kế đó thì coi như thầy Thông Vân là từ cái ngày mà đến đây tới bây giờ đó, thì Thầy cũng nỗ lực Thầy giải quyết cho thầy Thông Vân để mà thoát khổ. Rồi còn nhiều người nữa, còn nhiều người nữa tu sai nữa. Như ở Hà Nội cũng có chứ không phải không, mà Thầy cũng giải quyết rất lớn.

(1:02:39) Như Minh Đạo, ở ngoài đó các con biết Minh Đạo. Nếu mà không có Thầy giúp, thì nó cũng sẽ bị lạc vô tưởng. Mà đến đây kịp lúc Thầy chặn liền, Thầy không có cho nó đi sâu hơn nữa, chứ không khéo nó ức chế, nó không vọng tưởng nó đi vô. Mà tất cả nhừng điều đó sai.

Rồi Minh Tông, chính ở trong băng các con nghe mà Thầy nói về Minh Tông không? Nếu mà Minh Tông đừng cãi Thầy, thì Minh Tông bây giờ đã xong hết rồi. Mà Minh Tông cãi Thầy một chút xíu mà Minh Tông bây giờ hoàn toàn là số không hết. Nó đã tu từ Niệm Phật cho đến Mật Tông, nghĩa là nó tu có thần thông đó, chứ không phải không, đến đây mà những cái mà nó thấy nó bay lên đó, mà Thầy đã gạt xuống hết. Nó tu nhiều lắm.

Cho nên tất cả những cái điều kiện, mà từ khi mà Thầy triển khai cái giáo pháp của Phật, Thầy đã cứu biết bao nhiêu người, mà trong khi họ bị điên. Mà trong những người mà dạy người ta tu những cái pháp điên như vậy, họ có trách nhiệm chỗ này không, hay hoặc cái người điên rồi họ bỏ người ta như vậy?

Con thấy, thầy Thông Vân bây giờ gia đình gánh thầy Thông Vân chứ ai gánh? Có phải những cái người dạy đạo đó bây giờ gánh thầy Thông Vân không? Mấy con thấy. Họ đâu có trách nhiệm đâu, họ dạy người ta tu điên, rồi ai chịu.

Cái người mà người ta nhiệt tâm người ta tu đến khi người ta điên rồi, thì người đó phải chịu thôi. Còn cái ông thầy dạy thì người ta phè phỡn người ta không có bao giờ người ta thấy cái trách nhiệm của người ta. Trái lại khi một cái người mà về đây Thầy thấy điên, Thầy thấy tội cái đời nó.

Cho nên tại sao mà Thầy phải nói Đại Thừa, Thầy phải nói Thiền Đông Độ như vậy là tại vì, trước mặt Thầy thấy một cái nỗi khổ của con người người ta tu như vậy. Mình tu được mình mới dạy người ta, mình tu không được mình dạy người ta để cho người ta điên khùng như vậy, cái nỗi khổ có phải không?

Các con thấy, trên vấn đề này là một vấn đề đau khổ lắm. Ai mà lỡ làm cho người ta đau khổ như vậy? Thầy Thông Vân con thấy như vậy. Thầy bây giờ chỉ có biết, khi mà điên rồi, điên nặng đó, thì thầy bắt ấn, thầy trợn trắng mắt thầy lên, thầy làm đủ kiểu coi như là thầy bùa đó, tức là thầy đã từng tu Mật Tông đó.

(1:04:41) Coi như là thầy Thông Vân đã từng tu Mật Tông rồi, sau đó mới tu thiền. Từ cái chỗ tu thiền bị ức chế, nó mới điên. Cho nên vì vậy, từ đó mà, khi mà cái tưởng nó hoạt động, thì tức là thầy sẽ hoạt động tất cả những cái hành động mà thầy đã qua, những cái hành động mà tu tập cái gì thầy bắt đầu thầy hoạt động trở lại, y như hồi thầy mới tu. Cho nên thầy bắt ấn này, thầy niệm chú này, thầy ra lệnh, thầy làm đủ cách đủ loại.

Cho nên tất cả những hậu quả này ai chịu cho những cái người này? Gia đình người ta ôm con, ôm cháu, ôm em, người ta phải, người ta đau khổ lắm. Một cái người bình thường như thầy Thông Vân, các con nghĩ thầy Thông Vân, nếu mà bình thường, thầy đi học, rồi thầy đi làm, có lợi cho thầy mà có lợi cho xã hội nữa.

Bây giờ thầy trở thành một ông thầy giáo đi nữa, ít ra ông thầy giáo như thầy Thông Vân cũng là một thầy giáo gương mẫu chứ đâu phải là người xấu. Thế mà bây giờ thầy không làm gì lợi ích cho ai hết mà thầy điên khùng như vậy thì các con thấy cái gánh nặng của ai không?

