BĂNG SỐ 02
(BBT:CĐ,02B,B00:00:00)
Do đó chúng ta mới dứt được, nó mới không còn trói buộc chúng ta được. Do đó chúng ta mới yên tâm giữ gìn Giới Hạnh, để chúng ta ly dục, ly ác pháp. Nhờ thế, chúng ta mơi ngồi lại tu cái Định Sáng Suốt. Vậy thầy sẽ đọc cho quý thầy nghe bài kệ Nhất Dạ Hiền.
Bây giờ thầy đọc bài kệ: (BBT:BN,01,B00:56:51)
Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Chỉ có Pháp hiện tại
Chánh Niệm Tỉnh Giác đây
Tuệ tri quán Vô Lậu
Không động, không rung chuyển
Biết vậy nên tu tập
Hôm nay nhiệt tâm làm
Đêm ngày không mỏi mệt
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền
Luôn luôn sống trầm lặng
Đó là một bài kệ mà thầy nhắn nhủ quý thầy, trầm lặng đó là độc cư đó, sống một mình mình, sống trong cái trạng thái tâm hồn trầm lặng, đừng có lăng xăng, đừng có nhôn nhao ở trong cái tâm của mình. Và cái sự tu tập thì ở đây chỉ rõ đó là hai cái Định: Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và cái định Vô Lậu Định. Cho nên hai câu kệ này để hàng ngày hàng đêm quí vị cố gắng mà tu tập trong hiện giờ, chớ không phải tu tập cái hơi thở, mà hãy tu tập hai cái định này trước. Vì cái bước đầu tu theo Đạo Phật, không phải đi vào cái Định mà phải đi vào cái sức Tĩnh Giác, chớ không phải là cái Định
(Missing)
(BBT:CĐ,02B,E00:37:06)
(BBT:CĐ,02B,B00:37:07)Xưa Phật thuyết pháp 49 năm, hơn 300 hội, không lường diệu nghĩa nhưng không ngoài Giới Định Huệ. Vì có giữ Giới tâm mới Định, tâm có Định mới phát sinh trí Huệ.Như thế, Giới là căn bản thành Phật, tác Tổ. Nghĩa là, Giới là căn bản để làm cho chúng ta thành được Phật và làm được Tổ sau này. Giới có công năng như chiếc bè báu đưa người qua biển khổ. Ở đây người ta ví dụ Giới luật như là chiếc bè mà đưa chúng ta qua biển khổ(BBT:BN,01,E01:33:39). (BBT:BN,02,00:00:21)Nhưng theo Thầy thiết nghĩ, ở đây cái Giới luật là hàng rào đầu tiên để ngăn, làm cho chúng ta không vượt qua hàng rào của Giới này để cho chúng ta không phạm phải những cái ác pháp. Đó là phải hiểu cái giai đoạn đầu. Và giai đoạn kế là chúng ta đã đắc được Giới, đã thành tựu được Giới, đã chứng lý được Giới thì đó là công năng như chiếc bè báu đưa người qua biển khổ.
Giới là cửa ngõ vào Niết bàn, tức là người nào muốn vào cảnh giới được giải thoát hoàn toàn thì phải lấy Giới, phải đi ngang qua cửa ngõ Giới. Mà cái người nào muốn vào được cảnh giới được giải thoát hoàn toàn mà không đi ngang qua cửa ngõ Giới thì không bao giờ mà vào được cảnh giới Niết bàn. Cho nên ở đây ví nó Giới là cửa ngõ vào Niết bàn. Cho nên quý vị đến với đạo Phật là đi tìm sự giải thoát chớ không phải đi tìm danh, tìm lợi trong đó. Mà tìm giải thoát tức là Niết bàn. Mà muốn tìm giải thoát dù muốn dù không quý vị vẫn phải đi vào cửa ngõ này. Nếu quý vị không đi vào cửa ngõ này thì quý vị sẽ không đi vào Niết bàn được, dù là quý vị có lý luận, có những cái cao siêu hơn, lý luận siêu việt hơn nhưng quý vị không đi vào cửa ngõ này thì chắc chắn là quý vị không được giải thoát, không có Niết bàn trong tâm của quý vị được.
Vì Giới là biệt giải thoát, nghĩa là riêng ta giữ một giới nào cũng được giải thoát cả. Khi chúng ta đến với Giới dù chúng ta tu tập hay là lấy một cái Giới đó mà chúng ta giữ gìn thân và tâm của mình không cho phạm vào giới đó thì chúng ta được giải thoát ngay liền chứ không phải đợi đến thời gian nào cả. Cho nên Giới đem lại sự giải thoát cho quý vị, rất là cụ thể, hơn tất cả. Thí dụ như bây giờ quý vị giữ gìn cái giới sát sanh, quý vị không có giết hại chúng sanh thì ngay đó quý vị thấy tâm hồn của mình không có làm đau khổ người khác nên quý vị không sợ sự đau khổ nơi chính bản thân của quý vị. Đó là một sự giải thoát thật sự và cụ thể.
Giới luật còn là Đạo pháp còn. Giới luật mà còn hiện tiền thì đạo Phật sẽ còn, mà Giới luật mất, nghĩa là nhìn chung tu sĩ mà phạm giới thì đương nhiên chúng ta xem như là đạo Phật mất. Chứ không phải thấy sắc áo của những tu sĩ còn mà cho rằng đạo Phật còn đâu, mà đạo Phật đã mất rồi. Còn mỗi vị tu sĩ đều giữ gìn giới luật nghiêm túc thì đạo Phật hưng thịnh, đạo Phật còn mãi với thế gian. Còn nếu tu sĩ mà chỉ còn 1, 2 người tu sĩ giữ gìn giới thì đạo Phật còn duy trì chứ chưa có phát triển cao được. Ngày nào chư tăng còn Bố tát tụng giới là đạo Pháp còn thịnh, cho nên mỗi tháng 2 kỳ Bố tát là ngày rằm và 30, nếu tháng thiếu thì 29 để nhắc lại giới mình đã lãnh thọ.
Thường xuyên trong hàng tu sĩ phải tụng giới, nhưng hầu hết là người ta tụng để mà tụng chứ sống thì người ta không sống. Do tụng giới mà không sống thì không đúng, mà tụng giới là để nhắc nhở chúng ta mà thôi, chứ không phải tụng giới để mà có hình thức tụng. Hầu hết giờ chúng ta nhìn lại, tụng giới thì có mà phạm giới thì không có ai nghĩ đến cái chỗ phạm giới, mà họ chỉ nghĩ đến đời sống thế gian cho nên toàn bộ giới tụng là có tụng chứ không sống đúng Giới luật của Đức Phật. Vì tụng giới là để kiểm điểm lại nửa tháng vừa qua mình có phạm phải một điều nào hay không? Để làm gì? Để xin ăn năn sám hối cho thanh tịnh.
Lẽ ra thì chiều 14 và 29 phải sám hối trước một vị tỳ kheo thượng thủ, tức là một vị tỳ kheo đắc giới thanh tịnh, thì mỗi vị đều phải đến với 1 vị tỳ kheo giới luật thanh tịnh và đắc giới đó mình phải xin phát lồ sám hối với vị đó trước, rồi sau đó thì tới ngày rằm, ngày 30 tụng giới thì mới đúng nghĩa. Còn ngày rằm và ngày 30 mà tụng giới là để nhắc nhở mình mà thôi. Còn sám hối là vị nào thấy mình trong nửa tháng có bị lầm lỗi với phạm một lỗi nhỏ nào đó, thì ngày 14 và ngày 29 chứ không phải là mình phạm lỗi rồi mình chạy lại mình xin sám hối liền đâu. Mình để suốt trong cái thời gian phạm lỗi đó mình ăn năn, mình suy tư, mình quán xét để cho mình cố gắng, mình khắc phục để không cho phạm cái lỗi đó nữa. Và đến ngày 14, ngày 29 mỗi tháng mình sẽ đến cái vị giới luật thanh tịnh, mình quỳ xuống, mình phát lồ, tức là mình khai ra những cái lỗi của mình cho vị ấy nghe, rồi mình xin với vị đó, mình hứa khả mình sẽ cố gắng khắc phục không cho phạm phải lỗi ấy nữa. Thì vị tỳ kheo mà giới luật thanh tịnh này hoan hỷ chấp nhận và hứa khả cho mình được sám hối ăn năn cái lỗi đó. Và vị khuyên mình những lời khuyên giúp cho mình càng ngày càng tiến tu hơn, càng giữ gìn giới luật nghiêm túc hơn. Những vị tỳ kheo giới luật thanh tịnh này có đầy đủ uy lực của họ trong giới luật cho nên lời khuyên của họ làm chúng ta không bao giờ còn phạm phải cái lỗi đó nữa. Còn nếu mà không được bậc tỳ kheo thanh tịnh giới như vậy thì chúng ta khó mà khắc phục được những lỗi nhỏ trong giới luật của Phật.
Ngày xưa người ta tụng giới bằng chữ Tàu, tức là tiếng Hán đó, vì lúc bấy giờ tu sĩ của chúng ta thời trước thì họ giỏi tiếng Hán. Còn bây giờ mà đọc tụng bằng tiếng Hán thì tu sĩ của chúng ta không có hiểu, do vì vậy mà các bậc tiền bối của chúng ta, tức là các bậc hòa thượng của chúng ta cũng hiểu biết chỗ đó cho nên họ dịch ra tiếng Việt để khi tụng chúng ta hiểu ngay liền cái nghĩa. Mà không còn phải ngồi đó mà không hiểu, thì tức là nghe tụng giới mà không hiểu thì chúng ta sẽ ngủ gục đi. Khi mà ngồi nghe giới không có nghĩa là ngồi đó mà nhiếp tâm ở trong thiền định, hoặc là nhiếp tâm ở trong câu niệm Phật, mà phải nghe, nghe và hiểu rất rõ những giới luật của Phật để xem coi mình có phạm cái tội nào trong giới luật đó. Chớ không phải ngồi khi mà nghe người ta đọc giới mà mình ngồi đó mình nghe với cái tâm nhiếp không cho nó ra khỏi hơi thở, cũng không cho tâm hiểu biết cái gì mà giới luật hết, luôn luôn hoặc là niệm Phật, hoặc là lần chuỗi thì cái điều đó là điều sai, không đúng. Vì trong giờ tụng giới để mà chúng ta nghe từng giới coi chúng ta có phạm phải những lỗi nào, và đồng thời càng nghe nhiều giới chúng ta mới thấm nhuần được cái giới luật của Phật.
Vì sao Phật chế Giới?(BBT:CĐ,02B,E00:46:38)
1.(BBT:CĐ,02A,B00:00:00) Vì các Thánh Tăng sợ về sau chư tăng sanh tội lỗi.
Nghĩa là trong thời của đức Phật, có một thời tất cả chư Tăng không có phạm Giới. Sau này thì chư Tăng phạm Giới do đó Phật mới chế Giới. Mà nếu không có Giới thì không có sự kềm thúc cho nên họ dễ bị phạm giới.
