Skip directly to content

BĂNG SỐ 59

Xin quý thầy chấp tay lên niệm hồng danh Đức Bổn Sư để tưởng nhớ công ơn của Người.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần).

Quý thầy đã niệm Phật xong, quýthầy tiếp tục bài học hôm qua. Hôm qua thầy đã giảng đến câu: Sau 3 tháng hạ Thầy hết sức cố gắng để hoàn thành Giáo án tu tập của đạo Phật nhưng sức người có hạn, thời gian quá ngắn mà giáo án của Phật thì quá dài. Vì thế Thầy mới giảng được 2 phần, còn lại phần thứ 3 thì mới bắt đầu vào giới hành. Bài Tứ bất hoại tịnh ở 4 chỗ niệm Phật: Thân, Thọ, Tâm và Pháp. Để tiếp tục chương trình giáo án này cho hoàn thành. Ở giai đoạn cuối cùng này rất là quan trọng trong bước đường hành trì tiến đến mục tiêu cứu kính giải thoát của Đạo Phật đó là Giới hành. Bây giờ chúng ta tiến tới hành trì, lấy thân niệm Pháp. Vậy “Thân niệm Pháp” là gì?

Thân là thân của chúng ta, Pháp là những lời Phật dạy, là phương pháp để trao dồi tu tập khiến cho thân tâm của chúng ta được an tịnh, thanh thoát. Thầy xin kê ra những bài Pháp mà Đức Phật đã dạy trong 49 năm thuyết pháp độ chúng sanh:

1. Năm giới.

2. Mười giới(Sadi).

3. Mười điều lành.

4.Tứ vô lượng tâm.

5.Tứ chánh cần.

6. Tứ bất hoại tịnh.

7.Tứ niệm xứ.

8.Tứ thiền.

9.Tứ diệu đế.

10.Tứ như ý túc.

11. Thất giác chi.

12. Tam minh.

Đây là những pháp cần phải tu tập, traudồi. Còn đây là những pháp mà chúng ta cần phải hiểu biết và cũng có lúc cần phải vứt bỏ:

1.Năm uẩn.

2. Năm triền cái.

3. Năm hạ phần kiết sử.

4. Năm thượng phần kiết sử.

5.Năm căn.

6.Năm lực.

7.Sáu nội xứ.

8.Sáu ngoạixứ.

9.Sáu thức.

10.Sáu xúc.

11.Sáu thọ.

12.Sáu tưởng.

13.Sáu ái.

14.Sáu hòa kính pháp.

15.Bảy định cụ.

16.Bảy tùy miên.

17.Bảy kiết sử.

18.Mười mộ truyền nhân pháp.

19.Mười bất thiện nghiệp đạo.

20.Mười thánh cư.

21.Mười pháp vô học.

22.Chín thứ đề diệt.

Đây là những cái pháp cần phải thông hiểu, vứt bỏ và còn phải tu tập rèn luyện thân tâm hằng ngày. Pháp của Đức Phật dạy rất nhiều không phải chỉ có Ba mươi bảy phẩm trợ đạo như người ta đã kê ravàghi chép lại trong những bài Kinh của Phật, điều đó còn thiếu sót rất nhiều, chớ không phải đầy đủ.Nhưng dù sao chúng ta cũng lần lượt sẽ học hết những lời của Phật dạy để biết pháp nào thông hiểu, pháp nào vứt bỏ, pháp nào trau dồi và pháp nào tu tập. Rồi đây lần lượt Thầy sẽ giảng hết các pháp mà Đức Phật đã dạy trong kinh Nguyên Thủy. Hiện giờ Thầy đã kê ra một số tượng trưng để lấy đó làm đối tượng cho thân ta tu tập. Nhưng trước khi học Thân niệm pháp thì quý thầy cần phải nhớ quý thầy có học bao nhiêu pháp của Phật mà không sống đúng ba hạnh, ba đức thì dù cho quý thầy có tu đến đâu cũng chẳng có ích lợi gì cho chính bản thân của quý thầy và cho những người khác. Nhất là về Hạnh độc cư, trong giáo án những phần trước Thầy đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần về cái hạnh độc cư nhưng quý thầy tật nào vẫn tật nấy, vui thích và thích nói chuyện với nhau. Do thế mà Thầy thấy rằng con đường của đạo Phật đối với sự độc cư rất là khó khăn khi một người chưa quyết tâm tu giải thoát. Vì thế tiến tới tu tập giới hành thì quý thầy phải sống độc cư đúng một trăm phần trăm. Hạnh độc cư rất là quan trọng cho con đường tu tập theo đạo Phật, đức Phật đã hiểu rõ hạnh độc cư - bí quyết thành công, con đường giải thoát của đạo. Nên Ngài có để lại cho chúng ta 42 bài kệ để nhắc nhở người sau tu hành, phải thực hành hạnh độc cư cho rốt ráo thì mới mong đạt được mục đích, phạm hạnh cao quý của đạo mà Ngài đã khổ công tu tập để đem lại sự lợi ích cho chúng sanh sau này chấm dứt được sự sanh tử luân hồi.

Hiện nay cô Út đã sắp xếp cho các con mỗi người một vị trí an ổn yên tịnh để sống độc cư cho được trọn vẹn, thực hiện nội tâm lắng lặng, càng lúc càng đi sâu vào thiền định mới được. Nếu không có giữ độc cư thì làm sao mà tu tập đi sâu vào thiền định. Vậy các con phải lắng tai nghe 42 bài kệ nhắc nhở của Đức Phật, sống hạnh độc cư giống như con tê giác một sừng. Bốn mươi hai bài kệ này trong Kinh tập trang 7 tựa đề “Bài kinh con tê ngưu một sừng”. Bây giờ Thầy đọc kệ và giảng giải cho các con rõ.

Bài thứ nhất:

Đối với chúng hữu tình

Từ bỏ gậy và trượng

Chớ làm hại chúng sanh

Trong chúng hữu tình ấy

Đừng thương nhớ vật gì

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng

Đây cái câu thứ nhất, đối với loài chúng sanh, cái loài hữu tình có sự sống chết, sự đói khát, có tâm sân hận, dữ tợn, giết hại lẫn nhau để tìm cái sống. Thì tất cả đối với loại hữu tình này đối với chúng nó thì chúng ta không có nên dùng gậy, dùng dao dùng mác, dùng những đồ vật để làm hại chúng, dù chúng hung dữ như rắn độc, như bò cạp, như rít, như những loài vật dữ tợn trong rừng cọp, beo. Chúng ta cũng không nên làm hại chúng.

Đối với tất cả những lời hữu tình ấy chúng ta không nên nuôi dưỡng chúng, vì tại sao, vì gây cho chúng ta có những cái tình thương làm cho chúng ta mất độc cư. Khi chúng ta nuôi một con mèo, một con chó, một con vật gì đó, một con gà, hoặc là một con chim hoặc là một con cá. Tất cả những cái loài vật à chúng ta được nuôi nó đều gây cho chúng ta một cái cảm tình, từ đó chúng ta không còn sống độc cư nữa. Vì độc cư chúng ta thấy mình sống một mình. Nhưng có nuôi một con chim làm chúng ta vui theo con chim đó mà mất độc cư. Vì vậy trong cái bài kệ này Phật dạy: “Trong chúng hữu tình ấy. Đừng thương nhớ vật gì” . Nghĩa là chúng ta không có nên thương nhớ con vật gì cả, cũng đừng nuôi dưỡng chúng. Vì nuôi dưỡng nó gây cái tình cảm của chúng ta đối với chúng mà chúng ta khó mà thực hiện con đường độc cư, hạnh độc cư được. Vì vậy mà Phật khuyên chúng ta hãy sống riêng một mình đừng có con vật này con vật khác mà nuôi trong thất của mình. Đừng có cho con mèo, con chó, con vật gì mà nó quấn quýt theo mình rồi nó làm cho mình mất cái hạnh độc cư.

Phật bảo chúng ta hãy giống như một con tê ngưu một sừng. Con tê ngưu đây là một con trâu, một con trâu nước, nó có một cái sừng nhỏ trên cái mũi của nó, khi nó lớn lên nó có một cái sừng rồi thì nó đi sống riêng lẻ một mình nó, nó không có sống chung trong bầy của nó nữa. Nghĩa là ai, con vật gì mà đến xâm chiếm nó thì nó tự vùng vẫy và chiến đấu chứ không cần đến cái đoàn của nó. Cho nên nó thường sống một mình, thường vui một mình, thường ở một mình chẳng hề biết sợ ai, chẳng hề biết lo toan, chẳng hề biết nghĩ ngợi một cái điều gì, chẳng hề biết buồn vui một cái gì nữa. Vì vậy mà Phật ví một người tu sĩ như chúng ta phải sống như con tê ngưu một sừng. Đó là bài thứ nhất.

Tóm lại bài này đức Phật nói chúng ta đừng giết hại chúng sanh nhưng cũng đừng thương xót chúng sanh. Vì thương xót làm chúng ta mất độc cư và giết hại là làm ác làm chúng ta có những hậu quả khó khăn trên bước đường tu tập khi chúng ta sống một mình. Vì vậy bài kệ thứ nhất này, đối với loài hữu tình, đối với tất cả chúng sanh chúng ta chỉ nên xa lìa chúng mà không nên ở gần chúng. Hoặc thương hoặc ghét điều đó cũng làm chúng ta khổ đau cho nên chúng ta phải cố gắng giữ trọn hạnh độc cư, xa lìa tất cả mọi chúng sanh.

Bài kệ thứ hai:

Con trai còn không nhớ

Nói gì nhớ bạn bè

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Ở đây đức Phật dạy chúng ta con của chúng ta, tức là đức Phật ví như mình có một đứa con trai một mà mình còn không nhớ huống hồ mình nhớ đến bạn bè thân hữu, hoặc bà con, hoặc người này người kia, hoặc là cha mẹ mình nữa. Cho nên đức Phật dạy khi mà tâm khởi nghĩ nhớ thương thì đó là mình chưa có sống độc cư được. Muốn cho sống độc cư được thì chúng ta đừng có nghĩ nhớ đến cái người mà chúng ta yêu nhất đó là đứa con trai độc nhất của mình. Cũng như chúng ta chưa có con, chưa có cái thì cái người mà thương nhất của chúng ta đó là cha mẹ mình. Vì vậy những mà người thương nhất mà chúng ta còn không nhớ huống hồ là chúng ta nhớ bà con thân thuộc, hoặc là nhớ người này người kia hoặc là bạn bè của chúng ta. Chắc chắn là chúng ta không bao giờ nhớ, vì không bao giờ nhớ tức là sống độc cư. Còn nhớ còn thương, còn tưởng còn nghĩ đến con cái, vợ con thì đó là chúng ta chưa sống độc cư. Cho nên ở đây Đức Phật đem bốn câu kệ này mà ngồi lại một mình mà nhớ người này nhớ người kia tức là chưa sống độc cư.

