Skip directly to content

XX. TAMĀLAPUPPHIYAVAGGO - PHẨM TAMĀLAPUPPHIYA

191. Ký Sự về Trưởng Lão Tamālapupphiya

2214. Tòa lâu đài với tám mươi bốn ngàn cột trụ làm bằng vàng đã khéo được hóa hiện ra cho tôi, tợ như (phép mầu do) cây như ý của chư Thiên.

2215. Với tâm ý trong sạch, tôi đã cầm lấy bông hoa tamāla và đã dâng lên đức Phật Sikhī là đấng quyến thuộc của thế gian.

2216. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

2217. Trước đây hai mươi kiếp, chỉ một mình (tôi) có tên Candatitta, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2218. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Tamālapupphiya[61]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Tamālapupphiya là phần thứ nhất.

--ooOoo--

192. Ký Sự về Trưởng Lão Tiṇasantharadāyaka

2219. Cỏ mà vị ẩn sĩ sống ở trong rừng (đã) cắt cho bậc Đạo Sư, tất cả cỏ ấy đã ngã xuống ở trên mặt đất, nghiêng về phía phải.

2220. Khi ấy, tôi đã cầm lấy cỏ ấy và đã trải ra ở phần cao nhất của mặt đất. Và tôi đã mang lại chỉ ba lá cây thốt nốt.

2221. Sau khi làm mái che bằng cỏ, tôi đã dâng cúng đến (đức Phật) Siddhattha. Chư Thiên và nhân loại đã duy trì (mái che) cho bậc Đạo Sư ấy trong bảy ngày.

2222. Kể từ khi tôi đã dâng cúng cỏ trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng cỏ.

2223. Trước đây sáu mươi lăm kiếp, bốn vị (cùng) tên Mahaddhana đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2224. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Tiṇasantharadāyaka[62]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Tiṇasantharadāyaka là phần thứ nhì.

--ooOoo--

193. Ký Sự về Trưởng Lão Khaṇḍaphulliya

2225. Lúc bấy giờ, ngôi bảo tháp của đức Thế Tôn Phussa ở trong khu rừng bao la đã bị phá sập bởi các con voi, có cây cối đã mọc lên ở nơi ấy.

2226. Được vui lòng với các đức hạnh của bậc Thầy của tam giới ấy, tôi đã san bằng chỗ lồi lõm và đã dâng cúng khối vôi bột.

2227. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của khối vôi bột.

2228. (Trước đây) bảy mươi bảy kiếp, mười sáu vị (cùng) tên Jitasena đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2229. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Khaṇḍaphulliya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Khaṇḍaphulliya là phần thứ ba.

--ooOoo--

194. Ký Sự về Trưởng Lão Asokapūjaka

2230. Lúc bấy giờ, ở thành phố Tīvarā đáng yêu đã có khu vườn thượng uyển. Ở tại nơi ấy, tôi đã là người giữ vườn, có sự sinh hoạt gắn bó với đức vua.

2231. Đấng Tự Chủ tên Paduma đã là vị có hào quang. Khi bậc Hiền Trí ấy ngồi ở nơi cây sen trắng, bóng râm đã không rời khỏi Ngài.

2232. Sau khi nhìn thấy cây asoka đã được trổ hoa, nặng trĩu từng chùm, có dáng nhìn xinh đẹp, tôi đã dâng lên đức Phật có tên là Padumuttara.

2233. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

2234. Trước đây ba mươi bảy kiếp, mười sáu vị (cùng tên) Aruṇañjaha đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2235. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Asokapūjaka[63]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Asokapūjaka là phần thứ tư.

--ooOoo--

195. Ký Sự về Trưởng Lão Aṅkolaka

2236. Sau khi nhìn thấy cây aṅkola với chùm hoa cao quý có lớp vỏ bọc đã được trổ hoa, tôi đã hái xuống bông hoa ấy và đã đi đến gặp đức Phật.

2237. Vào thời điểm ấy, bậc Đại Hiền Trí Siddhattha có sự ẩn cư. Sau khi bày tỏ sự tôn kính trong chốc lát, tôi đã rải rắc bông hoa ở nơi hang động.

