Skip directly to content

XVIII. CÁC BÀI KỆ LÀM XUẤT MỒ HÔI

 [1]

[1296]

Vị không đồng cộng trú
cùng với các tỳ khưu
và các tỳ khưu ni,
vị ấy không có được
một việc đồng thọ hưởng,
và không bị phạm tội
do việc không xa rời?
[2]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1297]

Không phân tán phân chia,
năm vật được nói đến
bởi vị Đại Ẩn Sĩ.
Vị trong lúc phân chia
và trong lúc thọ dụng
sao lại không phạm tội?
[3]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1298]

Tôi không đề cập đến
về mười hạng cá nhân,
(và) hạng thứ mười một
cũng cần phải tách ra?
[4]
Khi đảnh lễ vị lớn
tại sao lại phạm tội?
[5]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1299]

Vị không bị án treo
không parivāsa
không chia rẽ hội chúng
không thay đổi phe nhóm,
tồn tại trên nền tảng
cùng chung đồng cộng trú,
vì sao việc học tập
được áp dụng riêng biệt?
[6]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

1300]

Vị được hỏi về Pháp
đạt đến chân thiện mỹ
có liên hệ mục đích,
vị không sống không chết
cũng không phải Niết Bàn;
hạng người ấy là gì
được chư Phật nói đến?
[7]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1301]

Tôi không đề cập đến
phần trên của xương đòn
nên tránh phần dưới rốn,
do duyên việc đôi lứa
vì sao lại vi phạm
tội pārājika?
[8]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1302]

Tỳ khưu tự yêu cầu
rồi xây dựng cốc liêu
nền đất chưa xác định
và vượt quá kích thước
ở chỗ có nguy hiểm
không trống trải, không tội?
[9]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1303]

Tỳ khưu tự yêu cầu
rồi xây dựng cốc liêu
nền đất được xác định
và theo đúng kích thước
ở chỗ không nguy hiểm
trống trải, lại phạm tội?
[10]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1304]

Vị không làm hành động
có liên quan đến thân
và cũng không nói về
những người khác bằng lời
lại vi phạm tội nặng
nền tảng bị cắt rời?
[11]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1305]

Người tốt không làm ác
bằng thân, khẩu, hoặc ý,
sao vị ấy bị đuổi
bị trục xuất toàn diện?
[12]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1306]

Không chuyện trò với ai,
không nói những người khác
lời nói nào bằng khẩu
sao lại vi phạm tội
bằng khẩu không bằng thân?
[13]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1307]

Đức Phật vị cao quý
ca ngợi các điều học
có thể là bốn điều
saṅghādisesa,
có thể phạm tất cả
chỉ do một điều kiện?
[14]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1308]

Hai vị tỳ khưu ni
được tu một hội chúng
(tỳ khưu) thọ nhận y
từ tay của hai vị
sao tội lại khác nhau?
[15]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1309]

Bốn vị hẹn hò trước
đã lấy trộm trọng vật
ba pārājika
còn một vị không phạm?
[16]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1310]

Người nữ ở bên trong
tỳ khưu ở bên ngoài
ngôi nhà không lổ hỗng
do duyên việc đôi lứa
vì sao lại vi phạm
tội pārājika?
[17]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1311]

Dầu ăn, mật, đường, bơ,
tự thọ lãnh, để riêng
chưa trải qua bảy ngày
khi có duyên thọ dụng
vì sao lại phạm tội?
[18]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1312]

Tội nissaggiya
và tội kia thuần túy
là pācittiya,
sao phạm chung một lượt?
[19]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1413]

Hai mươi vị tỳ khưu
hội tụ làm hành sự
tưởng rằng có hợp nhất
có vị tỳ khưu đứng
xa mười hai do-tuần
làm hỏng hành sự ấy
vì lý do phe nhóm?
[20]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1314]

Vị nói lên bằng lời
với khoảng cách bước dài
vi phạm chung một lượt
sáu mươi bốn tội phạm
tất cả đều tội nặng
có sự sửa chữa được?
[21]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1315]

Đã quấn vào y nội
trùm lên y hai lớp,
tất cả các y ấy
phạm nissaggiya?
[22]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1316]

Không có lời đề nghị
không tuyên ngôn hành sự
đấng Chiến Thắng không nói:
“Hãy đến, này tỳ khưu”
vị ấy cũng chẳng có
sự nương tựa (Tam Quy)
sự tu lên bậc trên
bền vững cho vị ấy?
[23]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1317]

Giết người nữ và nam
không phải mẹ hoặc cha
kẻ ngu giết người phàm
do vậy, vô gián nghiệp?
[24]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1318]

Giết người nữ là mẹ
giết người nam là cha
giết cả cha lẫn mẹ
không phạm vô gián nghiệp?
[25]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1319]