Cho nên Phật dạy chúng ta hãy sống riêng một mình, nên sống không có nhớ nghĩ đến người này người khác, thương nhớ người này người kia thì như vậy mới là sống một mình. Còn sống một mình mà nhớ người này người nọ người kia thì đó là chưa sống một mình. Vì vậy Phật khuyên chúng ta “Hãy sống riêng một mình. Như tê ngưu một sừng”. Đấy, thì đầu tiên đức Phật dạy chúng ta xa lánh những cái loài vật, loài hữu tình để cho chúng ta được độc cư, được sống riêng một mình. Kế đến chúng ta xa cái tâm tư nhớ thương của chúng ta đối với những người thân. Người thân nhất chúng ta cũng phải xa lìa để chúng ta giữ trọn được hạnh độc cư. Nếu chúng ta khép mình trong cái cuộc sống một mình nhưng tâm hồn chúng ta thả hồn đi phiêu du, nhớ tưởng cái này nhớ tưởng cái khác thì đó là không có sống hạnh độc cư. Như vậy không sống riêng một mình được thì làm sao sống giống như con tê ngưu một sừng được. Cho nên ở đây chúng ta phải nhớ kỹ là chúng ta khi có một tâm tư khởi lên nhớ nghĩ thương những người thân của mình thì hãy mau mau dùng pháp hướng quét sạnh ra để cho chúng ta thực hiện được hạnh độc cư. Chứ không phải ngồi nhớ nghĩ tưởng. Mà chỉ riêng một mình ngồi nên nhớ nghĩ tưởng thương thì tức là mình cũng mất hạnh độc cư rồi, tuy rằng mình đã sống một mình. Đó là bài kệ thứ hai.

Đến bài kệ thứ ba:

Do thân cận giao thiệp

Thân ái từ ấy sanh

Tùy thân theo thân ái

Khổ này mới nảy sanh

Nhìn thấy những nguy hại

Do thân ái sanh khởi

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Đến đây đức Phật nhắc chúng ta cái bài kệ thứ ba. Do có thân cận và giao thiệp người này người kia, bạn bè nói chuyện này chuyện kia như quý thầy mà nói chuyện hoặc các con mà nói chuyện qua lại thế này thế kia thì cái thân ái nó từ đó mới sanh khởi. Tức là cái lòng thương lòng ghét bắt đầu từ đó nó sanh khởi. Và nó sanh khởi như vậy thì chúng ta không có sống độc cư được. Cũng từ đó cái lòng thương lòng ghét của chúng ta phát khởi lên do vì cái sự thân cận, giao thiệp mà đưa đi đến cái chỗ lòng thương lòng ghét, rồi tâm hờn tâm giận thù oán do đó mà sanh khởi. Nó làm cho chúng ta giữ cái hạnh độc cư không có được. Từ cái chỗ do sự thân cận, giao thiệp đó mà tạo chúng ta biết bao nhiêu sự khổ. Rồi chúng ta tu hành cũng không đạt được những cái kết quả vì giữ không được đúng cái hạnh độc cư. Cho nên khiến cho chúng ta càng tu lại càng xa đọa mà không bao giờ đạt được kết quả giải thoát của thiền định.

Tùy thân theo thân ái,tùy theo cái thân của chúng ta mà thân cận với mọi người nữa thì cái thân ái của chúng ta nó phát khởi, nó làm chúng ta thương người này ghét người kia hay giận người nọ như câu trên “Do thân cận giao thiệp”. Từ đó mà cái lòng thương lòng ghét của chúng ta phát sanh. Vì vậy mà cái hạnh độc cư nó làm cho chúng ta cắt đứt được cái sự thân cận giao thiệp.

Chúng ta thường thường là muốn hay giao du với bạn bè, thân thuộc, người này người nọ người kia, giao thiệp rộng. Người tu hành mà giao thiệp rộng đó là một cái tai hại rất lớn cho cái sự tu tập của chúng ta. Vì thế mà đức Phật dạy chúng ta độc cư, sống một mình, sống riêng rẻ; không có giao thiệp với người nào, không có làm quen với người nào thì chúng ta mới dễ dàng tu hành. Vì có làm quen, có thân cận, có giao thiệp rộng rãi thì cái tình thân ái của chúng ta nó mới phát khởi cái lòng thương ghét cái lòng giận hờn. Nó mới do cái lòng thân cận giao thiệp đó mà nó phát khởi ra. Vì thế cuộc đời chúng ta càng tu mà cái tiến bộ thì không tiến bộ mà càng lui dần lui dần đi về cái phía cái cuộc đời của người thế gian, không phải đi về cái phía của người xuất thế gian, ra khỏi cái nhà thế gian để đi tìm con đường giải thoát. Do đó mà câu kệ thứ tư Phật nói “Khổ này mới nảy sanh”. Từ cái chỗ thân cận giao thiệp đó thì cái tình thương ghét giận hờn nó mới nỗi lên khổ. Giận hờn thương ghét thì nó cũng khổ, thương cũng khổ, cho nên khổ này mới do chỗ này mà nảy sanh ra. Người mà có trí người ta thấy cái đó người ta biết cái đó là nguy hiểm cho nên câu kệ thứ năm thì Phật dạy “Nhìn thấy những nguy hại”. Những cái điều mà thân cận giao thiệp này nó đem đến những cái sự nguy hại, làm cho con đường tu tập của chúng ta không tiến bộ và càng ngày càng thối chuyển.

“Do thân ái sanh khởi”,vì cái sự thân ái mà nó khởi lên những cái thương ghét làm cho chúng ta có những cái nguy hại trên bước đường tu tập. Làm chúng ta khó khăn trên bước đường tu tập. Nhưng vì cái bản chất của con người là sợ cô đơn, sợ một mình, thích vui. Vui thế gian, vui theo kiểu mà nói chuyện này chuyện kia. Cho nên các con thấy trong cái sự tu tập vừa qua trong ba tháng hạ. Các con từ xa xôi đến đây, đường cả ngàn vạn dặm chứ không phải ít, từ miền Bắc vào miền Nam lận mà. Thế mà các con tránh không khỏi được cái sự nói chuyện, giao thiệp với nhau. Đến đây thì ngay từ cái lúc đầu Thầy đã nhắc nhở độc cư, cái giới hạnh, giới nòng cốt của tu viện là độc cư. Thế mà các con giữ được có mấy bữa đầu hà. Sau đó thì hoàn toàn cho đến cuối hạ thì càng lại bung ra nói chuyện này chuyện nọ chuyện kia. Đủ thứ hiềm khích, giận hờn, phiền não, đủ loại hết. Các con thấy chưa, cái bài kệ của đức Phật đã xác định cho rõ ràng để biết được cái sự tu đúng tu sai của chúng ta. Qua cái hạnh sống mà xác định được. Vì vậy mà các con đã thấy rõ là chúng ta đã có nỗi khổ, nỗi khổ đó làm cản trở con đường tu tập của chúng ta tức là sự thân cận giao thiệp rộng rãi, bạn bè nhiều, giao thiệp rộng người này người kia, phật tử đông là càng tu tập càng khó. Cho nên lời khuyên cuối cùng của Phật thì các thầy như các con đã thấy rõ “Hãy sống riêng một mình. Như tê ngưu một sừng”. Nghĩa là thấy sự nguy hại, thấy cái sự nguy hiểm như vậy thì chúng ta cố gắng mà tập sống riêng một mình. Đừng có làm thân, làm tình làm tứ, đừng có giao thiệp nói chuyện này chuyện kia chuyện nọ. Đến đây Thầy rất là cấm cản quý thầy điều này rất nhiều.

Bây giờ quý thầy đã thấy ông Phật đã hiểu biết sự nguy hiểm, sự nguy hại cho con đường tu tập cho nên đặt ra 42  bài kệ khuyên chúng ta cố gắng sống độc cư. Có sống độc cư được thì chúng ta mới thành tựu được đạo giải thoát, không phải dễ. Đạo giải thoát không thể dành riêng cho những người ham giao thiệp thân cận người này người kia, vui sướng ở trong thế gian được. Đạo giải thoát của đạo Phật dành riêng cho những bậc sống một mình, độc bộ độc hành trên con đường này thì mới mong có ngày giải thoát, mới mong có ngày ra khỏi con đường sanh tử chấm dứt luân hồi. Còn nếu mà chúng ta ham vui thế gian thì tốt hơn chúng ta đừng có xuất gia, chúng ta đừng có đi theo con đường của đạo Phật mà hãy đi vào con đường của các tôn giáo khác vì nó có sự vui, sự sung sướng. Còn ở con đường của đạo Phật thì phải sống một mình, phải sống cô đơn, phải sống độc cư, phải vui sướng ở trong thầm lặng, ở trong độc cư, phải vui sướng ở trong cái hạnh thầm lặng một mình.

Đó thì quý thầy thấy cái bài kệ thứ ba mà đức Phật xác định là do sự thân cận giao thiệp rộng rãi mà cản trở con đường tu, mà đem đến sự đau khổ cho chúng ta muôn ngàn thứ đau khổ do sự thân cận giao thiệp này.

Câu kệ thứ hai thì đức Phật nói rằng chúng ta sống độc cư như con tê giác, sống riêng một mình mà còn ngồi nhớ nghĩ thương yêu gia đình, bạn bè thân thuộc thế này thế khác, cha mẹ thì cũng không phải sống độc cư.

Rồi thì câu kệ thứ nhất đức Phật dạy chúng ta đối với tất cả các loài hữu tình, tất cả các con vật không nên thương mà cũng không nên ghét, mà cũng không nên làm hại chúng, mà cũng không nên ôm ấp thương yêu chúng. Vì sống gần chúng cũng làm cho chúng ta không còn độc cư vì phải bận tâm, chia sẻ tâm ra để lo lắng cho chúng bằng cách này bằng cách khác. Hoặc là làm cho chúng ta tức giận, sân hận vì chúng mà phải dùng những cái gậy gộc, hoặc giết hại chúng, hoặc là thế này thế khác. Cho nên câu kệ thứ nhất thì đối với chúng sanh, đối với loài vật thì chúng ta không nên gần gũi, không nên thương mà cũng không nên ghét, cũng không nên hại chúng. Đấy chúng ta sống trọn được hạnh độc cư. Nếu chúng ta sống độc cư mà trong thất chúng ta có nuôi một con vật thì chúng ta chưa hẳn là độc cư, dù là con vật gì chúng ta chưa hẳn là độc cư.

Bây giờ đến bài kệ thứ tư, thầy xin đọc hết bài kệ thứ tư:

Do lòng từ thương mến

Đối với bạn bè thân hữu

Chuyện tu hành bỏ quên

Tâm tư bị ràng buộc

Do thấy sợ hãi này

Trong giao du mật thiết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bây giờ Thầy giải thích cái bài kệ này để cho quý thầy và các con hiểu cho rõ ràng.

Bài thứ tư này Phật muốn nói “Do lòng từ thương mến”, do cái lòng mà chúng ta thương mến người này, thương mến người kia, thương mến người nọ. Đối với bạn bè thân hữu của mình, do cái lòng thương mến đó mà nó tạo cho chúng ta trên cái bước đường độc cư không có dễ dàng, tạo cho chúng ta trên bước đường tu tập để hợp nhất tâm, để nhằm vào cái mục đích trợ thành một cái lực lượng của nội tâm để dứt bỏ tham sân si mạn nghi, tất cả những Ngũ triền cái hoặc Thất kiết sử đang trói buộc chúng ta. Mà chúng ta bị những cái lòng thương lòng ghét đối với bạn bè thân hữu nó làm tâm chúng ta bị chi phối, chia chẻ ra. Do như vậy dù chúng ta sống trong cái thất một mình nhưng tâm hồn chúng ta vẫn bị chia sẽ ra cho mọi người. Đó thì coi như chúng ta không có sống một mình.