2238. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

2239. Trước đây ba mươi sáu kiếp, (tôi đã là) vị Devagajjita độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2240. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Aṅkolaka[64]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy. Ký sự về trưởng lão Aṅkolaka là phần thứ năm.

--ooOoo--

196. Ký Sự về Trưởng Lão Kisalayapūjaka

2241. Tôi đã có một vườn hoa ở thành phố Dvāravatī. Và có giếng nước ở ngay tại nơi ấy là nguồn cung cấp (nước) cho các loài thực vật.

2242. Có lòng thương tưởng đến tôi, vị Siddhattha không bị đánh bại ấy, được hỗ trợ bằng năng lực của chính mình, đi đến ở trên không trung.

2243. Tôi không nhìn thấy bất cứ vật nào khác đáng để cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ. Sau khi nhìn thấy chồi non của cây asoka, tôi đã thảy (chồi non ấy) lên không trung.

2244. Trong khi đức Phật đang di chuyển, các chồi non ấy đi theo phía sau của Ngài. Tôi đây sau khi đã nhìn thấy thần thông ấy (đã tán dương rằng): “Ôi tính chất cao thượng của đức Phật!”

2245. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên chồi non trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

2246. Trước đây hai mươi bảy kiếp, tôi đã là vị Ekassara độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2247. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Kisalayapūjaka[65]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Kisalayapūjaka là phần thứ sáu.

--ooOoo--

197. Ký Sự về Trưởng Lão Tindukadāyaka

2248. Tôi đã là con khỉ có sức mạnh và nhanh nhẹn, thường lai vãng ở nơi hiểm trở của ngọn núi. Sau khi nhìn thấy cây tinduka có trái, tôi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng.

2249. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã lìa khỏi (chỗ ngụ) vài ngày và đã xem xét đấng Lãnh Đạo Thế Gian Siddhattha, bậc đã đi đến tận cùng ba cõi.

2250. Sau khi biết được ý định của tôi, bậc Đạo Sư đấng Vô Thượng ở thế gian cùng với một ngàn bậc Vô Lậu đã đi đến gần tôi.

2251. Sau khi làm cho sanh khởi niềm hưng phấn, tôi đã đi đến gần, có trái cây ở tay. Đức Thế Tôn, đấng Toàn Tri, bậc cao quý trong số các vị đang thuyết giảng đã thọ nhận.

2252. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.

2253. Trước đây năm mươi bảy kiếp, (tôi đã là) vị có tên Upananda, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2254. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Tindukadāyaka[66]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Tindukadāyaka là phần thứ bảy.

--ooOoo--

198. Ký Sự về Trưởng Lão Muṭṭhipūjaka

2255. Vì lòng thương tưởng hậu thế, đức Thế Tôn tên Sumedha, đấng Trưởng Thượng của thế gian, bậc Nhân Ngưu, đấng Chiến Thắng đã ra sức nỗ lực.

2256. Trong khi bậc Chúa Tể của loài người như thế ấy đang đi kinh hành, tôi đã dâng lên đức Phật nắm tay gồm những bông hoa girinela.

2257. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, tôi đã không bị đọa vào khổ cảnh trong ba mươi ngàn kiếp.

2258. Trong hai ngàn ba trăm kiếp, tôi đã là vị Sát-đế-lỵ tên Sunela, là người độc nhất được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2259. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Muṭṭhipūjaka[67]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Muṭṭhipūjaka là phần thứ tám.

--ooOoo--

199. Ký Sự về Trưởng Lão Kiṅkaṇipupphiya

2260. Đấng Tự Chủ tên Sumaṅgala, bậc không bị đánh bại, đấng Chiến Thắng đã rời khỏi khu rừng bao la và đã đi vào thành phố.

2261. Sau khi thực hành việc đi khất thực, bậc Hiền Trí đã lìa khỏi thành phố. Có phận sự đã được làm xong, bậc Toàn Giác ấy đã cư ngụ ở trong khu rừng.

