XXXIV. GANDHADHŪPIYAVAGGO - PHẨM GANDHADHŪPIYA
331. Ký Sự về Trưởng Lão Gandhadhūpiya
2931. Tôi đã dâng cúng nhang thơm đến đức Thế Tôn Siddhattha. Nhang thơm ấy được bao phủ bằng (mùi hương của) các bông hoa nhài và được phù hợp với đức Phật.
2932. Đấng Toàn Giác, bậc Lãnh Đạo Thế Gian tợ như cây cột trụ bằng vàng, tợ như bông hoa súng được chói sáng, tợ như ngọn lửa tế thần được cháy rực.
2933. Tợ như con hổ hùng tráng quý cao, tợ như con sư tử đã được sanh ra cao quý, Ngài đã ngồi xuống ở phía trước Hội Chúng gồm các vị tỳ khưu cao quý trong số các bậc Sa-môn.
2934. Sau khi nhìn thấy, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín và đã chắp tay lên. Sau khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư, tôi đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
2935. Kể từ khi tôi đã cúng dường hương thơm cho đến chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường hương thơm.
2936. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Gandhadhūpiya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Gandhadhūpiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
332. Ký Sự về Trưởng Lão Udakapūjaka
2937. (Tôi đã nhìn thấy) bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, chói sáng như là ngọn lửa từ bơ lỏng, cháy rực như là ngọn lửa tế thần, đang di chuyển bằng đường không trung.[30]
2938. Tôi đã dùng bàn tay múc nước và đã hắt lên không trung. Đấng Đại Hùng, đức Phật, đấng Bi Mẫn, bậc Ẩn Sĩ đã tiếp nhận.
2939. Đứng ở trên không trung, bậc Đạo Sư tên Padumuttara sau khi biết được ý định của tôi đã nói lên lời kệ này:
2940. “Do sự dâng cúng nước này và do sự sanh khởi niềm phỉ lạc, ngươi không bị sanh vào khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”
2941. Bạch đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, nhờ vào việc làm ấy, sau khi từ bỏ sự hơn thua, con đã đạt được vị thế Bất Động.
2942. Và (trước đây) sáu ngàn năm trăm kiếp, ba đấng Chuyển Luân Vương tên Sahassarāja đã là các vị thống lãnh dân chúng (chinh phục) bốn phương.
2943. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Udakapūjaka[31]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Udakapūjaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
333. Ký Sự về Trưởng Lão Punnāgapupphiya
2944. Sau khi đã đi sâu vào khu rừng rậm, tôi sinh sống, là người thợ săn. Sau khi nhìn thấy cây punnāga đã được trổ hoa, tôi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng.[32]
2945. Tôi đã thu nhặt bông hoa xinh đẹp tỏa hương thơm ngào ngạt ấy. Sau khi thực hiện ngôi bảo tháp ở trên cát, tôi đã dâng (bông hoa) lên đức Phật.
2946. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2947. (Trước đây) chín mươi mốt kiếp, tôi đã là vị Tamonuda độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2948. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Punnāgapupphiya[33]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Punnāgapupphiya là phần thứ ba.
--ooOoo--
334. Ký Sự về Trưởng Lão Ekadussadāyaka
2949. Tôi đã là người gánh cỏ ở thành phố Haṃsavatī. Tôi sinh sống bằng việc gánh cỏ. Nhờ thế, tôi nuôi dưỡng các đứa trẻ.
2950. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara là bậc thông suốt về tất cả các pháp. Sau khi xua đi điều tăm tối ấy, đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã hiện khởi.
2951. Sau khi ngồi xuống ở căn nhà của mình, vào lúc ấy tôi đã suy nghĩ như vầy: “Đức Phật đã hiện khởi ở thế gian, và vật xứng đáng để dâng cúng thì ta không có.
2952. Đây là tấm vải choàng duy nhất của ta. Ta không có người thí chủ nào. Việc tiếp xúc với địa ngục là khổ sở. Ta sẽ ươm trồng vật cúng dường.”
2953. Sau khi suy nghĩ như thế, tôi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín. Tôi đã cầm lấy tấm vải độc nhất và đã dâng cúng đến đức Phật tối thượng.
2954. Sau khi dâng cúng tấm vải độc nhất, tôi đã nói lớn tiếng rằng: “Bạch đấng Anh Hùng, bậc Đại Hiền Trí, nếu Ngài là vị Phật xin Ngài hãy giúp con vượt qua.”