Cho nên về đây Thầy thấy thấy giảm bớt cái sự, cái thời gian mà thầy mấy lần thầy đã giảm bớt, giảm bớt Thầy thấy rằng, nếu mà có cái dịp mà Thầy về Châu Đốc, Thầy tìm cách Thầy gỡ rối thêm để mà tạo cho thầy Thông Vân có cái cơ sở, thầy vừa ích lợi cho thầy, mà vừa lợi ích cho người khác.

11- SẮP XẾP YÊN ỔN TRƯỚC KHI VÀO TU VIỆN TU TẬP

Phật tử Mỹ Châu: Dạ, kính bạch Thầy, ở Châu Đốc có cái cô Diệu Hiền đó, cô mà đi với cô bữa đó đó Thầy, cúng cho Thầy Thông Vân 5 công đất. Đã cúng rồi, giấy tờ đã xong hết rồi đó Thầy. Thầy cho phép có điều kiện, nếu vậy thì nói với gia đình của chú Lân sẽ dựng cho thầy. Chú Lân thì con thấy khá giả lắm, cất nhà lên lầu 4 tầng.

(1:06:28) Vớt con hỏi Thầy một câu chót nữa là con bây giờ cái hoàn cảnh con thì, con con thì lớn hết rồi, con cũng có của, có nhà, có tới 4 chỗ, bây giờ con chia phần cho con thì được hết rồi. Nhưng mà con thấy bây giờ chưa, con tính cỡ khoảng năm con năm mươi, bốn mươi tám, con tính tới năm mươi hai đó Thầy, con vô trong chùa con ở luôn. Tới đây rồi Út dạy con tu, Thầy quán xét con có nhân duyên tói năm đó để con chuẩn bị?

Trưởng lão: Trong cái vấn đề tu tập đó, là cái vấn đề mà con sắp xếp được mà tới năm mươi hai tuổi, mà con vào mà tu luôn ấy, thì con sắp xếp. Thứ nhất là Minh Điền, chồng con, nó vui vẻ nó chấp nhận để cho con đi trước một bước, càng tốt không có sao đâu. Và đồng thời mấy đứa con con sắp xếp cho đứa nào nó cũng có an ổn, cái công ăn việc làm, mọi việc, cái cuộc sống của nó nó hoàn tất được.

Thì lúc bấy giờ con vào đây con tu Thầy thấy nó nhanh. Nghĩa là mình sắp xếp sao cho cái hoàn cảnh gia đình của mình rất ổn, mà mình không còn bận tâm lo, tức là nó thuộc về ái kiết sử đó, mình không có còn cái kiết sử đó nữa, mình không bận tâm nữa, thì cuối cùng thì con sẽ yên ổn mà con tu tập thì coi như là cái kiết sử nó không còn có nữa thì tu tập nó mau.

Nghĩa là hằng ngày mình vô đây, mình tu mình sống đời sống của một tu sĩ, trong cái chiếc áo của người cư sĩ. Nhưng mà sau khi mình tu xong rồi, tức là mình chứng Tam Minh rồi đó, mình nhập Tứ Thiền mình chứng Tam Minh xong, thì chứng đó mình muốn trở thành một vị tu sĩ, thì rất dễ dàng không khó nữa.

Vì cái vấn đề chấn hưng Phật pháp, vì cái vấn đề mà lợi ích cho con người, cho nên chúng ta phải khoác chiếc áo tu sĩ. Cho nên trong cái thời mà đức Phật mà thường hay, những cái vị mà đến xin đức Phật nghe thuyết pháp, những cái vị đó vừa nghe mà vừa chứng đó, thì hay hoặc là một thời gian chứng đạo, thì đức Phật gọi là Thiện Lai Tỳ Kheo, thì ngay đó là đã trở thành một bậc A La Hán, là một vị Tỳ Kheo đệ tử của Phật rồi đó.

(1:08:43) Thì nói râu tóc nó rụng xuống chứ sự thật không phải rụng đâu. Người ta coi như là râu tóc người ta còn là cư sĩ, mà chứng đạo thì khi mà đức Phật gọi Thiện Lai Tỳ Kheo, thì râu tóc nó rụng xuống, chứ nó không phải rụng đâu, mà người ta cạo cho nó rụng.

Thì các con hiểu đươc cái lý đó là cái người cư sĩ, ở đây cái mục đích cái bài pháp như vậy, cái lời dạy như vậy đó, là cái mục đích là tu tập ở chiếc áo của người cư sĩ cho đến khi thành tựu trở thành một người tu si, thì cái người tu sĩ đó mới chân chánh đó mấy con. Cho nên gọi là Thiện Lai Tỳ Kheo, vừa gọi là cái người đó đã trở thành một bậc A La Hán, một người chứng quả A La Hán.