2262. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cầm lấy bông hoa kiṅkaṇi và đã dâng lên đức Phật, đấng Tự Chủ, bậc Đại Ẩn Sĩ.

2263. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

2264. Trước đây tám mươi sáu kiếp, (tôi đã là) vị tên Apilāpiya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2265. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Kiṅkaṇipupphiya[68]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Kiṅkaṇipupphiya là phần thứ chín.

--ooOoo--

200. Ký Sự về Trưởng Lão Yūthikāpupphiya

2266. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, bậc Hữu Nhãn đã rời khỏi khu rừng bao la và đã đi đến trú xá.

2267. Sau khi cầm lấy bông hoa yūthika tối thượng bằng cả hai tay, tôi đã dâng lên đức Phật, bậc có tâm từ ái như thế ấy.

2268. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã thọ hưởng sự thành tựu và đã không bị sanh vào khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.

2269. Trước đây năm mươi kiếp, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng tên Samittanandana, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

2270. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Yūthikāpupphiya[69]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Yūthikāpupphiya là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Vị có bông hoa tamāla, thảm trải bằng cỏ, vị khám phá sự đổ vỡ, vị liên quan đến bông hoa asoka, vị có bông hoa aṅkola, chồi non, trái cây tinduka, các bông hoa nela, vị có bông hoa kiṅkaṇi, vị có bông hoa yūthikā; (tổng cộng) có năm mươi tám câu kệ.

Phẩm Tamālapupphiya là phẩm thứ hai mươi.

--ooOoo--

 

Giờ là phần tóm lược của các phẩm

Vị dâng cúng thức ăn, (vị có) đoàn tùy tùng, bông hoa sereyya, trưởng lão Sobhita là tương tợ, vị có chiếc lọng che, bông hoa bandhujīva, và luôn cả vị có sự phục vụ khéo léo, bông hoa kumuda, bông hoa kuṭaja, và luôn cả vị có bông hoa tamāla đã được thực hiện là thứ mười. Có sáu trăm câu kệ và sáu mươi sáu câu thêm vào đó.

Nhóm “Mười” từ phẩm Bhikkhā.

Nhóm “Một Trăm” thứ nhì được đầy đủ.

--ooOoo--


 

[1] Sereyyaka nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa sereyya.”

[2] Pupphathūpiya nghĩa là “vị liên quan đến ngôi bảo tháp (thūpa) bằng bông hoa (puppha).”

[3] Pāyāsadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) món cơm sữa (pāyāsa).”

[4] Sammukhāthavika nghĩa là “vị đã ngợi ca (thavika) trực tiếp ở trước mặt (sammukhā).”

[5] Kusumāsaniya nghĩa là “vị liên quan đến chỗ ngồi (āsana) bằng bông hoa (kusuma).”

[6] Phaladāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây (phala).”

[7] Ñāṇasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về trí tuệ (ñāṇa) của đức Phật.”

[8] Gandhapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) có mùi thơm (gandha).”

[9] Padumapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) hoa sen hồng (paduma).”

[10] Candanapūjakanghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) trầm hương (candana).”

[11] Pupphachadaniyanghĩa là “vị liên quan đến mái che (chadana) bằng bông hoa (puppha).”

[12] Rahosaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về nơi thanh vắng (raho).”

[13] Campakapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) campaka.”

[14] Atthasandassaka nghĩa là “vị chỉ dạy (sandassaka) về ý nghĩa, mục đích (attha)”.

[15] Ekapasādaniya nghĩa là “vị liên quan đến việc một lần (eka) có được đức tin (pasādana).”

[16] Sālapupphadāyakanghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bông hoa (puppha) sālā.”

[17] Piyālaphaladāyakanghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) trái cây (phala) piyāla.”

[18] Atichattiya nghĩa là “vị liên quan đến chiếc lọng che ở thượng tầng (atichatta).”

[19] Thambhāropaka nghĩa là “vị dựng lên (āropaka) cây cột (thambha).”

[20] Vedikārakanghĩa là “vị thực hiện (kāraka) viền rào (vedi).”