Do đó những thời giờ mà để chúng ta ngồi thanh thản giữ tâm trong sáng thì trái lại chúng ta lại quên đi, bỏ quên đi cái chuyện tu tập đó đi. Hoặc là chúng ta tu tập tâm từ, ban rải cho chúng sanh trên bước đường đi kinh hành hoặc là trong những hành động làm của chúng ta hằng ngày nơi thân của chúng ta tránh khỏi sự va chạm làm cho chúng sanh đau khổ. Do lòng từ của chúng ta, phải tỉnh thức ở trong những cái tỉnh thức. Trong hành động của chúng ta hằng ngày thì chúng ta vì cái lòng từ thương mến bạn bè thân hữu thì chúng ta lại quên đi, lại quên đi cái sự tu tập của chúng ta. Bởi vì đạo Phật tu nhiều lắm, nhiều cái thứ định để mà tu chứ không phải có một thứ định mà tới giờ ngồi thiền nhập định đơn thuần như người ta nghĩ. Mà ở đây Phật phải tu nhiều cách, nhiều thức để chúng ta từ cái tỉnh thức, từ cái tâm thanh thản, từ cái Định hiện tại an lạc trú, từ cái Định niệm hơi thở, từ cái Định vô lậu, từ cái hạnh thiểu dục tri túc, từ cái phòng hộ sáu căn. Tất cả mọi mọi chúng ta đều tu tập liên tục không có dám kẻ hở nào hết. Bước ra một bước đi, hoặc là nói một lời nói một hành động đều là chúng ta phải tỉnh thức, phải cẩn thận, phải cảnh giác rất lớn đối với cái hành động thân khẩu ý của chúng ta. Do như vậy mà chúng ta đâu còn cái thời gian nào mà ngồi đó mà nhớ mà thương bạn bè thân hữu hoặc là thế này thế khác.

Cho nên nếu mà chúng ta còn cái lòng nghĩ đến cái này cái kia, lo lắng chuyện đói chuyện này kia nọ thì tức là chuyện tu hành chúng ta bỏ quên. Cho nên câu ba của bài kệ thứ tư này thì đức Phật đã nói “Chuyện tu hành bỏ quên”. Nghĩa là chúng ta còn một cái tâm nào mà cái lòng thương yêu thương mến đối với bạn bè thân hữu, nhớ lại người này người nọ người kia thì cái chuyện tu hành chúng ta đã bỏ quên rồi. Và cũng vì cái lòng thương yêu đối với bạn bè thân hữu, đối với cha mẹ anh em, đối với vợ con tất cả mọi cái thì lúc bấy giờ tâm tư ta bị ràng buộc. Cho nên câu kệ thứ tư thì Phật nói “Tâm tư bị ràng buộc”, bị trói buộc, bị siết chặt. Cho nên trong cái kiết sử thì Ái kiết sử nó ràng buộc, nó trói buộc cái tâm của quý vị rất khó mà bứt ra được. Nếu mà người mà không thấy nó, không sợ hãi nó thì con đường tu tập giữ cái hạnh độc cư không bao giờ được. Cho nên thấy nó sợ hãi, thấy được cái sự ràng buộc, sự trói buộc, cái sự tu tập không có tiến bộ thì quý thầy và cái con phải sợ hãi trong cái vấn đề giao du mật thiết. Giao du mật thiết với bạn bè, với người này người kia người nọ, rồi làm quen, rồi giao thiệp rộng rãi thì phải sợ hãi cái hành động đó; hành động đó sẽ đưa đến chúng ta tu tập rất khó. Cho nên chúng ta không giao du, không có giao thiệp với người này người kia, không có giao thiệp rộng rãi với ai. Chúng ta cắt đứt, muốn đi tu con đường giải thoát này chúng ta đoạn dứt, không có tình cảm với một cái người nào nữa hết. Có như vậy thì chúng ta mới thấy được sự tu tập của chúng ta mới có ngày mới có tiến bộ được. Còn nếu không làm sao mà chúng ta có thể giải thoát được. Hằng ngày cứ giao du cứ bạn bè, lý luận cái này luận cái kia, chuyện này chuyện nọ chuyện khác, nói chuyện đủ thứ. Thì thử hỏi làm sao tu hành đến nơi đến chốn được. Cho nên người tu hành phải sợ hãi những cái việc mà giao du mật thiết thì mới có thể sống một mình mới được. Cho nên Phật khuyên “Hãy sống riêng một mình. Như tê ngưu một sừng”.

Đó, thì cái bài kệ này nó có một cái ý nghĩa rất là sâu sắc để mà chúng ta giữ gìn cho trọn vẹn cái hạnh độc cư mà không bị sự ràng buộc của bạn bè, thân hữu, của sự giao thiệp rộng rãi. Cho nên bài kệ ba và bài kệ bốn này để chỉ cho chúng ta biết rằng sự giao thiệp rộng rãi, sự giao du mật thiết với nhau là tai hại cho cái con đường tu tập theo đạo Phật. Cho nên thấy những sự giao du mật thiết, những sự giao thiệp rộng rãi thì chúng ta sợ lắm. Người tu mà biết thì chúng ta sợ hãi lắm, đó là một con đường đưa đi đến cái sự sa đọa, cái chỗ khổ đau, cái chỗ ràng buộc, cái chỗ trói buộc, nó không bao giờ giải thoát đâu. Cho nên ở đây cái bài kệ bốn chúng ta phải thấy được cái sự sâu sắc mà đức Phật đã dạy chúng ta. Cái mục đích mà chúng ta phải đạt được mà chúng ta không giữ gìn được cái hạnh độc cư này thì khó mà chúng ta có thể đạt được cái mục đích cao siêu của đạo Phật được. Bây giờ Thầy đọc lại bài kệ thứ tư để cho quý thầy và các con suy ngẫm mà cố gắng giữ gìn hạnh độc cư:

Do lòng từ thương mến

Đối với bạn bè thân hữu

Chuyện tu hành bỏ quên

Tâm tư bị ràng buộc

Do thấy sợ hãi này

Trong giao du mật thiết

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

 

Bây giờ đến Bài kệ thứ năm:

Ai nhớ nghĩ chờ mong

Đối với con và vợ

Người ấy bị buộc ràng

Như cành tre rậm rạp

Còn các ngọn tre cao

Nào có gì buộc ràng

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bài kệ thứ năm thì Phật nhắc nhở:

Ai nhớ nghĩ chờ mong

Đối với con và vợ

Người ấy bị buộc ràng.

Ba câu kệ đầu nếu mà chúng ta vào đây mà chúng ta ngồi tu hành hoặc một nơi nào đó để quyết tâm đi theo con đường giải thoát của đạo Phật mà còn nhớ còn mong đến con, đến vợ thì đương nhiên cái người tu sĩ ấy đã bị buộc ràng, đã sống không có độc cư được rồi. Phật ví dụ “Như cành tre rậm rạp”, như những cành tre ở dưới gốc tre nó rậm rạp, nó bị bao nhiêu sự trói buộc, nó không có thảnh thơi. Nó không có giải thoát được, nó bị trói buộc bởi những cành tre khác, bởi những cây tre khác. Còn các ngọn tre cao, những cây tre mà vọt lên, cao vút lên trên thì nó không có bị cái sự ràng ở dưới những gốc cây.

Thì như vậy đức Phật ví dụ mình mà muốn vượt thoát ra khỏi cái tình đời, cái con đường của thế gian nó đang bị những kiết sử ràng buộc rất là chập chùng, rất là chặt chẽ. Cho nên chúng ta muốn vượt thoát ra cũng như những ngọn tre nó cao hơn những ngọn tre khác thì nó không còn bị ràng buộc.

Đó thì như vậy nó vượt lên trên cao hết thì tức là nó sống riêng một mình như con tê ngưu một sừng. Thì quý thầy thấy rõ khi mà chúng ta là mọi người đang sống ở trên thế gian này mà chúng ta sống độc cư được là như ngọn tre mà cao vút lên vượt ra khỏi cái bụi tre, cái gốc tre cho nên chúng ta không còn bị buộc ràng bởi những cái gai, cái cành tre nhỏ, những cái váng nhện của cái lại tre nó bao bọc cái gốc tre. Chúng ta vọt lên trên, chúng ta cao vút lên hết. Thì cái người mà sống độc cư là cái người vọt lên, cao vút lên. Còn cái người mà sống không được độc cư, sống không riêng một mình, người đó đang bị trói buộc, ràng buộc không có vượt thoát được.

Đó thì ở cái bài kệ thứ năm này đức Phật thí dụ cho chúng ta thấy rằng một con người muốn sống độc cư là con người vượt lên trên chứ không phải là con người trốn đời, con người tránh cái sự đời mà con người vượt lên, vượt lên những cái sự trói buộc, cái sự mà vui thích của thế gian, cái sự mà vui giả tạo của thế gian, vui đó rồi khổ đó. Cho nên khi mà nhớ mong con với vợ thì tức là bị ràng buộc, bị ràng buộc thì tức là bị nó trói buộc. Chúng ta phải nhìn con và vợ là một cái nhân quả để mà chúng ta vay nợ ở tiền kiếp mà bây giờ chúng ta phải trả. Mà chúng ta đã vượt lên trên cho khỏi lên tức là chúng ta đã thoát ra sự ràng buộc đó. Còn nếu mà chúng ta không có vượt thoát ra thì chúng ta sẽ bị vợ và con trói buộc rất chặt không thể nào mà thoát ra. Mặc dù thân chúng ta thoát nhưng tâm hồn chúng ta vẫn bị nó trói buộc thì như vậy chúng ta cũng chưa hẳn đã độc cư. Hiện giờ thân chúng ta ngồi trong thất không nói chuyện với ai nhưng tâm hồn chúng ta nghĩ nhớ chờ mong, thương con nhớ vợ. Thì cái điều đó là cái thân không bị trói buộc nhưng cái tâm vẫn bị những cái kiết sử đó trói buộc chúng ta, cái ái kiết sử đó trói buộc chúng ta rất chặt. Vì vậy mà chúng ta sống chưa riêng một mình đâu, chúng ta chưa vượt ra khỏi đâu. Mà muốn vượt ra khỏi thì chúng ta phải hiểu biết nó là một cái sự nguy hại nguy hiểm cho con đường tu tập của chúng ta, nên cắt đứt, nên bỏ. Không còn có cái sự trói buộc gì chúng ta nữa. Vì vậy mà chúng ta phải sống một mình như con tê ngưu một sừng. Sống riêng rẻ, không sống chung ở trong bầy tê ngưu nữa. Sống một mình tự tại, tự do, giải thoát đó là độc cư.

