Skip directly to content

06 - SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH - PHẦN 2

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 06 - SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH 02

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- TÌM HIỂU VÀ TU TẬP CÓ KẾT QUẢ RỒI MỚI THỌ TAM QUY NGŨ GIỚI

(00:00) Hôm nay Thầy tóm lược lại cái giáo án này, rồi chúng ta tiếp tục học những cái điều thiện của Phật đã dạy, để tiếp tục cho hết mười cái điều lành và biết rõ mười cái điều ác mà Phật đã nêu lên, để cho khi mà tu tập chúng ta biết rõ cái điều ác và điều thiện.

Như chúng ta đã học rồi, thì cái giáo án của Phật, cái lớp đầu tiên mà khi chúng ta đến với đạo Phật thì chúng ta phải thay đổi sáu cái nghề nghiệp. Như quý vị biết rằng, tất cả những cái nghề nghiệp đó là những cái nghề nghiệp làm đau khổ chúng sanh, cho nên phải thay đổi những cái nghề nghiệp.

Rồi từ thay đổi cái nghề nghiệp đó thì người cư sĩ phải tiếp tục tìm hiểu như thế nào? Cho nên Phật có dạy có bốn cái cách mà để chúng ta đi sâu vào con đường của đạo Phật. Thầy xin nhắc lại.

Ngày xưa, khi Đức Phật dạy cho đệ tử của Ngài cái giới cư sĩ, thì Ngài dặn tất cả mọi người:

Khi đến với đạo Ngài thì đừng có tin Ngài, đừng có nghe Ngài. Những gì mà Ngài nói ra mà thực hiện được giải thoát thì hãy tin, được cái sự an ổn, hạnh phúc thì hãy tin. Những gì mà Ngài dạy ra mà được cái hàng trí thức - cái người trí - người ta cho đó là đúng thì các vị hãy trên cái thực hành đạo của Ngài. Chớ đừng vội mà tin.

Cho nên hầu hết trong cái thời đại của chúng ta, người ta tin đạo Phật, người ta tin rất là nông nổi. Nghe thuyết giảng, nghe khơi khơi chớ chưa thấy có sự giải thoát gì hết, chỉ mình nghe cái lý luận của người ta, mình thấy nó hay rồi mình bước chân vào đạo Phật mà không biết cái đó là đạo Phật giả hay là đạo Phật thật.

Bởi vì khi mà Đức Phật nói ra cái lời này, nói về vị lai đó, thì có một Đức Phật Di Lặc ra đời để mà thành lập một cái Đạo Phật. Thì cái thời vị lai là cái thời sau Đức Phật Thích Ca. Nhưng mà Thầy thiết nghĩ thì đạo Phật chỉ có ông Phật Thích Ca chớ trước đó cũng chưa ai sáng lập ra đạo Phật, và sau này trong thời vị lai chắc chắn là cũng không có một cái ông Phật nào mà sáng lập ra cái đạo Phật mới.

Nhưng nó có những cái đạo Phật mới chớ không phải không, vì chúng ta là những người ở trong cái thời vị lai, chúng ta đã thấy được cái đạo Phật mới chớ không phải chúng ta không thấy. Nhưng bây giờ thì chúng ta không nói cái đạo Phật mới đó mà chúng ta trở lại cái đạo Phật mà của ông Phật Thích Ca đã chỉ dạy cho chúng ta cách đây hai ngàn năm trăm bốn chục năm.

Vì vậy mà Đức Phật dạy, nhắc nhở chúng ta cái lời rất kỹ, là khi bước chân vào đạo thì phải có sự tìm hiểu, mà có sự kết quả của cái lời dạy đó để đem lại cái nguồn hạnh phúc, an vui cho đời mình thì mình nên theo cái đạo đó. Còn nếu mà không thấy có kết quả thì thôi đừng có theo.

Chính Đức Phật xác định: “Đừng có tin Ta mà cũng đừng có nghe Ta, mà cái điều làm được kết quả do từ Ta nói thì hãy theo Ta, mà không có kết quả thì thôi đừng có theo!”

Thì như vậy là Đức Phật đã dạy chúng ta cẩn thận, không có nông nổi, không có vội vàng mà cẩn thận khi mà tìm vào một cái tôn giáo nào. Chính Đức Phật là cái người đã sáng lập tôn giáo đó mà vẫn cẩn thận nhắc nhở chúng ta khi bước chân vào cái tôn giáo đó là phải có sự cẩn thận như vậy, kỹ lưỡng như vậy, không có nông nổi.

(03:29) Vì vậy mà khi bước chân vào đạo Phật, chúng ta thay đổi sáu cái nghề nghiệp rồi, thì Đức Phật bảo chúng ta: Thông hiểu những gì cần phải thông hiểu. Nghĩa là chúng ta muốn đi vào đạo Phật thì chúng ta phải thông hiểu những cái gì của đạo Phật?

Cho nên Đức Phật dạy chúng ta cái điều thứ nhất thì Thầy đã dạy các con rồi: Thông hiểu những gì cần phải thông hiểu. Rồi kế Đức Phật nói: khi mà thông hiểu rồi thì chúng ta trau dồi những gì chúng ta cần trau dồi, chớ không phải thông hiểu rồi cái thôi.

Cho nên nhiều khi chúng ta thông hiểu mà chúng ta không có trau dồi thân tâm của mình thì làm sao mình có giải thoát được? Cho nên mình phải trau dồi.

Mà trau dồi bằng cái pháp nào? Thì Đức Phật đã dạy cái pháp cho chúng ta trau dồi. Mặc dù là cái người cư sĩ họ chưa thọ Tam Quy - Ngũ Giới đâu, nhưng họ phải biết cách trau dồi để thử coi mình trau dồi có được không?

Chớ không khéo rồi mình vô cái đạo đó rồi cái mình trau dồi không được, cái mình nhảy ra mình theo cái tôn giáo khác, thì như vậy là mình nghe nó khó chịu, mình không có nghĩa, không có tình gì với tôn giáo đó.

Cho nên người ta bị cái tình trạng của tâm hồn chúng ta, thí dụ như bây giờ Thầy theo đạo Phật, hay hoặc là Thầy theo Cao Đài, hay hoặc là Thầy theo Thiên Chúa, mà bây giờ Thầy muốn vào đạo Phật Thầy thấy quá khó, hay hoặc Thầy muốn bỏ đạo Phật mà Thầy muốn đi vào cái tôn giáo khác, nó làm cho tâm hồn Thầy ray rứt. Đứng trước một cái tôn giáo Thầy thấy rất là khó chứ không phải không. Đó là những điều mà Đức Phật dạy chúng ta rất là cẩn thận.

Cho nên khi mà chúng ta trau dồi, chúng ta thấy: “À có kết quả! Như vậy là mình bước tới một chút nữa coi!” Thì Đức Phật lại dạy bước tới một chút nữa là: Đoạn dứt những gì cần phải đoạn dứt.

Nghĩa là mình phải bỏ những cái gì mình cần phải bỏ, thì Đức Phật dạy như vậy, chúng ta tiếp tục chúng ta dứt bỏ những cái mà Đức Phật bảo coi thử có kết quả ra sao? Thì rõ ràng là khi mà chúng ta dứt bỏ thì chúng ta có thấy được những cái kết quả.

Rồi Đức Phật dạy: Tu tập những gì cần phải tu tập. Thì lúc bấy giờ chúng ta tu tập thử thử coi sao. Thấy nó có kết quả quá, nó có giải thoát thật, nó đem lại hạnh phúc gia đình mình thật, do đó, từ đó chúng ta mới bắt đầu chúng ta đến chúng ta xin quy y Tam Bảo, thọ Ngũ Giới.

Thì như vậy là chúng ta có thay tôn giáo không? Có nay tôn giáo này, mai đi tôn giáo khác không?

Cho nên lỡ mà chúng ta bước chân vào, chúng ta đã quy y Phật Pháp, chúng ta đã xin làm đệ tử của Phật rồi, mà ngày mai chúng ta xin làm đệ tử của Chúa, ngày mốt chúng ta xin làm đệ tử của một đấng giáo chủ nào đó, thì như vậy là con người chúng ta là con người gì?

Nay thay Chúa này, mai thay Phật kia, thì như vậy là nó làm cho tâm hồn chúng ta rất là khó chịu, bất an lắm!

Đó thì, như vậy là Phật đã dạy chúng ta rất cẩn thận: Khi mà chúng ta bước vào đạo thì chúng ta đã biết được bốn cái điều kiện mà chúng ta cần phải tìm hiểu và cần phải tu tập xem thử như thế nào, được rồi chúng ta mới thọ Tam Quy, Ngũ Giới.

2- TẦM QUAN TRỌNG CỦA THẬP THIỆN

2.1- NGHIỆP THIỆN ÁC SINH RA VÀ PHÂN CHIA CUỘC SỐNG CON NGƯỜI

(06:10) Và vì vậy thì bây giờ chúng ta chưa thọ Tam Quy - Ngũ Giới, nhưng Đức Phật thì chúng ta đã học hiểu, như cái giáo án, khi mà chúng ta thay đổi nghề nghiệp, chúng ta biết bốn cái điều kiện cần phải tìm hiểu, do đó bây giờ chúng ta tìm hiểu cái gì trước tiên? Chúng ta hiểu ngay cuộc sống của mình trước tiên chớ!

Vậy thì chúng ta hiểu cuộc sống của mình là hiểu cái gì? Tại sao mà cuộc sống của mình, như Thầy đã giảng rồi: có người nghèo, người giàu; có người tốt, người xấu; có người thì làm quan, có người thì làm dân, tôi tớ; có người thì bệnh tật, yểu tử, có người thì trường thọ mà ít bệnh tật? Đó là những cái mà chúng ta cần phải tìm hiểu.

Vì vậy khi mà tìm hiểu thì rõ ràng là Phật dạy chúng ta biết đó, tất cả mọi cái đó đều từ - chính con người chúng ta sanh ra cũng đều là do nghiệp. Nghiệp là đấng tạo hóa sinh ra muôn vật trong đó có chúng ta.

Rồi nghiệp sanh ra, rồi phân chia chúng ta: người thì sang, kẻ nghèo, người đói, kẻ rách, người giàu, người làm vua, người làm dân, người làm tôi tớ, người bệnh nhiều, người bệnh ít…​ cũng do cái nghiệp mà thôi.

Vì vậy mà chúng ta phải tìm hiểu cái nghiệp thêm nữa thì chúng ta thấy cái nghiệp nó như thế nào? Nó có nghiệp ác và nghiệp thiện. Cho nên nghiệp ác thì chúng ta sanh ra cuộc đời thì chúng ta phải chịu thọ lấy khổ, mà nghiệp thiện thì chúng ta thấy có sự an lạc, có sự hạnh phúc. Cho nên nghiệp thiện và nghiệp ác thì chúng ta thấy nó rõ ràng.

Vì vậy cho nên mới có Thập Thiện. Mà có Thập Thiện tức là phải có thập ác. Cho nên bây giờ chúng ta mới bắt đầu học vào Thập Thiện để xem coi.

Bởi vì các con thấy, Đức Phật dạy chúng ta tu Tứ Chánh Cần: Các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, mà đã sanh thì chúng ta phải đoạn diệt, dứt bỏ, không để cho nó tăng trưởng. Còn các pháp thiện chưa sanh thì cho nó tăng, mà nó đã sanh thì tăng trưởng làm cho nó lớn ra.

Như vậy trong khi đó mà chúng ta muốn theo đạo Phật, chúng ta chưa biết cái pháp ác là cái nào, mà chưa biết cái pháp thiện là cái nào. Chúng ta cứ nghĩ rằng, bây giờ ăn mày đến xin là mình cho họ đó là làm thiện. Hay hoặc thấy ai mà bệnh tật, nghèo đói mình giúp đỡ họ đó, thì đó là làm thiện. Nhưng mà đâu có phải là toàn bộ cái thiện của Phật dạy?

Phật dạy có mười cái điều thiện và mười cái điều ác. Cho nên chúng ta phải học biết được mười cái điều này. Khi nào chúng ta làm trái mười cái điều thiện tức là mười cái điều ác chớ không có gì khác hơn hết. Mọi cái đời sống của chúng ta đều nằm ở trong cái thiện ác này.

Mà chính cái thiện ác này nó mới là nghiệp, mà nghiệp nó mới sanh chúng ta ra, nó mới tạo chúng ta có nghèo, có giàu, có đói, có khổ.

2.2- THẬP THIỆN LÀ MƯỜI ĐIỀU LÀNH TRÊN THÂN, KHẨU VÀ Ý

(08:43) Cho nên chúng ta đã biết rõ được cái nguyên nhân mà kiếp con người sống trong cái khổ này, hay hoặc là cái hưởng lạc, an vui, hạnh phúc này là cũng chính từ cái nghiệp. Do vì vậy mà bây giờ chúng ta phải học Thập Thiện.

Mà Thầy giáo đầu giới thiệu cho quý vị biết cái Thập Thiện qua cái lời giảng rồi thì chắc chắn là quý vị đã hiểu được sự quan trọng của Thập Thiện như thế nào.

Mà từ lâu quý vị không thấy Thập Thiện là cái sự quan trọng cho cái nền tảng vững chắc bước đường tu tập của quý vị, cho nên quý vị không hiểu. Mà Thầy đã dạy hôm rồi thì…​ (Mất đoạn)

(09:19) …​ coi cái nền tảng của Thập Thiện nó như thế nào? Nó vững chắc đến cái mức độ mà chúng ta không ngờ được!

Như trên đã dạy, người nào muốn thoát khỏi thân bệnh, tâm bệnh, tai nạn này hoặc tai nạn khác và cầu mong gia đình được yên vui, đầm ấm, con cái hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, sống trong tình nghĩa thương yêu mặn nồng, tràn đầy hạnh phúc thì hãy tu tập Thập Thiện.

Thập Thiện là mười điều lành do thân, miệng và ý hành động.

Nghĩa là mười cái điều lành này nó do cái hành động của thân, cái lời nói của miệng và cái ý suy nghĩ của mình.

I. Thân có ba nghiệp thiện, ngược lại là ba nghiệp ác:

Về cái phần hành động của thân thì:

1. Không giết hại chúng sanh;

2. Không trộm cắp;

3. Không tà dâm.

II. Về phần khẩu…​

Về phần miệng của chúng ta thì:

…​ có bốn nghiệp thiện, bằng ngược lại thì nó là bốn nghiệp ác:

1. Không nói dối;

2. Không nói thêu dệt;

3. Không nói hai chiều;

4. Không nói lời hung ác.

Đó là cái phần của miệng của chúng ta, nó có bốn cái điều thiện. Tức là bốn cái cách thức nói mà nói ra thì thiện, mà nói ra là ác; nói ra thì đem đến cho hạnh phúc an vui, mà nói ra mà đem đến tai họa, đem đến sự khổ; thì đó là nói ra bằng bốn cái điều kiện mà Phật đã dạy. Trong bốn cái điều kiện đó, hoặc thiện hoặc ác.