2. Vì các Tỳ kheo bị phạm tội nên Phật tùy cơ mà chế Giới.
Mỗi khi muốn kiết một Giới nào, trước hết Ngài quở trách người phạm giới rằng: Việc ông làm là quấy, không phải oai nghi, không phải sa môn, không phải tịnh hạnh, không phải hạnh tùy thuận, ông không nên làm như thế. Từ nay về sau các Tỳ kheo kiết giới gồm đủ 10 nghĩa như sau. Nghĩa là cái sự kiết giới đó nó giúp cho giáo đoàn như thế nào thì nó có 10 điều kiện của nó như thế này:
1. là chỉnh đốn chư Tăng.
2. khiến cho chư Tăng hoan hỷ.
3. khiến cho chư Tăng an lạc.
4. khiến cho người chưa tin sanh lòng tin ở Giới.
5. người đã tin khiến cho tăng trưởng lòng tin hơn thêm.
6. điều phục người khó điều phục.
Nghĩa là lấy giới mà điều phục người, tức là cái người mà hay còn phạm giới, tâm còn phóng dật, lăng xăng theo dục lạc thế gian, khi mà được kiết giới thì điều phục được họ, họ bỏ những cái tâm phóng dật đó.
7. người biết xấu hổ được an lạc.
Nghĩa là giúp cho cái người chưa biết xấu hổ, chưa biết tàm quý đó, chưa biết sợ hãi lỗi nhỏ họ sẽ biết sợ hãi và biết xấu hổ. Cho nên từ đó họ sẽ được an lạc.
8. đoạn nghiệp hữu lậu đời hiện tại
Nghĩa là cái người biết giữ gìn giới luật là họ đã đoạn dứt được cái nghiệp hữu lậu ngay trong cuộc sống của họ hiện tại. Nghĩa là cái người giữ gìn giới luật thì trong hiện tại họ không tạo ra lậu hoặc mới. Cho nên họ sống được yên ổn, được thanh tịnh.
9. đoạn nghiệp hữu lậu đời vị lai
Nghĩa là cái người giữ gìn giới luật nghiêm túc không bị vi phạm, thì cái lậu hoặc của đời vị lai, tức là đời kế tới không còn có nữa. Gọi là đoạn dứt cái nghiệp hữu lậu đó.
10. khiến chánh pháp được cửu trụ
Nếu mà 10 điều này mà người tu sĩ giữ gìn trọn vẹn thì Phật pháp sẽ mãi mãi trường tồn, cửu trụ, không có bao giờ mà mất.
Giới tướng của Tỳ kheo có 250 điều, Tỳ kheo ni có 348 điều. Bắt đầu từ vườn Lộc Uyển cho đến cuối cùng nơi Hạc Thọ, Phật đã từ kim khẩu, tức là cái miệng của Phật nói ra, trong trạng thái tịch tĩnh, thấy xa ba đời, cùng vô biên hữu tình xoay quay 3 cõi, với lòng từ bi vô lượng, Ngài đã xây dựng nền tảng giáo pháp rất kiên cố. Nghĩa là Ngài đặt ra 250 giới, 348 giới, là nền tảng Giới luật rất kiên cố cho tu sĩ của chúng ta đời sau. Dù trải qua bao thời gian vô cùng, không gian vô tận, Giới pháp này vẫn có giá trị tối thượng và dẫn đầu cho các hành giả tiến bước vững chắc trên giác lộ giải thoát. Đó là các nhân duyên. (...)
Bây giờ phần mà kiết giới Baladi
Quý vị nhớ ghi kỹ đây là cái phần mà đức Phật đã kiết cái giới. Bắt đầu cái giới thứ nhất, quý vị nhớ cái giới thứ nhất, giới thứ nhất là giới hạnh bất tịnh.
Nghĩa là cái hành động làm cho không thanh tịnh. Vậy thì cái hành động làm cho không thanh tịnh này như thế nào? Đây Phật sẽ giải thích cho chúng ta thấy, và cái trường hợp nó xảy ra như thế nào mà Đức Phật chế cái giới này. Vì sao Phật kiết giới này? Vì khi Phật thành đạo, giáo hóa trong 12 năm đầu chúng tăng đều thanh tịnh. Nghĩa là 12 năm đầu đức Phật không có kiết giới, là vì những người tu trong 12 năm đầu đó là những người rất là thanh tịnh, họ không phạm những lỗi lầm, họ luôn luôn dùng thánh phòng hộ 6 căn của họ. Mắt họ, mũi họ, tai họ, tất cả 6 cái căn đó họ đều phòng hộ rất là nghiêm túc. Cho nên họ không phạm phải một cái lỗi nào cả. Vì vậy mà Phật không chế giới. Cho nên Phật cùng vô sự tăng. Đến năm thứ 13 trở đi, các pháp hữu lậu, phiền não lậu hoặc sanh khởi dần dần nơi chúng tăng nên Ngài mới tùy theo chỗ vi phạm mà kiết giới. Bởi vì 12 năm đầu là tất cả những bậc tu hành trong rừng trong núi, họ xả bỏ cái tâm thế gian của họ, họ xả thật sạch, không phải như chúng ta vừa tu mà đời thì chưa chịu bỏ, mà đạo thì muốn tu thêm. Cho nên chúng ta xét thấy qua đến năm thứ 13 đó thì người ta thấy đạo Phật rất là vi diệu, cho nên người ta có theo đạo Phật tu rất nhiều trong năm thứ 13. Do sự tu tập quá nhiều này, cho nên có những người chưa có hiểu biết sâu sắc, chưa có bỏ sạch cuộc đời, cho nên đời vẫn còn mà đạo thì muốn thêm. Vì vậy mà họ bị phạm phải những lỗi lầm, sai phạm làm mất thân tâm thanh tịnh. Do cái chỗ đó mà Phật mới kiết giới.
Ngài Anan bạch hỏi: Tại sao 12 năm đầu Phật không kiết giới, đến năm thứ 13 Ngài mới kiết giới?
Phật bảo: 12 năm đầu Ta không kiết giới, vì chúng tăng còn thanh tịnh, ví như cái áo còn lành lẽ. Nhưng qua năm thứ 13 trở đi Ta mới kiết giới là vì chúng tăng vọng động, thường sanh tội lỗi ví như cái áo bị rách cần phải vá cho lành.
Không phải chư Tăng theo đức Phật một thời gian tu tập rồi nó sanh vọng động, không phải đâu. Cái lý do, cái chỗ mà người viết bài này chắc có lẽ là chưa hiểu. Theo Thầy hiểu là vì sau 13 năm đó, là cái số tu sĩ mà xa lìa tâm thế gian thì nó không còn nữa. Bởi vì các bậc đó người ta đã quy tụ với đức Phật người ta tu, cho nên người ta được thanh tịnh tâm, từ đó người ta tu nhanh chóng, người ta nhập định rất dễ dàng. Sau 13 năm này thì người ta thấy đạo Phật phát triển, ai cũng tôn trọng, tôn kính đạo Phật cho nên có một số người ham tu theo đạo Phật nhưng họ không ý thức được do cái chỗ tu tập đó họ chưa có lìa bỏ cái giai đoạn thứ nhất như Thầy đã thấy trong giáo án. Vì thế mà Phật ghi cái giáo án này rất kỹ lưỡng, rất là rõ ràng qua những bài kinh mà Thầy thấy tuyệt diệu.
Có hiểu được như vậy chúng ta mới thấy 13 năm sau này có một số người theo Phật tu hành mà đời thì chưa bỏ, mà đạo thì muốn thêm, cho nên nó mới có những sự xảy ra phạm Giới. Vì vậy mà bắt đầu Phật mới chế giới. Khi bấy giờ có ông Tu Đề Na, con ông trưởng giả Hảo Tâm xuất gia, bà mẹ muốn cho có cháu nối dòng, bảo ông Tu Đề Na trở về với vợ 3 hôm. Ông Tu Đề Na không dám cãi lời mẹ, trở về nhà, làm như lời mẹ dạy. Khi đó lại có người con ông Bạc Xà, dục tâm bồng bột lén về nhà ở với vợ. Các tỳ kheo hay biết bạch Phật. Phật kêu cả 2 đến quở trách nói rằng: thà để nam căn vào miệng rắn độc mà chết chớ không nên phạm bất tịnh hạnh như vậy. Người nào theo đạo giải thoát của Ta phải luôn luôn nghĩ dục như là xương khô, nghĩa là cái xương khô mà con chó gặm, nước miếng nó chảy ra mà nó cho đó là ngon, chớ không có cái gì là ngon cả. Nếu có tỳ kheo nào không giữ tịnh hạnh nữa được ta cho xả giới về nhà, chừng nào muốn xuất gia tu tịnh hạnh ta sẽ cho thọ giới lại.
Đó là lời đức Phật dạy 2 tỳ kheo phạm giới. Một người thì do cái tâm còn dục mà về nhà lén ở với vợ con, một người thì do mẹ ép bảo là phải sinh con nối dòng rồi mới được đi tu. Thì 2 người đều không được đức Phật chấp nhận, đều cho sai hết. Chớ không phải do cái chỗ cho rằng bà mẹ bắt buộc mà cho cái chỗ đó đúng. Cho nên trong giới luật này, những câu chuyện như vậy chúng ta cần phải hiểu cho rõ, để chúng ta biết được cái chỗ chúng ta có làm chủ hay không?
Một vị thì không làm chủ trở về làm cái hạnh bất tịnh. Còn một người thì có cái sức làm chủ, nhưng vì không dám cãi lời mẹ, gọi là hiếu hạnh để nối dõi tông đường của mình, đối với đạo Phật thì điều đó là điều sai. Nhưng đối với một tôn giáo khác thì đó là hiếu hạnh, nhưng đối với đạo Phật thì đó không phải là hiếu hạnh. Cho nên ở đây Phật mới quở hai vị đó, chứ mà nếu vị kia mà đã hiếu hạnh mà đức Phật cho đúng thì chắc chắn là không quở. Nhưng đằng này Phật quở hai vị cả hết.
Trong giới này có câu: cho đến cùng súc sanh, có nhân duyên như thế này: khi bấy giờ có các tỳ kheo khất thực đi ngang qua cụm rừng, gặp một con khỉ cái to, nó ra dáng khiêu chọc. Tỳ kheo nhận biết rằng trước chắc có 1 tỳ kheo nào chung cùng giao thông với nó. Nên các thầy tỳ kheo về bạch Phật, Phật cho họp chúng và kiết giới này. Cho nên trong luật Phật cấm tỳ kheo không được ở chung nhau trong 1 nhà, ở chung với 1 người nữ, không hạn già hay là bé nhỏ, hay là một con súc cái, 1 con vật cái. Nghĩa là một vị tu sĩ không được ở chung một người nam với một người nam, cũng như một người nữ với một người nam, cũng như không có phân biệt người đó già tôi còn nhỏ hay người đó còn bé mà tôi là già thì không được, Đức Phật cấm. Bởi vì già vẫn còn bất tịnh hạnh, mà trẻ cũng bất tịnh hạnh. Và ở chung với một con súc vật cái nó cũng khởi sanh tâm dâm dục. Cho nên Đức Phật cấm không được ở chung với con vật cái, không được ở chung với người nữ, không được ở chung với người già nữ, không được ở chung với người gái bé nhỏ nữ. Đó là giới luật của đức Phật cấm như vậy, vì nó có những trường hợp xảy ra mà chúng tỳ kheo đã trình cho Phật, do đó Phật mới chế cái giới như vậy.