Thì theo Thầy thiết nghĩ các con cũng nên tu như vậy, khi vào đây các con sẽ tu trong chiếc áo cư sĩ. Sau khi trong chiếc áo cư sĩ, các con hoàn toàn hoàn tất được con đường tu, tức là hoàn tất được Tam Minh, Lậu Tận Minh xong, thì lúc bấy giờ các con sẽ trở thành một vị tu sĩ xứng đáng. Đối với con dù nữ hay nam, đều là chúng ta có cái nhiệm vụ bổn phận là chúng ta phải chấn hưng Phật pháp, làm cho sáng tỏ lại Phật pháp.

Mà nếu mà sắp xếp được như vậy, an ổn được như vậy, không có làm phiền lòng ai hết, mà con quyết tâm tu như vậy là Thầy thấy, cái tuổi của con, trong cái năm mươi mấy tuổi, thì nó cũng chưa có muộn lắm, mà nó cũng không phải sớm lắm đâu. Nó không phải sớm mà cũng không phải muộn, nó cũng vừa rồi. Còn nếu mà để hơn nữa thì nó muộn, sợ cái sức khỏe của mình nó không đủ.

Cho nên sắp xếp được sớm chừng nào, mà về đây tu tập càng sớm thì nó cũng càng tốt chứ không có sao. Các con nên nhớ trên cái vấn đề đó, cố gắng mà sắp xếp. Chỉ cần sắp xếp yên thôi, rồi về đây tu tập. Và trong cái khoảng thời gian mà từ đây mà cho đến khi mà con được trở về đây, thì con có thể con xả tâm tiến bộ rất nhiều. Dùng cái tri kiến cái trí tuệ của con quán xét từng cái niệm của mình để xả, thì cái này thấy hay nhất.

(1:10:38) Tới chứng đó về đây cũng tiếp tục trên con đường xả bằng cách chúng ta tu Tứ Niệm Xứ. Nghĩa là về đây rồi con coi như là con hoàn toàn là tu Tứ Niệm Xứ hết, và đồng thời thì nỗ lực để quét sạch ở trên thân thọ tâm pháp các con, không còn một cái tham, sân, si gì nằm ở trên đó được. Không còn một chướng ngại pháp gì ở trên thân thọ tâm pháp của con được. Thì lúc bấy giờ là lúc mà con phải đi vào Định.

Mà khi vào Định mà ở tại đây, thì con rất an ổn là vì có Thầy, nó không có đến nỗi sai đường đâu. Và đồng thời thì con thấy như ở Châu Đốc mà về đây thì cũng không xa đâu. Mà sắp xếp được mà ở đây thì Thầy thấy rằng rất tốt, không có gì đâu. Con yên tâm mà cố gắng mà sắp xếp. Đó, bây giờ là đây là câu trả lời cuối cùng của con. Vậy thì […​]

12- ĐI TRONG KHI TU ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ KHÁC VỚI ĐI KINH HÀNH

Phật tử: Dạ con kính bach Thầy! Trong thời gian con ở tại Tu viện này đên hôm nay là đã được một tuần rồi, thì bạch Thầy là con đã áp dụng theo phương pháp của Thầy giảng dạy. Và trước đây thì con ham con ngồi nhiều, nhưng mà bây giờ là con áp dụng theo phương pháp của Thầy dạy thì con không còn ngồi nhiều nữa.

Còn ngồi từ 30 phút đến 45 phút, thì mỗi khi mà con bắt đầu tác ý đó, thì theo dõi hơi thở thì cỡ khoảng 45 phút mà khi con thấy là cái ý thúc nó hơi yếu đi, và cái tưởng thức nó chuẩn bị xuất hiện ra, thì con cũng đã thực hiện, thì phương pháp Thầy dạy là theo tác ý, để cho tâm nó trở lại theo dõi hơi thở.

Mà cứ khoảng 30 phút hoặc 45 phút, mà khi con thấy tê rồi thì con xả liền chứ con không ngồi nữa. Nhưng mà khi xả, là khi đứng dậy là con có tác ý nhưng mà trong khi đi kinh hành là con chưa biết vì hôm trước con chưa hỏi kỹ. Cho nên là, trong khi đi kinh hành thì con theo dõi sự chuyển động của thân chứ con chưa theo dõi hơi thở như Thầy giảng hôm nay.

(1:12:43) Nên con thưa với Thầy là cái hành của con trong một tuần là như vậy. Con xin hỏi Thầy một vấn đề là trong khi con hành đó, được khoảng, con ngồi được khoảng được 5 phút, thì trong thân của con nó có cái cảm thọ ghê lắm, nóng ran cả người. Thì con xin Thầy dạy cho con, và đây là mấy quyển sách.

Trưởng lão: Cái đầu tiên mà Thầy sẽ nói về cái pháp hơi thở đó.

Khi con tu cái Định Niệm Hơi Thở, là như hỗi nãy Thầy nói đó. Trong cái thời gian mà 1 giờ đi, 1 giờ, thay vì con phải ngồi 1 giờ đồng hồ, là tu cái Định Niệm Hơi Thở, nhưng bây giờ mới có 40 phút thôi, còn 20 phút nữa nó mới đúng 1 giờ.