III. Ý có ba nghiệp thiện, ngược lại thì đó là ý có ba nghiệp ác:

1. Không tham dục;

2. Không sân hận;

3. Không si mê.

Đó thì, về cái phần ý thì nó ngầm ở trong ý chúng ta khởi ra cái tâm ham muốn cái này, ham muốn cái kia. Rồi về cái phần ý thì tâm chúng ta trước những cái đối tượng, cái sự việc gì đó làm chúng ta giận hờn, bừng bốc lên những cái cơn tức giận, thì đó là sân.

2.3- BIẾT NHIỀU HIỂU RỘNG MÀ TÂM BẤT AN VẪN LÀ SI MÊ

(11:49) Về cái phần si mê, thì hầu như cái sự si mê này, theo cái nghĩa của nó cho đúng thì Thầy sẽ giảng dạy khi mà đến dạy về si mê.

Si mê không có nghĩa là cái người ngu tối không có hiểu gì hết đâu, mà si mê đây là cái người rất thông minh, có thể họ là những người đậu bằng tiến sĩ, thạc sĩ hoặc là những nhà khoa học có những phát minh lợi ích cho cái thế gian này, nhưng họ vẫn được gọi là, ở trong Phật giáo được gọi là si mê, qua những bài Phật đã dạy ở trong kinh rất rõ ràng và cụ thể.

Thậm chí Phật còn dạy cái người si mê: Không phải là cái người mà thuyết giảng thông suốt kinh điển, rồi những truyền thuyết hoặc là những cái văn thơ rất là thông minh, rất là giỏi, nói rất hay, nhưng mà tâm họ bất an thì họ vẫn là người si mê.

Cho nên, cái trí tuệ của Phật nói là cái tri kiến giải thoát chớ không phải cái tri kiến của thế gian thường tình. Cho nên nếu mà lọt vào đó thì đó là cái si mê chớ không phải là cái không si mê.

Cho nên chúng ta thấy: Những người học hành giỏi, những nhà bác học phát minh nhiều cái thứ lợi ích cho chúng sanh, nhưng mà chính bản thân ông chưa được an ổn, nó còn bất an, thì chính ông là cái người si mê chứ chưa phải là không si mê.

Đó thì, thấy như vậy chúng ta mới biết được về cái Thập Thiện, nó đi từ cái thân cho đến cái khẩu cho đến cái ý của chúng ta để xác định cho một con người đi vào đạo Phật phải thông minh như thế nào, phải hành động như thế nào, phải ăn nói như thế nào cho đúng cách để được giải thoát.

Chúng ta nếu mà không hiểu, lơ mơ, thì ngay cái miệng chúng ta đã tạo đến cái khổ của mình; ngay cái thân chúng ta có những hành động đem đến cho chúng ta cái khổ. Mà đem đến chúng ta cái khổ đó là cái nghiệp. Rồi đến cái ý chúng ta khởi nghĩ thôi thì nó cũng đem đến cho chúng ta những cái quả khổ, cái nghiệp khổ.

2.4- THẬP THIỆN TẠO RA NGHIỆP LÀNH ĐỂ CÓ HẠNH PHÚC, AN VUI

(14:06) Bây giờ, Thầy giảng từng phần.

Bắt đầu về cái phần thân. Phần thân thì không giết hại chúng sanh, đó là cái hành động thứ nhất.

Tại sao hành Thập Thiện?

Con người thoát khỏi bệnh tật, tai nạn, giận hờn, phiền não, đau khổ và yểu tử…​

Đây là đặt ra câu hỏi để chúng ta biết: Tại sao hành Thập Thiện, tức là chúng ta tu hành Thập Thiện thì con người sẽ thoát ra khỏi bệnh tật, tai nạn và sự giận hờn, phiền não, đau khổ và chết yểu đối với con người; tại sao chúng ta tu Thập Thiện mà chúng ta vượt thoát được cái điều đó?

Như trên Thầy đã giảng, con người do nghiệp sanh ra mà cũng do chính con người tạo ra nghiệp…​

Nghiệp nó sanh ra mình, rồi mình lại sanh ra nghiệp. Chớ không phải nghiệp từ đâu mà có, mà chính mình tạo ra nghiệp, rồi nghiệp nó lại sanh ra mình.

Đó là một cái vòng luẩn quẩn mà hầu như người ta không có lưu ý, mà người ta tưởng là bằng cách này, bằng cách khác, hay hoặc là tự nhiên hay là ngẫu nhiên mà cái nghiệp nó ở đâu nó đến với mình, không phải đâu! Cái nghiệp do mình tạo ra và cái chính nghiệp nó lại tạo ra mình, nó lại sanh ra mình.

Vì vậy mà trong cái vòng luân hồi, luân chuyển như vậy đó, nó tạo ra chúng ta vô lượng kiếp, do đó mà chúng ta không hiểu. Từ mình bị nghiệp nó sanh ra mình, rồi mình tạo ra nghiệp, rồi nghiệp nó sanh ra mình nữa, cứ như vậy nó luân lưu hoài hoài mà nó không dứt.

…​ tạo ra nghiệp để rồi con người chịu lấy những hậu quả của nghiệp.

Nếu nghiệp ác tạo ra thì họ phải chịu lấy những sự khổ đau, tai nạn, hoạn nạn hoặc yểu tử, chia lìa, bệnh và chết. Nếu nghiệp thiện được tạo ra thì họ phải hưởng lấy những hạnh phúc an vui như câu hỏi đã nêu trên.

Thập Thiện - mười điều lành tạo ra nghiệp lành. Vì thế, chúng ta cần phải tư duy, suy tư chín chắn.

Nghĩa là nói mười cái điều lành này nó tạo ra chúng ta cái nghiệp lành, tức là nó tạo ra cho chúng ta một cái người mà sẽ tiếp tục sanh chúng ta ở trong kiếp sau đó.

Nghĩa là kiếp này chúng ta biết Thập Thiện, rồi chúng ta thực hiện Thập Thiện, chúng ta tạo ra cái nghiệp lành đó, do cái nghiệp lành đó nó mới sanh chúng ta trong một kiếp tới, từ đó chúng ta mới hưởng được những cái hạnh phúc, an vui. Vì vậy đó, từ cái chỗ chúng ta tạo ra cái người sanh chúng ta, rồi cái người sanh chúng ta đó mới tạo cho chúng ta ra ở trong nghiệp lành.

Mà nếu ở trong cái nghiệp lành đó mà chúng ta không biết, chúng ta lại tạo ra nghiệp ác, thì từ đó chúng ta lại tạo ra cái người sanh mình là ác, do đó cái người ác sẽ sanh ra chúng ta trong cái ác, vì vậy mà chúng ta thọ lấy những cái khổ đau.

Đó, quý thầy, các con hiểu được cái chỗ này mới thấy được cái vòng luẩn quẩn của nhân quả, mới thấy được cái đường đi của nhân quả. Đường đi của nhân quả nó là như vậy đó!

Cho nên nếu mà chúng ta không cắt dứt được cái này thì tức là chúng ta không chấm dứt được cái sự tái sanh luân hồi đâu.

3- THÂN HÀNH THIỆN: KHÔNG GIẾT HẠI CHÚNG SANH

(17:29) Tại sao không giết hại chúng sanh?

Nghĩa là đặt cái câu hỏi: Tại sao chúng ta không giết hại chúng sanh thì chúng ta sẽ được những cái điều kiện là không yểu tử, là không chết non, là không đau khổ, bệnh tật?

Đó là đặt ra câu hỏi như vậy: Tại sao chúng ta hành Thập Thiện mà cái điều kiện tiên quyết đầu tiên là đừng có giết hại chúng sanh thì chúng ta sẽ được không chết, không yểu tử?

Điều quả quyết: Vạn vật sanh ra trong vũ trụ, không một loài vật nào không sợ chết, không sợ khổ đau và bệnh tật. Cho nên chẳng có sự vui mừng nào hơn là sự vui mừng khỏi bị giết, khỏi bệnh tật, tai nạn.

Người đời thường nói: “Thà nghèo mạnh giỏi còn hơn giàu sang đau ốm”; “ăn được ngủ được là tiên”.

Đó là những câu tục ngữ, những cái ao ước của con người. Người ta thà chịu nghèo mà đừng có bệnh tật, đừng có đau ốm thì người ta sung sướng hơn.

Cho nên người ta ví như là mình “ăn được ngủ được” - tức là cái người mạnh giỏi đó - là tiên rồi chớ không phải là đợi đi lên núi rồi tu, rồi tịch cốc, rồi luyện đơn ở trên đó gọi là tiên đâu, không phải đâu. Mà người ta ví cái người mạnh giỏi đó là tiên, mà cái người đau ốm đó là không phải tiên. Đó là câu tục ngữ của mình là ví như vậy.

Cho nên ví như vậy tức là chúng ta biết rõ rằng: Tâm của chúng ta rất sợ về bệnh, về đau ốm, hoặc tai nạn, hoặc sự chết chóc.

Ở đời không ân huệ nào lớn hơn ân huệ tha mạng chết. Loài vật sắp bị giết mà được tha thì nỗi lòng vui mừng không tả được.

Hòa Thượng Thiện Hoa dạy: Như khi chúng ta thả một con chim sắp sửa cắt cổ, nhổ lông, thả một con cá sắp đem chặt kỳ, đánh vảy: Chim được sống vui mừng bay nhảy, cũng như cá khỏi chết hớn hở lội bơi.

Thế mới rõ: Thoát nạn giết hại, chúng sanh nào không khấp khởi vui mừng! Nên chi không giết hại chúng sanh mà lại phóng sanh là nghiệp lành đứng đầu trong Thập Thiện!

Tức là đứng đầu trong mười điều lành.

Cho nên chúng ta, khi mà chúng ta bị người ta sắp sửa chặt đầu mình, hay là đâm mình chết mà có người lên, có người lại cản không có cho giết mình, thì cái nỗi vui mừng không có xiết nổi trong lòng của chúng ta. Thì chúng ta ví mình cũng như vậy.

Cũng như bây giờ mình bị người ta bắt bỏ tù, nhưng mà có người đến người ta không có cho, bắt cái người kia là phải thả mình ra, không có bắt mình bỏ tù thì mình vui mừng biết là bao nhiêu. Đó là mình chỉ bị giam cầm thôi mà còn vui mừng. Huống hồ là mình sắp sửa người ta chặt đầu, mà rồi người ta thả được mình thì mình không vui mừng sao được?

Thì nghĩ lại, con vật là những loài động vật như mình, thế mà nó bị cắt cổ, nhổ lông, nó bị đập đầu để giết chết, lúc bấy giờ nó được thả ra thì các con nghĩ cái tâm trạng vui mừng nó có thua gì tâm trạng của chúng ta đâu!

Do vì vậy mà Hòa thượng Thiện Hoa dạy chúng ta đừng giết hại chúng sanh mà phải phóng sanh.

Suy bụng mình, nghĩ loài vật, chúng ta có nỡ lòng nào giết hại chúng sanh! Chúng ta ham sống, sợ chết, lẽ đâu lại cướp mạng sống của muôn loài?

(20:35) Đừng mượn câu: “Nhân dưỡng vật, vật dưỡng nhân”…​

Nghĩa là có nhiều người họ nói vầy: "Tui đào cái ao, tui đem cá tui nuôi, rồi bây giờ cái công tui nuôi đó tui phải ăn thịt nó chớ sao? Tui dưỡng nó thì nó phải dưỡng lại tui!"

Có người nói: "Con heo tui mua về nó có làm gì lợi ích đâu? Tui nuôi nó rồi bây giờ tui bắt nó tui làm thịt, thì nó phải nuôi lại tui chớ?"

Rồi họ nói như con gà cũng vậy, con vịt cũng vậy, tất cả những loài vật mà gọi là gia súc hay là gia cầm mà chúng ta nuôi trong nhà đều là "nhân dưỡng vật", thì ngược lại nó lớn lên rồi nó không làm gì lợi ích thì nó phải "vật dưỡng nhân" - tức là nó lại nuôi lại mình.

Lấy cái câu nói đó mà hiểu thì chúng ta sẽ giết hại chúng sanh.

Khi mà chúng ta nuôi một con vật, như một con heo, nó có lợi ích gì (cho) chúng ta đâu? Chúng ta nuôi nó, rồi đến một cái ngày nào đó nó lớn, nó mập ra rồi chúng ta đem làm thịt, thì con heo đó nó giãy giụa hay nó nằm để đợi chúng ta làm thịt để chúng ta ăn?

Nếu nói rằng con vật mà sanh ra để cho những con vật khác ăn thịt, thì như chúng ta cũng là con vật để cho cọp ăn chứ gì? Như vậy khi mà cọp nó gặp chúng ta, nó cho rằng đó là con vật để cho nó ăn thịt chớ đâu phải là, phải dưỡng nuôi nó chớ đâu có mà giết nó được!

Như vậy thì chúng ta thấy: Từ cái (con) vật lớn thì có thể có đủ cái sức mạnh giết con vật khác để ăn thịt, chúng ta không phải là con vật lớn, nhưng chúng ta có những cái đầu óc thông minh, chúng ta có thể dùng những cái thông minh đó mà chúng ta có thể giết loài vật.

Và chúng ta dùng cái thông minh đó mà bắt những loài vật trở thành gia súc ở trong nhà của chúng ta, từ đó chúng ta nuôi nó để tiện bề là chúng ta muốn bắt nó, vặt đầu nó lúc nào ăn thịt cũng dễ dàng, còn đi vô rừng mà săn thì rất là vất vả.

Cho nên chúng ta khéo léo để tạo (cho) chúng ta có những cái chuồng bò, có những cái chuồng heo, có những cái chuồng gà mà nuôi hàng trăm, hàng vạn con vật để rồi chúng ta giết một cách rất là không thương tâm!

Trong khi chúng đau đớn, la, khóc, kêu, mà chúng ta vẫn thản nhiên, vì cái sự lợi dưỡng, vì cái miếng ăn của chúng ta, vì cái thực phẩm bồi dưỡng cho cái cơ thể chúng ta, do đó chúng ta chẳng nghĩ đến sự đau khổ của chúng sanh!

(22:53) Cho nên Phật nói, khi mà chúng ta ăn một cái miếng thực phẩm để mà nuôi sống thân của chúng ta thì trước tiên chúng ta phải đặt cái niệm đó trước mặt để cái tâm từ bi chúng ta biến mãn cái lòng từ:

Thứ nhất là cái lòng biết ơn của chúng ta đối với những người làm ra vật thực để mà chúng ta có thọ thực ngày hôm nay để mà sống.

Cái thứ hai, trong miếng ăn của chúng ta nó không có sự đau khổ, giết hại trong đó, thì cái lòng từ chúng ta mới ban rải khắp cùng cho chúng sanh. Còn bây giờ trong cái miếng ăn của chúng ta có những sự đau khổ, sự chết chóc ở trong đó, chúng ta nỡ tâm nào mà ăn vào bụng mình được?