Tỳ kheo ở chỗ vắng một mình cũng dễ phạm giới. Trong khi chúng ta thường thường là những vị tỳ kheo ngày xưa hay ở trong rừng núi, những chỗ thanh vắng một mình mà nhất là ở chỗ thanh vắng một mình mà không có một vài vị cùng ở với nhau thì chúng ta dễ phạm giới này lắm. Cho nên đối với một tỳ kheo tăng cũng như một tỳ kheo ni, nói chung là một vị tu sĩ nữ và một vị tu sĩ nam đều là phải có ở chung nhau nhưng không được ở chung nhau trong một nhà. Mà ở riêng ra, ở chung nhau ít ra cũng có từ 2 người chứ không thể nào ở một mình. Vì ở một mình dễ phạm phải giới dâm này.
Xưa có một vị tỳ kheo tu trong núi, lúc ngồi nhập định, ma hiện một người nữ đẹp đến gần bên tỳ kheo ấy, tỳ kheo liền xuất định đứng dậy, người nữ dang ra đi, nàng đi mau dần thì tỳ kheo cũng đi mau dần, nàng chạy tỳ kheo cũng chạy theo. Người nữ hóa ra con ngựa cái nằm chết, tỳ kheo ấy không ngăn lòng dục, bị phạm giới. Cho nên tu ở chỗ vắng cần phải 2 người nhắc bảo nhau mới được.
Cho nên đời sống của quý vị, giới luật mà được đặt ra, thì quý vị phải hiểu rằng cái người cất thất ở một mình dễ dàng tu hành chứ thật ra rất là nguy hiểm. Vì ở một mình tu hành thì mình khó mà có thể ngăn ngừa được cái phạm giới bất tịnh hạnh này. Nhưng tu hai người cũng chưa chắc, còn có khi còn phạm giới. Như xưa có 2 vị tỳ kheo tu trong núi, 1 vị nằm ngủ trưa, một vị ra ngoài rừng. Một vị ngủ trưa vì ngủ mê, tiều nữ lén làm bậy, tiều nữ tức là người nữ đi chặt đốn củi. Vị ra ngoài về thấy liền đuổi đi, tiều nữ hoảng chạy mà bị rơi xuống hố mà chết. Ngài Upali cứ theo luật mà kết tội, một vị phạm giới dâm, một vị phạm giới sát. Ở đây câu chuyện này ở trong kinh Duy Ma Cật, cho nên câu chuyện này nói như vậy. Theo đúng lẽ thì chúng ta thấy nó không hợp, không đúng, nhưng mà trong kinh giới lại đem cái câu chuyện này ra cho nên buộc lòng Thầy phải giải thích để cho quý thầy hiểu. Khi một vị mà nằm ngủ trưa mà một người tiều nữ đến lén làm cái việc bất tịnh hạnh đó thì chắc chắn là cái ông này phải thức chứ không thể ngủ. Và cái tâm của người tu sĩ này vẫn còn đắm trong cái dục lạc của cái dâm này chứ không phải không. Cho nên 2 người này mới làm bậy. Vì vậy vị đi ra rừng (như đi kinh hành) về mới gặp thấy thì cô này cô hoảng sợ cô chạy đi, vì quá sợ mà rớt hố mà chết. Thì theo cái luật sát sanh thì đâu phải cái vị tu sĩ ở ngoài rừng kia mà đuổi theo cái vị này. Nhưng mà vị này là hoảng sợ chạy và cái vị kia là phải phạm vào cái tội dâm và đồng lõa với tiều nữ đó chứ không phải không đồng lõa. Vì nếu mà ngủ mê làm sao dâm dục được. Cho nên phải có một sự đồng tình ở trong đó mới có làm bậy. Nhưng mà khi làm bậy thì cái vị này, vị đi về, thấy, thì cái cô tiều nữ này phải sợ mà chạy, chạy mà rớt chứ không lý nào mà cái vị tu sĩ này lại đuổi theo cái tiều nữ này, thì cái điều đó là không đúng. Là vì thấy giữa hai người này, cái người tu sĩ này họ vẫn thấy hai người phạm chứ không phải một người. Đó là một cái điều mà trong kinh viết câu chuyện này, theo Thầy thiết nghĩ nó không là một sự thật, chỉ là câu chuyện tưởng tượng nghĩ ra mà thôi. Cho nên ở đây chúng ta phải lấy một cái gì bằng sự thật nói ra, thì cái giới dâm này nếu một người không phạm dâm thì không ai làm gì mình được hết, dù là mình chết thì không ai mà vô tình mà bắt mình làm cái chuyện đó được.
Tại sao tỳ kheo để giới dâm ban đầu còn sa di để giới bất sát trước hết? Chúng ta thấy sa di thập giới, thì giới bất sát là trước hết mà giới dâm thì sau chứ không trước. Mà tại sao khi học về giới của tỳ kheo thì giới dâm lại trước. Ở đây, cái sự giải thích rất là đúng. Tỳ kheo vì tuổi vọng tâm thường phát khởi, tức là tỳ kheo phải 20 tuổi mới thọ giới tỳ kheo, cho nên cái tuổi đó thường là tuổi vọng tâm thường phát khởi, nên cái giới dâm là phải đứng đầu. Còn sa di thì tuổi trẻ ưa thích sát sanh, hay bắt bướm bắt chim, hay giết sâu giết bọ, giết kiến, cho nên giới sát phải để cho tuổi sa di.
Thấy như vậy là chúng ta biết Phật có một cái tâm lý mà chế giới rất cụ thể và rõ ràng chớ không phải như câu chuyện ở trong kinh Duy Ma Cật, mơ hồ, một cách rất là mơ hồ. Một tiều nữ đến hiếp dâm một vị tu sĩ đang ngủ mà vị tu sĩ không biết à? Điều đó là điều không thể nói được. Do tư duy của chúng ta thì chúng ta thấy những câu chuyện như vậy là câu chuyện không đúng sự thật. Còn ở đây Phật chế giới tỳ kheo, giới dâm thì đi đầu, mà cái giới cho sa di là giới sát đi đầu thì chúng ta thấy rất hợp tâm lý của từng người một, như vậy là chúng ta biết Phật có một hiểu biết về tâm lý con người rất là sâu sắc, đó là đúng sự thật.
Vì sao không được ở chung? Vì tỳ kheo phạm giới dâm như người thế tục nên không được ở chung, bị dứt bỏ ngoài bể Phật pháp. Nghĩa là cái người mà phạm cái giới đó rồi thì đương nhiên là phải bị đứt đầu, bị bỏ ra ngoài không có cho tu học nữa được.
Nếu chúng sinh trong 6 đường tâm không dâm thì không theo sinh tử nối nhau. Nếu chúng ta mà tâm không ham dâm thì chắc chắn là sinh tử chúng ta đoạn dứt. Mà vì cái tâm dâm dục đó là con đường sanh tử của con người, của loài chúng sanh. Người tu chánh định muốn ra khỏi trần lao nếu tâm dâm không chừa thì trần lao không thể ra khỏi được. “Dâm tâm bất trừ trần bất khả xuất”. Dù có nhiều trí tuệ thiền định hiện tiền nếu không đoạn dâm quyết lạc đường ma. Thế nên người tu hành muốn chứng thành đạo quả mà không đoạn trừ tâm dâm thì như người lấy cát, sạn mà nấu cơm thì làm sao mà thành cơm được. Dù ra công nấu một trăm năm nấu cũng không thành cơm, cát sạn cũng hoàn cát sạn, vì nhân nào quả nấy. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy ông Anan: “ Xuất gia giã huyễn đoạn trừ dâm dục, tất sử trừ dâm cơ, thân tâm câu đoạn, đoạn tánh diệt vô, bồ đề diệt khả hy kí”. Nghĩa là người xuất gia phải nguyện đoạn trừ dâm dục ắt phải trừ duyên dâm, thân tâm đều dứt cho đến tánh biết dứt tâm ấy cũng không còn thì quả Phật mới có thể trông mong được.
Thân tâm câu đoạn là sao? Ví như 2 ông già nằm chung 1 giường, không ai chạm ai và cũng không ai động tâm cả. Giới này có đủ 4 duyên mới thành tội.
1. Chơn thật tỳ kheo (theo giới pháp mà đã được đắc thì mới được gọi là chơn thật tỳ kheo).
2. Tình cảm đôi bên còn nguyên vẹn, người và súc sanh còn chưa hư nát.
Nghĩa là cái người tuổi trẻ mà chưa có bất tịnh lần nào đối với người nữ, nó còn nguyên vẹn, thì sự tu hành nó mới tốt. Còn nó chưa nguyên vẹn thì phải cố gắng đừng phạm phải nữa thì nó mới tốt.
3. Để vào nữ căn quá đầu sợi lông.
4. Tâm biết thọ vui như đói gặp thức ăn, như khát gặp nước uống. Trái lại thì như ăn phẩn nhơ, như tắm sắt nóng áp vào mình…
Ở đây 4 cái duyên này nếu mà chúng ta phạm phải một cái. Ví như bây giờ chơn thật tỳ kheo, mà chúng ta chưa phải là chơn thật tỳ kheo thì coi chừng chúng ta sẽ phạm phải cái giới này. Tình cảm đôi bên còn nguyên vẹn, nghĩa là chúng ta chưa có cái gì hết mà chúng ta để cho nó phạm phải thì chúng ta không thể thoát khỏi cái tội Ba la di. Để vào nữ căn quá đầu sợi lông sợi, nghĩa là chúng ta thấy cái cọng lông rất là nhỏ thế mà chúng ta để nam căn vào nữ căn mà chỉ quá cái sợi lông thì chúng ta cũng phạm giới này rồi chứ chưa phải là cái gì. Tâm mà thích thú ở trong cái sự giao hợp đó thì người đó phạm phải giới Ba la di rồi. Nghĩa là nói về cái hành động thì không quá cái đầu sợi lông, mà nói về tâm thì không được vui theo cái dục lạc của cái dâm dục đó thì mới không có phạm tội Ba la di.
Cho nên tâm mà chơn thật mà đắc giới thì không phạm phải cái tội này thì nó không phạm tội Ba la di. Còn tình cảm đôi bên giữ trọn nguyên vẹn thì không phạm cái tội Ba la di. Mà không trọn vẹn trong tình cảm, mới bắt đầu trẻ tuổi cũng như một người mới bước đầu vào đạo tu hành phải giữ trọn vẹn cho bước đường tu hành của mình. Tâm phải nguyên vẹn, khi bắt đầu vào đạo thì không được còn phạm phải cái lỗi đó nữa. Mà nếu còn phạm phải cái lỗi đó thì đương nhiên được xem là phạm vào cái tội Ba la di. Mà cái tội Ba la di là cái tội không thể cứu chữa được vì con đường của đạo Phật là con đường diệt dục. Diệt cái tâm dâm dục chứ không phải là tà dâm đâu. Bởi vì một người tu sĩ mà còn có tâm dâm dục là còn tái sanh luân hồi. Vì con đường sanh tử là con đường dâm dục chứ không phải con đường nào xa lạ. Cho nên người tu sĩ theo đạo Phật rất cẩn thận ở trên con đường dâm dục này. Phải tránh xa, phải lìa nó.