Bây giờ tới cái Bài kệ thứ sáu:

Như nai trong rừng núi

Không gì bị trói buộc

Muốn đi đâu nó đi

Để tìm kiếm thức ăn

Như các bậc hiền trí

Muốn tự do giải thoát

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bây giờ Thầy giải thích cái bài kệ này. Đây cái bài kệ này thì Phật ví như một con nai ở trong cái rừng núi. Nó sống có một mình nó cho nên nó không có bị ai trói buộc. Nó muốn đi đâu thì nó đi, nó muốn đi kiếm thức ăn thì nó cũng tự tại ở trong cái sự đi kiếm thức ăn, muốn đi Đông đi Tây đi Nam đi Bắc. Phật ví một người mà sống độc cư thì giống như một cái con nai. Nhưng chúng ta phải sống một mình, chứ không phải con nai mà đi tìm bạn tìm bè. Mà đây là con nai đi tìm cái sự giải thoát cho nên nó sống riêng một mình. Đi ăn cũng một mình, đi đâu cũng một mình không có cái gì mà trói buộc ràng rịt nó hết cho nên nó sống riêng một mình nó. Thì đức Phật ví con nai mà sống được như vậy thì các nhà hiền trí, các người tu hành mà theo đạo Phật cũng vậy. Muốn mà tu cho được sự giải thoát, làm chủ sanh tử, chấm dứt sự luân hồi thì cũng phải sống một mình, cũng sống riêng một mình, cũng không còn bị dính dấp một cái tình cảm thương ghét giận hờn ai nữa hết. Không còn bị những cái đối tượng làm cho mình phải lo, phải thương, phải ghét phải giận phải hờn. Cho nên vì vậy đó mà đức Phật muốn khuyên mình phải sống độc cư, sống riêng một mình mới có được yên ổn mà tu tập con đường theo đạo giải thoát.

Nếu mà mình không có sống riêng một mình được thì khó mà tu tập theo con đường của đạo Phật được. Vì chính cái mục đích của nó là tâm bất động. Mà hiện giờ tâm mình còn đang động mà mình sống chung trong mọi người, người nói vầy kẻ nói khác, người nói thuận kẻ nói nghịch làm cho tâm của mình luôn luôn bất an, làm sao mà mình được yên ổn mà mình nhiếp tâm hằng khắc phục cái tâm mình để cho mình xa lìa những cái tham muốn, những cái vui của thế gian, những cái dục lạc của thế gian, những cái cám dỗ của thế gian. Rồi những cái giận hờn phiền não đau khổ của thế gian làm cho chúng ta rối ren ở trong cái đầu óc, làm cho cái đời sống của chúng ta rất là bất toại nguyện.

Như vậy chúng ta mà muốn đạt được cái sức bất động tâm, đạt được cái sức làm chủ sanh lão bệnh tử thì chúng ta phải sống độc cư, sống riêng một mình. Hãy sống riêng một mình như con tê ngưu trong rừng. Đó thì Đức Phật khuyên chúng ta làm sao mà chúng ta muốn đạt được con đường giải thoát của đạo Phật thì phải sống riêng một mình, phải sống độc cư, phải sống mà không còn bị trói buộc dính mắc một cái gì của tình cảm, của sự thương ghét, của sự giận hờn phiền não của thế gian nữa thì chúng ta mới có thể thực hiện được con đường này. Qua cái bài kệ thứ sáu cũng như một con nai ở trong rừng có một mình, nó không bị cái gì trói buộc, đi ăn chỗ nào thì tự do đi ăn, không có đi cả bầy cả bầy để rồi người này nhìn thấy kẻ kia thấy rồi bẫy rồi rọ rồi săn rồi bắn rồi làm cho cái đời sống con nai bất an. Cho nên con nai này nó khôn ngoan nó sống một mình nó cho nên nó được an ổn nhất, được giải thoát nhất. Và người tu sĩ chúng ta hiện giờ chúng ta cũng chấp nhận cái hạnh độc cư là cái tuyệt vời nhất để mà chúng ta thực hiện con đường giải thoát. Đó là bài kệ thứ sáu, Phật ví người tu sĩ chúng ta cũng như là một con nai mà sống riêng một mình trong rừng tự do tự tại nên không còn bị trói buộc và dính mắc nữa.

Bài kệ thứ bảyđức Phật muốn nhắc lại, đây Thầy sẽ đọc lại cái bài kệ này cho các thầy và các con nghe để mà hiểu qua cái cách thức sống độc cư.

Giữa bạn bè thân hữu

Thường gọi lên gọi xuống

Hoặc ở chỗ trụ xứ

Hoặc trên đường lộ hành

Muốn tự do giải thoát

Không còn gì tham luyến

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Nghĩa là đức Phật nói khi mà chúng ta còn giao thiệp, còn kết bạn kết bè thì họ gọi lên gọi xuống nói chuyện tới chuyện lui, chuyện này chuyện nọ chuyện kia cho nên làm cho chúng ta bất an, chúng ta không có được tự tại, không có được tự do để cho sự tu tập của chúng ta được yên tĩnh. Cho nên bạn bè rất là tai hại, thân hữu rất là tai hại. Vì vậy mà trên cái bước đường mà chúng ta đi, cái chỗ mà chúng ta ở, thường thường thì người ta hay tìm cái người đồng hành rồi cái người đồng xứ để có chỗ nương tựa với nhau. Ở đây người tu hành chúng ta không có chọn cái nơi mà đồng xứ để đồng ở có bạn có bè với nhau. Rồi đi trên đường cũng độc bộ độc hành chứ không có rủ ren người này người nọ cùng đi với mình để cho vui. Thì cái điều mà đức Phật khuyên một người mà đi tu theo đạo Phật thì không có nên trụ xứ một chỗ hai ba người, năm ba người mà chỉ có một mình mà thôi. Cũng như đi trên đường thì hầu hết người ta sợ đi một mình, sợ trộm cướp hay hoặc này kia nọ nhưng người tu người ta không có sợ, và đi có nhiều người nó lại còn động tâm chúng ta hơn, đi rồi nói chuyện này chuyện nọ chuyện kia nó không được yên tịnh. Đó là nói trên đường đời cũng như là trên cuộc sống. Chỗ ở của chúng ta đều phải từ giã không có sống với hai người, không có sống ba người bốn người, năm người mười người mà hãy sống cho một mình mà thôi.

Bởi vì cái cuộc đời tu hành của chúng ta chúng ta không còn tham luyến một cái gì hết. Mà không còn tham luyến thì chúng ta còn sợ hãi cái gì đâu mà chúng ta lại phải kết đôi, kết bạn kết bè. Cho nên chúng ta hãy sống riêng một mình như tê ngưu một sừng. Thì như vậy là chúng ta thấy đức Phật khuyên chúng ta hãy cố gắng tránh xa bạn bè vì họ thường gọi tới gọi lui, họ làm cái này làm cái kia, họ nói chuyện này chuyện kia đủ thứ đủ loại làm cho tâm chúng ta bất an cho nên con đường tu chúng ta khó đạt được.

Cho nên quý thầy và các con cũng phải nghe, phải hiểu, phải ráng nỗ lực thực hiện cái hạnh độc cư, sống riêng một mình, làm riêng một mình, đi riêng một mình không có nói chuyện với ai thì may ra chúng ta mới đạt được con đường tu hành giải thoát. Đó là bài kệ thứ bảy.

Bài kệ thứ támthì đức Phật cũng khuyên chúng ta thêm để chúng ta thấy rằng con đường tu của đạo Phật là phải sống riêng một mình, không được sống chung nhiều người. Ở đây, chúng ta nghe đức Phật khuyên:

Bài kệ thứ tám:

Giữa bạn bè thân hữu

Ưa thích vui cười đùa

Đối với con với cháu

Ái luyến thật lớn thay

Phải nhàm chán hệ lụy

Với những người thân ái

Hãy sống riêng một mình

Như Tê ngưu một sừng.

Ở đây đức Phật khuyên chúng ta, với bạn bè thân hữu thì cái người mà ưa vui, ưa thích cười đùa nói chuyện, bông đùa nói chuyện phiếm, nói chuyện giỡn, nói chuyện chơi, hoặc đánh cờ hoặc làm đủ thứ trò để vui chơi, rượu chè bài bạc với bạn bè, làm cho vui thích, đó là cách thức vui theo cái người thế gian mà mặc đem đến cho cái sự đau khổ. Cũng như đối với con, với cháu thì mình luyến ái, mình thương yêu, mình không có bỏ chúng được thì những cái điều này nó làm cho chúng ta sống độc cư không có được, làm chúng ta tu theo con đường của Đạo Phật không được. Cho nên cái người mà ham thích bè bạn, giao thiệp rộng rãi, người này người kia thì những người đó không có tu theo Đạo Phật được, không có độc cư được. Những người mà còn thương con nhớ cháu, còn ưa con ưa cháu còn ái luyến với con cháu thì những người đó cũng không có sống độc cư được, cũng không có thực hiện được con đường tu theo đạo Phật giải thoát. Vì đó là một sợi dây kiết sử trói buộc rất chặt và làm cho họ không có thể nào thoát ra được thì làm sao mà thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật.

Muốn thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật, thì muốn sống được cái hạnh độc cư để sống một mình để thực hiện con đường thiền định của đạo Phật thì phải nhàm chán những cái sự hệ lụy đó, những cái sự trói buộc đó. Với những người thân ái đó chúng ta phải nhàm chán, phải từ bỏ, phải xa lìa những cái người đó để chúng ta sống độc cư, sống riêng một mình mới được. Còn nếu mà chúng ta không nhàm chán, không thấy cái sự hệ lụy, không thấy cái sự trói buộc, không thấy những cái đau khổ, cái bất toại nguyện trong tâm của chúng ta mà do những cái người bạn bè, người thân, con cháu của chúng ta, những người ruột thịt nó sẽ làm chúng ta khó khăn mà tu hành, khó khăn mà độc cư được. Cho nên chúng ta phải nhàm chán, phải vứt bỏ, phải xa lìa họ đi thì chúng ta mới sống được độc cư, mới sống được riêng một mình thì chúng ta mới giống như là con tê ngưu một sừng trong rừng.

Bài kệ thứ tám đức Phật khuyên chúng ta phải vứt bỏ bạn bè, con cái, những người thân thuộc hệ lụy, phải nhàm chán, phải xa lìa, phải từ giã phải từ bỏ. Vì đó là những người thân, họ có những sợi dây vô hình trói buộc chúng ta rất chặt, khó mà chúng ta tiến tới con đường tu hành của đạo Phật để được giải thoát sanh tử luân hồi hoàn toàn.

Những cái điều mà thân thương, những cái điều thương ghét, những cái điều giận hờn phiền não, những cái điều mà bạn bè thân thuộc, con cái, dòng họ quyến thuộc anh em, cha mẹ ruột thịt đó là những cái sợi dây vô hình, những sợi dây đó nó trói buộc chúng ta nó làm cho chúng ta không có đi được trên con đường của đạo Phật.

Muốn đi vào con đường của đạo Phật phải bứt cho mạnh, thoát ra cho mau, đừng có ở trong cái vòng đó mà chúng ta sống không có được độc cư đâu. Chúng ta phải gan dạ, phải quyết tâm, phải có một cái sự dứt bỏ rất mạnh thì chúng ta mới sống được hạnh độc cư. Còn nếu mà chúng ta không có quyết tâm mà cứ sống lềnh lềnh lềnh lềnh, mà thích nói chuyện nói vui đùa cái này, cái kia cái nọ, không những làm động mình mà còn làm động người khác, mà mình tu không được mà người khác tu cũng tu không được.

Cho nên ở đây phải quyết tâm vứt bỏ, không được có thể sống mà tu hành mà sống cái kiểu mà không có độc cư, không có riêng một mình thì như vậy là khó đi đến con đường giải thoát cuối cùng của đạo Phật. Chỉ tu cho qua ngày qua tháng mà thôi chớ không bao giờ đạt được kết quả, đạt được cái mục đích cao siêu của đạo Phật đâu.