Đó là những cái điều mà đạo Phật đã dạy: Tâm từ, tâm bi phải biến mãn khắp cùng mười phương chúng sanh chớ không phải biến mãn ở một cái vị trí nhỏ hẹp.

…​ mà hiểu nghĩa cạn cợt của câu nói này thì đôi tay vấy máu chúng sanh, để tâm hồn ngày càng hung ác.

Nghĩa là chúng ta giết mãi chúng sanh như vậy, bàn tay chúng ta dính máu như vậy, thì tâm hồn chúng ta trở thành hung ác mà chúng ta không thấy hung ác.

Chúng sanh giãy giụa trên thớt dưới dao, tiếng kêu la, đau thương quằn quại. Nhìn lại chúng ta mới hiểu ra, mình là một con người, một loài vật độc ác nhất: Săn bắn, chài lưới, giết hàng loạt chúng sanh mà tâm hồn còn vui sướng cho rằng được lợi lớn, không có chút lòng thương xót!

Cũng vì thế mà Đức Phật khai ngộ cho chúng ta thông hiểu: Đó là hành động độc ác nhất của muôn loài, vì sự tranh sống, tranh chết với nhau mà giết hại lẫn nhau như vậy.

Loài người là một loài vật độc ác nhất nên cũng vì đó mà chịu khổ đau nhất…​ (Mất tiếng)

4- KHẨU HÀNH THIỆN: KHÔNG NÓI DỐI

(24:51) …​ Bởi vì con nai đâu có chạy luôn, nó chạy nó chui ở dưới cục đá dưới đít của ông đó.

Cho nên nếu mà ông nói: “Ờ, có con nai nó chạy, nó chui dưới đít của tui đây!” - thì như vậy nhà vua lại lôi con nai ra, chắc chắn là cái tội sát sanh của mình rồi! Cho nên giữa hai cái giới này, ông Phật không có biết làm sao hết, cho nên đành câm miệng mà thôi.

Còn nếu mà Hòa thượng Thiện Hoa dạy chúng ta kiểu này chắc là dạy nói láo rồi: Bây giờ ông vua đến hỏi: “Có con nai chạy ngang đây không?” - “Có, có, nó mới chạy đây, nó chạy luôn đây nè!” Thay vì nó chạy đường này thì ông chỉ: “Ờ nó chạy đường này nè! Tui thấy nó chạy đây!” Do đó chỉ bậy đặng cho ông vua đừng có giết con nai. Do không giết hại con nai thì ông Phật lại đành nói láo!

Cho nên Hòa thượng viết cái câu này Thầy thấy Thầy không chấp nhận. Bởi vì Phật dạy quá rõ, cái hành động của Phật quá rõ: Thà là chịu khổ mà không có phạm vào cái giới, cho nên Phật nói thà chết chớ không phạm giới mà!

Cho nên, do cái giới nói láo này nó không được, vì vậy mà Đức Phật phải làm thinh. Làm thinh, nhà vua tức quá hỏi: “Sao ông làm thinh?”

Rồi tức quá thì nhà vua mới rút cây gươm ra, mới thẻo hai cái lỗ tai ông. Thẻo rồi đau quá ông cũng làm thinh luôn. Rồi chặt hai cánh tay ông ông cũng làm thinh luôn, móc hai con mắt ông ông cũng làm thinh luôn. Nhà vua đành phải đầu hàng mà đi thôi chớ không có làm sao hết!

Thì các con thấy không? Trong cái sự tu hành, làm cái người người ta giữ giới đến mức mà người ta chặt tay nè, thẻo hai cái lỗ tai để cho ông ta sợ đi, ông ta không chết, chặt hai cánh tay ông ta, ông ta cũng không nói nữa, móc hai con mắt cho ông ta đui nữa mà ông ta cũng không nói.

Nhà vua mà, có quyền mà sanh sát người ta, chỗ nào nhà vua cũng giết được hết. Vì vậy mà nhà vua đâu có, cái cơn tức của nhà vua: “Con nai mình dí đây mà ông này ông giấu à?” Tức là tức giận, tức là phải tra ông này mới lòi ra. Nhưng mà cuối cùng thì ông Phật ổng giữ giới cho đến khi chết là chết chớ không nói gì hết.

Đó thì các con thấy Hoà thượng dạy một cái điều mà Thầy thấy không được. Cho nên vấn đề vọng ngữ, vấn đề nói láo là cả một vấn đề.

Một khi mà chúng ta nói một cái sự không đúng rồi, hối hận trong lương tâm của chúng ta dữ lắm, nó đau khổ dữ lắm chớ không phải không đâu! Cho nên đừng có tưởng tầm thường đâu. Một người mà tu hành chân chánh người ta rất sợ về cái việc nói láo, nói là nói thật chớ không được nói láo.

Cho nên ở đây Thầy sửa lại như thế này:

Nếu nói dối cứu khổ, phò nguy cho người và vật thì ta còn không nói, huống là nói dối hại người, lợi mình thì còn không nên nói hơn nữa.

Chớ Thầy không có để cái câu đó nói như vậy, Thầy thấy nó không đúng trong cái đạo cho nên dù là người cư sĩ cũng không được cái nói dối đó nữa, thà là chúng ta chết!

(27:32) Kinh Thập Thiện dạy:

Người không nói dối được tám điều lợi ích:

1. Được mọi người tin tưởng;

2. Lời nói ra được người người kính yêu;

3. Miệng thường thơm sạch;

4. Lời nói thường êm ái;

5. Được an vui như ý nguyện;

6. Lời nói không buồn giận và vui vẻ;

7. Lời nói được mọi người vâng theo;

8. Trí tuệ thù thắng không ai hơn.

Đó là về cái phần khẩu - miệng của mình không nói dối đó. Thấy cái gì thì nói thấy, mà không thấy thì nói không thấy, chớ không phải không thấy nói thấy, mà thấy nói không thấy, nói ngược trở lại như vậy là không được. Cái gì mình nghe thấy thì mình nói, mà không nghe thấy thôi. Mà nghe lờ mờ không rõ thì cũng không nói.

Cho nên Thầy nói: Ở đời, người tu hành theo Đạo Phật là không có nói là tốt nhất, nói ra coi chừng lầm lạc. Cái miệng của chúng ta nó bốn cái điều lận, bốn cái điều ác trong đó, điều này nó kẹt cái chỗ điều khác, nó khó.

Cái thân chúng ta có ba, cái ý của chúng ta có ba, mà cái miệng của chúng ta nó nhiều quá, cho nên chúng ta phải dè dặt cẩn thận. Nó là cái chỗ đau khổ nhất cho con người ở đời chớ không phải là vừa.

Bởi vậy học Thập Thiện rồi chúng ta mới biết được cái nghiệp của miệng nó nặng lắm, nó tới bốn cái chỗ lận. Có một mình nó mà nó chiếm hơn người ta hết, nó làm anh cả của người ta hơn hết trong này mà!

Thành ra mình phải coi chừng cái miệng của mình, nó độc lắm chớ không phải không. Nói ra cái lời nói mình có thể giết người lận mà, chớ không phải thường đâu, cái lời nói còn hơn gươm đao!

Cho nên vì vậy mà chúng ta phải cẩn thận cái lời nói dữ lắm, muốn nói ra một cái gì phải suy nghĩ. Cho nên, người xưa người ta nói: Muốn nói một lời chúng ta phải suy nghĩ bảy lần, người ta gọi là "đánh lưỡi bảy lần" đó.

5- KHẨU HÀNH THIỆN: KHÔNG NÓI LỜI THÊU DỆT

(29:19) Người đời thường hay trau chuốt lời nói, đi buôn vật xấu nói tốt…​

Đây là cái hành động thứ hai của cái miệng của mình là nói lời thêu dệt. Bây giờ chúng ta học tới cái hành động thứ hai của cái miệng là nói lời thêu dệt.

Lời nói thêu dệt đó thì ở đây, người đời thường hay trau chuốt cái lời nói của mình:

…​ đi buôn vật xấu nói tốt để bán cho được giá, gạt người mua về không xài được;

Chỉ một chút lòng nhỏ mọn, hờn ghen, liền dùng lời nói thêu dệt để cho đôi bên thù hận có thể giết hại lẫn nhau, làm tổn hại tánh mạng của người khác;

Chỉ một chút lòng ganh tỵ, thù vặt, bèn dùng lời thêu dệt để lung lạc lòng người hoặc để quyến rũ hay gạt gẫm người khác, làm tổn hại danh dự và tài sản cốt để đem lại lợi ích cho mình được nhiều lợi lạc và còn được tiếng thơm, tiếng tốt cho mình.

Mình thêu dệt cái này, nọ, kia để đem lại những cái lợi lạc: của cải tài sản là một, rồi được tiếng tốt này kia cho mình. Đó là lời nói thêu dệt.

Ngược lại, người không có lời nói thêu dệt dùng lời đúng đắn, chánh lý, không gạt gẫm, không lừa bịp, không làm tổn hại danh giá, tài sản, thậm chí cho đến tánh mạng.

Thêu dệt tức là đặt điều nói xấu người khác, khiến cho người khác buồn khổ, có thể đi đến tự tử, quyên sinh tánh mạng.

Vì thế, Thập Thiện dạy:

Người không đặt điều nói xấu người khác có (ba) điều lợi ích cho mình:

1. Được mọi người quý mến;

2. Thường đáp được những câu hỏi khó khăn;

3. Có đầy đủ uy tín cao quý trong cuộc đời.

(31:14) Đó là những cái điều mà chúng ta không có nói thêu dệt, không có đặt điều ra đó. Thêu dệt làm cho nó có vẻ nó đẹp hơn; hoặc là người đó không tốt mình nói người đó tốt; hoặc là người đó tốt mà mình nói cho người khác nói người đó xấu; mình đặt ra cái này, thêu dệt ra cái này kia để làm cho người ta cứ nghi ngờ người này, người nọ, người kia, đó là cái lời thêu dệt.

Chẳng hạn là như bây giờ có một ông mai, ổng đến làm môi giới. Đến bên gái thì nói cái thằng đó như thế này thế khác, mà nó thì uống rượu, hút sách, nó thì chơi bời, nó không biết nghề nghiệp gì hết, mà lại đằng gái thì thôi ca ngợi cái thằng con trai nó trên mây xanh đó, gọi là thêu dệt đó.

Rồi về đến đằng nam để mà làm mai cho đằng nam, thì nói cô ta là vầy: công, dung, ngôn, hạnh đầy đủ, con người hiền đức này kia rõ ràng. Nhưng mà trời ơi, rước về nhà rồi một cái thì họ ở trên trời họ rớt xuống! Thì do đó, những cái lời nói của ông mai như vậy gọi là thêu dệt, làm mai mối.

Rồi tất cả những cái điều mai mối: mai mối mua đất, mai mối làm cái này, mai mối làm cái kia đều là có sự thêu dệt trong đó hết. Để cho người ta nghe, người ta tin, người ta mới đi mua, đi làm cái chuyện đó. Đó là những cái môi giới. Thì những cái thêu dệt đó là cái lời nói thêu dệt, chúng ta không nên làm những cái điều kiện đó mà chúng ta hãy tránh.

Những cái điều mà nói xấu người khác, mình thêu dệt ra cái tốt, cái xấu cho người khác, người ta không có chuyện đó mà nói người ta là làm cái này, làm cái kia, làm cái nọ tồi tệ để cho mọi người không hiểu, tưởng người đó là người xấu vậy, để cho người ta tránh xa cái người đó. Đó là những cái người mà thêu dệt đó, là những người mà không tốt đó.

Chúng ta hiểu biết được như vậy, chúng ta cố gắng mà tránh, giữ gìn cái miệng của mình, đừng có nói những cái điều đặt điều ra mà nói xấu kẻ khác hoặc là nói tốt kẻ khác. Người nào xấu thì mình nói xấu, mà tốt thì mình nói (tốt).

(33:24) Mà tốt xấu mặc họ, chúng ta nói làm gì?

Theo Thầy thiết nghĩ, xấu thì người ta làm ác thì nhân người ta chịu, mà tốt thì người ta làm thiện thì người ta hưởng được cái phước quả. Còn riêng mình, mình nói người ta tốt xấu làm gì? Mình khen cũng không khen, chê cũng không chê. Điều đó là điều tốt của người tu theo Thập Thiện.

Chớ không phải là đem cái chuyện của người ta tốt mình nói, rồi cái chuyện người ta xấu mình cũng nói. Thầy thấy cái chuyện xấu của họ cũng không giấu mà cũng không nói, mà chuyện tốt của họ mình cũng không phô bày mà cũng không nói ra.

Hầu hết thí dụ như quý thầy, các con bây giờ, Thầy nói như thế này: Các con sẽ ca ngợi, khen Thầy thế này, thế khác. Nhiều khi ca ngợi Thầy như ông Phật thì tức là cũng là lời thêu dệt đó các con, không có đúng đâu!

Thầy cũng là bằng xương, bằng thịt, cũng như mọi người, nhưng qua cái nhìn của các con, các con có niềm tin ở Thầy, nhiều khi Thầy không có thần thông, các con nói Thầy quá thần thông, nào là phóng hào quang! Đặt điều nói láo, đó là thêu dệt đó! Thầy đem những cái ví dụ để các con thấy.

Bởi vậy Thầy thấy có những người mến Thầy, trọng Thầy, rồi ca ngợi Thầy một cách không đúng đắn. Cho nên trong kinh Phật có dạy là khen mà không đúng thì cái đó là làm hại Phật, mà chê không đúng thì cũng không làm hại Phật được. Cái gì đúng là đúng, cái gì không đúng là không đúng.

Cho nên mình có nói đi nữa, người ta nói: "Mèo khen mèo dài đuôi" thôi, chớ cũng không có gì hết. Cho nên để cho người ta còn nghiệm xét.

Chẳng hạn là Thầy tu hành đúng thì để người ta còn thấy, còn các con mà nói Thầy tốt thế này, Thầy như thế này thế khác…​ Điều đó là người ta chẳng bao giờ mà người ta tin ở các con đâu, các con có nói gì người ta cũng chẳng tin. Người ta còn thấy qua cái hạnh của Thầy, người ta còn thấy qua cái đức của Thầy.

Cho nên vì vậy ngay cả Thầy mà còn như vậy thì các con có nói: Cái chị này tốt, cái chị này tu như vầy, cái chị kia tu như vầy…​ họ có tin không?

Cũng như bây giờ Thầy nói rằng bây giờ Mật Hạnh tu như vậy, Minh Tông tu như vậy! Các con có tin được không? Chưa chắc đã tin. Bán tín, bán nghi, chưa chắc!

Rồi lần lượt các con sẽ thấy những người đó tu được cái gì, cái gì: "À những vị này giới hạnh nghiêm túc!” Rồi: “Giờ giấc nghiêm túc, tu hành đúng đắn!" Rồi tất cả những cái đó lần lượt: "Mấy vị này nhập định được, hơi thở ngưng", cái gì nó lần lượt các con cũng thấy hết thì chừng đó các con mới tin.