Cho nên, do đó mà ông Anan hỏi Phật: chúng con là những tu sĩ trẻ tuổi đối với giới nữ chúng con phải làm sao?
Thì ông Phật dạy, bảo: đừng gặp.
Quý thầy nhớ: đừng gặp. Nếu mà gặp thì chúng ta nó sẽ có sự cám dỗ chúng ta.
Cho nên trong kinh Tăng Chi, Phật nói: Ta không thấy một pháp nào cám dỗ và lôi cuốn hấp dẫn mạnh bằng cái sắc của người nữ, bằng cái âm thanh, bằng cái tiếng nói, bằng cái miệng cười của người nữ. Nó hấp dẫn, nó lôi cuốn chúng ta rất mạnh. Không có pháp nào mà mạnh hơn.
Cho nên ông Anan hỏi Phật, Phật nói đừng gặp thì ông Anan hỏi thêm Phật. Lỡ gặp rồi thì làm sao?
Phật nói: đừng nhìn.
Lỡ mình đã gặp thì đừng có nhìn nó.
Ông Anan nói: lỡ nhìn thì làm sao?
Phật nói: đừng nói.
Đừng nói chuyện với nó.
Ông Anan nói: lỡ nói chuyện thì làm sao?
Đức Phật nói:Hãy quán nó như là mẹ, là chị, như là những người thân ruột thịt của mình.
Thì vua Ba Tư Nặc nói: như quý thầy thì quán như vậy được, còn chúng con là cư sỹ chúng con có mẹ, có chị, có em chúng con quán làm sao như vậy được. Họ là những người xa lạ.
Cho nên đức Phật nói: quán bất tịnh.
Thì quý thầy phải hiểu rằng cái không gặp nó quý nhất cho quý thầy, chứ cái quý thầy quán mẹ chị em và bất tịnh đó là trễ quá rồi. Bệnh quý vị đã trầm kha rồi, không thể cứu chữa được.
Vậy thì không gặp thì quý vị có nên sống độc cư ở chỗ nào không?
Cho nên quý vị phải sống độc cư.
Vì vậy mà Thầy ở đây có giới luật nòng cốt của Tu viện là sống độc cư. Không cho quý vị đi tới đi lui, không cho quý vị nói chuyện để cho quý vị tránh xa những điều kiện mà quý vị có thể gặp.
Ở đây Tu viện quá là hẹp cho nên Thầy không có những cơ sở riêng tư được, chứ lẽ ra thì Thầy phải thành lập những cơ sở riêng tư. Để làm gì? Để nam theo nam, mà nữ theo nữ.
Vì những hình ảnh của người nữ dễ cám dỗ tâm của quý vị. Mặc dù một người già dù 80 tuổi cái tâm đó vẫn còn chứ không phải nói tui già rồi tui hết. Nó vẫn còn như một người tuổi trẻ. Cơ thể họ có thể suy yếu chớ còn cái tâm họ không suy yếu. Thầy xác định như vậy là qua nhiều kinh nghiệm của kinh sách đã nói đến cái tâm dục của người dù họ già đến mức tuổi nào họ vẫn còn dâm dục.
Nếu người phạm mà có lòng tin giới, sợ hãi, không che dấu, buồn rơi huyết lệ. Nghĩa là người phạm vào giới đó mà buồn khổ mà rơi đến máu, nước mắt mà như máu đó thì cái người này có thể ăn năn, có thể chừa cái lỗi Ba la di này được. Còn cái người mà không thấy buồn khổ, không thấy gì hết, mà che dấu thì cái người này hoàn toàn là phải ra khỏi tăng đoàn, ra khỏi giáo đoàn chứ không thể ở chung chỗ chư Tăng thanh tịnh mà tu hành được.
Cái người mà biết buồn khổ rơi huyết lệ như vậy đó thì có thể trong đại chúng, mới có thể cho vị ấy 3 phen cầu khẩn ai sám (tức là buồn khổ mà sám hối, tha thiết mà sám hối, khóc thương mà sám hối) tăng bạch tứ Yết Ma thì mới có tu tập lại được.
Ở trong các pháp Yết Ma khi cho một người phạm giới này biết ăn năn sám hối chừa bỏ như vậy thì nó phải có 35 việc mà người đó phải chấp nhận:
1. Người đó dù là tu sĩ cho đến suốt đời họ, họ không được trao giới cụ túc cho ai hết.
Nghĩa là họ là một người tu sĩ như quý thầy, bây giờ được nghe Thầy mà nói giới, mà quý thầy không hiểu biết quý thầy phạm là quý thầy tội, là quý thầy chịu. Bởi vì quý thầy đến đây là quý thầy quyết tìm con đường giải thoát. Cho nên Thầy mới đem giới này ra mà Thầy giảng cho quý vị, mặc dù quý vị còn chiếc áo người cư sỹ nhưng quý vị đã quyết tìm đến đây để học đạo. Cho nên Thầy đem những giới luật của Phật ra là làm cho quý vị thanh tịnh thân tâm, để cho quý vị không có phạm phải. Mà nếu quý vị thấy rằng mình không thể thanh tịnh thân tâm mình được thì không nên dự nghe những buổi thuyết giảng này. Tại sao vậy? Tại vì mình chưa phải là người quyết tâm đi con đường của đạo giải thoát. Còn mình quyết tâm đi con đường đạo giải thoát thì ngay giới này là giới hoàn toàn là phải cấm bặt, không có được cho vi phạm. Cho nên quý vị mới được nghe giới này và được giữ gìn giới này. Còn nếu không thì quý vị nghe mà quý vị không làm thì đương nhiên là quý vị phải chịu tội lỗi, quý vị đọa địa ngục. Sau này quý vị trôi lăn mãi trong con đường sanh tử luân hồi và không bao giờ gặp lại Chánh Pháp để tu tập. Bởi vì một người hiểu giới luật mà phạm giới luật là tội nặng hơn. Còn một người không hiểu giới luật mà phạm thì người đó coi như không tội.
2. Không được cho người y chỉ.
Nghĩa là không được cho người nào xin theo mình mà tu tập, không được cho người đó y chỉ theo mình được. Nghĩa là có người đến xin mình làm đệ tử, làm học trò mình. Mà mình là người đã phạm giới, mà đã xin chư tăng cho mình để giữ trọn. Thì người tu sĩ đã phạm giới đó sau này không còn y chỉ cho người nào được hết.
3. Không được nuôi sa di.
Nghĩa là không được nuôi những người tuổi trẻ vào tu.
4. Không được giáo giới tỳ kheo ni.
Nghĩa là không được đem giới luật thuyết giảng cho tỳ kheo ni. Bởi vì thành tích của mình, mình nói ra người ta không tin mặc dù mình sám hối, mình sửa mình, mình thanh tịnh rồi nhưng mà mình vẫn còn cái tỳ vết đó cho nên mình không đủ uy tín, lòng tin của người khác. Cho nên mình giáo giới ra là không được. Tức là người được cho ở lại tu sửa mà ăn năn sám hối thì người đó không được đem giới luật hay giáo pháp Phật mà dạy cho người khác, chỉ có lo tu sửa mình mà thôi.
5. Nếu được sai rồi cũng không được dạy.
Nếu được có người sai bởi thấy mình có khả năng giảng thuyết hay hoặc là nói giới giỏi thì ở trong Tăng nếu có người sai mình đi giáo giới, dạy người ta thì mình cũng từ chối ngay liền, không được dạy nữa. Chứ không phải là không được sai.
6. Không được vì Tăng thuyết giới.
Người tu sĩ phạm giới đó bây giờ ăn năn sám hối rồi, trải qua 5 năm 10 năm 20 năm nhưng họ không được thuyết giới cho Tăng.
7. Không được vấn đáp tỳ ni trong tăng.
Nghĩa là không được hỏi giới luật ở trong chúng tăng.
8. Không được làm người tri sự của Tăng.
9. Không được làm người đoán sự của Tăng.
Nghĩa là mọi việc ở trong Tăng đoàn dự định cái này cái kia thì người này không được có ý kiến gì trong Tăng đoàn hết.
10. Không được làm người sứ mạng cho Tăng.
Nghĩa là mình không được sai đi làm thay mặt cho vị Tăng này, vị tăng kia.
11. Không được vào tụ lạc sớm và về tối.
Nghĩa là người tu sĩ này đúng giờ thì đi xin, mà không đúng giờ thì không được đi ngồi lê ngồi la mà nói chuyện với người này người kia thì không được. Mà xin rồi thì về chớ không được mà về tối.
12. Nên gần gũi các tỳ kheo giới luật thanh tịnh.
Cái vị tu sĩ này mà phạm giới này thì luôn luôn sống sát bên cạnh các vị tỳ kheo giới luật thanh tịnh.
13. Không nên gần gũi bạch y.
Tức là người tu sĩ phạm giới này không được gần gũi cư sỹ.
14. Nên thuận theo pháp tỳ kheo.
Nghĩa là luôn luôn thuận theo giới luật của Phật, của các tỳ kheo.
15. Không được nói chuyện của người đời.
Nghĩa là người tu sĩ phạm giới này không được đem chuyện người đời mà nói với người này người kia, tức là chuyện phiếm đó.
16. Không được trong chúng tụng luật.
Người này không được cầm luật mà tụng.
17. Không được phạm lại giới này.
Nghĩa là người này hoàn toàn không được phạm lại giới dâm này nữa.
18. Không được phạm các tội khác.
Nghĩa là tất cả các tội khác không được vi phạm nữa.
19. Không được ngăn chúng tăng Yết Ma.
Nghĩa là khi chúng tăng hợp nhau làm pháp Yết Ma, thì người này có ý kiến như vầy như vầy thì không được mà ngăn chúng tăng. Người ta làm gì thì mình hoàn toàn không có ý kiến gì hết.
20. Không được chê người làm Yết Ma.
Nghĩa là người làm Yết Ma đó có sai, có trật thì mình cũng không được chê là người đó sai.
21. Không được thọ sự trải tọa cụ cho tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình không được trải tọa cụ một vị chơn tu.
22. Không được nhận nước rửa tay chân nơi tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là một vị tỳ kheo thanh tịnh rửa tay chân rồi, rối mình mới nhận nước đó để rửa tay thì không được.
23. Không được nhận nước uống nơi tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là người tỳ kheo thanh tịnh uống xong rồi, nó còn thừa lại thì người kia không được uống nước đó nữa.
24. Không được để tỳ kheo thanh tịnh lau giày guốc.
Nghĩa là cái vị tỳ kheo thanh tịnh giới, mặc dù mình lớn tuổi, mình già nhưng mình có phạm phải lỗi đó, xưa kia mình có phạm phải lỗi đó. Bây giờ có một vị tân tỳ kheo họ mới đến nhưng mà người ta giới luật thanh tịnh, người ta không biết người ta lau giày guốc cho mình, người ta thấy mình già ở trong chúng do đó người ta làm cái công việc đó. Thì ngay đó là mình ngăn không để cho tân tỳ kheo mà chưa bị phạm giới đó lau giày guốc cho mình thì không được.