Sau khi không khiển trách
sau khi không nhắc nhở
hội chúng làm hành sự
đến vị không hiện diện
hành sự đã được làm
đã được làm hoàn hảo
hội chúng, vị tiến hành
không bị vi phạm tội?
[26]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1320]

Sau khi đã khiển trách
sau khi đã nhắc nhở
hội chúng làm hành sự
đến vị đang hiện diện
hành sự đã được làm
trở thành chưa thực hiện
hội chúng, vị tiến hành
đều bị vi phạm tội?
[27]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1321]

Vị chặt đứt phạm tội,
vị chặt đứt không phạm,
vị che đậy phạm tội,
vị che đậy không phạm?
[28]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1322]

Nói sự thật tội nặng,
và nói dối tội nhẹ,
nói dối phạm tội nặng,
nói sự thật tội nhẹ?
[29]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1323]

Chú nguyện để dùng riêng,
đã nhuộm bằng thuốc nhuộm,
vật có làm đúng phép
sử dụng lại phạm tội?
[30]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1324]

Khi mặt trời đã lặn,
vị tỳ khưu nhai thịt,
không điên, tâm không loạn,
không bị thọ khổ hành,
vị ấy không phạm tội,
và do đức Thiện Thệ
đã giảng giải điều ấy.
[31]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1325]

Không có tâm nhiễm dục,
không có ý trộm cắp,
vị không có ý nghĩ
việc giết hại người khác,
vị trao thẻ bị đoạn,
người nhận chịu trọng tội?
[32]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1326]

Không phải chỗ ở rừng
xác định có nguy hiểm,
đồng ý của hội chúng
cũng chưa được ban cho,
Kaṭhina vị ấy
đã không được thành tựu,
bỏ y ngay chỗ ấy
vị đi nửa do-tuần
khi rạng đông đã đến
không tội cho vị ấy?
[33]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1327]

Tất cả khác sự việc
do thân không do khẩu
không trước và không sau
vi phạm chung một lượt?
[34]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1328]

Tất cả khác sự việc
do khẩu không do thân
không trước và không sau
vi phạm chung một lượt?
[35]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1329]

Không làm việc đôi lứa
nơi ba hạng người nữ,
ba hạng phàm, vô căn,
và ba hạng người nam,
không hành việc lứa đôi
ở chỗ vật biểu tượng
sao lại bị cắt đứt
vì duyên việc đôi lứa?
[36]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1330]

Vị xin y, cho mẹ,
của hội chúng không màng,
ở thân quyến không tội ,
phạm tội do điều gì?
[37]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1331]

Vị giận lại hài lòng,
giận dữ đáng chê bai,
nổi giận lại bật cười
điều ấy có tên gì?
[38]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1332]

Vị hoan hỷ hài lòng
hoan hỷ đáng chê bai,
hoan hỷ lại đáng chê
điều ấy có tên gì?
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1333]

Saṅghādisesa,
tội thullaccaya,
tội pācittiya,
thêm tội ưng phát lộ,
và tội dukkaṭa,
bị phạm chung một lượt?
[39]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1334]

Hai vị đều tròn đủ
hai mươi tuổi cả hai
chung vị thầy tế độ
cùng chung thầy giáo thọ
chung tuyên ngôn hành sự,
một được lên bậc trên
một vị lại không được?
[40]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1335]

Chưa làm thành được phép,
chưa được nhuộm với màu
vị quấn vào y ấy
rồi đi theo ý thích
không tội cho vị ấy,
[41]
do chính đức Thiện Thệ
đã giảng giải điều ấy.
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1336]

Không cho, không thọ nhận,
vị nhận không rõ việc
phạm do duyên thọ dụng
tội ấy nặng không nhẹ?
[42]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1337]

Không cho, không thọ nhận,
vị nhận không rõ việc
phạm do duyên thọ dụng
tội ấy nhẹ không nặng?
[43]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

[1338]

Vi phạm rồi che giấu
tội nặng còn dư sót
bởi vì không tôn trọng
tỳ khưu ni không phạm
và không đưa đến tội?
[44]
Nghĩ ra câu hỏi này
là các vị rành rẽ.

Dứt Các Bài Kệ Xuất Mồ Hôi.