Bài kệ thứ chín:

Khắp cả bốn phương trời

Không sân hận với ai

Tự mình biết vừa đủ

Chẳng ham muốn vật gì

Vững tâm chịu hiểm nguy

Không rung sợ dao động

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bài kệ thứ chín này Đức Phật ví như bốn cái phương trời. Tức là Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn cái phương khắp cùng đó, đối với mọi người trong bốn cái phương trời này rộng mênh mông như vậy, bất kì người nào mình cũng không sân không hận gì với một người nào hết. Đó là hai câu kệ đầu, đối với ai họ làm gì làm, họ chửi mắng mình, họ hạ nhục mình, họ làm gì làm mình không sân hận không phiền não với ai hết, nghĩa là khắp cùng mọi người ở trong bốn phương trời này, Đông, Tây, Nam, Bắc đối với mình hoàn toàn là mình không có biết hờn giận cái người nào. Dù là người thân, người không thân, người xa lạ, người gần gũi, người quen thuộc, con cháu của mình, nói gì nói, nói nặng nói nhẹ, nói gì nói mình trơ trơ như cục đất thì đó là chính mình sống độc cư. Còn nếu mà mình không trơ trơ như cục đất, đụng đâu phiền não đó thì chưa hẳn là độc cư. Cái độc cư của đạo Phật nó sâu sắc đến cái mức độ không thể lường được. Đụng chuyện gì mình cũng động tâm, đụng chuyện gì mình cũng chịu không được, đụng chuyện gì mình cũng không tùy thuận, bằng lòng không nhẫn nhục được thì đó là mình không sống độc cư. Còn mình sống độc cư ai nói gì nói, mình trơ trơ như cục đá, đó là độc cư.

Tự mình biết vừa đủ.

Chẳng ham muốn vật gì

Hai câu kế này thì chúng ta thấy rất rõ. Mình biết vừa đủ tức là thiểu dục tri túc. Thiểu dục tri túc tức là mình có cái gì mình biết đủ cái đó, mình không ham không muốn không đòi hỏi thêm gì hết. Nghĩa là bây giờ hiện giờ có cái gì thì đủ xài nó thôi, không đòi hỏi thêm gì, không cần cái gì, đời mọi vật đều vô thường có rồi mất đó. Mất đó làm cho mình phiền não thêm chứ làm gì, nên chẳng thích cái gì hết. Cố gắng chỉ độc bộ độc hành, chỉ biết vừa đủ, ít muốn để cho mình thực hiện được con đường độc cư, đi trên con đường giải thoát cuối cùng ra khỏi nhà sanh tử luân hồi đầy đau khổ mà chúng ta không làm cách nào mà thoát ra khỏi cái vòng sanh tử này, cái vòng luân hồi này. Chỉ có con đường duy nhất của Đạo Phật mới dẫn dắt chúng ta thoát ra khỏi con đường này. Cái con đường này mới dắt chúng ta ra khỏi cuộc đời này.

Nếu mà chúng ta không biết được vậy, khó mà chúng ta biết đủ, ít muốn. Nếu chúng ta quyết tâm ra khỏi cái cuộc đời đau khổ này, ra khỏi sự luân hồi sanh tử này, chấm dứt không còn tái sanh luân hồi ở kiếp đời này nữa thì chúng ta phải nỗ lực, phải sống độc cư. Nếu mà không biết đủ, ít muốn thì đó là chưa biết sống độc cư. Chúng ta có một cái bộ đồ mà chúng ta còn muốn thêm một bộ đồ nữa là chưa sống độc cư. Vì sống độc cư là thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, không có còn muốn thêm. Ai cho ăn cái gì thì ăn cái đấy, không có nghĩ rằng ăn cái đó là bổ, là mập là béo hay là đầy đủ dưỡng chất, hay hoặc là ăn thiếu dưỡng chất. Không cần, ăn để no, để sống, để nỗ lực thực hiện con đường giải thoát. Trong ngày nay, ngày mai ra khỏi cuộc đời này là chúng ta đã mừng rồi. Còn sống thêm một ngày nào ở trong cuộc đời này là còn đau khổ, vì cuộc đời là một cái lộ trình của nhân quả, chi phối con người từng phút giây, tạo cho con người vô thường từng chút, từng diệt từng sanh tử, từng chút, từng sát-na, làm sao mà chúng ta vui sướng được mà chúng ta an ổn ở trong cảnh đời như vậy.

Cho nên chúng ta phải nỗ lực, phải quyết tâm phải ra cho khỏi bằng cái hạnh độc cư. Hạnh độc cư không những sống một mình mà hạnh độc cư còn nằm ở trong cái rộng lớn là đối với cái tâm chúng ta không sân, không hận, không phiền não mới độc cư; còn sân còn hận thì làm sao mà gọi là độc cư. Mà tâm chúng ta chưa biết đủ, còn ham muốn thì sao gọi là độc cư. Cho nên tâm biết đủ, không ham muốn thì mới là độc cư.

Bởi vậy chúng ta phải vững tâm, vững tâm trong khi mà thiểu dục tri túc như vậy nó thiếu kém mọi điều nhưng chúng ta vẫn biết đủ, vậy là chúng ta phải có một sự vững tâm chịu được những sự nguy hiểm. Ví dụ như bây giờ bộ quần áo mà chúng ta mặc ở trong thân chỉ có một bộ như thế này mà bị mưa ướt thì lúc bấy giờ chúng ta phải giặt dẹ nó thì tức là chúng ta phải trần truồng. Thì chúng ta phải lấy lá cây hoặc gì đó mà chúng ta che khuất cái thân trần truồng của chúng ta để cho nó kín đáo một chút để rồi giặt cái bộ đồ, như thế là chúng ta đã biết đủ, ít muốn rồi đó, đó là chúng ta đã sống độc cư. Cho nên nếu mà không vững tâm chịu những cái nguy hiểm thì làm sao mà chúng ta sống độc cư được, cho nên chúng ta không run sợ, dao động trước mọi cảnh. Trước mọi cảnh người ta chửi mắng mình như tác nước nhưng không rung sợ, không giao động, không hận, không thù, không sân,đó là độc cư. Vững tâm chịu hiểm nguy trước những hiểm nguy như gặp cọp, beo, rắn độc… Tất cả những cái đó chúng ta không rung sợ mà vững tâm chịu trên những sự hiểm nguy đó. Như trước cơn bệnh ngặt nghèo sắp sửa bỏ thân này chúng ta vẫn vững tâm không dao động. Chúng ta biết thọ là vô thường chúng ta không sợ hãi cho nên chúng ta vững tâm. Và khi vững tâm như vậy, trước cái nguy hiểm như vậy mà chúng ta không dao động tâm đó là chúng ta đã sống độc cư. Còn chúng ta rung sợ, chúng ta lo lắng, chúng ta chạy thuốc chạy thang bằng cách này bằng cách khác để cho cái bệnh nó hết hoặc thế này thế khác thì đó là chúng ta không sống độc cư, chúng ta bị dao động. Tâm giao động là không sống độc cư.

Cho nên lúc bây giờ chúng ta phải thấy được cái hạnh sống riêng một mình, đó là một cái điều rất là cao quý của đạo Phật. Chứ không phải sống ở trong thất một mình mình, cô đơn một mình mình đó là độc cư đâu. Nó cũng là một cái góc cạnh của độc cư nhưng chưa phải thâm sâu của độc cư. Trước một con rắn độc, một con cọp dữ mà chúng ta không dao động, không hề sợ hãi trước cái chết của một con vật sắp sửa giết mình thì đó mình mới là độc cư. Cho nên hạnh độc cư rất là tuyệt vời, rất là cao quý cho nên cái người hiểu được hạnh độc cư thì khó ít ai hiểu. Cho nên độc cư có nghĩa là độc mộc một mình trước những sự nguy hiểm, trước những bệnh tật đau khổ có thể dày vò nhức nhối cơ thể, cái đau tận cùng của sức chịu đựng của thân nhưng tâm chúng ta không giao động thì người đó mới gọi là độc cư. Ý nghĩa độc cư rất là sâu sắc, trước mọi cảnh, mọi cái làm cho bất toại nguyện tâm mà tâm vẫn vững chí, không hề giao động trước cái đối tượng đó thì đó là độc cư. Bởi vậy, sống độc cư phải sống cho đúng cách, phải hiểu cho đúng cách, phải thấu rõ cho đúng cách thì nó mới có đầy đủ cái nghĩa của độc cư. Ai nói gì mặc, ai làm gì mặc, không giao thiệp với ai, không kết bè kết bạn với ai thì đó mới là sống độc cư. Cho nên cái nghĩa độc cư rất là rộng rãi. Vì vậy ở đây cái bài thứ chín này Phật khuyên chúng ta trước mọi sự hiểm nguy tâm không có giao động thì đó là chúng ta đã sống riêng một mình, sống độc cư giống như con tê ngưu một sừng.

Đến đây là Bài kệ thứ mười, Thầy đọc bài kệ thứ mười để quý thầy và các con nghe mà suy ngẫm cái hạnh độc cư.

Người xuất gia tu hành

Chung sống thật khó khăn

Cũng như các gia chủ

Cùng sống trong gia đình

Phải sống vô tư lự

Giữa con cháu như người dưng.

Đó bây giờ Thầy và các con thấy rằng người xuất gia chúng ta mà chung sống với một cái người nào khác đều là khó khăn, không có dễ dàng. Họ thì ở ngoài đời, sống như thế này thế khác, họ muốn cái này muốn cái kia cái nọ. Còn mình là thiểu dục tri túc làm sao mình sống chung với họ được. Mình thì ăn ngày một bữa còn họ ăn hai ba bữa thì làm sao sống chung được. Cho nên cái cuộc sống của họ cuộc sống khác, còn người xuất gia là cuộc sống khác. Cho nên chúng ta phải thấy cuộc sống của chúng ta là cuộc sống độc cư còn của họ là cuộc sống không có độc cư, cuộc sống tập hợp, cuộc sống vui, cuộc sống buồn, cuộc sống khổ, cuộc sống giận hờn phiền não, cuộc sống động, cuộc sống đau khổ, cuộc sống sanh tử luân hồi. Còn cuộc sống của chúng ta là cuộc sống thầm lặng, cuộc sống an ổn, cuộc sống thanh thản, cuộc sống yên vui. Đó là độc cư.

Đây Đức Phật ví dụ: chúng ta là những người xuất gia tu hành thì cũng giống như cái ông chủ nhà, họ sống chung nhau trong cùng một cái gia đình cũng như chúng ta là những người tu hành sống chung với nhau trong cái tập thể như thế này nhưng phải sống vô tư lự, sống không giao thiệp, không có chơi với người nào hết, vô tư với mọi người, không thương không ghét người nào, không giận không hờn, ai nói gì cũng được hết, mình cũng chấp nhận cái đúng cái sai của ai hết, hoàn toàn mình chỉ lo cho mình giải thoát mà thôi. Đó là cách thức tu hành của một người tu sĩ của Đạo Phật.