Còn bây giờ Thầy nói cũng chẳng qua là Thầy nói. Thầy nói đúng sự thật đó nhưng mà các con chưa tin đâu.

Cho nên cái thêu dệt (của) các con là muốn làm cho người ta tin chứ gì? Nhưng mà người ta có tin mình được không? Cho nên cái nói của mình có ích lợi gì mình nói. Cho nên chẳng nói gì hết, để cho người ta còn thấy chớ không phải.

Cũng như bây giờ các con nói các con tu được, thì cái đó là cái thêu dệt đó. Mình được, mình biết chắc mình được không? Để cho một người khác người ta nhìn thấy cái chỗ được của mình, người ta thấy được tức là người ta biết chớ sao? Nhưng gì mà mình còn giận, còn hờn, còn phiền não, còn ủ ê cái mặt cũng như là héo xào mà nói: "Tui tu được!" là tu được cái chỗ nào đâu?

Cho nên cái chúng ta chẳng nói được, mà chúng ta được an vui, được thanh thản thì người ta sẽ thấy được cái an vui, thanh thản đó mà người ta biết mình được. Cho nên, mình nói ra có lợi ích gì?

Vì vậy, những cái lời nói mà chúng ta chưa có chứng nghiệm được cho nên chúng ta không có nói. Vì vậy mà không nói thêu dệt, không nói những cái lời nói đó.

Đó thì hôm nay Thầy nói hết để cho các con biết được cái chỗ mà chúng ta giữ gìn cái khẩu hành thứ hai này là: Không nói lời nói thêu dệt. Không khéo chúng ta tưởng là mình nói như vậy là đúng, không có sai, nhưng mà cái nói như vậy nó không hay đâu, nó không tốt đâu.

6- KHẨU HÀNH THIỆN: KHÔNG NÓI LƯỠI HAI CHIỀU

(36:50) Về cái khẩu hành thứ ba là không nói lật ngược là không có nói ngược trở lại, nói rồi rồi nói trở lại đó, là nói lật ngược đó.

Người đời có lắm kẻ nhiều mồm mép, vừa nói đó một lúc sau nói lật ngược lại, lấy quấy làm phải mà lấy phải làm quấy.

Nghĩa là người ta lanh mồm, lẻo mép lắm, nói rồi cái lật ngược lại. Tức là nói: "Tui không nói đâu, hồi nãy ai nói chứ tui không nói đâu!", nhưng mà chính mình nói, ai cũng nghe hết, mà mình dám nói như vậy đó!

Thì cái chuyện mà nó qua một hai ngày, tưởng đâu người ta quên rồi, thì mình nói, mình vẫn có sửa lại những cái lời nói của mình, để nó biến rằng mình không có nói cái ý như vậy. Thì tất cả những cái này, là cái lời nói đó là lời nói lật ngược, nói ngược lại với cái sự thật.

Hạng người này là hạng người nhiều chuyện. Họ là kẻ dụm ba, dụm bảy, chuyên nói xấu người khác; đem chuyện người này nói ra, nói vào, bêu xấu khiêu khích người khác; gây phe, gây nhóm, tạo cảnh bất hòa, thù hận; và còn đem chuyện người này dèm pha với người kia, nhạo báng người nọ, chê bai người khác, làm cho họ tức giận hoặc xấu hổ, đau khổ; dùng môi mép đứng trung gian, gây ác cảm đôi bên để đi đến kiện thưa.

(38:24) Người không nói lưỡi hai chiều thì không có chuyện lôi thôi với mọi người, không bị người ta lôi ra làm chứng cớ. Còn ngược lại, những kẻ ấy đều gọi là người nhiều chuyện.

Người không nói lưỡi hai chiều không làm phiền muộn ai hết, được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa người gần đều kính mến.

Người không nói lưỡi hai chiều thường dùng lời êm ái, an ủi, khuyên giải, giúp cho mọi người được hòa thuận, thân yêu nhau, khiến cho mọi người đều vui vẻ, an lòng.

Người này đến đâu, ở đâu cũng được mọi người kính yêu; gặp việc khó, bất hòa, người này đứng ra thu xếp, hòa giải một cách dễ dàng.

Người không nói lưỡi hai chiều khiến gia đình sum họp, an vui; tình làng, nghĩa xóm hòa thuận, kính yêu nhau.

Kinh Thập Thiện dạy:

Người không nói lưỡi hai chiều được năm điều bất hoại:

1. Nhân bất hoại;

2. Sống trong gia đình sum họp;

3. Đức tin bất hoại;

4. Pháp hạnh bất hoại;

5. Thiện hữu tri thức bất hoại.

Nghĩa là như thế nào?

Nhân bất hoại: Tức là người mà không nói lưỡi hai chiều thì mọi cái tình người xung quanh của mình nó luôn luôn nó giữ trọn, nó không có làm cho hoại diệt. Còn mình là cái người mà nói hai chiều, thì những cái tình người xung quanh mình nó sẽ không có giữ trọn được, nó bị hoại diệt.

Sống trong gia đình sum họp: Thì hiểu rồi.

Đức tin bất hoại: Nghĩa là cái người mà không nói lưỡi hai chiều thì được mọi người, cái lòng tin, không bao giờ mà họ hoại diệt cái lòng tin ở trong lòng họ.

Pháp hạnh bất hoại: Cái hạnh mà cái người không có nói lưỡi hai chiều, thì cái pháp - đây là nói tất cả những cái hành động của chính mình, của bản thân mình - không có bị hoại diệt. Nghĩa là luôn luôn nó giữ đúng cái pháp hạnh của nó, cho nên nó không bao giờ mà lật ngược một cái gì hết thì cái người đó luôn luôn có những cái hạnh mà nó không bao giờ bị hoại diệt.

Và Thiện hữu tri thức bất hoại: Nghĩa là luôn luôn cái người này có những cái người thiện hữu tri thức sống sát ở bên họ. Nghĩa là có những người rất là thân tình, có những người rất là thương mến họ, có những người rất tận tình với họ, để giúp họ từ cái này đến cái kia, gọi là thiện hữu tri thức bất hoại.

7- KHẨU HÀNH THIỆN: KHÔNG NÓI LỜI HUNG ÁC

(41:00) 7 - Cái hành động thứ bảy này là cái hành động của miệng, là không nói lời hung ác. Đây là cái hành động cuối cùng của cái khẩu nghiệp của chúng ta, của cái hành động của miệng chúng ta.

Lời nói hung ác là lời nói dữ; vu khống người khác; phao phản, bươi móc việc xấu của người khác; lời nói cộc cằn, thô lỗ, mắng nhiếc, mạ lị người; làm cho người khác tức giận, khổ sở, đau đớn.

Người không nói lời nói hung ác, thường dùng lời nói khen ngợi, lời lẽ ôn tồn, trang nhã, hiền hòa, lời nói luôn luôn làm cho mọi người được an vui, yên ổn.

Đó thì, cái lời nói mà không hung dữ thì cái lời nói rất là êm ái. Còn cái người mà nói hung dữ thì lời nói to, nói rất lớn và nói những cái lời nói thô tục, những cái lời nói mắng nhiếc người, những cái lời nói vu khống người.

Chớ có nhiều người nói cái lời vu khống người ta, nói nhỏ nhẹ lắm nhưng mà vu khống người ta đó cũng là lời nói ác đó. Mình nói xấu người ta đó cũng thuộc về cái lời nói ác đó. Mình bươi móc cái chuyện xấu của họ đó là lời nói ác đó. Mình phao người ta cái này, cái kia đó là lời nói ác đó!

Chớ không phải lời nói ác là cái lời mình chửi mắng người ta, mình nạt nộ người ta đó là lời nói ác đâu!

(42:36) Cái lời nói cộc cằn là lời nói ác, mà lời nạt nộ người ta đó cũng là lời nói ác, nhưng phải biết rằng: Có nhiều cái lời nói mà chúng ta không có cộc cằn, không có thô tục, nhưng mà chúng ta bươi móc cái việc xấu của người ta, chúng ta nói xấu người khác, rồi chúng ta phao vu khống người ta, đó cũng là thuộc về lời nói ác.

Nói làm cho người ta bị tù tội, bị chết - người ta không ăn trộm nói người ta ăn trộm đó; người ta không tà dâm mà mình nói người ta tà dâm; người ta không giết người mà mình nói người ta giết người - thì những cái lời nói đó là những cái lời nói ác.

Mặc dù cái lời nói đó rất nhẹ nhàng, nói: “Tui thấy cái người đó đó, cái người đó họ giết cái người kia!” Nhưng mà sự thật ra cái người đó họ không có giết, nhưng mà vì cái thù hận nhỏ trong lòng của mình, họ không nói lời to, nhưng mà họ chỉ vu khống người ta, phao vu người ta làm cái chuyện như vậy để cho cái người đó ở tù chơi. Đó là những cái lời nói ác.

Cho nên cái lời nói ác phải biết phân biệt như thế nào để mà chúng ta biết lời nói ác, chớ không khéo thì chúng ta cứ nghĩ rằng: Chỉ có cái lời nạt nộ, hay chửi mắng, hay mắng nhiếc người ta mới là lời hung ác thì nó không phải đâu. Hung ác có nghĩa là lời nói dữ, lời nói làm cho người ta khổ đau thì đó là lời nói hung ác.

Hiểu rõ như vậy thì chúng ta mới biết được mà để cảnh giác, để mà không có thốt ra cái lời nói đó thì chúng ta mới giữ được cái hạnh của miệng của mình. Còn nếu mình không hiểu thì mình sẽ tưởng là nói như vậy là không phải lời nói hung ác.

Cho nên ở đây Thầy giải thích cho nó rõ, để cho các con học cho nó kỹ, vì nó là cái căn bản đạo đức của đạo Phật, nó là mười cái điều đạo đức của đạo Phật mà chúng ta cần phải trau dồi, cần phải tu tập, cần phải dứt bỏ.

Đó là những điều mà chúng ta cần phải hết sức tu tập, nhiệt tâm tu tập, siêng năng tu tập, chớ không phải chỉ nói miệng suông được, mà phải đem hết cái thân tâm của chúng ta thực hiện đúng mười điều lành này.

Cho nên, kinh Thập Thiện dạy:

Kẻ nào không nói lời hung dữ sẽ được tám món công đức:

1. Nói đúng pháp;

Nghĩa là lời nói chúng ta luôn luôn bao giờ cũng không sai.

2. Lời nói có ích lợi;

3. Lời nói đúng chân lý;

4. Lời nói khôn khéo;

5. Nói điều chi ai cũng vâng theo;

(45:09) Đây, cái chỗ: 4. Lời nói khôn khéo - Có cái khôn khéo mà xảo trá, nhưng cái khôn khéo đây là khôn khéo nói lời nói không có dữ dằn, làm cho người khác nghe nó êm tai, thuận tai; làm cho người khác nghe lời nói mà người ta được vững bụng, không sợ hãi, yên tâm. Đó là lời nói khôn khéo.

Nhiều khi chúng ta không khôn khéo, chúng ta nói nó cũng đúng như vậy, nó cũng y như vậy mà không dụng cái lời nói khôn khéo, làm cho người khác nghe người ta thấy đau khổ trong tâm. Mà người khác đã đau khổ trong tâm thì lời nói đương nhiên được xem là - lời nói không khôn khéo đó - thì đương nhiên được xem là lời nói hung ác.

Nghĩa là cái lời nói nào mà làm cho người ta đau khổ thì lời nói đó đều là lời hung ác hết. Nó bao gồm cả cái lời nói dối, cái lời nói thêu dệt, cái lời nói lật ngược đều là nó thuộc về lời nói hung ác hết, chớ không phải riêng có những cái lời nói này là hung ác đâu.

Cho nên phải hiểu, ở đây cái chỗ 4, cái lợi ích của cái lời nói thứ tư này là lời nói khôn khéo: Đó là chúng ta phải biết sử dụng cái lời nói chúng ta như là chúng ta cầm một cái bào, một cái cưa để mà chúng ta cưa cây, hay hoặc một cái dụng cụ nào đó mà làm cái nghề gì đó, phải tinh xảo đó, thì cái lời nói của chúng ta sử dụng như một ông thợ rành nghề mà sử dụng cái vật dụng của cái nghề đó.

Cũng như một cái ông nông dân thì ổng sử dụng cái cuốc của ổng; cũng như là một cái người thợ cưa, thợ mộc thì họ sử dụng cái cưa, cái bào họ; cũng như là cái người viết văn thì họ sử dụng cái ngòi bút, thì chúng ta là cái người tu theo đạo Phật mà tới cái lời nói hung ác này, thì chúng ta sử dụng cái lời nói khôn khéo của chúng ta để làm cho mọi người đều vui, thì cái điều đó là chúng ta sử dụng phải khéo léo, phải thiện xảo, chớ không phải là thiếu cái này mà được.

Đó đến chỗ này thì khi mà chúng ta tập dần đi cái chỗ mà chúng ta không có nói lời hung dữ, thì nó đưa đến cái chỗ mà chúng ta có những cái lời nói khéo léo, từ đó nó phát sinh ra chúng ta có những cái lời nói rất là khéo léo.

5. Nói điều chi ai cũng vâng theo;

6. Lời nói được nhiều người tin;

7. Lời nói không bị ai chê;

8. Lời nói được yêu mến.

Đó là tám cái điều mà chúng ta cần phải hiểu để mà giữ gìn bốn cái hành động của cái miệng của mình.

8- SỐNG TRẦM LẶNG ĐỘC CƯ ĐỂ GIỮ GÌN KHẨU NGHIỆP

(47:36) Vậy tóm lại, bốn cái hành động của miệng của mình, thì khi mà học biết được bốn cái hành động thiện này thì từ đây về sau chúng ta phải cố gắng mà thực hiện giữ gìn cái khẩu nghiệp.

Trước tiên là chúng ta nên tập độc cư, nên giữ cái miệng của mình, mà thường Thầy nhắc các con là sống trầm lặng. Như vậy là mình sống ở trong cái tâm hồn trầm lặng của mình, mình ưa thích trầm lặng nè, mình sống trầm lặng nè, mình ca ngợi trầm lặng nè, mình tìm cái nơi để mình được sống trầm lặng.

Do những cái điều kiện đó mà trong kinh Phật đã dạy chúng ta, tức là dạy chúng ta giữ gìn khẩu nghiệp của chúng ta đó. Mà Phật dạy độc cư cũng nhằm cái mục đích là sống trầm lặng, sống giữ gìn bốn cái điều lành của cái miệng của chúng ta, đó là như vậy chớ không phải gì.

Sau một thời gian mà chúng ta tịnh khẩu, chúng ta không nói, thì từng đó khi mà chúng ta mở miệng ra, cái miệng chúng ta nó không có lanh đâu, nó chậm chạp lắm. Rồi từng đó chúng ta nói lời nào nó có sự suy nghĩ nó nói, nó nói rất chín chắn.