Tóm lược phần này:

[1339]

Không được đồng cộng trú,
không phân tán, mười (hạng),
vị không bị án treo,
vị đi đến với Pháp,
phần trên của xương đòn,
hai điều tự yêu cầu,
không tội nặng do thân,
không liên hệ đến thân
bị trục xuất toàn diện,
không nói, và điều học,
cả hai, và bốn vị,
người nữ, và dầu ăn,
tội nissaggiya,
và các vị tỳ khưu,
với khoảng cách bước dài,
đã quấn vào y nội,
và không lời đề nghị,
không giết mẹ giết cha,
sau khi không khiển trách
sau khi không nhắc nhở,
chặt đứt, và sự thật,
chú nguyện, trời đã lặn,
không có tâm nhiễm dục,
không phải chỗ ở rừng,
do thân và do khẩu,
ba người nữ, và mẹ,
giận, hài lòng, hoan hỷ,
tội tăng tàng, cả hai,
chưa làm thành được phép,
không cho, và không cho,
vị vi phạm tội nặng,
lời kệ là câu hỏi
làm xuất ra mồ hôi
được giải nhờ bậc trí.

*******


[1] Trong chương này, các câu trả lời được ghi lại theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa ở Aṭṭhakathā đồng thời cũng phải xem đến Ṭīkā để hiểu rõ thêm vấn đề, còn các phần trích dẫn nhờ vào công lao của dịch giả I. B. Horner. Tuy nhiên, có một số câu hỏi chúng tôi vẫn không xác định được chính xác vấn đề.

[2] Câu này có liên quan đến việc biến đổi tánh giống từ tỳ khưu thành tỳ khưu ni. Đoạn “vị ấy không có được một việc đồng thọ hưởng” nghĩa là không còn có được sự đụng chạm, và “không bị phạm tội do việc không xa rời” được giải thích là không phạm tội khi nằm chung chỗ ngụ với người nữ.

[3] Năm trọng vật thuộc về hội chúng không được phân tán và không được phân chia (Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương VI, [292, 293]. Trường hợp không phạm tội đề cập đến việc tách riêng vị tỳ khưu ni là người mẹ của đứa bé trai.

[4] Đề cập đến mười hạng người không nên đảnh lễ: vị tu lên bực trên sau, vị chưa tu lên bậc trên, vị thâm niên hơn thuộc nhóm khác nói sai Pháp, phụ nữ, người vô căn, vị bị hành phạt parivāsa, vị xứng đáng bị phạt (thực hành) trở lại từ đầu, vị xứng đáng hành phạt mānatta, vị thực hành hành phạt mānatta, vị chưa được giải tội (Sđd., [264]). Hạng thứ mười một là vị tỳ khưu lõa thể.

[5] Ngài Buddhaghosa không giải thích câu này, có thể là vị thâm niên nói sai pháp ở câu trên.

[6] Nói đến vị tỳ khưu trước đây làm nghề thợ cạo (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương VI, [89]).

[7] Nói về hình tượng đức Phật.

[8] Thực hiện việc đôi lứa qua đường miệng với hạng phi nhân có các con mắt và miệng thì ở trên ngực, hạng này được đề cập ở điều pārājika thứ tư.

[9] Vị tỳ khưu thực hiện cốc liêu lợp bằng cỏ.

[10] Vị làm cốc liêu toàn bằng đất sét. Xem câu chuyện của đại đức Dhaniya con trai người thợ gốm ở phần duyên khởi của điều pārājika 2.

[11] Vị tỳ khưu ni che giấu tội pārājika của vị tỳ khưu ni khác phạm tội pārājika.

[12] Đề cập đến các hạng người như người vô căn, v.v... (Sđd., chương I, [125]).

[13] Liên quan đến phần mở đầu (nidāna) của giới bổn Pātimokkha có đoạn: “... vị tỳ khưu nào nhớ ra mà không bày tỏ tội đã có thì vị ấy cố tình nói dối...”(Sđd., chương II, [149]).

[14] Liên quan đến bốn việc làm của vị tỳ khưu ni ở điều saṅghādisesa thứ 3: Vào rạng sáng, vị tỳ khưu ni rời khỏi nhóm sang sông đi vào làng, khi đã sang ngày mới vị ni ấy phạm bốn tội saṅghādisesa: đi vào làng một mình, đi sang bờ sông bên kia một mình, trong đêm trú ngụ riêng một mình, một mình tách rời ra khỏi nhóm.

[15] Vị tỳ khưu ni thọ nhận y từ tay vị tỳ khưu ni chỉ được tu ở hội chúng tỳ khưu phạm pācittiya (các vị tỳ khưu ni này gồm có 500 vị tỳ khưu ni dòng Sākya được tu lên bậc trên sau bà Mahāpajāpati Gotamī), từ tay vị tỳ khưu ni chỉ được tu ở hội chúng tỳ khưu ni phạm dukkaṭa.