25. Không được nhận sự thoa chà nơi thân của một tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình là người già yếu, mình có bệnh đau, mình nhờ người khác cạo gió hoặc chà bóp cho nó bớt đau thì không được nhờ vị tỳ kheo dù vị đó mới vào nhưng mà người ta chưa phạm giới thì mình không được nhờ người đó xoa bóp cho mình.
26. Không được thọ lễ bái của tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình mặc dù là trưởng lão, mình già cả, nhưng mà vị tỳ kheo thanh tịnh mới vào đó thì mình không có để cho vị đó lễ bái mình.
27. Không được nhận sự đưa đón của tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình có đi đâu thì mình đi một mình chứ không để các vị tân tỳ kheo nhỏ tuổi đó đưa đón mình hoặc thế này thế khác. Tức là nói chung, vị tỳ kheo này khi phạm giới như vậy không có thị giả, không có người hầu hạ, luôn luôn phải sống một mình.
28. Không được nhận sự xá chào của tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình luôn luôn từ chối tất cả sự xá chào của người khác khi mình là người phạm tội. Mặc dù mình phạm tội cách đây 2 chục năm hoặc là 3 chục năm.
29. Không được để tỳ kheo thanh tịnh cầm y mình.
Nghĩa là cái y của mình mình mặc chớ bây giờ có 1 con kiến hay một con gì đó, mình đang vắt cái y của mình như thế này bỗng dưng có con kiến thì mình tháo ra mình nhờ cái vị tỳ kheo kia cầm cái y hộ mình thì không được. Mình để chỗ nào thì tự để chứ không nhờ vị tỳ kheo thanh tịnh cầm y của mình.
30. Không được nhận sự bưng bát của tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình không để bình bát cho một vị tỳ kheo trẻ tuổi thanh tịnh bưng dùm mình.
31. Không được làm pháp cử tội, làm pháp tự tứ, nói tội của tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình không có quyền kê tội của người nào. Mình là người có tội rồi, bây giờ dù là những vị tỳ kheo đó có tội mình cũng không được kê cái tội họ ra, nói cái tội họ ra. Để cho những người khác người ta thanh tịnh hơn, người ta tu trước mà thanh tịnh người ta kê, chứ mình không được quyền kê tội người ta ra.
32. Không được làm chứng cho người.
Nghĩa là người mà mà phạm giới này rồi thì mình không được làm chứng cho ai hết. Nghĩa là mình đã phạm rồi thì mình không có những quyền hạn ở trong tăng đoàn đó nữa. Mình chỉ còn được ở lại để mình tu để mình được giải thoát mà thôi.
33. Không được ngăn tỳ kheo thanh tịnh thuyết giới.
Nghĩa là khi một vị tỳ kheo thanh tịnh thuyết giới, mặc dù là người đó có thuyết sai đi nữa mình cũng không được quyền mà ngăn họ. Để cho những người khác người ta hiểu biết người ta ngăn chứ mình không được ngăn nữa.
34. Không được ngăn tỳ kheo thanh tịnh tự tứ.
Nghĩa là mình không có ngăn người khác làm lễ tự tứ.
35. Không được cùng tỳ kheo thanh tịnh cãi lẫy.
Đối với mình thì không được cãi lẫy ai hết.
Nếu tái phạm thì bị tẩn xuất ra khỏi nơi chúng tăng thanh tịnh, bị đuổi vĩnh viễn.
Nếu mà mình còn phạm phải 35 điều này, 35 sự việc này thì người đó bị tẩn xuất ra khỏi tăng đoàn. Cho nên thấy trong 35 điều này một người mà phạm phải lỗi về dâm dục rồi thì Thầy thấy ở trong chúng tăng không còn có cái gì đối với vị tu sĩ nữa hết.
Cho nên ở đây khi mà đã quyết tâm hướng về con đường thứ 2, về lộ trình thứ 2 của đạo Phật rồi thì chúng ta phải coi như giới dâm là một giới rất là vĩ đại cho cuộc đời tu hành của chúng ta. Vì đó là chúng ta đã quyết chấm dứt con đường sanh tử. Và con đường sanh tử tức là ở trong cái đường dâm dục đó chứ không phải ngoài đó, ngoài cái con đường dâm dục đó mà đi tìm con đường sanh tử thì không bao giờ có. Vì cũng sanh từ nơi đó mà cũng vì chết từ nơi đó chớ không phải cái chỗ nào khác hết.
Nếu tỳ kheo ni đồng phạm cũng như vậy. Thức xoa, sa di, sa di ni đồng phạm mắc tội Đột kiết la và cũng bị diệt tẩn. Nghĩa là tội Bất Định, tội Đột kiết la thì cái tội đó người ta vẫn có thể xét qua phạm vào cái tội Ba la di, thì người ta sẽ vẫn có thể đuổi chứ không thể nào mà tha thứ được.
Trường hợp không phạm ban đầu chưa chế giới. Lúc mà đức Phật chưa chế giới thì không có gọi là phạm. Cho nên trường hợp này chúng ta nghĩ rằng cái người mà đã học giới mà phạm, đã nghe được cái giới mà Thầy giảng rồi mà còn phạm phải cái giới đó thì coi như là phạm giới Ba la di. Còn người chưa nghe, chưa có biết giới thì đương nhiên là không có phạm giới. Cho nên ban đầu chưa chế giới thì đương nhiên là không phạm. Mà đã chế giới rồi, sau này tỳ kheo đã được nghe, được hiểu biết giới đó rồi thì đương nhiên người nào mà phạm phải đều là bị phạm hết, còn trước đó chưa chế giới ra thì chúng ta có phạm vẫn chưa phải là tội, cũng chưa phải có tội.
Si cuồng tâm loạn, tâm không thọ lạc vì bị bức ép khốn khổ, ngủ mê không hay biết gì cả.
Si cuồng tâm loạn là không phạm, là tại vì cái tâm điên khùng nó không còn sáng suốt không còn tỉnh táo nữa, như một người điên mà làm cái chuyện dâm dục thì người điên không có phạm.
Trong dâm dục đó mà tâm không thấy cảm giác thọ lạc thì người đó không phạm, còn có cảm giác thọ lạc thì người đó phải phạm.
Ngủ mê không biết thì không phạm, sự thật không có bao giờ có thể ngủ mê trong dâm dục được hết, cho nên cái này thì nó không đúng. Chỉ có chúng ta bị người ta bỏ thuốc mê thì chúng ta mới không hay biết. Còn vấn đề ngủ mê trên cái chuyện dâm dục mà không hay biết thì không thể nào xảy ra cái chuyện đó được.
Đó là cái không đúng, còn tất cả các cái khác thì có thể Thầy chấp nhận rằng đúng. Như ban đầu chưa chế giới thì không ai hiểu biết cái giới đó là phạm cho nên không có tội, còn chế giới ra rồi thì người nào phạm tức là người đó bị tội. Còn người điên khùng tâm loạn, họ không sáng suốt mà họ phạm vào cái dâm thì đó là không phạm. Còn cái tâm đang ở trong sự thọ lạc đó mà không cảm giác thọ lạc thì người đó không phạm, còn nếu có cảm giác thọ lạc trong đó thì người đó bị phạm. Còn cái sự ngủ mê thì không có cho nên ở đây bỏ cái chỗ ngủ mê.(BBT:CĐ,02A,E00:46:26)(BBT:BN,02,E00:54:48)
(BBT:CĐ,02A,B00:46:27)Đó là giới thứ nhất chúng ta đã học xong. Bây giờ chúng ta tìm hiểu thêm 10 điều quan trọng trong khi tu tập giới cụ túc.
1. Nhiếp thủ ư tăng:Nghĩa là những thiện nam, tín nữ trong thế gian có tâm tin Phật, đi xuất gia thọ giới cụ túc ở trong chánh pháp của đức Như Lai được gồm thu vào thành chúng thanh tịnh.
2. Linh tăng hoan hỷ:Nghĩa là ở trong pháp luật chân chánh tu phạm hạnh thanh tịnh khiến việc lành được tăng trưởng nên trong lòng thường vui mừng, hoan hỷ.
3. Linh tăng an lạc:Nghĩa là do vì sự vui mừng hoan hỷ nên mới được cái qủa vui thiền định tịch diệt, cũng nhờ tu phạm hạnh thanh tịnh mới trả được cái nợ áo cơm của đàn na thí chủ, tâm ta mới được an lạc, sung sướng, thanh thản.
4. Linh vị tín giải:Nghĩa là những người chưa được tin Phật, Pháp thấy chư Tăng tu phạm hạnh thanh tịnh mà sinh lòng tịnh tín nơi các vị Thánh tăng.
5. Vĩ tín giả linh tăng trưởng:Nghĩa là vì người đã sanh lòng tin phải khéo giữ cái niềm tin ấy cho được thêm nhiều.
6. Năm điều giả linh điều thuận:Nghĩa là có những người phạm giới, không biết xấu hổ nên dùng giới luật này mà (BBT:CĐ,02A,E00:48:04)...
(BBT:CĐ,03A,B00:00:00)
7. Tàm quý giả đắc an lạc: Nghĩa là, vì khiến những người tu phạm hạnh có biết tàm quý, có biết xấu hổ, khởi đem lòng nghi nan và hết sự tranh luận được yên ổn tu hành cùng nhau.
8. Đoạn hiện tại hữu lậu: Nghĩa là vì hiện tại mắc cái tâm phiền não làm cho không tu hành được tốt.
9. Đoạn vị lai hữu lậu: Nghĩa là những phiền não chưa sanh làm cho, đừng cho nó sanh, và nếu phiền não sanh lỡ ra rồi ta hãy cương quyết đoạn cho tận nguồn gốc.
10. Chánh pháp đắc cửu trụ: Nghĩa là do giữ gìn phạm hạnh, chánh giáo của Phật, Đức Như Lai được còn mãi mãi ở thế gian.
Mười món công đức ở đây trong mỗi giới đều có, cho nên trong mỗi giới đều hay sanh ra mười món công đức, công đức tốt như vậy.
(BBT:CĐ,03A,E00:01:04)
(BBT:BN,02,B00:54:49)
Bắt đầu bây giờ quý thầy niệm hồng danh đức Phật
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
(BBT:CĐ,03A,B00:01:05)Hôm nay chúng ta tiếp tục học giáo án của đức Phật, giai đoạn 1 mà Thầy đã giảng cho người cư sĩ, họ bắt đầu là họ thay đổi 6 nghề nghiệp họ không có làm, nhưng rồi họ sẽ tu cái gì đây? Nếu mà chúng ta bắt qua cái giai đoạn hai, là giai đoạn của những bậc xuất gia, cắt ái ly gia? Vì vậy mà người cư sĩ họ chỉ biết thay đổi nghề nghiệp thôi sao, cho nên hôm nay Thầy phải giảng đủ để biết được vị trí tu tập của người cư sĩ ở chỗ nào. Thay đổi nghề nghiệp đó là một điều chánh nghiệp để đưa họ làm những điều thiện, còn sự tu tập để cho đời sống của họ được sự an vui, được hạnh phúc ở trong gia đình cũng như đối với mọi người xung quanh, đem lại an vui cho nhau. Thì như vậy, những bài pháp của Phật có dạy cho người cư sĩ tu rất là rõ ràng chứ không phải dạy riêng cho những người tu sĩ xuất gia mà không có pháp cho người cư sĩ tu. Từ giới luật của các vị xuất gia cho đến giới luật của người cư sĩ tại gia đức Phật dạy rõ ràng chứ không phải không có. Nếu giai đoạn 1 mà chúng ta chỉ lướt qua có thay đổi 6 nghề nghiệp mà không dạy cách thức tu thì sợ e chúng ta sẽ có sự thiếu khuyết.