Nhưng mà vì cái chân con bị tê, cho nên nếu mà con ngồi con chịu tê cho đến 20 phút thì nó cũng được, nhưng mà vì nó có cái chướng ngại ở trên thân của con. Cho nên vì vậy, con đứng dậy, phải không, con đứng dậy.

Lúc bấy giờ con, con không phải là ra lệnh như cái kiểu mà con ra lệnh theo cái phương pháp mà 5 hơi thở đi kinh hành một vòng, nó khác rồi. Cái phương này khi đứng dậy, thì con thấy bây giờ cái chân tê, thì cần thiết là mình phải xả cái thọ này, xả cái tê này, thì con phải đứng dậy. Nhưng mà khi con đứng dậy con vẫn hít thở chứ con không chú ý cái đứng dậy của con, bởi vì con đang tu Định Niệm Hơi Thở.

Cho nên con vẫn giữ cái tâm con trong hơi thở như trong khi con đang ngồi. Rồi bắt đầu con bước đi thì con vẫn giữ cái tâm con trong hơi thở, chứ không phải để cho nó tập trung trong bước đi. Nó duy nhất chỉ có hơi thở, cho nên con đi vậy chớ con biết hơi thở chứ con không biết bước đi. Vì mục đích của con là để đi như vậy, để phá cái thọ của con, cái chướng ngại ở trên cái thân của con mà thôi.

Cho nên con đi như vậy là 20 phút nữa. Thì trong khi đi như vậy nhưng vẫn giữ trong cái hơi thở, cho nên cuối cùng đúng 20 đó con xả, là 1 giờ con ở trong hơi thở con tu, chứ không phải là con đi kinh hành. Coi như là hoàn toàn con tu trên Định Niêm Hơi Thở chớ không phải là.

(1:14:44) Cho nên con không có, con xen cái pháp tác ý con để giữ cái ý thức của con như là con đang tu ở trong Định Niêm Hơi Thở, chứ không phải là con phải truyền lệnh. Cho nên mà vì vậy mà từ cái pháp này, bước sang qua cái pháp khác là chúng ta không có được lầm lạc, không có được lầm.

Cái pháp mà 5 hơi thở đi kinh hành 1 vòng 20 bước rồi trở lại ngồi trong hơi thở, đó là cái pháp, thứ nhất là luyện về cái nội lực của tâm, là phải truyền lệnh nó ngồi, rồi xếp bằng lại, rồi thở rồi đếm, rồi đứng, rồi đi, phải không, con truyền lệnh như vậy đó là cái phương pháp đó.

Còn bây giờ con tu về Định Niệm Hơi Thở không, thì bắt đầu bây giờ con thở ra con biết thở ra, thở vô biết thở vô. Rồi tùy theo cái, thỉnh thoảng con khéo tác ý theo những cái câu tác ý của nó, “quán ly tham”“quán ly sân”, hay là “tâm như đất”, hoặc là “ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Con tùy theo con quán theo cái hơi thở con hít ra hít vô này, phải không, để giữ cái ý thức của con không mất.

Nhưng bây giờ bị tê, thì bắt đầu con lại đứng dậy. Thì đứng dậy con cũng vẫn giữ y như con đang ngồi tu như vậy. Con hiểu rồi phải không? Tiếp tục bây giờ tới cái giờ mà đi kinh hành, không phải giờ mà tu cái Định Niêm Hơi Thở nữa, thì lúc bấy giờ đi kinh hành nó là cái phương pháp khác rồi. Con hiểu không, cái phương pháp khác. Tức là cái phương pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác Định rồi.

Cho nên đi kinh hành thì biết đi chứ không biết hơi thở nữa, nó khác rồi. Bây giờ đi thì biết đi, nhắc cho nó biết đi chứ không nhắc hơi thở. Và nếu mà nó biết hơi thở là tại vì mình quen hơi thở, thì tức là phải đoạn dứt. Biết đi, chứ không được biết hơi thở. Hễ phần nào là hay phần nấy.

(1:16:27) Nhiều khi chúng ta vừa đi, vừa biết đi mà vừa kết hợp với hơi thở, vừa biết hơi thở, thì cái đó nó không có chuyên nhất, nó không có nhất tâm đâu, nó đi hai loại à. Cho nên đó là sai, chúng ta phải xả cái đó ra. Mà đi thì biết đi thôi, rồi đi ở trong cái tác ý của nó để mà biết tác ý thôi.

Và đồng thời thỉnh thoảng có những cái vọng tưởng nào, thì chúng ta dùng cái Định Vô Lậu mà quán xét cái niệm vọng tưởng đó để xả cái niệm đó thôi. Thì trong khi ngòi tu hơi thở, Định Niệm Hơi Thở, mà giờ mình khéo tác ý vậy, nhưng mà có cái niệm vọng tưởng thì mình lấy ngay cái Định Vô Lậu tu ở trên cái Định Niệm Hơi Thở đó.