Nhưng nếu mà chúng ta nói riết rồi nó nhanh, nó bén nhạy rồi, cái đầu óc chúng ta chưa có nghĩ kịp nó đã nói trước rồi, cái miệng chúng ta nó đi trước cái ý chớ không phải nó đi sau cái ý.

Cho nên, chúng ta phải khéo léo để giữ gìn làm sao cho cái miệng chúng ta nó đi sau cái ý thì nó mới tốt, chớ còn nó đi trước cái ý thì coi chừng nó phạm vào bốn cái điều ác của cái miệng chớ không phải là điều lành đâu.

Đó thì hôm nay Thầy tóm lược để thấy bốn cái điều của cái miệng, bốn cái hành động của cái miệng, thì rất là quan trọng cho cái cuộc đời tu tập theo đạo Phật chớ không đơn giản đâu.

9- Ý HÀNH THIỆN: KHÔNG THAM LAM

(49:15) Về phần ý thì chúng ta có ba cái hành động của ý.

Vậy thì cái hành động của ý đầu tiên đó là không tham muốn.

Con người bị cám dỗ (bởi) năm thứ dục lạc:

Đó, người ta mà có tâm tham là vì có cái đối tượng để cho nó tham, chớ không có đối tượng thì nó lấy gì tham? Cho nên nó có năm cái đối tượng của nó - đó là năm cái món dục lạc.

Vậy năm cái món dục lạc này là cái gì?

Tiền của: Đó là một.

Sắc đẹp: Sắc đẹp của phụ nữ đó, đó là hai đó.

Danh vọng: Tức là làm quan, làm vua hoặc là đỗ bằng này, bằng kia - những cái danh vọng đó, hay hoặc là được tiếng người ta nói mình là những nhà bác học, hoặc là những danh y, hoặc là người ta ca ngợi mình là chân tu - tất cả những cái danh đó là danh vọng đó.

Tất cả những cái này, ngay cái danh thì Đức Phật đã dạy chúng ta: Được danh, rồi được lợi - tức là tiền bạc đó, rồi được sự cung kính thì chúng ta nên ẩn bóng đi, thì đó là bậc chân tu.

Do Phật nhắc như vậy tức là chúng ta xa lìa cái gì? Tiền bạc, sự cúng dường đó, rồi danh vọng, rồi sự cung kính, đó là những cái mà bậc chân tu phải tránh nó. Thì ở đây nó cũng nằm ở trong cái ngũ dục lạc, cho nên từ cái chỗ này chúng ta mới thấy rõ cái ý của Đạo Phật: Đối tượng của con người bị cám dỗ đó là năm cái thứ dục lạc này.

Rồi đến ăn uống là một trong năm cái dục lạc này.

Rồi đến ngủ cũng là một cái trong năm cái dục lạc này.

Cho nên chúng ta đọc lại là:

Tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ.

Đó là năm cái đối tượng dục lạc, làm cho tâm của chúng ta khởi lên ham muốn. Vì vậy mà cái hành động của ý chúng ta là cái chỗ ham muốn, mà có những cái đối tượng làm cho nó ham muốn.

Vậy thì:

Trong thế gian, người đời không ai tránh khỏi năm thứ này.

Nghĩa là sống trong cuộc thế gian thì người ta không mắc cái này thì người ta cũng mắc cái kia, người ta dính, cái tâm tham của chúng ta không bám cái này thì bám cái kia, không thể nào mà rời khỏi năm cái thứ dục lạc này hết.

Vì vậy mà Đạo Phật chỉ cho chúng ta thấy được cái đối tượng của cái ý mà nó có cái hành động tham muốn của nó là phải có năm thứ dục lạc.

(51:53) Nếu tham muốn, mong cầu, chạy theo nó…​

Tức là chạy theo cái năm dục lạc này.

…​ đạt được thì sanh tâm vui mừng, còn ngược lại thì trở nên buồn khổ, sầu não.

Nghĩa là chúng ta đạt được năm cái thứ dục lạc này, dù là một thứ đi nữa mà đạt được chúng ta cũng mừng nữa, chứ chưa nói cả hết năm thứ. Mà không được thì sanh ra buồn não, khổ sở.

Nhiều người vì đạt không được những cái năm dục lạc này, họ sanh ra muốn đi tu theo Phật. Cái kiểu này, thiệt ra là họ tu như vậy đó, theo Thầy nghĩ là chắc họ thành ma chớ không thể nào mà giải thoát được hết!

Đòi hỏi dục lạc không được rồi bỏ đi tu thì cái kiểu đó không phải cái người mà thấy được cái cuộc đời là khổ, thấy được cái cuộc đời sanh ra là bao nhiêu cái thứ khổ dày đặc ở trong đầu của mình.

Cho nên nếu mà vô tu một thời gian sau đó mà được người ta cung cấp tiền bạc, rồi cúng dường, rồi xây chùa lớn cho mình, thì bắt đầu cái anh này ảnh hết tu rồi, ảnh vui rồi, bởi vì ảnh đạt được cái mục đích là dục lạc rồi! Cho nên từng đó là ông thầy bị dục lạc mất rồi!

Cho nên vì vậy mà mình thất vọng, thất tình, rồi mình vào chùa mình tu, cuối cùng thì đến chùa ở một thời gian sau thì năm cái thứ dục lạc này nó lần lượt nó đến, đến nó ve vãn, nó khêu gợi. Từng đó, anh đâu phải là cái người mà có tâm tu xa lìa nó đâu? Tại vì anh đạt không được năm cái đối tượng dục lạc này, vì vậy mà anh bị nó cám dỗ, thì từ cái hình thức của một vị tu sĩ bị rơi vào trong cái này.

Đó là những cái lạc lầm, cái không hiểu của Thập Thiện. Mà khi một người hiểu biết, người ta mới thấy được năm cái đối tượng này làm cho chúng ta rất là đau khổ. Nó cám dỗ chúng ta rất là lớn, rất là mạnh.

Lòng ham muốn của người đời khi được toại nguyện thì phải trải qua vô vàn cực khổ.

Nghĩa là chúng ta, nếu mà ở ngoài đời chúng ta muốn có tiền thì chúng ta phải làm lụng hết sức mới có tiền. Nhiều khi chúng ta phải tính toán, suy tư, phải làm kinh tế bằng cách này, bằng cách khác. Có nhiều khi chúng ta phải vào tù, ra khám rồi chúng ta mới lập nên sự nghiệp chớ không phải là ít! Chúng ta phải khổ sở lắm cái sự nghiệp chúng ta mới có được chớ không phải dễ.

Nhiều khi mà chúng ta thành lập được cái sự nghiệp, rồi chúng ta ngồi ở trên đống vàng chưa chắc là chúng ta đã yên. Ở đây Thầy nói, như Tâm Như đã chứng kiến được cái sự ngồi trên đống vàng mà chưa yên đâu.

Thầy là ngồi ở trên cái cục đá mà Thầy rất yên, bởi vì ăn trộm nó không có lấy cục đá. Còn người ta ngồi ở trên đống vàng, chớ nhiều khi bước ra một bước là thấy mất mạng liền tức khắc! Nó không yên, cho nên tâm họ bất an, luôn luôn bất an.

(54:24) Lòng tham muốn của người đời khi được toại nguyện thì phải trải qua vô vàn cực khổ, nhưng hưởng thọ thì sự vui đó rất là nhanh chóng.

Vì thế, chúng ta cần phải suy tư cho kỹ càng.

Đó là về cái vấn đề tiền bạc đó. Bây giờ tới sắc đẹp đây:

Tham sắc đẹp thì phải tổn phí tiền bạc rất nhiều, lại còn mất sức khỏe và hao tổn tinh thần.

Tham tiền bạc thì phải đọa đày thân mạng, lao động vất vả, đầu óc suy tư, tính toán, kinh doanh để làm ra tiền; thân và tâm không bao giờ được an vui, ngơi nghỉ, ngồi trên đống tiền như ngồi trên đống lửa.

Tham danh vọng, quyền cao tước trọng thì phải vào luồn, ra cúi, nịnh bợ, ton hót hoặc là đem lo hối lộ.

Chẳng hạn bây giờ Thầy học dở nè, mà Thầy muốn đậu nè, để cho người ta nói Thầy đậu tú tài, Thầy đậu cử nhân; thì giờ mình phải đem tiền, đem bạc hay hoặc là quà biếu cho mấy ông thầy chấm thi, hoặc là coi mấy ông thầy đó cho những cái bùa phép gì đó để rồi mình quay cho nó đậu.

Thì tất cả những cái này đều là những cái phải luồn cúi, nịnh bợ bằng cách là bắt buộc mình làm như vậy để cho mình tạo được cái danh vọng đó. Đó là những cái sai, cái không đúng.

Tham ăn uống món ngon vật lạ thì lại mắc nhiều bệnh tật khó trị. Ăn uống phải điều độ, ăn uống phi thời thức ăn sẽ thành độc dược.

Tham ngủ nghỉ thì trí tuệ tối tăm, mê muội, sanh biếng nhác, thiếu ý chí chủ động, thiếu nghị lực, dần dần biến thành kẻ ăn bám vào người khác.

(56:58) Người cư sĩ theo đạo Phật thường hằng khắc phục và chiến đấu chống lại lòng tham muốn của mình để không bị năm thứ dục lạc này lôi cuốn. Nhờ thế mới có được đời sống tri túc, thiểu dục, đơn giản, thanh tao và an nhàn.

Nhận được sự lợi ích cho đời sống con người khi đã lìa xa tâm ham muốn thì được thảnh thơi, yên vui, an lạc, không còn khổ đau, phiền não nữa.

Phật dạy: Diệt tâm tham muốn là Diệt Đế. Diệt Đế là Niết Bàn, là trạng thái tâm hồn thanh thản. Chỉ cần không ham muốn là quý vị đã đạt được cảnh giới Niết Bàn.

Chỉ có một chút thôi, chúng ta đừng ham muốn, đừng có ham thích những cái dục lạc đó thì ngay đó chúng ta đã có Niết Bàn rồi. Có cần gì mà phải tu nhiều, chỉ có một chút tâm đừng ham muốn là đủ rồi!

Vậy thì quý vị cócần gì mà phải cực khổ ngồi thiền, nhập định làm chi cho nó mất công, chỉ cần dẹp qua cái lòng ham muốn là đã được rồi!

Nhưng nói như vậy đâu phải chuyện dễ. Nếu dễ như vậy thì ai cũng làm Phật, cũng là nhập được Niết Bàn được hết rồi. Khó lắm, cái lòng ham muốn của chúng ta khó lắm, khó mà dứt trừ nó lắm!

Quý vị đừng hiểu, khi tâm ham muốn dứt thì cuộc sống sẽ trở thành tẻ nhạt.

Có nhiều người họ nghĩ rằng: khi còn ham muốn thì chúng ta còn thích thú, còn làm cái này, làm cái kia, bây giờ hết ham muốn rồi bắt đầu đời sống của mình không còn cái gì nữa hết, thôi chắc chắn là ngồi đó mà chờ chết chớ còn có cái muốn gì nữa đâu!

Cho nên từ đó, đó là cái hiểu lầm lạc của quý vị: nó trở thành tẻ nhạt, nó trở thành vô vị, nó không còn cái ý nghĩ gì cuộc sống nữa.

Còn ham muốn thì còn thấy hy vọng cái này, cái kia, cho nên mình đâm đầu mình chạy bên đây, chạy bên kia để mình tìm nó, còn bây giờ hết ham muốn rồi còn tìm gì nữa đâu? Cho nên, đời sống bây giờ nó tẻ nhạt sao, nó lạnh lẽo vô cùng! Con người mà tâm không ham muốn nữa thì chắc chắn là tiêu rồi chớ còn cái gì!

Đó là cái hiểu đứng ở trên núi này mà hiểu cái núi kia thì làm sao hiểu được? Chúng ta muốn hiểu nó chúng ta phải đi vào để xem như thế nào.

(58:24) Vì vậy Phật dạy: Ly dục thì được tâm thanh thản, giải thoát.

Từ cái chỗ mà mình không còn ham muốn nữa, mình lìa xa cái lòng dục của mình - lòng tham lam đó - thì cái tâm mình nó thanh thản. Nó thanh thản thì tức là nó giải thoát chứ gì, chớ nó đâu phải là tẻ nhạt đâu?

Do còn cái ham muốn mà không đạt được nó mới thấy tẻ nhạt, còn bây giờ người ta không ham muốn thì tức là nó thanh thản, cho nên nó đâu tẻ nhạt!

Vì cái chỗ tẻ nhạt này là do cái ham muốn mà không đạt được. Bây giờ bắt buộc mình ngồi đây mà không ham muốn, chứ trong tâm của mình thì nó một khối ham muốn ở trong đó, cho nên nó mới thấy tẻ nhạt!

Phải hiểu được cái lý như vậy. Chứ còn nếu không, ông Phật ông bảo mình ly dục, mà hết dục rồi gọi là Niết Bàn, thì trời ơi, cái Niết Bàn gì mà nghe nó buồn khổ làm sao, nó không ham muốn gì hết trong đó, thì như vậy là mình tu làm gì nữa?

Cho nên từ đó mình mới thấy được cái mấu chốt của nó, cái mầm của nó là ham muốn dục lạc mà không đạt được, cho nên bây giờ ngồi đây mà cái tâm ham muốn cho nên mới thấy tẻ nhạt, nó mới phải lạnh lẽo ở trong đó.

Chớ còn cái người mà người ta không còn ham muốn thì người ta ly được nó rồi, thì cái tâm hồn nó thanh thản, nó giải thoát, nó đâu có tẻ nhạt, nó đâu có buồn khổ?

Cho nên quý vị hiện giờ, các con thấy như thế nào? Cho các con độc cư, mà riết độc cư các con thấy buồn khổ, đó là tẻ nhạt đó. Là vì cái tâm ham muốn các con còn, chớ nếu mà các con, cái tâm ham muốn, cái tâm tham nó hết rồi thì đâu có còn cái chuyện mà nó tẻ nhạt đó đâu? Cho nên các con sống độc cư thấy nó an lạc vô cùng, không bao giờ thích nói nữa. Còn bây giờ nó thấy nó tẻ nhạt quá, nó buồn quá, thôi đi ra nói chuyện chút cho nó vui, tức là các con sẽ không có giữ được hạnh độc cư.

Vì vậy mà cái hạnh độc cư rất là tuyệt vời, làm cho tâm hồn chúng ta thanh thản, giải thoát. Chính vì các con sống không được độc cư là do cái tâm ham muốn các con còn, tham muốn các con còn đó!

Các con hiểu chỗ đó thì mới thấy được cái chỗ mà Thầy dạy nó rất là thực tế, cụ thể.

Cho nên hầu hết một số người tu hành về đây rất đông, mà cuối cùng đến độc cư họ phải ra đi, ra đi còn lại được hai người mà thôi. Thì đủ biết rằng tại cái tâm ham muốn của họ còn, cho nên họ thấy tẻ nhạt, cô đơn, buồn bã, vì vậy mà họ không chịu nổi, họ phải rời đi.