Cho nên bắt đầu bây giờ chúng ta trở lại giai đoạn thứ nhất để dạy cho người cư sĩ tu tập. Như vậy là chúng ta đi từng bước một, từ người cư sĩ cho đến người tu sĩ phải tu như thế nào cho đúng cách, nếu không khéo thì người cư sĩ họ cũng không biết pháp của họ tu cho nên họ tu lầm lạc sang pháp của người xuất gia. Rồi người tu sĩ lại cũng không hiểu pháp nào là của mình tu, do đó lại tu nhầm lẫn qua pháp của người cư sĩ.
Cho nên ở đây Phật dạy có sự phân biệt rất rõ ràng, nhưng dù sao chúng ta cũng phải hiểu rằng từ chiếc áo của cư sĩ nó sẽ trở thành chiếc áo của tu sĩ, vì vậy mà các pháp của cư sĩ đã tu tập hoặc sẽ tu tập thì người tu sĩ chúng ta phải tu tập, tu tập hết không có pháp nào của Phật dạy tu tập mà không tu. Vì chúng ta cũng từ chiếc áo của người cư sĩ để bước vào người tu sĩ chớ không phải chúng ta là người tu sĩ ở trên trời rớt xuống làm người liền được. Cho nên từ đó các pháp từ thấp đến cao, từ dễ đến khó nó rất rõ ràng và cụ thể.
Vì vậy mà bài pháp, giáo án hôm nay để giúp cho mọi người bắt đầu chúng ta tu từ chiếc áo cư sĩ chúng ta tu những pháp nào. Rồi đến giai đoạn của người tu sĩ thì chúng ta tiến tới những pháp nào sâu hơn, cao hơn. Để không khéo người cư sĩ họ không hiểu họ lại tu những pháp cao hơn, sâu hơn ví dụ như Bốn thiền. Thì không thể nào người cư sĩ thực hiện được pháp như Tứ thiền, tại sao vậy? Vì Phật nói tịnh chỉ các hành, mà Tứ thiền của Phật nhằm tịnh chỉ các hành ở trong nội thân của chúng ta. Mà cái người cư sĩ thì tâm, thân của họ nó chưa có được thanh tịnh. Vì có sự thanh tịnh Phật mới nói là tịnh, tịnh nó mới chỉ chứ không phải định chỉ. Tịnh là thanh tịnh, mà thanh tịnh ở đây chúng ta biết rằng cái pháp mà của người cư sĩ được tu nó mới làm cho tâm của họ thanh tịnh. Từ chỗ thanh tịnh đó họ mới ly trần, mới cắt ái ly gia, họ mới trở thành người tu sĩ, từ đó họ mới thực hiện được Bốn Thánh Định tức là từ Sơ thiền tới Tứ thiền. Chớ không phải Bốn thánh định này tu tập dễ dàng đâu, khi nào tâm chúng ta thanh tịnh, ngũ triền cái chúng ta đã đoạn dứt chúng ta mới thực hiện được Tứ thánh định.
Do vì vậy mà hiện giờ nghe nói đến tu thì người ta chuyên môn là ngồi thiền chứ người ta không biết là thứ thiền nào của người cư sĩ tu, thứ thiền nào của người tu sĩ tu. Phân biệt được rõ như vậy thì chúng ta mới thấy được giáo án của Phật đi từ thấp đến cao, từ dễ đến khó.
Trên giai đoạn tu tập thứ 2 này quý vị cần phải tư duy nhiều hơn để thấy rõ đời sống…
Thầy xin nhắc lại giai đoạn tu tập thứ nhất của đạo Phật, người mới bắt đầu đến với đạo phải không hành 6 nghề và còn phải tu tập những gì?
Phật dạy có bốn điều người cư sĩ tại gia phải rõ:
1. Thông hiểu những gì phải thông hiểu
Nghĩa là người cư sĩ khi đến với đạo Phật trước tiên họ cần phải tìm hiểu những gì cần hiểu của đạo Phật, mà tìm hiểu đúng pháp họ đang tu của người cư sĩ, chứ nếu mà họ tìm hiểu pháp xuất gia của người tu sĩ thì họ tu nhầm ở trên đó họ tu chẳng có thành công, chẳng có kết quả gì hết. Cho nên ở đây Phật dạy thông hiểu những gì phải thông hiểu. Những gì mà đáng thông hiểu của họ chứ không thông hiểu hết được. Mà phải thông hiểu ở góc độ, những pháp môn của người cư sĩ chứ không phải thông hiểu pháp môn của người tu sĩ, chẳng hạn như bây giờ 250 giới của tỳ kheo thì người cư sĩ không nên thông hiểu 250 giới đó mà nên thông hiểu 5 giới của chính mình, đó là thông hiểu những gì phải thông hiểu.
2. Trau dồi những gì phải trau dồi
Nghĩa là người cư sĩ khi đến với đạo Phật cái thứ nhất là phải thông hiểu những gì ở mức độ, vai trò của mình cần thông hiểu. Còn đến giai đoạn trau dồi thì những gì mình phải trau dồi thân tâm của mình như thế nào. Có những pháp để trau dồi, có những pháp phải thông hiểu, có những pháp phải trau dồi.
3. Dứt bỏ những gì phải dứt bỏ
Nghĩa là người cư sĩ khi đến với đạo Phật, đức Phật nói cái này phải bỏ là phải dứt bỏ chứ không có được còn dính dáng với nó. Cũng như người tu sĩ khi đến với đạo mà đức Phật đã dạy những pháp cần dứt bỏ thì hoàn toàn chúng ta cố gắng mà phải dứt bỏ, chớ đừng có mà không dứt bỏ nó thì không thể nào tiến tới con đường của đạo được.
4. Tu tập những gì phải tu tập
Nghĩa là có những pháp để tu tập, có những pháp cần phải dứt bỏ, có những pháp cần phải trau dồi và có những pháp cần phải thông hiểu.
Đó là bốn điều kiện khi chúng ta bước chân vào đạo Phật phải hiểu, nghĩa là trước tiên chúng ta phải thông hiểu sau đó chúng ta phải trau dồi thân tâm mình, rối kế đó chúng ta phải dứt bỏ những gì cần dứt bỏ, rồi đến những pháp môn mà hằng ngày cần phải tu tập. Thì đó là những điều chúng ta cần phải hiểu và thông rõ. Chứ nếu chúng ta không nắm vững được cái này chắc chắn chúng ta không biết đường lối đâu mà đi.
Như vậy khi thay đổi nghề nghiệp đời sống quý vị mới sống thiện, nghĩa là thay đổi nghề nghiệp ác đó để sống những nghề nghiệp thiện hơn, cho nên đời sống của mình bây giờ mới là sống thiện. Vì vậy mà người cư sĩ cần phải tu tập những cái gì?
Thứ nhất cần phải nghiên cứu tìm hiểu những lời của Phật dạy. Nghĩa là đầu tiên mà chúng ta, cũng như giai đoạn thứ nhất, ở chỗ này có 4 điều kiện mà chúng ta cần phải nắm cho vững, phải hiểu cho rõ. Thứ nhất, Phật dạy ở đây phải thông hiểu những gì cần thông hiểu. Vậy thì bây giờ chúng ta phải thông hiểu cái gì, đi tìm hiểu cái gì đây. Ở đây Phật dạy rất rõ là chúng ta phải tìm hiểu những cái gì. Tìm hiểu:
1. Tứ diệu đế
2. Thập nhị nhân duyên
3. Nghiệp
4. Thân ngũ uẩn
5. Tứ bất hoại tịnh
6. Tứ chánh cần
7. Tứ niệm xứ
8. Tứ thiền
9. Tứ như ý túc
10. Ngũ căn
11. Ngũ lực
12. Thất giác chi
13. Thập thiện
14. Nhân quả luân hồi
15. Tam minh[1]
16. Tứ vô lượng tâm
Đó là tất cả những cái pháp mà Phật dạy, người cư sĩ đến với đạo Phật cần thông hiểu những gì phải thông hiểu, tức là thông hiểu 16 pháp Phật đã nêu tên ra, lúc bấy giờ chúng ta sẽ đi tìm hiểu từng pháp đó như thế nào để chúng ta rõ ràng, coi có phải cái đó có hợp với mình không, có phải là ước vọng trên bước đường mình gửi thân tâm vào đó để tu hành không?
Cho nên khi mà nghiên cứu thông suốt được rồi, thấy nó phù hợp với ước vọng, nguyện vọng của mình thì người cư sĩ đó mới tiếp tục trau dồi những gì mà mình đã tìm hiểu được trong những pháp trau dồi. Chứ không phải bây giờ tôi ngồi thiền, nhập định hoặc nghiên cứu như vậy rồi tôi tu Tứ thiền hoặc dùng Tứ như ý túc hoặc là tôi dùng những điều kiện cao siêu thì nó không đúng cách đâu.
Cho nên ở đây khi mà được nghiên cứu kỹ như vậy rồi thì bắt đầu phải tu tập cái gì đây, phải trau dồi những cái gì đây?
Đó là những điều kiện nó phải phân minh, nó phải rõ ràng đường lối tu tập. Chứ nếu mà không không phân minh, không rõ ràng đường lối tu tập như vậy thì chắc chắn là chúng ta nhào vô chúng ta chẳng biết đường lối nào mà chúng ta tu. Cho nên ở đây hầu hết là Thầy thấy như thế này: khi quý thầy đến với Thầy thì hầu như là thiền à, ngồi thiền, người thì nhiếp hơi thở, người thì tri vọng, biết vọng liền buông, người thì công án, người thì niệm Phật, chứ không nghe người ta đi từng bước một của sự tu tập. Người ta chưa bỏ hết những gì mà người ta chưa có từ bỏ, từ giã mà người ta vội vàng tu những cái của những bậc ly trần xuất thế.Thì điều đó là cái sai của thời đại tu tập bây giờ rất nhiều. Người ta không thấy được qua đời sống phạm hạnh, qua đời sống chuyên tu thiền nó khác hơn là đời sống của cư sĩ đang bao nhiêu gia duyên, đang bao nhiêu sự việc trói buộc, ràng buộc phải làm cho hết bổn phận của người đời, của người cư sĩ. Thế mà vội vàng tu, nó không hiểu rõ được đường lối cách thức thì chúng ta tu mãi mà dậm chân tại chỗ, uổng phí, vừa mất thì giờ mà chẳng đi đến đâu.