Nếu mà chúng ta giữ được sống chung nhau như ở cái đại gia đình của chúng ta như cái tu viện này, mười người mười mấy người mà chúng ta sống chung nhau. Ai làm gì làm chúng ta cứ lo chúng ta tu tập và chúng ta lo làm những công việc thì chúng ta cứ làm mà không có nói chuyện với ai. Có điều gì mà không rõ thì mình hỏi rồi thôi, không có nói chuyện vu vơ, sống vô tư lự không biết giận, không biết hờn, không biết ghét, không biết ghen ai hết, nhiệm vụ của người nào nấy làm của người nấy. Cho nên chúng ta cùng sống nhau trong một cái gia đình, làm thì chúng ta trợ giúp nhau làm, sống thì chia sẻ những công việc nhau làm nhưng không có để động tâm. Sống vô tư, không có thương người này ghét người kia, không có nịnh người này bợ người kia, nói xấu người nọ. Chúng ta có cái tâm tánh như vậy thì tức là chúng ta không sống độc cư. Còn trái lại chúng ta không nịnh không bợ không theo người này, không nói người kia thì đó là chúng ta đang sống độc cư đó. Chuyện gì không biết thì hỏi, chuyện gì biết thì thưa và cứ làm một mình. Đó là sống độc cư. Giữa bao nhiêu người mà mình sống được như vậy cũng như người gia chủ họ phải sống chung trong gia đình, họ phải sống vô tư lự giữa con cháu giống như người dưng. Họ không bị con cháu, không bị sự chia cắt cái tâm tư của họ thương đứa này ghét đứa kia thì như vậy đó là họ sống độc cư. Chúng ta cũng vậy, sống chung nhau, thấy việc cùng làm, giúp nhau cùng sống nhưng chúng ta không có bàn bạc riêng tư, không có nói xấu người này hay hoặc là nịnh bợ người kia bằng cách này bằng cách khác. Chúng ta an nhiên tự tại để nỗ lực thực hiện cái độc cư của chúng ta, cái sống riêng một mình. Thì cái bài kệ thứ mười thì Đức Phật ví dụ người xuất gia chúng ta sống chung nhau trong một cái cảnh nhiều người rất là khó nhưng chúng ta phải sống vô tư lự, không nịnh, không bợ, không chạy theo người này không nói xấu người kia thì như vậy mới chính là chúng ta sống độc cư, mới sống riêng một mình đó. Tuy rằng đông người nhưng mà vẫn sống riêng một mình như con tê ngưu một sừng. Đó là cái kệ thứ mười.

Bài kệ thứ mười một.

Thầy xin đọc lại cái bài kệ này để quý thầy và các con nghe để mà suy ngẫm:

Từ bỏ để một bên

Mọi biểu tượng của gia đình

Như loại cây san hô

Tước bỏ mọi lá cây

Bậc tu hành cắt đứt

Mọi trói buộc gia đình

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Bốn câu kệ đầu thì đức Phật dạy, một người mà đã quyết tâm tu hành rồi thì phải từ bỏ, từ bỏ mọi thứ, để nó qua một bên đi, dẹp nó qua một bên đi đừng có mang theo ở trong lòng của mình thì mình tu không được. Mang theo tức là mình không có độc cư. Mình nên bỏ nó qua một bên mọi hiện tượng gia đình, tức là mọi sự thương ghét hoặc là của cải, tài sản trong gia đình, anh em ruột thịt, cha mẹ, vợ con. Những cái biểu tượng đó mình đều là mình bỏ nó qua một bên đi, mình dẹp nó qua một bên chỉ còn có một cái lộ trình duy nhất là độc bộ, độc hành, đó là con đường giải thoát của Đạo Phật mà thôi. Lấy đó làm cái phương châm, làm cái đối tượng để cho mình bước đi mà thôi. Chứ còn đối với gia đình, đối với tất cả mọi sự vật của thế gian dẹp nó qua một bên, bỏ qua một bên, không có để cho tâm trí chúng ta động tâm đến những điều đó. Ai sống, ai chết đều là do nhân quả chứ không phải có mặt mình mà làm cho họ hết những cái nhân quả đó đâu, mình không cứu ai được đâu, chính mình cứu mình còn chưa được huống hồ mình không bỏ thì những sự việc đó nó xảy đến mình cũng đâu có làm gì được. Cho nên mình biết suy nghĩ như vậy, biết hiểu như vậy thì cái bài kệ này Đức Phật bảo mình phải bỏ qua những biểu tượng, những đối tượng của gia đình. Hãy dẹp nó qua giống như cái cây san hô nó bỏ tất cả mọi lá của nó, nó không để cho cái lá nó dính, nó chỉ còn cái cọng san hô mà thôi.

Thì cái người tu hành chúng ta nó cũng vậy, nghĩa là cũng cắt đứt mọi cái trói buộc của gia đình không để mọi trói buộc của gia đình. Vì mọi trói buộc của gia đình tức là chúng ta không có sống độc cư được. Cho nên thân chúng ta lìa xa, chúng ta vào chùa ở, hoặc vào trong núi trong non ở hang ở hóc nhưng mà tình cái tình cảm gia đình chúng ta còn, không có bứt nó được, không cởi mở nó được, nó trói buộc chúng ta thì coi như đương nhiên chúng ta chưa phải sống độc cư đâu. Chúng ta cũng chưa phải là những người tu hành cắt đứt đâu. Cho nên chúng ta phải ráng nỗ lực, phải thực hiện. Tuy là nói lời nói nhưng ở đây là cái pháp vứt bỏ, nỗ lực vứt, vứt cho thật sạch. Nếu chúng ta không dứt thì ai dứt cho mình được. Mình thương ta thương mẹ thì mình phải dứt cái tình thương đó để cho mình nỗ lực mình tu, mà mình không dứt thì ai dứt cho mình được để cho mình tu. Mình phải hiểu như vậy thì “Hãy sống riêng một mình. Như tê ngưu một sừng”. Đó thì cái bài kệ chúng ta thấy rất rõ. Thầy đọc lại để cho quý thầy và các con nghe.

Từ bỏ để một bên

Mọi biểu tượng của gia đình

Như loại cây san hô

Tước bỏ mọi lá cây

Bậc tu hành cắt đứt

Mọi trói buộc gia đình

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng”.

Đó là bài kệ thứ mười một.

Bài kệ thứ mười hai, Thầy sẽ đọc để quý thầy và các con hãy nghe mà suy ngẫm:

Nếu tìm được bạn lành

Thận trọng và sáng suốt

Bạn đồng hành chung sống

Cùng sống bạn hiền trí

Cùng nhau đồng tu tập

Chẳng ai nói với ai

Hãy sống với bạn ấy

Chánh niệm lòng vui mừng.

Nghĩa là trên con đường đời mà chúng ta tu tập thì cần phải có thiện hữu tri thức, cần phải có bạn lành, bạn lành để giúp đỡ chúng ta trên bước đường tu tập. Như vậy chúng ta vẫn sống độc cư vì cái người bạn lành đó họ không nói chuyện với chúng ta bằng một cách phi thời, bằng một cách phiến diện, họ không nói chúng ta những cái chuyện tào lao, những cái chuyện phiếm. Họ nói với chúng ta bằng những cái hành động tu của họ, bằng những cái lời nói dạy chúng ta cách thức thực hiện con đường tu tập giải thoát. Thì đó là cái người bạn lành.

Cho nên khi chọn cái người bạn lành để mà sống chung nhau mà tu học thì thận trọng và còn phải sáng suốt. Mà biết được cái người bạn lành rồi thì chúng ta chung sống với nhau nhưng hầu hết là chúng ta không nói chuyện với nhau. Đó là những người bạn lành. Còn những người bạn mà không lành, những người bạn xấu thì gặp nhau thì chuyện này chuyện kia, kể chuyện đông chuyện tây, kể chuyện tình chuyện tứ, kể chuyện năm xưa, chuyện hồi nhỏ, tất cả những cái chuyện này chuyện kia. Nói rồi thêm, rồi bớt, rồi nói này kia rồi ca ngợi mình thế này thế khác, đó là những người bạn xấu chớ không phải những người bạn lành. Còn những người bạn lành là những người người ta làm thinh, tối ngày người ta thực hiện trong cái đời sống giải thoát, người ta không có nói chuyện với ai hết thì mình sống chung với những người đó mình mới có ảnh hưởng, mình mới theo những gương đó mình mới nỗ lực mà tu tập con đường giải thoát của chính mình.

Còn nếu mà có những người bạn mà không tốt thì ngay đó, ngay đó mình biết liền hà. Người bạn không tốt là người bạn nhiều chuyện, người bạn thích nói chuyện, thích tập hợp, rủ ren cái này cái kia đó là những người bạn xấu. Còn những người bạn tốt, mình vào Tu viện thì thấy những người bạn tốt thì họ không có nói chuyện đâu, họ không có làm quen, làm thân với mình đâu, đó là những người bạn tốt đó. Mình hỏi một câu gì đó họ trả lời một cái câu đó là có giá trị rất tuyệt. Còn cái người bạn mà tập trung nhau lại thất này, lại thất kia mà nói chuyện chùm nhum chùm nhum là những người bạn xấu đó. Những người đó họ có học thức cao cách gì đi nữa họ cũng vẫn là những người xấu, họ chỉ lý luận bằng cái miệng lưỡi của họ chứ đời sống của họ chẳng ra gì hết. Họ là những con trùng trong lông sư tử, họ giết Phật pháp, họ là những người giết Phật pháp chết.

Cho nên nhìn vào cái đời sống tu sĩ, đừng có nghĩ rằng họ thẳng tay vào chợ, họ bu lu ba la, họ nói chuyện này chuyện kia, họ ăn uống phi thời, họ đi đứng phi thời, họ làm những chuyện phi thời, họ không đúng tính cách của một tu sĩ, đó là những người bạn xấu, những người đó không phải thiện hữu tri thức. Dù họ có cấp bằng tiến sĩ hay cấp bằng gì đi nữa họ vẫn là những người bạn xấu của chúng ta. Họ không phải là con người đi tìm cái đạo giải thoát, họ là con người đi tìm cái danh, cái lợi của cuộc đời để cho họ thực hiện được những cái danh cái lợi của họ bằng cách khoe khoang, bằng cách này bằng cách khác. Cho nên những người bạn đó là những người bạn chúng ta không nên gần vì gần những người bạn đó chúng ta không sống được độc cư.

Chúng ta đến những người bạn mà những người bạn mà chúng ta sống độc cư, đó là những người bạn tốt. Những người bạn có thể mang đến cho chúng ta càng nhiều sống độc cư hơn, giúp chúng ta đạt được những kết quả tu hành giải thoát hơn. Người ta không nói chuyện nhiều với mình, người ta giúp mình bằng cách này bằng cách khác để cho mình được sống độc cư trọn vẹn, để cho mình thực hiện được con đường giải thoát. Đó là những người bạn tốt, những người đó không bao giờ nhiều chuyện, những người đó không bao giờ nói chuyện tào lao, nói chuyện không có đúng cách. Với họ một lời, hai lời là nhiều lắm. Họ không bao giờ nói nhiều lời.

Cho nên trong bước đường tu tập, quý thầy phải nhớ kỹ khi thực hiện con đường tu tập cần phải tìm những người bạn lành. Mà những người bạn lành đó rất ít, rất khó, đó là những người độc cư. Ở trong Tu viện của chúng ta chúng ta cũng thấy rằng ai là những người mà độc cư tốt nhất, chắc quý thầy cũng biết chứ, có những gương hạnh độc cư rất tốt, đó là những người bạn lành của quý thầy. Họ là những cái gương để cho quý thầy soi để quý thầy đi cho đúng con đường của đạo giải thoát. Ở đây Thầy không muốn nhắc tên những người đó nhưng quý vị chắc có lẽ ai cũng biết người nào tốt, người nào xấu.