(01:00:36) Sống là sự trả nghiệp chớ không phải sự tham đắm, si mê về dục lạc.

Ở đây, cái câu nói này các con phải hiểu, nó rất là đầy đủ cái ý nghĩa của nó. Bởi vì hầu như người ta lầm lạc, người ta tưởng là cuộc sống này là phải tham đắm những cái dục lạc đó - năm cái dục lạc đó, nhưng mà cuộc sống là cuộc sống trả nghiệp.

Bởi vì cái nghiệp nó sanh chúng ta ra, do đó những cái quả đó nó phải sẵn sàng cho cái bản thân của chúng ta rồi.

Vì vậy mà chúng ta phải trả cái nghiệp. Thay vì vừa trả nghiệp mà vừa tạo nghiệp thì nó mới có cuộc sống vị lai. Chớ nếu mà chúng ta trả cái nghiệp này mà chúng ta không tạo cái nghiệp mới thì làm sao có cuộc sống tương lai được?

Cho nên qua cái bài kệ "Nhất Dạ Hiền" thì quý vị còn nhớ hai câu đầu Thầy đã nói như thế nào không?

Quá khứ không truy tìm

Vị lai không ước vọng.

Phải không?

Nếu mà quý vị không có truy tìm cái quá khứ, không có ước vọng ở vị lai, thì hiện tại quý vị sẽ sống như thế nào? Thanh thản! Còn nếu quý vị đi tìm cái quá khứ rồi ước vọng ở tương lai thì như vậy quý vị có được an vui không? Như vậy là quý vị truy tìm ở quá khứ và ước vọng ở tương lai, thì đó là tham đắm của si mê, của dục lạc, chớ đâu phải là người trả nghiệp!

Chúng ta biết chúng ta sanh ra là chúng ta là những người đang trả nghiệp chớ không phải chạy theo tham đắm của dục lạc. Chúng ta không hiểu được vậy cho nên chúng ta chạy theo tham đắm dục lạc, vì vậy mà chúng ta tạo những cái nghiệp mới. Vừa là chịu trả những cái nghiệp cũ mà trái lại tạo thêm những nghiệp mới do cái sự không hiểu biết.

Đó quý vị có hiểu được chỗ này thì quý vị mới thấy được con đường của đạo Phật vạch ra chúng ta một cái lối để chúng ta biết rằng: Chúng ta phải diệt trừ tất cả nghiệp. Vì nghiệp là ông chủ sanh chúng ta ra, là chủ nhân sai khiến chúng ta.

Người đời lầm tưởng dục lạc là có thật…​

Nghĩa là năm cái món dục lạc hồi nãy Thầy nói như trên, thì cái người đời - người mà chưa hiểu Phật Pháp - thì người ta thấy cái đó là cái thật.

Mà chính bây giờ các con người nào cũng là biết năm thứ dục lạc đó nó không thật. nhưng mà cái không thật đó là quý vị mới có ngộ được cái lý không thật của năm món dục lạc, cho nên các vị chưa chứng được cái lý của năm món dục lạc này, vì vậy mà các vị biết nó như vậy, hiểu nó như vậy, nhưng mà vẫn thích ăn, phải không? Vẫn thích ngủ, khi nào, đêm nào mà không ngủ là quý vị thấy nó khổ sở vô cùng lận. Đó, quý vị có hiểu được điều đó không?

Cho nên, tiền bạc - tuy rằng bây giờ mình không có nhưng mà vẫn còn thích chớ đâu phải không thích! Rồi sắc đẹp, đâu phải không thích! Rồi danh, không phải không thích! Tất cả những cái này - năm món dục lạc này nó đều là, biết nó là không thật nhưng rồi quý vị vẫn còn thích nó.

(01:03:33) Nếu mà biết nó không thật, quý vị muốn nó như thật mà không thật này thì quý vị phải tu tập như thế nào? Nếu quý vị không tu mà quý vị cứ ngồi hít thở, thì nó làm sao mà thấy nó là như thật được?

Cho nên, quý vị hiện giờ biết nó không thật, nhưng mà vẫn thấy nó thật, cho nên luôn luôn dính mắc nó, không thể nào mà chúng ta thoát khỏi nó được.

Do vì vậy, hằng ngày mà Thầy dạy quý vị cái Định Vô Lậu để làm gì? Để quý vị ngồi xếp bằng lại, thân nó bất động, tâm nó yên lặng, từ đó quý vị đặt cái niệm ngũ dục lạc này: Ăn, ngủ - Thức ăn quý vị đặt nó quý vị quán bất tịnh; ngủ nó sanh ra mê muội, hôn trầm.

Quý vị đặt cái niệm trước mặt quý vị, từ đó cái tri kiến ở trong đầu của quý vị nó sẽ phóng ra, nó làm cho quý vị không còn dính mắc, say mê nữa. Từ đó, quý vị mới thấy rõ được cái sự giải thoát nơi tâm hồn của quý vị, quý vị mới chứng được cái lý không thật của nó.

Cái lý của năm cái thứ dục lạc này nó không có thật mà quý vị lầm chấp nó, cho nó là thật, cho nên mấy vị mới có cái tâm tham đắm nó, mới si mê với nó.

Đó là quý vị muốn nó - muốn năm cái dục lạc này nó không thật, nó không có thật thì quý vị phải đặt niệm nó ở trước mặt mà quý vị dùng cái tri kiến giải thoát của quý vị.

Quý vị phải rõ: Quý vị có những cái tri kiến. Cái tri kiến của quý vị đầu tiên là quý vị hiểu, quý vị ngộ là năm cái dục lạc này nó không thật, quý vị biết; đó là cái tri kiến của quý vị.

Nhưng mà khi quý vị đặt cái niệm năm cái thứ dục lạc này trước mặt của quý vị, rồi quý vị mới phóng ra cái sự hiểu biết; suy tư sự hiểu biết, quán xét sự hiểu biết đó, thì năm cái thứ dục lạc này nó sẽ trở thành không có thật. Do đó, từ ngày này tu tập tới ngày khác tu tập, cứ đặt cái niệm đó trước mắt, quán xét rồi xả bỏ tất cả những cái dục lạc này để không còn ham thích nó.

Bây giờ, trong cái giờ mà nó buồn ngủ, tức là nó còn cái dục lạc đó chớ gì? Nó ham ngủ nè, nó còn mệt mỏi, nó còn lừ đừ, nó còn muốn đi ngủ nè. Do đó quý vị thấy, quý vị phải chiến đấu (với) nó, bằng cách là quý vị phải đi kinh hành nè, bằng cách quý vị phải động thân nè, quý vị phải chiến thắng nó, đừng có cho nó ngủ trong cái giờ mà quý vị nhất định là không cho. Từ đó quý vị mới chiến thắng được cái dục lạc này.

Từng những cái dục lạc, từ cái ăn, nếu quý vị mà không quán nó bất tịnh thì cái món ăn đó quý vị thích là quý vị không bao giờ mà quý vị chứng nó chân lý như thật được, cho nên quý vị không thấy nó bất tịnh.

Còn quý vị để món ăn trước mặt của quý vị, rồi quý vị đặt cái niệm đó trước mặt, rồi quý vị quán bất tịnh cái thức ăn đó đi, rồi lâu ngày: một lần, hai lần, ba lần, một ngày, hai ngày, một tháng, hai tháng tới một năm thì quý vị không còn muốn ăn nữa. Nghĩa là quý vị thấy thực phẩm ăn để mà sống chớ không còn thèm ăn, thèm uống gì nữa hết.

Đó, như vậy là cái phương pháp đặt niệm trước mặt để tu cái Định Vô Lậu nó lợi ích cho quý vị như vậy, làm cho cái tâm tham đắm ngũ dục lạc này nó không còn dính mắc nữa.

(1:07:08) Không ngờ do si mê, tham đắm dục lạc nên tạo ra biết bao nhiêu nghiệp ác. Do nghiệp ác mà chúng ta mới chịu biết bao nhiêu sự khổ đau.

Đó, từ cái chỗ mà chúng ta đắm đuối theo những cái dục lạc này mà chúng ta tạo ra những cái nghiệp ác. Muốn đạt được nó thì nó phải có nhiều cái thứ ác ở trong đó, chớ đâu phải khi không mà nó đạt được?

Do đó mà chúng ta lại tạo ra những cái nghiệp mới, làm cho chúng ta đời đời, kiếp kiếp tiếp diễn nhau ở trong cái nghiệp lực của nó, chớ đâu có cái gì khác hơn, để rồi mãi mãi chúng ta đau khổ triền miên bất tận kiếp này đến kiếp khác!

Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy:

Kẻ nào không tham đắm dục lạc thế gian thì được năm món công đức tự tại:

1. Ba nghiệp thân, khẩu, ý được tự tại về nhân, các căn đầy đủ;

Về nhân tức là ba cái ý của mình được tự tại về cái thân của mình.

Các căn đầy đủ: Sáu cái căn chúng ta đầy đủ, không hao mất.

2. Của cải được tự tại;

Nghĩa là của cải chúng ta nó không có sự hao mất cái này, cái kia cái no, nó rất là tự tại.

3. Phước đức tự tại;

4. Ngôi vua tự tại;

Nếu mà chúng ta làm vua thì nó rất là tự tại: Nó không còn lo giặc giã; nó không còn lo quan quân của mình ăn lo hối lộ, làm những điều xằng bậy, dân chúng đau khổ, toàn là những người làm quan với ông vua đều là trung thành, đều là thanh liêm, đều là vì dân, vì nước mà lo, chớ không phải là ăn lo hối lộ.

Có nhiều người làm vua ngồi ở trên ngai vàng mà quan của mình, xung quanh mình, làm việc với mình, những ông quan này ăn lo hối lộ làm cho dân khổ mà ở trên mình không nghe biết. Cho nên ông vua đó có tự tại không? Rồi làm vua mà giặc giã đánh ở biên cương chỗ này, chỗ nọ kia thì ông vua đó có tự tại không? Đâu có bao giờ tự tại được.

Cho nên, cái người mà giữ gìn được cái tâm mà không có tham muốn này, tránh được xa những cái năm món dục lạc này thì ông vua sẽ được phước báu là tự tại trên ngôi vua. Đó là cái thứ tư. Cái thứ năm:

5. Được hưởng lợi gấp trăm lần.

Đó là về cái phần của cái ý, mà chúng ta tu được cái tâm không tham muốn thì được như vậy.

10- Ý HÀNH THIỆN: KHÔNG SÂN HẬN

(01:09:40) 9. Không sân hận.

Cái tâm của chúng ta, cái ý chúng ta dễ sân hận lắm.

Tâm sân hận là tâm đau khổ, tâm hung ác, tâm dữ tợn. Tâm sân hận vốn không có, chỉ vì chúng ta lầm chấp thân tâm của mình là ngã thật, từ đó luôn luôn mới bảo vệ, che chở. Nếu ai chạm đến nó…​

Tức là cái thân tâm của mình đó.

…​ tức thì cơn sân nổi lên đùng đùng.

Cho nên ở đây quý vị thấy, do cái chỗ nào mà có cái tâm sân của mình? Do cái chỗ lầm chấp cái ngã của chúng ta: Vậy thì cái thân của chúng ta là cái ngã của mình, cái tâm của chúng ta là cái ngã của mình; lầm chấp cái đó cho nên người ta đụng tới cái ngã thì ngay đó mình giận lên liền.

Cho nên vì vậy mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu thì chúng ta đặt cái thân và cái tâm chúng ta để quán coi cái thân mình có cái ngã trong đó không? Nó vô ngã. Cho nên Phật dạy là Vô Thường – Khổ – Không – Vô Ngã, nó không có cái gì, hoàn toàn, cái ngã cũng không có, nó vô thường, cái thân này nay vầy, mai khác.

Cho nên khi mà đặt niệm như vậy chúng ta phá triệt cái ngã, mà phá triệt cái ngã thì còn cái gì mà chúng ta sân? Cho nên chúng ta phá ngay cái gốc của nó đi thì cái sân nó sẽ không có.

Còn bây giờ chúng ta cố gắng biết mọi pháp là vô thường, là này kia, mà chúng ta không đặt niệm để tu tập cho nó thấm nhuần được như cái lý chân thật của cái vô ngã đó, thì lúc bấy giờ chúng ta có nói: Tất cả các pháp, người ta chửi mình cũng là giả, cũng không thật, người ta mắng mình cũng là những cái điều vô thường, bằng cách này, bằng cách khác; nhưng mà đó là cái lý để mà chúng ta hiểu, chúng ta ngộ chớ chưa phải là chúng ta thấm được cái lý, chứng được cái lý đó.

Cho nên vì vậy mà chúng ta đặt cái niệm trước mặt của chúng ta, cái vô ngã trước mặt của chúng ta, đặt cái thân tâm chúng ta rồi chúng ta quán xét nó vô ngã: Nó “vô” như thế nào? Nó không có ngã như thế nào? Cái tâm nó như thế nào? Chúng ta bốn cái chỗ để mà chúng ta quán xét nó để nó trở thành vô ngã, từ đó cái tâm sân của chúng ta nó không bao giờ có nữa.

Cho nên ở đây Thầy giảng ra nó để cho chúng ta có một cái hành động tu tập để diệt trừ cái tâm sân của mình, để thực hiện được cái điều lành mà cái tâm không còn sân nữa.

Chớ không phải nói không sân rồi mình nói, giảng suông suông mà không biết cái hành động tu, thì như vậy không biết cái định nào mà để tu cho được cái tâm hết sân, thì như vậy chưa bao giờ chúng ta hết sân.

Trước kia Thầy dạy quý vị nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mọi điều kiện, mọi cái đối tượng, mọi hoàn cảnh để tâm sân, tâm phiền não của quý vị không có.

Nhưng Thầy thấy qua cái sự thiếu sót đó làm cho quý vị chuyên tâm về cái thiền định hơi thở nhiều hơn, mà cái Định Vô Lậu không có, chỉ ngộ được cái lý của nó.

Cho nên quý vị chỉ chịu đựng mà nhẫn nhục, chịu đựng mà tùy thuận, chịu đựng để mà bằng lòng, mà cuối cùng thì xét thấy qua cái tu tập của quý vị, Thầy biết có một sự thiếu khuyết ở trong đó, cho nên nó mới dậm chân tại chỗ.

Vì vậy bây giờ quý vị sẽ theo ngay cái lời dạy của Đức Phật mà đặt cái niệm trước mặt để mà quán cái thân vô ngã, cái tâm vô ngã, từ đó nó không có cái ngã thì cái tâm sân nó sẽ không có nữa.

(01:13:03) Một niệm tâm sân khởi thì trăm ngàn tai họa đem đến. Biết vậy, hàng ngày chúng ta thường nhắc tâm:

"Giận hờn là đau khổ, là bao nhiêu tai nạn xảy đến; giận hờn khiến gia đình bất an, không vui. Vậy từ đây về sau tâm không được giận hờn nữa, tâm phải như cục đất!"