Hôm nay Thầy vạch một lối đi cho cụ thể và rõ ràng để cho quý thầy, quý cư sĩ tìm hiểu rất rõ ngọn nguồn để bước đi vững chắc không bị vấp ngã. Đây là những bài pháp mà đức Phật đã dạy cho các đệ tử của Người trong thời xa xưa mà đến bây giờ người tu hành đúng theo lời dạy này vẫn thấy hiệu quả giải thoát thân tâm rõ ràng.
Nghĩa là qua 16 bài pháp Thầy kể tên ở trên, đến bây giờ nếu chúng ta tu đúng chúng ta vẫn thấy được sự giải thoát thân tâm rõ ràng, làm chủ được sự sống chết và sanh tử luân hồi.
Qua kinh nghiệm bản thân của Thầy, những lời dạy này tu tập cụ thể có thứ lớp, có tầng bậc, sắp xếp có thứ tự rất khoa học từ dễ đến khó, từ mới tu cư sĩ cho đến người xuất gia tu sĩ đâu đâu rõ ràng. Người cư sĩ tại gia phải tu những pháp nào, người xuất gia tu sĩ phải tu những pháp nào, rõ ràng và rất minh bạch.
Theo như lời đức Phật đã dạy ở trên, ở giai đoạn đầu người cư sĩ phải thông hiểu những gì cần phải thông hiểu. Vậy phải thông hiểu cái gì đây?
Có rất nhiều điều trong đời sống cần phải hiểu và phải thông suốt nó. Nghĩa là quý vị cư sĩ khi vào đạo Phật, mặc dù chúng ta đang sống ở trong cuộc sống nhưng chúng ta chưa hiểu cuộc sống chúng ta như thế nào. Phải nói rằng chưa hiểu, không biết nó như thế nào mà mọi người đều ham mê mà điên cuồng chạy theo nó mà không bao giờ chịu buông nó ra. Đó là những điều mà chúng ta cần phải hiểu tại sao nó cuốn hút, nó lôi người ta dữ tợn như vậy, nó xâm chiếm người ta dữ vậy, nó sai bảo người ta dữ vậy? Để cho người ta ở trong cái khổ mà người ta không thấy cái khổ đó, người ta biết nhưng mà người ta không tránh được nó.
Đầu tiên chúng ta tìm hiểu trong đời sống thế gian. Tại sao, nghĩa là bây giờ bắt đầu chúng ta mới suy nghĩ, nghĩa là chúng ta mới thông hiểu những cái gì đó, qua những bài pháp này của Phật dạy chúng ta mới thông hiểu đời sống của chúng ta, chúng ta so sánh đời sống của chúng ta nó như thế nào đây?
Tại sao có người yểu tử, có người trường thọ, đó là một cái tìm hiểu, bởi vì Phật dạy cái gì cần hiểu thì phải tìm hiểu cho nó thông. Vì vậy mà bây giờ chúng ta đặt ra những câu hỏi như thế này, tại sao có người yểu tử, có người trường thọ? Có người mới sanh ra là chết, có người được 12, 13 tuổi là chết, có người thì 3,40 tuổi chết mà tại sao có người 100 tuổi mới chết?
Tại sao nó lạ lùng vậy? Lẽ ra con người 100 tuổi thì nó đều 100 tuổi chứ, tại sao lại có người yểu tử mà có người trường thọ?
Đó là những cái chúng ta thấy ở trong cuộc sống của chúng ta, nhan nhản những điều kiện mà nêu ra đây cụ thể và rõ ràng. Vậy thì chúng ta phải tìm hiểu những điều này như thế nào?
Tại sao có người bệnh nhiều mà có người lại ít bệnh? Cái điều đó là điều thực, chứ không thể nào chúng ta chối cãi được ở trong xã hội này, loài người này. Tại sao có người sanh ra cho tới lúc già chết họ bệnh có tí xíu họ chết, còn có người sinh ra từ nhỏ họ bệnh liên miên bất tận, cái gì mà làm cho họ như vậy?
Đó chúng ta cần phải đặt ra để tìm hiểu cuộc đời chúng ta đang sống, trong cuộc sống của chúng ta.
Tại sao có người xấu, có người đẹp? Nghĩa là tại sao có người sanh ra tướng mạo phương phi, đẹp đẽ nhưng có người gù lưng tật nguyền rồi xấu xa mặt mày, mũi tẹt răng hô… đủ loại xấu. Như vậy thì nó có cái gì ở trong đó, tại sao con người sinh ra không đồng đều, lẽ ra đẹp thì phải đẹp hết, xấu thì phải xấu hết chớ, tại sao có người vầy người khác. Đó là những cái mà chúng ta cần phải tìm hiểu.
Tại sao có người có quyền thế nhỏ mà có người có quyền thế lớn? Ở trong xã hội chúng ta có người thì có quyền thế lớn mà có người thì có quyền thế nhỏ. Mà có người không có quyền thế gì hết, suốt cuộc đời đi làm đầy tớ người khác hoặc làm nô lệ cho người khác mà không có quyền hạn gì hết. Đó là những cái người cư sĩ cần phải tìm hiểu trong cuộc sống của mình.
Tại sao có người tài sản nhỏ, có tài sản nhỏ mà có người tài sản lớn? Tại sao có người sanh vào gia đình hạ liệt, có người lại sanh vào gia đình cao quý? Đó là những cái mà nhan nhản trước mắt của chúng ta không thể nào chối bỏ được điều đó.
Tại sao có người trí tuệ thông minh mà có người trí tuệ yếu kém, không thông minh?
Do duyên gì, nhân gì giữa con người với nhau lại có kẻ hạ liệt, người ưu tú như vậy?
Đó là những điều chúng ta đặt ra câu hỏi để chúng ta tìm hiểu, mà đây là tìm hiểu ra một sự thật. Chính đức Phật đã dạy chúng ta để so sánh và phân biệt được, để tìm ra nguyên nhân đó. Từ tìm ra nguyên nhân đó thì chúng ta mới biết con đường của đạo Phật để chúng ta giải quyết được những cái điều này nếu không thì chúng ta đâm ra hoang mang, nghi ngờ cuộc sống của chúng ta.
Nếu chúng ta đặt thành vấn đề: nếu chúng ta có một đấng vạn năng, một đức cha lành, một đức Phật toàn năng thì không lẽ những người đó sinh chúng ta ra mà lại đặt chúng ta có người xấu có người tốt sao? Đặt thành vấn đề quý vị là những người cư sĩ, khi quý vị sinh đứa con ra quý vị muốn đứa con của quý vị như thế nào? Đứa nào cũng phải tốt đẹp, thông minh chứ sao lại có đứa xấu, đứa tốt. Thì đặt vấn đề một đấng toàn năng mà họ sáng tạo ra loài người, thì họ cũng phải nghĩ rằng những con người mà họ sáng tạo ra tốt đẹp như nhau, tại sao lại như vậy?
Như vậy có phải có thượng đế hay không? Hay là không có thượng đế ở đây? Tại sao thượng đế sanh con người ra kẻ vầy người khác? Kẻ đau khổ nhiều người đau khổ ít?
Do vì vậy mà đạo Phật giảng bài này cho chúng ta hiểu do vì đâu mà có sự việc này.
Muốn hiểu rõ điều này thì chúng ta phải hiểu Nghiệp.
Bây giờ đức Phật đặt ra vấn đề Nghiệp, vậy Nghiệp là cái gì đây?
Đức Phật dạy nghiệp là chủ nhân của loài người. Nghĩa là nghiệp nó đẻ ra loài người đó. Nghiệp là người chủ muốn cho người đó tốt xấu nọ kia là do nghiệp, chớ không phải có người nào sanh chúng ta ra, do nghiệp mà sanh chúng ta ra.
Nghiệp thường sai khiến con người như thế này như thế khác, nó bảo gì thì con người phải làm theo chứ không có chống lại nó được.
Con người là thừa tự của nghiệp. Nghĩa là mình sinh ra đây là thừa tự của nghiệp của chính mình.
Nghiệp là thai tạng của con người, tức là nghiệp sanh ra con người đó.
Nghiệp là quyến thuộc, là điểm tựa, và nghiệp lại phân chia ưu liệt của loài người. Nghĩa là người tốt, người xấu nó phân chia ra đó. Nó sanh con người ra rồi nó phân chia con người ra.
Vậy nghiệp từ đâu mà đến? Nó có phải là đấng vạn năng không? Đó là những điều mà chúng ta đặt ra để mà chúng ta hiểu, để mà chúng ta thấu rõ được đời sống con người, số mệnh của con người ở trong cuộc đời chúng ta, nó sanh ra từ cha mẹ là nghiệp. Thì như vậy chúng ta tìm hiểu cái nghiệp này như thế nào để cho nó đúng?
Vậy thì nghiệp là cái gì?
Thứ nhất chúng ta phải hiểu nó, nghiệp là một cái thói quen của chúng ta. Nghĩa là một người mới sinh ra họ chưa biết ghiền thuốc đâu, họ cũng chưa biết ghiền rượu đâu, nhưng mà lớn lên rồi gặp môi trường bạn bè hoặc người ở trong nhà buôn bán rượu này kia thì bắt đầu họ nếm thử chút chút. Ban đầu họ thấy đắng, cay, hôi, họ không có uống được nhưng rồi lần lần họ thấm nhuần, họ quen đi rồi trở thành ghiền đi. Mà trở thành ghiền là đó là nó đã trở thành cái nghiệp rồi.
Cho nên bây giờ cái người nghiện rượu nghe mùi rượu thì thấy như thế nào? Họ thích liền, họ không có từ giã được, họ không có ly nó ra được, mà họ sáp vô để họ uống một ly rượu. Có nhiều người mà đã ghiền rồi thì mỗi buổi sáng mà họ không có ly rượu thì họ thấy con người của họ nó khó chịu, nó ụa, nó ọe, nó làm những cái điều kiện như người bị bệnh vậy. Họ làm cho cái thân của họ quá khổ sở, cái tâm của họ chao động, không có tỉnh táo được nữa. Mà khi uống vào ly rượu họ thấy họ tỉnh táo và cái thân của họ bình thường trở lại. Nghe nó sảng khoái, nghe nó có hỷ lạc ở trong đó. Cho nên họ rất thích thú. Từ đó thói quen đó gọi là nghiệp. Cho nên cái thói quen đó mới dẫn chúng ta đi vào trong sinh tử luân hồi, cho nên gọi nghiệp là thai tạng đó.
Nghiệp là chủ nhân tức là nó sẽ sai chúng ta, nó sai, nó làm chủ chúng ta. Nó sai chúng ta làm cái gì chúng ta làm cái nấy. Bởi vì khi mà chúng ta quen cái đó rồi, khi mà cái thói quen đó khởi lên, nó muốn cái gì đó thì chúng ta không ngăn chặn được nó. Nên coi đó là cái nghiệp sai chúng ta làm cái điều đó.
Chẳng hạn bây giờ do cái tâm sắc dục của chúng ta, vì cũng là cái thân của chúng ta sinh ra nơi sắc dục nên nó mang cái thân nó cũng có những đòi hỏi sắc dục. Vì vậy mà khi chúng ta thấy người khác phái thì nó sinh ra cái tâm đó, rồi nó đòi hỏi hỷ lạc của sắc dục đó. Cái thân sinh ra từ đó nó đã có cái nghiệp đó rồi, thế mà chúng ta không ngăn chặn, chúng ta bước vào nghiệp, nó trở thành thói quen, nó nghiện ngập, xa cái đó không được. Cho nên từ đó đức Phật dạy cắt ly nó, đoạn dứt nó để chúng ta chấm dứt sự sanh tử luân hồi.