13- ĐỊNH VÔ LẬU CÓ THỂ TU RIÊNG HOẶC CÂU HỮU VỚI CÁC ĐỊNH KHÁC

Thì cái Chánh Niệm Tỉnh Giác mà đang đi kinh hành biết đi kinh hành đó, mà có cái niệm khác thì cái Định Vô Lậu đem vô mà tu tập Định Vô Lậu. Thường thường cái Định Vô Lậu nó câu hữu với các định khác, nhưng nó độc lập riêng nó, nó cũng có cái phần riêng của Định Vô Lậu. Cái Định Vô Lậu nó rộng rãi lắm.

Thí dụ như bây giờ Thầy vì cái tâm của Thầy thích ăn, nó ưa bánh ngọt, hoặc ưa sữa hoặc ưa gì đó. Thì cho nên Thầy bây giờ Thầy ngồi Thầy tu riêng cái Định Vô Lậu, Thầy đưa cái tài liệu, cái đề tài nó ra quán, Thầy quán thực phẩm bất tịnh. Thì bắt đầu Thầy tư duy, Thầy suy nghĩ, từ cái món thực phẩm nó thiu thúi, cho đến khi mà ăn mà nó nhàm chán, nó không thích ăn cái thực phẩm.

Đó, con quán bất tịnh như thế nào, để mà tâm con nhàm chán. Tức là con đưa cái đề tài ra để mà con quán xét cái đề tài đó, làm cho tâm con nhàm chán về thực phẩm. Thì cái đó là con tu hoàn toàn là Định Vô Lậu, không có xen vô cái gì. Cái giờ phút mà nó xen vào trong cái Định Niệm Hơi Thở, thì con cũng dùng cái quán cái niệm đó, bất kỳ.

(1:18:31) Bây giờ, thí dụ như bây giờ mình đang ngồi tu hơi thở, mà nó khởi cái niệm muốn ăn cái gì, thì con nên đưa cái, nó đã có cái niệm cho nên con không có đưa cái đề tài ra mà quán, mà con lấy cái niệm đó con quán ở trong cái Định Niệm Hơi Thở. Còn bây giờ hoàn toàn là con không có tu hơi thở. Con không có tu mà cái Định Chánh Niệm Tỉnh Giác đi kinh hành.

Bây giờ con ngồi chơi đi, hay hoặc là con ngồi cái giờ này vì giờ mà tu Định Vô Lậu riêng cái giờ của nó, thì con đưa ra cái đề tài, vì con biết là cái tâm con còn sân, thì con đưa ra cái đề tài từ bi, con quán lòng từ bi của con, phải không? Mà bây giờ cái đề tài mà, bây giờ cái tâm của con nó về sắc dục, thì con lại đưa ra cái đề tài thân bất tịnh để mà con quán con đối trị với tâm sắc dục, tức là con dùng cái Định Vô Lậu.

Cái Định Vô Lậu này nó riêng, nó không có câu hữu kết hợp với các Định khác, mà nó riêng. Trong cái giờ này là cái giờ tu Định Vô Lậu. Còn nếu mà hoàn toàn con đã quán sát về bất tịnh, về thực phẩm bất tịnh, về thân bất tịnh, về từ bi con đã qua sát, con đã tư duy, con đã suy xét nó đã thấm rồi, thì con không cần mà phải tu cái Định Vô Lậu riêng nữa, mà con sẽ đem cái Định Vô Lậu đó câu hữu với tất cả mọi cái.

Còn bây giờ nó có cái gì chướng ngại trong thân tâm của con này, bằng cái lậu hoặc, nên con phải đem cái đề tài đó ra, mà con tu riêng cái Định Vô Lậu, nó không có câu hữu với các Định nào khác. Còn nếu mà trong các Định khác, nó có khởi ra một cái niệm, thì con mới áp dụng ngay cái Định Vô Lậu, tức là câu hữu Định Vô Lậu trên cái Định đó mà mình tu.

Thí dụ bây giờ Định Niệm Hơi Thở, mà nếu mà nó suôn, nó không có cái niệm gì hết thì thôi. Mà nó đã xảy ra có cái niệm khởi vô, thì các con mới đưa ra cái niệm đó mà quán xét, thì tức là con sử dụng cái Định Vô Lậu ở trên cái Định Niệm Hơi Thở. Con đi kinh hành mà nếu mà có cái niệm gì khởi ra, thì con mới đưa cái niệm đó ra để mà quán xét.

(1:20:34) Mặc dù bây giờ thay vì con phải dừng cái niệm đó lại, rồi con tiếp tục con đi kinh hành gì, thì không có được quyền, mà con câu hữu cái Định Vô Lậu ngay liền đó, con mới đưa ra quán xét. Chừng nào mà thông suốt được cái niệm đó, xả rồi, thì con mới trở về vị trí của bước đi của con, con biết bước đi.