[16] Vị thầy dạy học và ba học trò đã trộm vật sáu māsaka. Vị thầy tự tay lấy trộm 3 māsaka, tuy nhiên 3 māsaka kia là do sự ra lệnh nên tội vi phạm là thullaccaya; còn mỗi người học trò trộm một māsaka, nhưng liên quan đến việc ra lệnh là 5 māsaka nên đã phạm tội pārājika. Chúng tôi không tìm được câu chuyện chi tiết ở điều pārājika thứ nhì theo như lời giải thích của ngài Buddhaghosa.

[17] Ngôi nhà làm bằng vải, ý nói âm vật đã được che phủ lại.

[18] Có liên quan đến việc biến đổi hiện tướng.

[19] Đối với vật đã được khằng định là dâng cho hội chúng, vị thuyết phục dâng cho bản thân mình và dâng cho vị khác nữa nên phạm luôn cả hai tội.

[20] Liên quan đến gāmasīmā như ở thành Bārāṇasī rộng 12 do-tuần.

[21] Liên quan đến việc làm mai mối. Vị ấy đem lại sự trả lời của sáu mươi bốn người nữ.

[22] Vị tỳ khưu đang mặc ba y bị phân chim quạ hoặc bị lấm bùn rồi bảo vị tỳ khưu ni không phải là thân quyến dùng nước rửa sạch lúc còn đang mặc ở trên người.

[23] Bà Mahāpajāpati Gotamī trở thành tỳ khưu ni do chấp nhận tám Trọng Pháp (Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương X, [516]).

[24] Có liên quan đến việc biến đổi hiện tướng: người mẹ biến đổi thành đàn ông và người cha biến đổi thành đàn bà.

[25] Trường hợp cha và mẹ là loài thú.

[26] Vị ni tu lên bậc trên thông qua người đại diện (Sđd., chương X, [595, 596]).

[27] Cho tu lên bậc trên người vô căn.v.v...

[28] Vị chặt đứt cây gỗ theo lối trộm cắp phạm tội pārājika, vị chặt đứt dây leo, cỏ phạm tội pācittiya, vị cắt đứt dương vật phạm thullaccaya. Vị cắt tóc và móng tay không phạm tội. Vị che đậy tội vị khác vi phạm tội, vị che đậy mái nhà không phạm tội.

[29] Nói sự thật đề cập đến các bộ phận kín của người nữ vi phạm tội nặng, nói dối cố tình vi phạm tội nhẹ. Nói dối về pháp thượng nhân không thực chứng vi phạm tội nặng, nói sự thật về pháp thượng nhân có thực chứng vi phạm tội nhẹ.

[30] Liên quan đến y đã bị phạm vào nissaggiya mà vẫn sử dụng.

[31] Vị có tật nhai lại như trâu bò (Sđd., chương V, [144]).

[32] Liên quan đến vị chia rẽ hội chúng và các vị xu hướng theo.

[33] Liên quan đến điều nissaggiya pācittiya 29.

[34] Nắm ngón tay hoặc tóc của nhiều người nữ cùng một lúc.

[35] Liên quan đến việc nói lời dâm dục đến nhiều người nữ, ví dụ: “Tất cả các cô đều là ....”

[36] Điều pārājika thứ 8 của tỳ khưu ni liên quan đến việc làm đủ sự việc thứ tám.

[37] Liên quan đến vị xin y choàng tắm mưa ngoài thời hạn cho phép.

[38] Bài kệ này và bài kế liên quan đến ba sự thực hành của ngoại đạo (không được giải thích chi tiết).

[39] Vị tỳ khưu ni nhiễm dục vọng sau khi tự tay thọ lãnh vật thực từ tay người nam nhiễm dục vọng, trộn lẫn với thịt người, tỏi, thức ăn thượng hạng còn thừa, với thịt không được phép rồi nuốt vào.

[40] Vị sa di không được thành tựu là vị có thần thông ngồi hỏng lên khỏi mặt đất dầu chỉ là khoảng cách của sợi tóc.

[41] Liên quan đến vị tỳ khưu có y bị cướp đoạt.

[42] Liên quan đến điều saṅghādisesa 6 về vị tỳ khưu ni xúi giục vị tỳ khưu ni khác thọ nhận vật thực từ tay người đàn ông nhiễm dục vọng. Bản thân vị ni xúi giục “không cho, không thọ nhận, còn vị tỳ khưu ni kia là “vị nhận không rõ việc.” Khi vị này thọ dụng thì vị ni xúi giục phạm tội saṅghādisesa.

[43] Vị tỳ khưu ni nhiễm dục vọng thọ nhận nước và tăm xỉa răng từ tay người nam nhiễm dục vọng phạm tội dukkaṭa.

[44] Vị tỳ khưu ni vi phạm saṅghādisesa dầu có che giấu hay không che giấu không phạm thêm tội mới và chỉ phải chịu hành phạt mānatta nửa tháng.