[21] Saparivāriyanghĩa là “vị liên quan đến nhóm tùy tùng (parivāra) của mình (sa).”

[22] Ummāpupphiyanghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) ummā.”

[23] Anulepadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) vữa để tô trét (anulepa).”

[24] Vaṭaṃsakiya nghĩa là “vị liên quan đến vòng hoa đội đầu (vaṭaṃsaka).”

[25] Pallaṅkadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chiếc ghế bành (pallaṅka).”

[26] Tambapupphiya nghĩa là “vị liên quan bông hoa (puppha) màu nâu đỏ (tamba).”

[27] Vīthisammajjaka nghĩa là “vị quét dọn (sammajjaka) con đường (vīthi).” 

[28] Kakkārupūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bông hoa kakkāru.”

[29] Mandāravapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bông hoa mandārava.”

[30] Kadambapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kadamba.”

[31] Tiṇasūlaka nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa tiṇasūlaka.”

[32] Nāgapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) nāga.”

[33] Punnāgapupphiyanghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) punnāga.”

[34] Kumudadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) hoa súng trắng (kumuda).”

[35] Kaṇaverapupphiyanghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kaṇavera.”

[36] Khajjakadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) vật thực để nhai (khajjaka).”

[37] Desapūjaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) khoảnh đất, vùng đất (desa).”

[38] Kaṇikāracchadaniya nghĩa là “vị liên quan đến mái che (chadana) bằng bông hoa kaṇikāra.”

[39] Sappidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) bơ lỏng (sappi).”

[40] Yūthikāpupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) yūthika.”

[41] Dussadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tấm vải (dussa).”

[42] Pañcaṅguliyanghĩa là “vị liên quan đến 1 nhúm năm (pañca) ngón tay (aṅgula).”

[43] Kumudamāliya nghĩa là “vị liên quan đến tràng hoa (māla) kumuda.”

[44] Nisseṇidāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cầu thang (nisseṇī).”

[45] Rattipupphiyanghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (māla) nở vào ban đêm (ratti).”

[46] Udapānadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cái giếng (udapāna).”

[47] Sīhāsanadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) bảo tọa sư tử (sīhāsana).”

[48] Ekadīpiyanghĩa là “vị liên quan đến một (eka) ngọn đèn (dīpa).”

[49] Tikicchakanghĩa là “vị thầy thuốc.”

[50] Saṅghupaṭṭhākanghĩa là “vị phục vụ (upaṭṭhāka) Hội Chúng (saṅgha).”

[51] Kuṭajapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kuṭaja.”

[52] Bandhujīvaka nghĩa là “vị có bông hoa bandhujīvaka.”

[53] Koṭumbariyanghĩa là “vị liên quan đến tấm vải mịn koṭumbara.”

[54] Pañcahatthiyanghĩa là “vị liên quan đến năm (pañca) bó (hattha) hoa.”

[55] Isimuggadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) đậu tây (isimugga).”

[56] Bodhi-upaṭṭhākanghĩa là “vị phục vụ (upaṭṭhāka) cội cây Bồ Đề (bodhi).”

[57] Ekacintikanghĩa là “vị có một lần (eka) suy nghĩ (cintika).”

[58] Tikaṇṇipupphiyanghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) tikaṇṇi.”

[59] Ekacāriya nghĩa là “vị có một lần (eka) hành xử (cāriya).”

[60] Tivaṇṭipupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) tivaṇṭi.”

[61] Tamālapupphiyanghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) tamāla.”

[62] Tiṇasantharadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tấm thảm (santhara) bằng cỏ (tiṇa).”

[63] Asokapūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bông hoa asoka.”

[64] Aṅkolakanghĩa là “vị có bông hoa aṅkola.”

[65] Kisalayapūjakanghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) các chồi non (kisalaya).”

[66] Tindukadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây tinduka.”

[67] Muṭṭhipūjaka nghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) nắm (muṭṭhi) bông hoa.”

[68] Kiṅkaṇipupphiyanghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) kiṅkaṇi.”

[69] Yūthikāpupphiyanghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) yūthikā.”