Còn bây giờ tới cái giờ này là giờ con riêng con tu cái Định Vô Lậu, nó không câu hữa với Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Hơi Thở, mà cũng không có trong cái giờ tu của Định Sáng Suốt, thì con tu cái định này, cái Định riêng của nó là Định Vô Lậu.

Vì vậy mà hiện giờ con thấy cái tâm sân con còn, cái tâm si con còn, cái tâm sắc dục còn, cái tham muốn ăn còn, thì mỗi cái con thấy bây giờ tâm mình nó còn cái đó, thì mình phải đưa riêng ra mình quán xét, để mình triển khai cái tri kiến, để mình hiểu về cái đó, cái đối tượng đó cho nó thâm sâu, để cho nó nhàm chán.

Cũng như bây giờ con thấy con tu hơi dễ dãi, thì con mới, khi mà tới cái giờ mà tu cái Định Vô Lậu đó, thì con mới đưa ra cái niệm chết, con hiểu không? Để cho con quán cái niệm chết thì con sẽ thấy, bây giờ mình còn sống nhưng lát nữa mình chết, mình biết chừng đâu, cho nên mình phải ráng nỗ lực chứ sao lại mình lười biếng, mình tu như thế này đâu có được. Nó chết rồi lấy cái gì mà tu?

Cho nên con đưa cái niệm chết con quán xét, vì vậy nó làm cho con tinh tấn, nó không có còn làm cho con lười biếng nữa. Đó. Mõi mỗi cái mình thấy đặc tướng của mình ở trong tâm mình nó có cái gì đó, thì con hãy đưa ra những cái đó để mà con tu tập trong cái Định Vô Lậu, thì nó sẽ là cái Định Vô Lậu riêng biệt, chứ nó không có nằm chung ở trên cái đó.

Mà nằm chung trên các môn khác là tại vì cái tâm của con nó khởi cái niệm ra, nó làm cho con bị cái niệm đó nó chi phối ở trên cái chỗ mà con tu cái Định đó. Cho nên con mới lấy cái Định Vô Lậu mà con quán xét chứ con đừng có nên mà ngắt ngang hoặc dừng ngang cái niệm đó, thì như vậy con bị ức chế tâm.

Còn dùng cái Định Vô Lậu mà quán sát, nó giúp cho con cái tri kiến giải thoát nó càng tăng lên. Và đồng thời thì con lại đẩy lui nó bằng cách nhẹ nhàng và kêu là thấu suốt cái lý của cái niệm đó, nó làm cho tâm con ly dục ly ác pháp.

14- ÔM PHÁP TÁC Ý ĐỂ ĐỐI TRỊ CẢM THỌ

(1:22:43) Còn về cái phần mà con nói, con nói ngồi tu mà nó cảm giác nó lạnh hay như thế nào? Nó nóng hả? Trong cái vấn đề mà nó gặp cái trường hợp mà như vậy đó, thì con sẽ dùng cái pháp Như Lý con tiếp tục con ngồi, mà nó cảm giác như vậy thì con tác ý một cái tướng khác của cái tướng.

Thí dụ như bây giờ nó cảm giác như nóng, con nói "Cảm giác cái thân mát lạnh, không được nóng nữa". Thì con cứ ngồi, rồi một lát con tác ý chừng nào mà con cảm thấy nó hoàn toàn nó mát lạnh, nó không còn nóng nữa thì thôi. Mà nó còn thì thỉnh thoảng con cứ tác ý, tác ý đến khi đuổi nó thôi. Thì con phải dùng cái pháp.

Bởi vì trong cái bài mà An Trú Tầm đó, thì đức Phật có dạy chúng ta tác ý một cái tướng khác cái tướng đó. Bây giờ mình đang bị cái tướng nóng, phải không, mình cảm giác tướng nóng thì mình tác ý một cái tướng mát mẻ, thì mình tác ý cho đến khi nó mát mẻ. Thì lúc bấy giờ nó đã đẩy lui được cái chướng ngại.

Đó là cái phương pháp đối trị mà đức Phật đã dạy cho mình, có 5 cái điều kiện đối trị các cái pháp ác. Mà cái đối trị các pháp ác thì trong đó có cái pháp ác thọ, nó làm cho mình khó chịu, nhức, đau cái gì đó​ thì mình cứ tác ý ra cái tướng đó.

Cho nên hầu như là có một số người bị bệnh, họ bị khổ, Thầy cũng theo cái bài pháp đó, mà Thầy dạy cho mọi người. Thì có người người ta đặt trọn cái niềm tin, thì họ tác ý, tác ý, nó sẽ hết. Còn có người họ bán tín bán nghi, họ cũng tác ý mà không hết là tại vì họ không có tin. Còn con bây giờ tin thì con nó sẽ hết, mà con không tin thì nó không hết. Con nhớ trong cái giờ mình ngồi tu mà bị trường hợp đó, thì phải tác ý.