Như bài giảng Thầy vừa giảng xong về giới luật, mà giới bất tịnh thì chúng ta đã biết con đường sinh tử, nó không phải cái gì khác hơn là tâm dâm dục của chúng ta. Thì ở đây, chúng ta thấy cái tâm dâm dục đó chính là cái nghiệp, mà từ cha mẹ sinh mình ra cũng từ nơi cái nghiệp đó, cho nên ngay cả thân và tâm chúng ta được sinh ra cũng từ cái nghiệp đó, vì vậy mà chúng ta thừa tự cái nghiệp đó. Cho nên Phật nói con người thừa tự của nghiệp. Thì quý thầy thấy có đúng không?
Phật dạy: con người chúng ta là thừa tự của nghiệp, nghĩa là cha mẹ mình đã vì cái nghiệp dâm đó mà sinh mình ra, cho nên mình được sinh ra từ cái thân tâm của mình thì không phải là mình thừa tự cái nghiệp dâm đó sao. Do vì vậy đó mà chúng ta đi vào con đường tu hành của đạo Phật là chúng ta phải xa lìa nó, đoạn dứt nó, chấm dứt nó. Thì chúng ta đi ngược lại nó có khó chịu không? Nghĩa là chúng ta chống lại nó. Cho nên đức Phật dạy chúng ta như hồi nãy, Thầy nói có 4 điều kiện, cái gì thông hiểu thì chúng ta phải thông hiểu, cái gì trau dồi thì chúng ta phải trau dồi, cái gì dứt bỏ thì chúng ta phải dứt bỏ...
Bây giờ cái mà chúng ta đã hiểu được là cái nghiệp dẫn chúng ta đi ở trong sinh tử luân hồi, cái sự đau khổ. Bây giờ chúng ta biết rằng bản thân chúng ta, thân tâm chúng ta đang là thừa tự của cái nghiệp, vậy thì bây giờ cái nghiệp, cái đau khổ, cái nghiệp đưa dẫn người ta tới chỗ khổ mãi mãi đau khổ trong bốn cái khổ sanh - lão - bệnh - tử. Do cái nghiệp mà tạo ra, cho nên chúng ta đang thừa tự cái nghiệp vậy thì chúng ta phải đoạn dứt nó. Phải mạnh mẽ đừng có yếu kém, mà chúng ta yếu kém thì không thể nào dứt bỏ nó được. Cho nên Phật nói: có những pháp cần phải dứt bỏ thì phải dứt bỏ, chớ không thể nuôi dưỡng nó được, chớ không thể kéo lê thê theo mình được, mà phải dứt bỏ ngay liền, chấm dứt ngay liền.
Đó là những cái pháp gọi là nghiệp, thì chúng ta biết mình đang thừa tự những cái đó, thì mình không nhận cái thừa tự đó nữa, nghĩa là mình chấm dứt cái đó đi. Thì bắt đầu bây giờ mình đừng có, cái tâm mình khởi lên dâm dục thì mình dùng những pháp để tu tập. Cái pháp đó là gì? Cái tâm dâm dục mà mình dùng cái pháp để loại trừ thân tâm thừa tự nghiệp này, do đó mình phải quán bất tịnh. Mình phải xét thân tâm của mình nó như thế nào là thanh tịnh, như thế nào là không thanh tịnh. Từ đó mình sẽ thấy cái thân ghê gớm, mình sẽ thấy cái thân bất tịnh, nhơ bẩn, ô uế, uế trược từ đó chúng ta thấy không còn thừa tự sản nghiệp của cái nghiệp dâm dục này nữa.Tức là chúng ta sẽ chấm dứt sự sanh tử rồi đó.
Như vậy thì quý thầy thấy rõ ràng là những gì chúng ta cần dứt bỏ là chúng ta phải dứt bỏ. Nghĩa là chúng ta thấy cái đó nguy hiểm, đừng vì một chút dục lạc ở đó mà chúng ta kéo lê thê cái đời của mình, để luôn luôn mãi thừa tự nghiệp này, thừa tự những cái sanh tử này. Cho nên chúng ta biết thừa tự cái này là đem đến cho chúng ta sự khổ đau. Cho nên muốn chấm dứt cái nghiệp thì có những cái mà chúng ta phải đoạn dứt. Vì vậy chúng ta phải tu tập siêng năng, luyện tập những điều mà Phật đã dạy: quán thân bất tịnh để đoạn dứt được những cái nghiệp. Nếu không có quán bất tịnh thì khó mà đoạn dứt được nghiệp dâm. Cho nên từ đó mà chúng ta mới có những thai tạng của cái nghiệp sanh chúng ta ra.
Vậy thì chúng ta biết rằng cái nghiệp là cái thói quen, cái nghiệp là cái sự ô nhiễm làm cho chúng ta khó bỏ nó. Đó là những thói quen mà hằng ngày trong những hành động của chúng ta tạo ra nghiệp thiện, nghiệp ác, nghiệp ham muốn chứ không gì khác hơn hết. Nếu chúng ta hằng ngày chửi bới thiên hạ thì nó quen đi, thành ra lúc nào chúng ta cũng dễ dàng chửi bới người ta được hết. Còn ngày ngày chúng ta không mắng không chửi ai hết, ngày này qua ngày khác thì nó không thành cái nghiệp của chúng ta.
Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta làm điều thiện thì không có chửi mắng ai, làm điều thiện thì không có trộm cắp của ai, làm điều thiện thì không bao giờ có những hành động tà dâm bất tịnh. Đó là những điều mà chúng ta phải hiểu và thông suốt, và biết từ bỏ, dứt bỏ nó.
Nói như vậy chúng ta đã hiểu sơ qua về nghiệp, nếu mà giảng rộng thì giảng nghiệp đi trong luân hồi, nghiệp tái sanh thì nó còn phải rất nhiều thời gian mà giải thích để cho quý vị thấu suốt.
Tạm thời ở đây Thầy ngắn gọn, sau này có những việc chúng ta cần phải nghiên cứu về các nghiệp này nữa để chúng ta thông suốt tất cả các nghiệp trong thân chúng ta. Chúng ta biết rằng trong thân chúng ta có ba nơi hành nghiệp này, đó là thân của chúng ta, đó là miệng của chúng ta, đó là ý của chúng ta. Ba chỗ hành động này gọi là hành động nghiệp. Nghĩa là nghiệp cũ có rồi tạo nghiệp mới có. Do vì vậy mà chúng ta luôn luôn trôi lăn trong 6 nẻo luân hồi, do chỗ nghiệp này chứ không phải gì khác hơn hết.
Bây giờ quý thầy đã hiểu được nghiệp thì chúng ta sẽ biết được hồi nãy đặt ra những câu hỏi tại sao có người giàu người nghèo, người tốt người xấu, người bệnh nhiều, người bệnh ít, thì đây quý thầy sẽ thấy nghiệp nó sẽ dẫn vào thế giới cuộc sống của quý vị, quý thầy đang sống thì có sự sai khác nhau như vậy.
Đây quý thầy nghe kỹ, nhất là những người cư sĩ đang ở giai đoạn tu tập thứ nhất phải lắng nghe và chú ý cho kỹ. Nghĩa là các vị còn sống trong gia đình, còn vợ, còn con, còn cha mẹ, bạn bè thân thuộc, bà con xóm làng, không phải là người xuất gia đã bỏ tất cả, thì quý vị lắng nghe bài so sánh này để biết được cái nghiệp nó chi phối và phân chia ra con người có ưu liệt và có tốt xấu đó. Vì vậy quý vị phải lắng nghe cho kỹ để thực hiện được những gì mà chúng ta cần phải chấm dứt, phải đoạn dứt nó.
1. Nhân Quả Yểu Tử Và Trường Thọ
Khi một người đàn ông hay một người đàn bà tàn nhẫn giết hại chúng sanh, tay lấm đầy máu, tâm chuyên sát hại, đả thương, lòng không có chút từ bi biết thương xót loài vật, do nghiệp sát sanh ấy thành tựu. Nghĩa là ở đây Phật muốn nói cái nghiệp mà giết hại chúng sanh, đả thương làm cho chúng sanh chết chóc mà tâm lòng không thương xót chút nào đó, thì khi mà nó đã thành cái thói quen rồi, thói quen giết hại đó, cho nên ở đây Phật nói câu nói như thế này: do nghiệp sát sanh ấy thành tựu, tức là thành cái thói quen rồi, tức là thành cái nghiệp rồi. Lúc bấy giờ cái người đó sau kiếp sống này họ bỏ thân này đi, họ bị chết đi thì họ sẽ đi về đâu đây?
Họ sẽ vào cái cõi dữ, ác xứ, đọa xứ, địa ngục, sau một thời gian sống trong cảnh giới súc sanh, cảnh giới đau khổ của địa ngục, ở cảnh giới ác thú của những thú dữ đang giết chóc lẫn nhau…thì lúc bấy giờ trải qua nhiều đời nhiều kiếp họ mới được làm người. Con người họ sinh ra vì cái nhân của họ trước kia, vì cái nghiệp của họ thành tựu rồi thì con người họ sinh lên họ yểu tử. Nghĩa là có người mới vào trong bào thai chừng 1 tháng, 2 tháng là đã bị trôi thai. Có người vừa sanh ra là đã bị yểu tử, rồi có người sanh ra được ba, bốn tháng, có người sanh ra được 1, 2 tuổi, có người sanh ra được 11,12 tuổi rồi xe đụng hoặc là bệnh tật chết. Có người sanh ra được 20 tuổi chết, có người sanh ra được 50, 60 tuổi chết, có người thì được trường thọ 100 tuổi chết. Thì cái chết đó là do cái chỗ mà chúng ta đã sát hại chúng sanh, cho nên chúng ta bị yểu tử, cho nên tuổi những người yểu tử này họ không được trên 30 tuổi. Nghĩa là khoảng từ 30 trở lại là yểu tử, từ 30 đến 60 tuổi là trung thọ. Từ 60 trở lên là trường thọ. Cho nên có sự phân chia để thấy được sự yểu tử thì chúng ta biết dưới 30 tuổi là dạng yểu tử.
Nếu có người đàn ông hay người đàn bà từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, tay không bao giờ lấm máu chúng sanh, luôn có lòng từ bi thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh các loài hữu tình. Do nghiệp ấy thành tựu, nghĩa là thành nghiệp thiện không giết hại chúng sanh sau khi họ bỏ thân họ thì họ sinh vào cảnh giới thiện, cõi giới thiện. Nghĩa là cõi giới tốt không có ác pháp ở trong đó, hoặc là sanh vào cõi trời, sau cùng thì họ sinh làm người, tuổi họ được trường thọ từ trên 60 đến 100 tuổi. Con đường ấy đưa họ đến trường thọ. (BBT:BN,02,E01:33:28) (BBT:CĐ,03A,E00:37:49)