Thì như vậy đây là phương pháp hướng tâm - tức là phương pháp ám thị. Kèm theo phương pháp ám thị, chúng ta phải đặt cái niệm “vô ngã” thì như vậy chúng ta mới hoàn thành được cái tâm không sân hận, không giận hờn nữa.

Đó thì, quý vị phải áp dụng cả hai cái phương pháp, chớ không phải áp dụng có một cái pháp hướng không thì nó không đủ đâu, nó không đủ sức mà chuyển nó đâu. Vì bằng chứng là trải qua thời gian, quý vị cũng dùng pháp hướng, quý vị ám thị rất nhiều mà nó chưa thành tựu được.

Cho nên quý vị hôm nay phải đặt luôn cả cái thân, cái tâm vô ngã để quý vị quán xét, quán triệt, để thấm nhuần, thấu suốt cái lý vô ngã của nó, để quý vị phá đi cái lậu hoặc của quý vị, thì cộng lại những phương pháp tu tập vậy làm cho cái tâm sân của quý vị không còn nữa.

Hàng ngày phải nhớ câu này, nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho thấm nhuần tận xương tủy, có như vậy tâm sân hận mới đoạn diệt.

Đó thì, Thầy đưa ra hai cái pháp để cho quý vị tập luyện, để cho cái tâm sân này nó hết.

Do dằn không được sự giận hờn, nên từ việc nhỏ sẽ nở ra việc to lớn, từ đó biết bao nhiêu tai họa xảy đến không lường trước được.

Tâm sân nó thường mang đến nhiều sự rắc rối và tạo ra vô vàn đau khổ. Nếu tâm sân không dằn được, có khi gây ra án mạng, tạo cảnh tù tội chung thân.

Quý vị phải ý thức: Sân hận nó thường mang đến tai họa cho loài người. Chính nó làm mất đi hạnh từ bi của người tu sĩ và lòng nhân ái của người thế gian.

Vậy thì cái tâm sân của quý vị nó sẽ diệt đi cái lòng từ bi của vị tu sĩ, mà cái tâm sân của quý vị nó sẽ diệt đi cái lòng nhân ái của người cư sĩ. Vì vậy mà quý vị phải tìm mọi cách mà chấm dứt nó đi.

(01:15:37) Trong Tứ Chánh Cần Phật dạy: Các pháp ác chưa sanh không cho sanh, đã sanh cần phải đoạn diệt.

Như vậy là cái tâm sân của mình không có, nó tự nó đâu có đâu! Cho nên bây giờ đừng có cho nó sanh. Mà đừng cho nó sanh thì các vị phải sống như thế nào?

Cho nên các vị phải sống độc cư, vì vậy mà không có duyên để cho nó tạo ra cái cảnh sân đó, mà có duyên thì tức là cái tâm sân nó sẽ sanh ra. Còn quý vị chung đụng mãi với nhau thì tâm sân quý vị làm sao tránh khỏi!

Đó là những cái điều mà quý vị cần phải tu tập, cần phải sống cho đúng.

Đoạn diệt các pháp ác là một điều khó khăn, phải có nghị lực, ý chí cương quyết.

Như bây giờ cái tâm sân của quý vị nó bừng bừng nó nổi lên. Bây giờ quý vị ngắt liền nó, biểu: "Đừng có sân!” liền, quý vị có làm nổi không? Nếu một người không có ý chí, không có nghị lực thì chắc chắn gì quý vị giữ được nó, đoạn dứt nó được!

Cho nên nói: Khi mà pháp ác sanh lên thì ngay đó phải đoạn dứt nó liền. Bởi vì trong Tứ Chánh Cần Phật dạy mà: các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, mà đã sanh thì phải đoạn diệt nó liền. Cái đoạn diệt nó liền quá là khó khăn! Nếu mà không có ý chí, không nghị lực thì không thể nào đoạn diệt nó được!

Chúng ta hãy đem hết ý chí dũng mãnh để chiến thắng những cơn sân phát khởi ào ào như thác đổ.

Muốn làm chủ hoàn toàn tâm mình, không để một phút giây sân hận khởi lên, thì phải dùng tuệ tri quán xét, đặt niệm trước mắt.

Đó là Thầy nhắc lại, đó là cái chỗ tu cái Định Vô Lậu đó.

Chúng ta phải rõ:

Thứ nhất là chúng ta phải trau dồi tâm từ bi của mình.

Thứ hai là chúng ta phải quán: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, vô ngã, vô thường, khổ, không.

Chúng ta phải đặt cái niệm Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức - Sắc là cái thân của mình, cái Thọ là cái cảm giác, cái Tưởng là cái ngồi tưởng nhớ, cái Hành là cái hoạt động, và cái Thức là cái biết của mình - đặt nó để mà chúng ta quán sát, để mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu, phá cái ngã, cái chấp ngã của chúng ta.

Chúng ta cho nó là thường còn, là nó có ngã thật, cho nên nó mới có cái tâm sân đó. Cho nên phải đặt cái niệm đó.

Đó là cái thứ nhất thì quý vị nhớ phải trau dồi cái tâm từ bi, vì Phật dạy cái tâm từ bi sẽ đối trị được cái tâm sân. Mà ở đây nó chưa đủ đâu, nội cái trau dồi từ bi nó chưa đủ đâu, cho nên chúng ta phải…​ Bởi vì chúng ta biết rằng: Có cái ngã, thì bây giờ có trau dồi cái từ bi bao nhiêu đi nữa thì cái ngã nó vẫn nổi lên bừng bốc thì từ bi chúng ta sẽ mất.

Cho nên chúng ta phải đặt cái niệm để mà chúng ta dùng cái Định Vô Lậu mà chúng ta quét sạch cái chấp lầm của chúng ta - Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức này. Do đó chúng ta quán vô ngã, vô thường, khổ, không, thì tức là nó sẽ làm cho cái đối tượng đó nó không còn có nữa, tâm sân nó bị diệt đi.

(01:18:31) Nhờ thông hiểu…​

Bởi vì, khi mà cái giai đoạn đầu chúng ta vào đạo Phật thì chúng ta phải đi tìm hiểu để hiểu cho nó rốt ráo. Rồi bây giờ hiểu rồi chúng ta trau dồi. Chúng ta biết chúng ta trau dồi tức là chúng ta dùng Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả mà chúng ta tu.

Rồi bây giờ bắt đầu chúng ta dứt bỏ thì chúng ta phải tu tập Tứ Chánh Cần là chúng ta dứt bỏ. Rồi chúng ta tu tập thì chúng ta tu Định Vô Lậu, rồi Định Chánh Niệm Tỉnh Thức.

Đó chúng ta thấy: Tất cả những cái pháp chúng ta đều kê vào để mà chúng ta tu tập. Từ đó chúng ta mới quán các pháp bất tịnh, quán lý duyên hợp, quán vô ngã, vô thường, khổ, chúng ta quán tất cả các pháp.

Do cái sự tu tập đúng cách như vậy chúng ta mới thực hiện được Thập Thiện chớ đâu phải Thập Thiện mà dễ dàng! Nó đâu có phải đơn giản như chúng ta nghĩ, học hiểu rồi chúng ta bỏ qua thì Thập Thiện nó chỉ qua là một cái đống sách vở, một đống kinh chớ không phải là nó có một điều lành chân chật, một đạo đức chân thật nơi tâm hồn của chúng ta.

…​ thì tâm sân hận mới chấm dứt, cuộc sống mới được an vui giải thoát.

Kinh Thập Thiện Đạo dạy:

Kẻ nào làm chủ được tâm sân thì được tám món công đức:

Đây là tám cái sự công đức của sự tu tập về tâm cái sân của mình.

1. Tâm không tổn não;

2. Tâm không giận hờn;

3. Tâm không tranh giành;

4. Tâm được hòa hợp;

5. Tâm được từ bi;

6. Tâm thường làm lợi ích và an vui, an ổn cho mình, cho chúng sanh;

7. Thân tướng được trang nghiêm;

8. Có đức tánh nhu hòa và nhẫn nhục, khi chết đi được sanh vào cõi thiện.

Đó là tám cái công đức, mà cái người tu cái tâm này được thì được tám công đức đó.

11- Ý HÀNH THIỆN: KHÔNG SI MÊ

(01:20:21) 10. Không si mê.

Bây giờ đây là cái hành động cuối cùng của cái ý của chúng ta đây, tức là không si mê.

Si mê là u mê, không hiểu rõ, không biết đúng sự thật, hiểu biết mà không đúng chân lý. Si mê là tà kiến.

Người không si mê là người phán đoán rành rẽ, nhận định một cách rõ ràng, không biện minh, che đậy sự ngu si, u tối và lầm lạc của mình.

Cho nên cái người si mê không phải là cái người đó không hiểu biết. Cái người đó rất hiểu biết, nhưng mà họ hiểu không rõ, không đúng, không có đúng cái lý; họ hiểu qua một cái tâm tham đắm, dính mắc ngũ dục lạc. Họ rất là thông minh mà họ vẫn là u tối. Bởi vì họ hiểu mà họ không làm cho cái tâm của họ được an vui, được yên ổn.

Người không si mê thì không có cố chấp, ngoan cố theo cái sự hiểu biết riêng tư chủ quan của mình…​

Cái người mà si mê thì họ ngoan cố, họ cố chấp, họ chấp chặt những cái sự hiểu biết của họ. Cho nên ai mà động đến cái sự hiểu biết của họ thì họ tranh luận, họ lý luận đủ cách để họ bảo vệ cái sự hiểu biết của họ.

Cho nên cái người mà thông minh, người mà không si mê thì người ta không bị cố chấp cái đó, cho nên ít có khi nào mà người ta tranh luận với kẻ khác, người ta chịu nhịn thua người khác hết.

Còn cái người si mê thì họ thích tranh luận. Đó là những cái…​ Không phải là cái người si mê là cái người không hiểu, họ hiểu họ mới tranh luận, nhưng mà họ tranh luận theo cái kiểu kiến chấp của họ, cái sự ngoan cố của họ, cái sự cố chấp của họ, chớ không phải là cái sự họ ngu si, họ ngu mờ, họ không biết.

…​ không si mê, không tin những tà thuyết…​

Người mà không si mê thì cái những tà thuyết họ không bao giờ họ tin.

…​ không đúng chân lý, những tà kiến mê tín, dị đoan không làm cho người này tin được.

Cái người mà không si mê, những cái gì mà nó mù mờ, nó có những cái huyền bí thì họ không bao giờ họ tin những cái điều đó hết, là cái người không si mê.

Còn cái người si mê dù họ có thông minh đi nữa họ vẫn mê tín, họ thấy những gì đặc biệt, kỳ quái là họ tin theo, chớ họ không có sáng suốt, cho nên đó là những người si mê.

Người không si mê là người có trí tuệ, thông minh, thấu suốt lý nhân quả…​

Đây, các con sẽ nghe cái chỗ mà người không si mê, là cái người phải thông minh phải thấy cái chỗ nào? Còn cái người mà thấy hoàn toàn là thấy ngoài cái vấn đề này, người đó đều gọi là si mê.

Người không si mê là người có trí tuệ, thông minh, thấu suốt lý nhân quả luân hồi…​

Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai là:

…​ biết rõ thế giới này không có thế giới siêu hình, biết rõ lý duyên hợp…​

(01:23:24) Đó, phải biết rõ những cái Thập Nhị Nhân Duyên đó, đó là lý duyên hợp đó.

…​ thế giới thành hoại.

Cái thế giới mà chúng ta thành hoại này, nó do đâu mà thành, mà do đâu mà hoại? Đó, vì vậy chúng ta phải thấu suốt được cái nghiệp đó. Ở đây nói thế giới thành hoại tức là phải thấu suốt được nghiệp.

Người không si mê thấy biết và thấu suốt bốn chân lý của kiếp người…​

Bốn chân lý của kiếp người là Tứ Diệu Đế đó.

…​ biết rõ nơi đến, nơi đi của kiếp người.

Nghĩa (là) người ta ở đâu người ta đến đây, rồi người ta về chỗ nào, thì cái người đó họ phải thấu rõ được cái điều đó, chớ họ không có mơ hồ, mà họ không đặt câu hỏi: "Không biết chúng ta từ đâu mà đến?” - rồi: “Chúng ta chết rồi chúng ta đi về đâu?"; thì cái đó là còn mơ hồ, cho nên đó là những người còn si mê.

Dù là một nhà bác học, dù là một người có tiến sĩ, nhưng họ vẫn đặt câu hỏi đó, họ chưa biết, do đó là họ người si mê chớ chưa phải là người không si mê.

Biết rõ con người là duyên hợp…​

Người không si mê là biết rõ con người là duyên hợp.

…​ các pháp trên thế gian này đều vô thường, vô ngã, khổ…​

Đều là duyên hợp, nó đều là vô thường, vô ngã, không có ngã, nó luôn luôn là cái khổ.

…​ biết nhân nào, duyên nào sanh ra con người; biết địa ngục, thiên đàng ở đâu; biết các cõi trời; biết rõ ma, Phạm, Thiên Vương, quỷ thần; biết rõ con người có linh hồn hay không linh hồn; biết Bát Chánh Đạo và các pháp tu hành giải thoát.

Người biết rõ như vậy là người không si mê.

Người không thấu rõ những điều này được xem là người si mê, dù người đó có học thức cao, đậu bằng cấp thạc sĩ, tiến sĩ, và những nhà bác học rộng rãi, hiểu xa mà vẫn còn mù mờ, không rõ những điều trên đây cũng được xem là vô minh, si mê.

(01:25:11) Vì thế, Đức Phật xác định người si mê có bốn cách:

Nghĩa là Đức Phật xác định, trong cái bài kinh Đức Phật xác định để chỉ cho chúng ta biết là cái người si mê, là cái chỗ cái ý si để chúng ta thấy rõ. Đức Phật xác định qua cái bài kinh, Thầy sẽ đọc lại cái chỗ Đức Phật xác định đây.

1. Có người…​

Thầy lặp lại cái bài kinh, Đức Phật viết ở trong cái bài cái kinh như này:

1. Có người đi Đông, đi Tây, học hỏi cái này, cái nọ, hiểu biết nhiều chuyện kim cổ, thời tiết, chính trị, văn học, khoa học, kiến trúc, hội họa, thi thơ v.v…​ có thể gọi là người này tri kiến hoàn toàn, nhưng những sự hiểu biết này, tâm họ luôn bất an đều được gọi là phi Phạm hạnh si mê hạng nhất.

Đó, cái sự hiểu biết của họ mà Phật xác định đó là cái người phi Phạm hạnh si mê hạng nhất. Chúng ta phục lăn Đức Phật ở chỗ này. Mặc dù là những người này họ thông hiểu vậy nhưng mà tâm họ vẫn bất an chớ chưa phải là được an, vì vậy mà Đức Phật gọi là thuộc về loại si mê hạng nhất.