15- KHỞI TÂM TỪ BI KHẮP MƯỜI PHƯƠNG, LÀM SAO CÒN ĂN NỔI THỊT?

(1:24:28) Phật tử: Kính bạch Thầy! Mấy năm nay con tu ở Nam Tông, thành ra ngày hôm qua con có xem một ít trang trong cái quyển “Đường về xứ Phật” tập 1 của Thầy viết đó. Thì thật ra con vào trường con tu 8 tiếng nên không có thời gian để đọc sách. Cho nên con không hiểu, mà con chỉ nghe quý sư giảng lại thôi.

Cho nên lúc đầu mới đến chùa thì con cũng ăn chay nhưng mà sau quý sư giảng thẻo, như trong sách mà "Đường về xứ Phật" mà Thầy có viết đó, thì con cũng nghe theo có lý thì con cũng dừng theo thôi. Nhưng mà bây giờ xem sách của Thầy viết, thì con thấy ở Nam Tông chúng con là, có cái chỗ này là như con xét thấy, vì cái chỗ đó cho nên là quý sư cho phép ăn mặn.

Là bởi vì quý sư lập luận rằng, quý sư có diễn giải trong kinh ra, quý sư cho rằng cái ý mà không nghe không thấy và không nghi đó, là bởi vì quý sư nói là không bảo, hoặc là không để, hoặc là không cho Phật tử giết con vật đó để cúng dường cho quý sư. Mà ở đây là Phật tử họ đi mua cái con vật ấy sẵn rồi, ví dụ ra ngoài chợ mua con cá họ đập chết ở đâu rồi đó, họ không biết, cái người mà vô chợ đó không biết, thì quý sư giải thích đó là không nghe, không thấy, thì con thấy hay.

Bây giờ xem sách của Thầy rồi, con thấy hai cái ý đó không nghe được. Nhưng cái ý mà không nghi đó, thì con thấy là không nghe được. Bởi vì, như Thầy nói đó, khi ăn thì tất nhiên mùi cá, mùi thịt thì con chưa chưa xét kỹ nhưng mà riêng con thấy cái mùi cá, thì ăn là biết liền, thì khi nào cũng có tâm nghi.

Cho nên là con bạch với Thầy là, cái vấn đề đó con xin bạch Thầy giảng thêm cho con, vì con ở Nam Tông sau này con về nữa, thì quý thầy quý sư có hỏi, con cũng thưa thật. Thì cái điều mắc mớ đấy là sau này con sẽ xin trở lại đây tu và học và, ở ngoài đó tu thì nó cũng có cái phần lợi. Cái đó là vấn đề thứ nhất.

(1:26:29) Còn vấn đề thứ hai nữa đó là, chúng con thường được quý sư cho phép đó, là buổi trưa thì ở Nam Tông là được phép buổi sáng ăn điểm tâm, còn buổi trưa thì 10 rưỡi hoặc 11 giờ ăn, còn buổi chiều thì không ăn, nhưng mà có được cho phép là buổi chiều dùng các thứ là thuốc chữa bệnh, ví dụ như là các loại nước ép khác hoặc là sữa, đường. Thì con bạch Thầy là có được hay không?

Còn cái thứ ba nữa, là ở Nam Tông đó, thì quý sư thường dạy là cái đường với cái sữa nó thuộc vào thuốc ngừa bệnh. Cho nên ngoài cái tầm 10 giờ rưỡi, thì buổi sáng hay buổi chiều đó, thì cái thuốc ngừa bệnh đó có dùng được hay không? Dạ con xin Thầy!

Trưởng lão: Ở đây thì Thầy sẽ trả lời. Trong một bài kinh mà trong kinh Trung Bộ, đó thì cái bài kinh Jivaka. Ông Jivaka là một vị quan của, trong cái thời đức Phật, ông đến ông hỏi, một vị thừa tướng trong cái thời đó. Ngài đến ngài hỏi đức Phật về cái vấn đề ăn chay, ăn mặn thì đức Phật có nói cho cái vị sư đó biết.

Thì đầu tiên đức Phật nói, thì trong bài kinh, lẽ ra thì nó phải có cái thứ tự, nhưng mà vì người ta kiết tập, người ta viết cái trước thành cái sau, cái sau thành cái trước. Cho nên Thầy chỉnh đốn lại cho thấy rõ. Đầu tiên đức Phật cấm, người cư sĩ mà cúng dường thực phẩm động vật cho Phật và chúng Thánh Tăng, thì có 5 điều phi công đức, phải không?

