XXVIII. SUVAṆṆABIMBOHANAVAGGO - PHẨM SUVAṆṆABIMBOHANA
271. Ký Sự về Trưởng Lão Suvaṇṇabimbohaniya
2582. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng cúng một cái ghế. Và tôi đã dâng lên cái gối nhằm đạt đến mục đích tối thượng
2583. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng cái gối trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của cái gối.
2584. Trước đây vào kiếp thứ sáu mươi ba, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Asama, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2585. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Suvaṇṇabimbohaniya[66]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Suvaṇṇabimbohaniya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
272. Ký Sự về Trưởng Lão Tilamuṭṭhidāyaka
2586. Biết được ý định của tôi, bậc Đạo Sư, đấng Lãnh Đạo cao cả của thế gian, đã đi đến bằng thần thông với thân được tạo thành bởi ý.
2587. Khi Ngài đang đi đến gần, tôi đã đảnh lễ bậc Đạo Sư, đấng Tối Thượng Nhân. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng (một) nắm hạt mè.
2588. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của nắm hạt mè.
2589. Trước đây mười sáu kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Nandiya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2590. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tilamuṭṭhidāyaka[67]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tilamuṭṭhidāyaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
273. Ký Sự về Trưởng Lão Caṅgoṭakiya
2591. (Đức Phật Siddhattha) sống ở trong vùng đồi núi kề cận biển cả. Sau khi đi ra tiếp đón (Ngài), tôi đã thực hiện và đã dâng cúng cái hộp (đựng bông hoa).
2592. Sau khi dâng cúng cái hộp đựng bông hoa đến bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha, đấng có lòng thương tưởng đối với tất cả chúng sanh, tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp.
2593. Kể từ khi tôi đã dâng cúng cái hộp trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của cái hộp.
2594. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Caṅgoṭakiya[68]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Caṅgoṭakiya là phần thứ ba.
--ooOoo--
274. Ký Sự về Trưởng Lão Abbhañjanadāyaka
2595. Đức Thế Tôn Koṇḍañña là vị có tâm bình đẳng như hư không, có thiền chứng không bị chướng ngại, có tham ái đã được lìa bỏ như thế ấy.
2596. Bậc Đạo Sư, đấng Chúa Tể của loài người, là vị vượt qua tất cả si mê, là bậc có sự tầm cầu lợi ích cho tất cả thế gian, tôi đã dâng cúng thuốc cao đến Ngài.
2597. Kể từ khi tôi đã dâng cúng thuốc cao trước đây vô lượng kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của thuốc cao.
2598. Trước đây mười lăm kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Cirappa, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2599. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Abbhañjanadāyaka[69]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Abbhañjanadāyaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
275. Ký Sự về Trưởng Lão Ekañjaliya
2600. Tôi đã dâng cúng khu vực sinh sống (cô tịch) đến vị Sa-môn bậc Đại Ẩn Sĩ đang cư ngụ tại cội cây sung, nơi tấm thảm lá cây đã được xác định.
2601. Sau khi chắp tay lên, tôi đã trải ra tấm thảm bằng bông hoa đến (đức Phật) Tissa, bậc Chúa Tể của loài người, đấng Bảo Hộ Thế Gian như thế ấy.
2602. (Kể từ khi) tôi đã thực hiện tấm thảm bằng bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của tấm thảm.
2603. Trước đây mười bốn kiếp, tôi đã là bậc thống lãnh loài người tên Ekañjalika, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2604. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekañjaliya[70]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekañjaliya là phần thứ năm.
--ooOoo--
276. Ký Sự về Trưởng Lão Potthadāyaka
2605. Việc cúng dường tấm vải bạt đã được tôi dâng cúng ở đối tượng đáng được cúng dường vô thượng trước tiên hết là bậc Đạo Sư, Giáo Pháp, và luôn cả Hội Chúng của bậc Đại Ẩn Sĩ nữa.
2606. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng tấm vải bạt.
2607. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Potthadāyaka[71]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Potthadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
277. Ký Sự về Trưởng Lão Citakapūjaka
2608. Tôi đi xuôi theo dòng nước ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã đặt ở giàn hỏa thiêu bảy bông hoa māluva.
2609. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường lễ hỏa táng trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường giàn hỏa thiêu.
2610. Trước đây sáu mươi bảy kiếp, bảy vị (cùng) tên Paṭijagga đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.
2611. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Citakapūjaka[72]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Citakapūjaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
278. Ký Sự về Trưởng Lão Āluvadāyaka
2612. Ở ngọn núi Hi-mã-lạp, có con sông Mahāsindhu có dáng hình xinh đẹp. Ở tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy (đức Phật) Sudassana; Ngài là bậc có tham ái đã được lìa bỏ, có ánh sáng rực rỡ.
2613. Sau khi nhìn thấy bậc được gắn liền với sự an tịnh tột bực, được tịnh tín tôi đã tự tay mình dâng cúng rễ cây āluva đến Ngài.
2614. Kể từ khi tôi đã dâng cúng rễ cây āluva trước đây 31 kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của rễ cây āluva.
2615. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Āluvadāyaka[73]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Āluvadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
279. Ký Sự về Trưởng Lão Ekapuṇḍarīka
2616. Lúc bấy giờ, đấng Tự Chủ tên Romasa là bậc có sự hành trì tốt đẹp. Với tâm ý trong sạch, tôi đã dâng cúng đóa hoa sen trắng (đến Ngài).
2617. Kể từ khi tôi đã dâng cúng đóa hoa sen trắng trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của đóa hoa sen trắng.
2618. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekapuṇḍarīka[74]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekapuṇḍarīka là phần thứ chín.
--ooOoo--
280. Ký Sự về Trưởng Lão Taraṇīya
2619. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình cho xây dựng cây cầu ở đường lộ lớn gập ghềnh để giúp cho mọi người vượt qua (đoạn đường ấy).
2620. (Kể từ khi) tôi đã cho xây dựng cây cầu trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng cây cầu.
2621. Trước đây 55 kiếp, tôi đã là vị tên Samogadha độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2622. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Taraṇīya[75]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Taraṇīya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Phần Tóm Lược
Vàng, nắm hạt mè, cái hộp, thuốc cao, sự chắp tay, vị có tấm vải bạt, giàn hỏa thiêu, rễ cây āluva, một đóa hoa sen trắng, với cây cầu; (tổng cộng) có bốn mươi hai câu kệ đã được tính đếm bởi các bậc trí.
Phẩm Suvaṇṇabimbohana là phẩm thứ hai mươi tám.
(Tụng phẩm thứ mười một).
--ooOoo--