Bây giờ đến cái Bài kệ số mười ba:

Nếu không được bạn lành

Thận trọng và sáng suốt

Cũng đừng sống với họ

Họ chẳng phải hiền trí

Hãy như vua từ bỏ

Đất nước bị bại vong

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Nghĩa là khi mình tìm mà không có cái người bạn tốt như vậy, người bạn mà đang sống độc cư, người bạn mà làm gương hạnh tu hành tốt cho mình như vậy thì mình phải sáng suốt và thận trọng không có đụng người nào cũng kết bè kết bạn. Các con có hiểu chưa, quý thầy có hiểu chưa? Trong Tu viện chúng ta có mấy người, người nào tốt người nào xấu các con biết chứ, người nào sống độc cư người nào không sống độc cư các con biết chứ, người nào nói chuyện nhiều, người nào nói chuyện ít các con biết chứ? Cho nên các con hãy lấy cái gương hạnh của những người tu tốt đó mà làm gương hạnh tốt cho mình, sống độc cư sống một mình không nói chuyện bậy bạ. Để giữ gương hạnh đó mà thực hiện con đường tu tập giải thoát thì cái thời gian sẽ thu ngắn lại cho các con, cho các thầy, mới mong đạt được kết quả sau này. Chứ còn không khéo thì suốt cuộc đời tu hành chỉ uổng mà thôi, không làm sao giải thoát được vì không sống độc cư được thì làm sao tu hành được cái gì mà giải thoát. Cho nên mục đích của độc cư nó sâu rộng vô cùng vô tận để mà chúng ta đạt được con đường giải thoát của đạo Phật. Chứ không phải chúng ta sống một mình thì tối ngày làm thinh mà mặt mày chầm dầm, ai đụng tới thì giận thì hờn, ngồi trong thất mà nhớ người này, nghĩ người kia gọi là độc cư. Thì cái đó không phải độc cư, mà là độc mộc chứ không phải độc cư. Cái đó là độc mộc, cô đơn làm cho mình càng khắc khổ hơn, làm cho mình như cây khô sắp hết nhựa thì đó không phải là độc cư. Độc cư thì càng ngày càng nhựa sống, càng sự giải thoát càng tràn đầy trong tâm hồn của chúng ta, đem lại cho chúng ta một niềm an vui vĩnh cửu không bao giờ có một sự gián đoạn. Thật hạnh phúc cho những người nào sống độc cư đúng cách thì sẽ được an vui và yên ổn tâm hồn và thân tâm của họ.

Cho nên cái người bạn tốt mà tìm được thì chúng ta sống chung mà không tìm được thì chúng ta đừng có nên sống chung với những người bạn xấu. Những người đó họ đem đến chúng ta khó khăn tu hành, họ nhiều chuyện, họ chuyện này đến chuyện kia, họ nói lảm nhảm, họ nói chuyện chẳng ra đâu, họ nói chuyện này chuyện kia, họ nói đủ loại. Những người đó là những người chúng ta phải xa để chúng ta tự sống một mình.

Cho nên ở đây Đức Phật ví như một nhà vua mà đã bị chiến bại, đã bị thất trận thì bây giờ chúng ta hãy trả lại cái đất cho người khác, đừng có tham vọng lấy cái đất của người khác. Chúng ta cứ lui dần lui dần mà tránh đi. Những cái người mà không tốt thì chúng ta tránh họ đi cũng như nhà vua mà thấy sức quân đội của mình yếu, sức của mình đang yếu không đủ đương đầu với quân đội mạnh thì chúng ta nên rút lui bỏ đi, bỏ từ xa đi thì may ra chúng ta còn bảo vệ được một chút ít biên cương đất nước của chúng ta. Thì như vậy đức Phật dạy chúng ta tìm người bạn lành, người bạn tốt, người bạn mà biết sống độc cư. Mà tìm không được thì chúng ta hãy sống một mình, đừng có sống với những người không tốt đó thì cuộc đời tu hành chúng ta cũng uổng phí. Cho nên Phật khuyên “hãy sống riêng một mình, như con tê ngưu một sừng”. Trước cái hoàn cảnh mà tìm không được bạn thì chúng ta phải sống một mình mà thôi, nỗ lực thực hiện những lời của Phật dạy, giới luật của Phật đã chỉ dạy thì chúng ta sống một mình để thực hiện con đường tu tập. Còn chừng nào có bạn lành bạn tốt thì chúng ta mới kết bạn để mà noi gương bạn để mà tu hành, cái gì không hiểu thì hỏi bạn. Còn bây giờ chúng ta không có người bạn tốt thì chúng ta nên xa lánh, xa lánh tất cả mọi người vì nhìn chung chúng ta chưa thấy ai là người bạn tốt của chúng ta. Cho nên ở đây quý thầy thấy bài kệ thứ mười ba, Đức Phật dạy chúng ta khi chọn không được người bạn tốt thì chúng ta sống một mình, sống riêng một mình, nỗ lực tu hành một mình theo những điều, những lời của Phật đã dạy.

Bây giờ Thầy đọc Bài kệ thứ mười bốn để cho quý thầy và các con nghe mà suy ngẫm cái bài kệ mà Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta trong một cái khía cạnh để sống độc cư, sống trầm lặng, sống một mình:

Thật chúng ta tán thán

Những bằng hữu chu toàn

Bậc hơn ta bằng ta

Nên sống gần thân cận

Nếu không gặp bạn này

Thì ta phải cố gắng

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Đó thì cái lời khuyên của Phật trong cái bài kệ thứ mười bốn. Khi chúng ta gặp một người thiện hữu tri thức, một người bạn lành, một người hơn ta trên bước đường tu tập theo đạo Phật và bằng ta trên bước đường tu tập theo đạo Phật. Nghĩa là người đó đang sống độc cư, đang sống trong thầm lặng, đang sống trong thiểu dục tri túc, đang ở trong Chánh niệm tỉnh giác, đang tu tập định vô lậu, đang tập bốn Thiền để thực thi con đường giải thoát sanh tử làm chủ luân hồi. Người bạn đó là người bạn tốt. Người bạn mà chúng ta thấy hằng sống trong thầm lặng, hằng sống trong độc cư, không thích nói chuyện, không thích nói chuyện phiếm, nói chuyện tào lao, không thích nói chuyện đông tây kim cổ đó là những người bạn đáng làm gương cho ta tu hành. Cho nên câu đầu Phật nói “Thật chúng ta tán thán. Những bằng hữu chu toàn”, những người mà lo tu tập, những người mà lo rèn luyện trao dồi thân tâm của mình như vậy, đó là những người bạn rất là chu toàn, làm gương cho ta tu hành.

“Bậc hơn ta” đó là những người tu trước ta, và bằng ta là đang tu như ta. Cho nên chúng ta nên gần sống với những người đó để làm bạn thân cận, bắt chước những cái hạnh tu tập của những người này may ra chúng ta mới đạt được con đường tu hành giải thoát. Nếu không gặp được những người bạn này đức Phật khuyên thì chúng ta phải cố gắng sống một mình. Dù trước hoàn cảnh nguy hiểm, dù trước hoàn cảnh khó khăn nào chúng ta cũng nên sống một mình đừng có vui chơi theo những người bạn xấu, những người phá hạnh độc cư, những người làm ồn náo, những người thích vui chuyện thế gian, những người thích nói chuyện tầm phào, chuyện phiếm, chuyện không ra đâu, đó là những người đang ở trong cái tâm dục lạc thế gian. Chúng ta nên tránh xa những người bạn này vì con đường tu tập của đạo Phật rất kỵ với những người bạn xấu này.

Những người sống không độc cư, không trầm lặng, những người còn ham thích vui thế gian mà lại ham thích tu hành thì những người này là những người tham vọng. Đời chẳng muốn bỏ mà đạo thì muốn thêm, những người này là những người không xứng đáng cho chúng ta gần gũi, xứng đáng là những người bạn tốt của chúng ta. Chúng ta hãy lìa xa những người đó mà hãy cố gắng sống một mình.

Cho nên vì vậy mà tu viện cố gắng đào tạo cho các thầy và các con mỗi người một am thất riêng để chúng ta sống một mình trong một cái đại gia đình tu tập. Để chọn lấy những cái việc sống một mình mà tu hành. Còn những người mà sống thích nói chuyện, thích giao du, sống tiếp duyên bằng cách này bằng cách khác thì những người đó là những người không xứng đáng cho chúng ta chơi, làm bạn, cho chúng ta gần gũi. Như vậy trong Tu viện của chúng ta các con đã thấy ai là những người xứng đáng là bạn của mình chưa. Nếu người đó không thích nói chuyện, không thích nói chuyện tào lao, không đem chuyện này chuyện kia, không đến thất người này người kia thì người đó là xứng đáng để chúng ta bắt chước mà tu tập. Còn những người mà thích nói chuyện thì chúng ta thôi thôi, chúng ta nên xa những người đó đi. Những người đó là những người nhiều chuyện, những người ở ngoài thế gian. Phải không các con? Cũng như ở đây, bây giờ quý thầy con thấy còn bao nhiêu người, người nào cũng lo sống độc cư tu tập, người nào cũng lo sống riêng lẻ một mình, người ta sống trầm lặng, người ta nỗ lực tu hành. Còn bao nhiêu cái thứ nói chuyện thì đã bị Thầy quét sạch ra khỏi Tu viện, không để cho một móng nào mà còn ở trong Tu viện này nữa.

Các con thấy rõ chứ? Bên nam thầy đã quét đi sạch là vì Thầy không muốn để những người phá hạnh độc cư, họ đã làm ồn náo Tu viện chúng ta biết bao nhiêu năm nay rồi, bây giờ chúng ta quét họ ra khỏi là chúng ta rất mừng, chỉ để lại một vài người mà quyết tâm thực hiện con đường của đạo Phật để đi đến cái sự giải thoát sanh tử hoàn toàn. Nhìn lại một số rất đông nhưng hiện giờ còn được bao nhiêu người. Nếu trong các con, bên nữ mà các con lấy gương của những người còn lại mà làm gương hạnh tu hành cho mình thì đó là điều quý nhất và cũng là niềm vui nhất cho cô Út vì cô Út buồn vì thấy các con hay thích nói chuyện to, chuyện nhỏ, nói chuyện tào lao không đúng cách.

Đó là những điều mà ở đây đức Phật đã khuyên nhủ trong cái bài kệ thứ mười bốn. Đó là chúng ta tán thán những người, ca ngợi những người mà sống trong hạnh trầm lặng, trong độc cư, trong một mình lo chuyên cần tu tập thì đó là những người bạn xứng đáng. Còn những người bạn không xứng đáng thì chúng ta nên xa lìa.

Bài kệ thứ mười lăm, Đức Phật khuyên chúng ta, bài kệ này Thầy xin đọc để quý thầy và các con suy ngẫm mà thấy cái hạnh độc cư :

Thấy đồ trang sức vàng

Lấp lánh và sáng chói

Được người thợ kim hoàng

Khéo làm, khéo tay làm

Đối với những vật này

Nguy hiểm tự hại thân

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Nghĩa là đức Phật nói rằng, khi mà chúng ta sống một mình thì những cái đồ trang sức, vòng vàng hay hoặc là kim cương hay hoặc là những đá quý, ngọc thì những cái vật này là cái vật nguy hiểm nhất cho những người mà sống độc cư một mình. Vì có những cái của cải tốt này sẽ làm cho chúng ta rất tai hại, có thể người ta giết mình người ta lấy của mình. Cho nên đối với những cái vật này chúng ta thấy đó là một cái điều tai hại, nguy hiểm nhất cho nên chúng ta từ giã nó đi, đừng có cất giữ, đừng có để ở trong người của chúng ta mà nguy hiểm đến thân mạng của chúng ta, làm chúng ta không sống được hạnh độc cư.