Kế đó thì đức Phật kể ra điều thứ nhất như thế nào, thứ hai như thế nào, thứ ba như thế nào, thì đã có cái điều kiện đức Phật đã nêu lên không có phi công đức như vậy, thì tức là có cái ý là cấm người đệ tử cư sĩ đó, mà cúng dường cho Phật với chúng Thánh Tăng, thì phải cúng dường cho đúng cách, đừng có tạo cái điều không có công đức đó. Cho nên đức Phật đã cấm.

(1:28:46) Kế đó thì đức Phật lại dạy thêm nữa, là một cái người tu sĩ đó, khi ăn là phải khởi cái tâm từ bi của mình khắp 4 phương, khắp 6 phương, phương Đông, phương Tây, phương Nam và phương Bắc và phương trên và phương dưới là 6 phương, nghĩa là khắp cùng.

Khắp cùng như vậy là rõ ràng là đức Phật muốn bảo chúng ta không phải là ăn mà chúng ta khởi cái tâm từ bi bốn phương gì đâu. Mà đức Phật nói khi ăn chúng ta phải nhìn vào cái dĩa thực phẩm chúng ta ăn, cái món ăn của chúng ta, phải toàn diện, quan sát toàn diện, gọi là khắp 10 phương hay là 6 phương, trên dưới trong ngoài tất cả mọi cái đều là phải khởi tâm từ bi ở trên cái món ăn của chúng ta. Ý của đức Phật muốn nói vậy.

Thì trong khi đó thì nhiều người ta không hiểu được cái ý này. Người ta nghĩ là, khi mà muốn ăn cái gì đó thì phải khởi cái tâm từ bi khắp cùng 10 phương, không phải. Mà đức Phật muốn trọn vẹn ở trên cái món ăn của chúng ta, phải cái tâm quan sát cái lòng từ chúng ta ở trên đó.

Mà khi mà lòng từ bi của chúng ta ở trên cái món ăn, thì cái thứ nhất là nhớ đến công lao của cái người cúng dường cho mình, người ta rất cực khổ, để mà người ta mói có cái thực phẩm hôm nay mình ăn. Vì vậy có nghĩa là đức Phật muốn nhắc nhủ chúng ta ăn đừng có phí của đàn na thí chủ.

Cái thứ hai nữa, thì Đức Phật nói tâm từ bi đó, thì tức là phải nhìn quan sát ở trên đó có sự sống, sự chết, sự đau khổ gì trên đó không? Nghĩa là có cái sự chết ở trên đó thì nhất định là không ăn. Bởi vì có sự đau khổ mà.

Thì như mình ăn một cái miếng thịt, mà trong miếng thịt mà mình ăn, mà có một sự chết của một cái loài vật, mà trước khi chết cái loài vật đó phải bị làm thịt, thì nó phải chịu đau khổ. Mà chịu đau khổ như vậy, thì không thể nào là chúng ta ăn hết. Tâm từ bi thì không có cho phép một người tu sĩ của đao Phật mà ăn như vậy.

(1:30:41) Đó, do như vậy là cái bài kinh đó đức Phật muốn dạy chúng ta thấy, đầu tiên là cấm người cứ sĩ rồi, kế đó đức Phật còn sâu sắc hơn nữa là dạy chúng ta ăn phải khởi tâm từ bi. Từ bi đầu tiên là phải biết ơn cái người mà làm ra cái của cải này, để mà chúng ta nỗ lực thực hiện tu hành cho xứng đáng với cái bữa cơm của chúng ta.

Cái từ bi thứ hai, kế đó là phải quan sát cái sự sống chết và khổ trong đĩa thực phẩm của chúng ta đang ăn. Rồi bây giờ mới đến cuối cùng, kế đó thì đức Phật mới dạy tới nữa.

Một vị Tỳ kheo ăn thì không thấy không nghe và không nghi, do các sư ở bên Nam Tông đó, thì các sư nói ăn không thấy người ta giết con vật, hoặc là cái người mà mua thực phẩm cúng dường không thấy người ta giết con vật, mua đem về thì có thể cúng dường được, thì cái đó là ăn không thấy không nghe không nghi.

Thì bây giờ ăn không thấy, không thấy người ta giết cho mình ăn, không nghe người ta giết cho mình ăn, không nghi người ta giết cho mình ăn, đó là cái lý luận của các nhà sư. Nhưng mà đọc lại cái bài kinh nói rất rõ ràng. Ăn phải khởi tâm từ bi, mà không thấy thì không thấy cái gì?

Nếu mà khởi tâm từ bi mà phải nhìn 6 phương, Đông, Tây, Nam, Bắc, trên dưới, như vậy là phải nhìn trọn vẹn ở trong cái dĩa thực phẩm của mình ăn chứ gì, phải không, khắp 10 phương ở trong này, thì trên cái dĩa này nó cũng là chứng tỏ nó toàn diện hết, mà chúng ta phải quan sát toàn diện.

Vậy thì không thấy cái gì? Không thấy thịt chúng sanh, chứ không thấy cái gì bây giờ?

HÊT BĂNG