Đây là cái phần thứ hai nè, Phật gọi nữa nè:

2. Y cứ vào kinh sách mà giảng nói ra, hoặc những truyền thuyết, sự hiểu biết, sự giảng nói này, mà tâm họ vẫn bất an, thì đây được gọi là phi Phạm hạnh si mê hạng nhì.

Đó, nó rõ ràng đó. Thì trong kinh điển của Phật chỉ cho chúng ta thấy: Dù là những người đó thuyết giảng mà tâm họ luôn luôn bất an, còn chạy theo ngũ dục lạc, thì người đó vẫn là người bất an.

Vì chúng ta thấy họ thọ hưởng những cái dục lạc thế gian là biết rằng họ bất an chớ không phải họ an được. Mặc dù họ thuyết kinh rất hay, họ giảng rất hay nhưng mà họ vẫn sống trong dục lạc là biết tâm họ bất an, thì đó là si mê phi Phạm hạnh thứ nhì.

3. Suy luận, lý luận, thuyết pháp theo nguyên tắc tự mình sáng tác mà tâm còn dính đầy Danh Sắc, tâm luôn bất an, thì đây là phi Phạm hạnh si mê hạng ba.

(01:27:18) Đó thì, chúng ta thấy rõ ràng là Đức Phật xác định ba cái hạng này. Còn cái hạng thứ tư nữa, thuộc về loại si mê đó, chớ không phải là hạng thông minh đâu.

Nhưng mà chúng ta nhìn thấy Phật xác định đều là những - bây giờ chúng ta nhìn thấy đó là hạng thông minh chớ không phải là hạng si mê chút nào hết. Nhưng mà tại vì họ không hiểu cái lý giải thoát cho nên từ đó cái tâm họ bất an, mà Đức Phật cho cái hiểu của họ chỉ là cái hiểu si mê chớ không phải là cái hiểu giải thoát.

4. Đần độn, ngu si…​

Đây, bây giờ tới cái số người mà đần độn, nói ra không có hiểu. Đó là Đức Phật cũng ghép cho họ vào cái loại si mê đó.

Đần độn, ngu si…​

Tức là nói gì họ cũng không hiểu. Hỏi cái này thì đáp cái kia, hỏi cái kia thì đáp cái nọ, họ không hiểu, họ nói tầm bậy tầm bạ không trúng. Phật nói nó trườn uốn như con lươn; họ trườn qua bên đây, lách qua bên kia. Trả lời theo cái kiểu đó, tức là cái hạng người mà không có hiểu đó.

…​ tâm người này thường bất an, đó là hạng người phi Phạm hạnh si mê thứ tư.

Đó thì nó nắm đủ hết bốn cái hạng người này ở trong cái - Đức Phật đã cho cái hạng si mê - thì nó nằm trong cái ý si này - thì nó nằm ở trong những cái điều kiện mà Phật vạch cho chúng ta biết rằng, chúng ta sẽ xét thấy những cái hạng si đó là luôn luôn cái tâm họ bất an, họ không có thấu hiểu.

Như vậy là hiện bây giờ mà quý vị, hoàn toàn là quý vị đang có sự hiểu biết rất thấu suốt kinh sách mà tâm quý vị bất an, đều là quý vị được gọi là si chứ chưa phải là thông minh đâu. Bây giờ quý vị có ai mà xác định mình là người không si không? Chắc chắn là không có rồi đó.

Đó, cho nên vì vậy đó, hôm nay Thầy dạy Thập Thiện mà quý vị xét qua những cái bài kinh của Phật xác định cho chúng ta ở cái điểm si. Chớ nhiều khi chúng ta chưa biết là ai si đâu, chưa biết như thế nào gọi là si đâu. Bây giờ quý vị đã rõ rồi.

12- GIÁO ÁN TU TẬP LÀ KẾT TẬP GIA TÀI ĐỨC PHẬT ĐỂ LẠI

(01:29:18) Bây giờ nó cũng hết giờ rồi, Thầy xin dừng tại đây. Rồi sẽ tiếp tục kỳ tới, chúng ta sẽ học tiếp theo cái phần này, nó rất nhiều, để rồi cái phần mà kết luận cái Thập Thiện.

Như vậy là chúng ta học hai, ba lần rồi mà chưa hết Thập Thiện, thì quý vị thấy, cả cái giáo án mà Thầy trong ba tháng không biết là nó có tròn hết không, nhưng mà Thầy cố gắng cô đọng lại chừng nào tốt chừng nấy.

Nhưng mà Thầy giảng như vậy, Thầy tin rằng quý vị chắc có lẽ là dễ hiểu. Còn cô đọng lại không biết là nó có thể hiểu nổi không? Nhưng mà Thầy ráng như thế nào để cho quý vị hiểu cho nó rõ, mai đi - mới có học được Thập Thiện, mà quý vị đã thấy được, đã nhận rõ được cái cuộc đời này, qua những cái si mê, cái sân hận, những cái pháp để mà tu, để diệt tham, sân, si của mình.

Thì tất cả những cái này, chúng ta đều đi lại con đường đúng của đạo, để mà chúng ta thực hiện từ cái bước đầu, để rồi giáo án này ra đời thì quý vị là những người thực hành ngay từ bây giờ, và tiếp tục kế tiếp sau này khi Thầy ẩn bóng không có mặt, thì quý vị cứ theo đó - mà con đường này là Phật đã dạy - đó là Thầy của quý vị, chớ không phải Thầy.

Thầy chỉ là người có kinh nghiệm tu hành rồi góp nhặt lại những cái lời Phật dạy mà thành lập lại một cái con đường đi có thấp đến cao, có dễ đến khó, để cho quý vị đi được, chớ Thầy không có cái gì ở trong này của Thầy hết, hoàn toàn Thầy không có. Thầy chỉ kết tập lại cho nó đúng cái thấp, cái cao của nó thôi, chớ hoàn toàn không có cái gì mới hết, toàn là của Phật dạy.

Cho nên Thầy không có gì hết, Thầy chỉ có cái công để mà giúp cho quý vị biết con đường đi cho đúng, và từng đó quý vị sẽ đi trên con đường đó, nó sẽ tới đích giải thoát chớ không có gì mà khó khăn hết.

Từ tới Thầy giảng đến thiền định - bốn thiền của Phật, Thầy giảng cũng rất rõ; biết từng cái sai, cái đúng của mình, để quý vị cảnh giác mà quý vị đi trên con đường đó, mà lúc bấy giờ không có Thầy quý vị vẫn đi được trên con đường đó mà không sai.

(01:31:09) Đó thì hôm nay Thầy ra công Thầy cố gắng. Mà Thầy thấy một cái số băng mà hôm nay, cứ hàng ngày mà nó cứ như thế này thì chắc chắn là chúng ta phải tốn một cái số băng cũng rất nhiều. Vì cái Thầy giảng nó khác, mà cái viết ra thành cuốn sách thì nó khác.

Bởi vì giảng Thầy phải lặp đi lặp lại, nhắc đi nhắc lại rất nhiều; như giảng rồi phải cô đọng lại, phải nhắc lại để cho chúng ta nhớ tới nhớ lui. Thì những cái lời mà Thầy dạy mà ghi được trong băng, thì cái điều đó nó sẽ nhắc tới, nhắc lui quý vị. Cái gì mà Thầy nhắc nhiều, cái đó nó làm cho quý vị thấm nhuần, chớ không phải là nó thừa đâu. Nó không thừa đâu.

Cho nên vì vậy mà khi viết ra thành sách thì những cái điều đó chúng ta phải gạch bỏ hết, bởi vì lặp đi lặp lại thì sách nó không thể vậy được, cho nên chúng ta phải viết cái nghĩa đó rồi thì đi tới cái nghĩa khác. Cho nên, cái giáo án này viết ra mà thành sách - in thành sách đó - thì tức là nó không có lặp đi, lặp lại bằng những cái lời nói của Thầy ở trong băng đâu.

Bởi vì Thầy nói trong băng tức là lặp đi, lặp lại làm cho quý thầy thấm nhuần, làm cho quý vị thấm nhuần được cái đạo lý của nó, làm cho nhấn vào cái chỗ nào mà đúng, cái chỗ nào sai để cho quý vị tu tập cái đó nhiều, cái nào ít. Cái nào mà Thầy nhắc đi nhắc lại nhiều tức là cái chỗ đó là quý vị phải tu tập nhiều, còn cái chỗ nào mà Thầy lướt qua thì cái chỗ đó nó không cần thiết lắm, để hiểu mà thôi.

Đó thì quý vị nhớ những cái điều như vậy. Cho nên, cái lời nói của Thầy trong băng rất là quan trọng chớ không phải thừa đâu. Những cái mà Thầy lặp đi lặp lại đó là cái để nhắc nhở cho quý vị tu hành nhiều cái chỗ đó, tập luyện nhiều cái chỗ đó hơn, chớ không nên coi thường những cái chỗ đó.

Đó, như vậy là những cái mà Thầy trao lại, những cái điều mà Thầy nói hôm nay, là khi mà Thầy không còn gặp quý thầy nữa, không còn gặp quý vị nữa thì quý vị còn nghe được cái lời mà nhắc đi, nhắc lại rất nhiều. Đó là một cái lời ông cha đã nói với các con: Phải lo làm ăn như vậy, như vậy thì mới sống được ở trong cõi thế gian này, mới tìm được con đường giải thoát! Đó là quý vị phải nhớ.

(01:33:15) Vì vậy hôm nay, được những cái điều này thì quý vị phải nỗ lực thực hiện. Những gì mà Thầy nói phải làm cho đúng, đừng làm sai. Bởi vì không còn con đường nào mà có thể đạt được cái sự làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi bằng cái con đường mà Thầy vạch ra cho quý vị đi. Nghĩa là, từ trước đến giờ, hằng bao nhiêu năm chưa có thành lập được cái giáo án này.

Mặc dù Thầy đã nói, Hòa thượng Thiện Hoa, ngài viết cái bộ "Phật Học Phổ Thông", đó là cái giáo án đầu tiên của Phật giáo từ thấp đến cao để chúng ta biết rõ ràng, nhưng đây là cái giáo thuyết để chúng ta hiểu Phật giáo chớ không phải là cái giáo trình để chúng ta tu tập.

Còn Thầy viết cái giáo án này là cái giáo trình tu tập. Ngay từ vô cái giáo trình đầu tiên thì một người cư sĩ đến với đạo Phật thì phải thay đổi sáu cái nghề nghiệp liền. Thì các vị thấy rõ ràng: cái hành động chúng ta phải thay đổi tức là chúng ta tu đó, nó bước đầu vào hành động.

Còn cái kia, khi mà vào đó thì Hòa thượng dạy cho chúng ta nghe hiểu biết cái lịch sử của Đức Phật, cho nên nó đâu có biến ra cái hành động của quý vị đâu? Rồi Tam Quy, rồi Ngũ Giới, chỉ nói như vậy thôi chớ còn đâu có biến ra hành động?

Rồi dạy tới Thập Thiện thì quý vị có thấy biến ra hành động được không? Đâu có dạy cho chúng ta áp dụng cái Định Vô Lậu để tu Thập Thiện như thế nào? Cái định mà - dạy Tứ Vô Lượng Tâm để thực hiện Thập Thiện như thế nào? Trau dồi nó như thế nào?

Dạy Tứ Chánh Cần để mà đoạn dứt ác thì Hòa thượng - đến dạy Tứ Chánh Cần thì Hòa thượng nói Tứ Chánh Cần vậy chứ đâu có dạy áp dụng trong Thập Thiện?

Còn Thầy dạy rất rõ để cho quý vị biết áp dụng vào chỗ nào, chỗ nào ở trong mười cái điều lành này.

Vì mười cái điều lành này là con đường cuối cùng giải thoát là tham, sân, si. Vì ý của chúng ta mà diệt được - nó là ba độc - tham, sân, si là ba độc - mà ba độc diệt được thì tức là chúng ta đã sống ở trong Niết Bàn rồi!

Cho nên nói nó Thập Thiện quá tầm thường, nhưng mà xét qua ba cái độc của tham, sân, si này chúng ta thấy nó không tầm thường đâu, nó cả một vấn đề. Bao nhiêu thiền định của Phật nhắm vào chỗ này nè, mà để giải quyết nó nè, để cho nó đi đến con đường giải thoát hoàn toàn.

(01:35:24) Cho nên những cái cuộn băng mà Thầy giảng cho quý vị mà được thu như thế này, nó là một cái gia tài quý báu mà của Phật đã từng để lại, mà từ xưa đến giờ nó là những cái bài kinh rải rác; nó không kết tập được cái thấp, cái cao, cái dễ, cái khó, cho nên quý vị không biết cái đường nào mà quý vị vào.

Còn hôm nay Thầy đã chỉ cho quý vị biết cái đường vào, biết cách thức tu tập. Như nãy giờ quý vị đã nghe rõ rồi, chắc chắn là quý vị sẽ biết được cái đường lối mà quý vị sẽ tập gì trước, tập gì sau.

Đây là mới có giai đoạn một thôi, còn giai đoạn hai, rồi giai đoạn ba, rồi giai đoạn bốn, lần lượt Thầy sẽ - tất cả những cái giai đoạn tu tập đều được Thầy bố trí, bố cục một cách chặt chẽ. Vừa hiểu mà vừa tu, vừa học vừa tu. Nó có cái thực hành, nó có sự trau dồi, nó có cái sự dứt bỏ ở trong đó rất rõ ràng.

Mà Phật đã dạy trong những bài kinh, Thầy thấy quá tuyệt vời. Không có một cái tôn giáo nào mà nó thực tế và cụ thể như là giáo lý của đạo Phật: Dạy chúng ta thực hiện từ thân tâm của chúng ta chớ không phải dạy chúng ta mênh mông ở ngoài; không phải dạy chúng ta mê tín, cầu khẩn, cúng bái mà dạy chúng ta thực hiện ngay cái đau khổ trong thân tâm của chúng ta.

Cho nên ở đây, trên con đường tu tập, Thầy thấy quý vị là những người có phước nhất ở trong cái cuộc đời này; được nghe những cái này mà do từ cái kinh nghiệm tu hành của Thầy nói ra; mà không sai một mảy của Đức Phật ngày xưa đã dạy các đệ tử của mình.

Cho nên chúng ta không bao giờ chúng ta lầm lạc nữa. Chúng ta có một cái bản đồ, chúng ta có một cái lối đi, có một cái con đường tu tập thật sự, rõ ràng bằng hành động chúng ta để chúng ta làm chủ được cái sống chết, và chúng ta sẽ chấm dứt được sự tái sanh luân hồi của mình cụ thể, rõ ràng; không còn mơ hồ nữa, không còn lạc lầm nữa.

Thầy xác định điều đó là điều thực! Đạo Phật thực rất thực, không có dối ai hết, không có gạt người, không nói như vậy mà không làm được. Làm được nhưng mà phải tu tập cho đúng cách, chớ tu tập không đúng cách thì không đạt được.

Thôi đến đây Thầy xin chấm dứt./.

hết băng