Người có của này thì họ ở trong người họ mà họ sống một mình thì các con thấy cái tâm họ có lo không, mà có lo thì có độc cư được không, không độc cư. Cho nên không tiền, không bạc, không của cải, chỉ con ba y một bát như đức Phật ngày xưa thì các con thấy sống ở chỗ nào lại là có lo. Ai có lấy chi mà cái bát bằng đất, bằng sành bao nhiêu tiền, cái bộ đồ tu sĩ mà rách nát, cũng như đức Phật mà làm cái y phấn tảo như vậy, lượm bằng vải thay ma thì có lấy cái y đó bán ai mà mua. Cho nên đức Phật sống quá an ổn, quá giải thoát, luôn luôn tâm lúc nào cũng thấy yên ổn, thanh tịnh. Còn chúng ta có đồ tốt, cái này cái nọ cái kia coi chừng mà chúng ta chúng ta mất độc cư với nó. Chúng ta còn lo ra đó, chúng ta không có gom tâm lại được đâu vì những vật đó nó sẽ làm cho tâm chúng ta bị phân tán, sợ hãi. Ngủ đâu có an, phải không các con? Có vật gì quý, có vàng bạc, có châu báu, có cái này kia thì ngủ khó an lắm, rất là sợ hãi người khác sẽ đến giết mình và cướp đoạt của mình rồi có thể làm nguy hại cho đến tính mạng của mình. Con đường tu của mình thì mất độc cư vì tâm mắc lo ra thì sao mà độc cư được. Đó là bài kệ thứ mười lăm.

Bài kệ thứ mười bốn thì chúng ta khó mà tìm cái người bạn mà tốt, người bạn mà chuyên tu, người bạn mà độc cư, người bạn sống trầm lặng. Còn bài kệ thứ mười lăm thì khuyên chúng ta đừng có vật báu ở trong người, những đồ trang sức đó nó sẽ nguy hiểm đến tính mạng và đồng thời làm chúng ta sống độc cư không có được. Cho nên những cái chuyện nho nhỏ mà chúng ta không thấy thì chúng ta ngỡ đó là mình sống một mình mình, sống độc cư nhưng mà không ngờ những vật dụng nhỏ đó nó đeo theo mình nó làm mình không độc cư được không. Tâm còn lo ra mà sao gọi là độc cư. Phải không các con, các con thấy rõ trong cái vấn đề tu tập coi vậy chứ không đơn giản, nó rất khó đó.

Làm sao mà chúng ta sống cho đúng bởi vì qua bốn mươi hai bài kệ này thì đức Phật chia ra từng cái phần nhỏ để nói lên cái hạnh độc cư, một cái chuyện nhỏ thôi cũng làm chúng ta mất độc cư, cũng làm chúng ta không an ổn ở trong sống riêng một mình.

Bây giờBài kệ thứ mười sáu:

Như vậy nếu ta sống

Với một người thứ hai

Tranh luận cải vã nhau

Sân hận gay hấn nhau

Nhìn thấy trong tương lai

Sợ hãi nguy hiểm này

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Thì ở đây đức Phật nhắn nhủ thêm là chúng ta sống hai người, mà nếu hai người là người bạn tốt, người bạn lành thì rất quý. Mà người bạn mà không tốt, không lành thì sớm muộn gì cũng có những sự tranh luận và cãi vã nhau. Phải không, các con thấy cái đó có đúng không. Rồi có sân, có hận, rồi gây hấn nhau. Nhìn thấy trong cái hiện tại nó như vậy thì cái người bạn sống không độc cư được thì sớm muộn rồi thì thế nào sự tranh cãi, cãi vã nhau cũng phải có, còn cái sự sân hận và gây hấn nhau cũng không thể nào tránh khỏi. Do đó nhìn trong cái tương lai chúng ta biết sẽ xảy ra những cái đó. Vì những người bạn đó là những người bạn không độc cư được. Mà những người bạn không độc cư thì tương lai sẽ không tốt cho bước đường tu tập của chúng ta. Mà khi mà biết rằng nó không tốt cho con đường tu tập của chúng ta thì chúng ta có sợ hãi những cuộc sống mà hai người không, ba người năm người không. Không, chúng ta phải tránh xa đi. Cho nên sợ hãi nguy hiểm này, những cái sự mà sảy ra gây hấn, tranh luận cải vã nhau nó sẽ xảy ra trong tương lai. Bây giờ thì thấy nó thuận đó, nó chưa; nhưng mai mốt mà cái người mà nói chuyện qua lại sớm muộn gì cũng có sự tranh cãi tương lai. Phải thấy hậu quả đó là cái hậu quả của cái người sống không độc cư thì làm sao cũng phải có cái hậu quả đó. Mà cái hậu quả đó thì làm cho chúng ta có yên không. Đâu có yên, cho nên rất là nguy hiểm cho người tu tập. Vì vậy mà Phật khuyên chúng ta hãy sống riêng một mình như tê ngưu một sừng. Đừng có sống với những cái người như vậy. Những người không phải thiện hữu tri thức thì nó sẽ có sự tranh luận mà cãi vã nhau, có sự sân hận gây hấn nhau ở tương lai không sớm thì muộn cũng sẽ có. Có rồi làm chúng ta bất an, có làm chúng ta không độc cư được.

Đó là cái bài thứ mười sáu, Đức Phật khuyên chúng ta đừng có sống với những người mà chúng ta thấy sống không có đúng cái hạnh độc cư trầm lặng.

Bây giờ đến Bài kệ thứ mười bảy:

Các dục thật mỹ miều

Ngọt thơm và đẹp ý

Mọi hình sắc phi sắc

Làm mê loạn tâm tư

Thấy sự nguy hiểm này

Trong các dục trưởng dưỡng

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Thì quý thầy thấy cái bài kệ thứ mười bảy đức Phật khuyên chúng ta nên sống riêng một mình là vì chúng ta sống với những cái vật dụng mà cái này cái nọ cái kia. Các cái dục, các đối tượng dục như sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp như pháp danh, lợi, thực, thùy. Những cái đó là những cái cám dỗ, những cái gợi cho chúng ta cái lòng ham muốn. Đó là những cái pháp dục của thế gian. Nó rất là mỹ miều, nó làm cho chúng ta thấy rất là thích thú, và nó ngon nó thơm và nó làm cho mình thấy nó rất đẹp, làm cho đẹp ý chúng ta. Mọi cái hình sắc và cái không hình sắc đều là có thể nó gợi lên cho chúng ta những cái dục. Nó làm cho chúng ta ham thích, nó làm cho chúng ta ham muốn vì vậy nó làm cho chúng ta mê loạn tâm tư chúng ta không được tỉnh táo, luôn luôn tâm bị giao động theo các pháp trần đó. Do vì vậy đó, nó làm cho chúng ta không sống độc cư được, nó rất là nguy hiểm nó làm chúng ta không có sống trầm lặng được. Nó lôi cuốn chúng ta chạy đầu này, chạy đầu kia, chạy đầu nọ rồi chúng ta lý luận thế này, lý luận thế khác. Đó là để chúng ta chạy theo cái tâm ham muốn của chúng ta, cái tâm dục của chúng ta. Như vậy là cái cuộc đời tu hành chúng ta bị các dục, các dục này là cái ngũ dục lạc, cái dục trần (sắc thinh hương vị xúc pháp), rồi cái ngũ dục (ăn, ngủ, thực, thùy, danh sắc, bệnh) nó cũng đều là làm cho chúng ta bất an, làm chúng ta sống trầm lặng, sống độc cư không được. Cho nên khi mà chúng ta biết nó như vậy đó thì chúng ta hãy tránh xa nó đi, hãy tìm cách mà xa lánh nó đi đừng có ở gần cái thứ đó. Thì ở gần các thứ đó thì chúng ta sống một mình không được đâu, sống riêng tư một mình không được đâu. Cho nên do đó chúng ta phải nỗ lực sống độc cư mà không có chung đụng với những cái dục đó, không có gần gũi những cái dục đó làm chúng ta được giải thoát, tu tập được tốt đẹp, càng ngày càng tiến bộ. Còn nếu mà gần những cái dục đó thì càng ngày càng sa đọa và càng thối chuyển trên bước đường tu tập.

Hôm nay các con thấy rõ ràng tất cả những cái dục như có sáu cái trần sắc thinh hương vị xúc pháp đó là sáu cái trần, nó cám dỗ chúng ta khó mà giữ hạnh độc cư. Năm cái dục lạc của thế gian đó là sắc danh lợi thực thùy, năm cái dục này cũng rất là mạnh, lôi cuốn làm cho chúng ta mê loạn tâm tư, làm chúng ta thấy mất bình tĩnh, tĩnh giác, mất chánh niệm, làm chúng ta say đắm, trưởng dưỡng làm chúng ta chạy theo các dục, trưởng dưỡng các dục lớn lên cho nên chúng ta mất cái hạnh độc cư. Vì vậy mà chúng ta quyết định phải sống một mình để tránh xa những cái dục này, các pháp dục này nó làm cho tâm chúng ta mê loạn, điên cuồng mà không còn sáng suốt nữa, không còn tỉnh thức ở trong cái chánh niệm nữa. Thì như vậy thì chúng ta quyết tâm khép chặt mình ở trong cái hạnh độc cư, cái sống một mình để chúng ta diệt trừ các dục. Còn không khéo thì chúng ta sẽ bị các dục lôi cuốn và con đường tu của chúng ta mất đi. Cho nên cái người mà muốn hàng phục được các dục, ly dục ly ác pháp như trong kinh Phật đã dạy nhập Sơ thiền. Mà muốn ly được các dục này chỉ có hạnh độc cư thì mới có thể ly dục. Thì cái bài này đức Phật muốn chỉ rõ rằng chúng ta muốn xa lìa các dục, muốn ly các dục thì phải sống riêng một mình như tê ngưu một sừng. Thầy đọc lại cái bài kệ này, quá thấm thía. Bởi vì khi mà vào đầu tu theo đạo Phật thì các con với các thầy cũng đã thấy rằng Phật dạy ly dục, ly bất thiện pháp nhập Sơ thiền. Mà cái bài kệ này để nhắn nhở chúng ta phải sống độc cư. Nhờ sống độc cư mới có ly dục ly ác pháp được.

Đây, Thầy đọc lại cho nghe:

Các dục thật mỹ miều

Ngọt thơm và đẹp ý

Mọi hình sắc phi sắc

Làm mê loạn tâm tư

Thấy sự nguy hiểm này

Trong các dục trưởng dưỡng

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

Rõ ràng các con muốn ly dục thì các con phải sống một mình, phải sống độc cư đó. Đó, thì vì vậy bài kệ đức Phật muốn chúng ta ly các dục thì chúng ta phải sống độc cư.

Đến đây Thầy đọc Bài kệ thứ mười tám.