2955. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, trong khi tán dương vật dâng cúng của tôi, đã nói lời tùy hỷ với tôi rằng:
2956. “Do tấm vải độc nhất này và do các nguyện lực của tác ý, (người này) không đi đến đọa xứ trong một trăm ngàn kiếp.
2957. (Người này) sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc ba mươi sáu lần và sẽ là đấng Chuyển Luân Vương ba mươi ba lần.
2958. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Trong khi luân hồi ngươi sẽ hiện hữu ở thế giới chư Thiên hoặc ở loài người.
2959. Có sắc đẹp, hội đủ đức hạnh, có thân hình không bị kém sút, ngươi sẽ đạt được vải vóc không bị suy suyển, không thể ước lượng, theo như ước muốn.”
2960. Sau khi nói điều này, bậc Toàn Giác tên Padumuttara, bậc Trí Tuệ, đã bay lên không trung như là chim thiên nga chúa ở trên bầu trời.
2961. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của một tấm vải.
2962. Vải vóc hiện ra cho tôi theo mỗi lần giở lên của bước chân. Tôi đứng trên tấm vải ở bên dưới, có tấm che ở phía trên cho tôi.
2963. Và trong ngày hôm nay, nếu muốn tôi có thể che phủ bằng các loại vải vóc đối với bầu vũ trụ, luôn cả rừng rậm cùng với núi non.
2964. Nhờ vào chỉ một tấm vải ấy, trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác tôi có được màu da vàng chói, rồi tôi luân hồi ở cõi này cõi khác.
2965. Quả thành tựu của một tấm vải đã không đi đến sự hư hoại ở bất cứ nơi đâu. Đây là lần sanh sau cùng của tôi, (quả thành tựu ấy) được chín muồi cho tôi ở ngay cả nơi đây.
2966. Kể từ khi tôi đã dâng cúng tấm vải trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một tấm vải.
2967. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
2968. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekadussadāyaka[34]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekadussadāyaka là phần thứ tư.
--ooOoo--
335. Ký Sự về Trưởng Lão Phusitakampiya
2969. Lúc bấy giờ, đấng Toàn Giác tên Vipassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, được tùy tùng bởi các bậc Lậu Tận, đã cư ngụ tại tu viện của Hội Chúng.
2970. Rồi đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī cùng với tám trăm ngàn bậc Lậu Tận đã đi ra từ cánh cổng tu viện.
2971. Là vị quấn y phục bằng da dê và cũng là vị mặc y phục bằng vỏ cây, tôi đã cầm lấy nước bông hoa kusumbha rồi đã đi đến gần bậc Toàn Giác.
2972. Sau khi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín, tràn đầy niềm phấn khởi, tay chắp lên, tôi đã cầm lấy nước bông hoa kusumbha và đã rưới lên đức Phật.
2973. Do việc làm ấy, bậc Toàn Giác tên Padumuttara đã tán dương việc làm của tôi, rồi đã ra đi theo như ý định.
2974. Kể từ khi tôi đã cúng dường năm ngàn giọt (nước), tôi đã (trở thành vị Thiên Vương) cai quản Thiên quốc đúng hai ngàn năm trăm kiếp.
2975. Tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương đúng hai ngàn năm trăm kiếp. Với nghiệp còn dư sót, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
2976. Vào lúc tôi là vị Thiên Vương, vào lúc tôi là vị thống lãnh nhân loại, tôi có tên là Phusita, chính tên gọi ấy là thuộc về tôi.
2977. Trong khi là vị Thiên nhân cũng như khi là loài người, mưa đổ xuống như nhỏ giọt ở xung quanh tôi một sải tay.
2978. Các lần tái sanh của tôi đã được tiêu diệt, các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các lậu hoặc đã được đoạn tận; điều này là quả báu của giọt nước.
2979. Mùi thơm tỏa ra từ thân thể của tôi giống như mùi của trầm hương. Mùi thơm của tôi từ cơ thể tỏa ra (khoảng cách) một nửa kosa.[35]
2980. Là người có được nghiệp phước thiện đang tỏa ra hương thơm của cõi trời, mọi người sau khi ngửi được mùi hương biết được là Phusita đã đi đến đây.
2981. Các cành cây, các lá cây, các nhánh cây, và luôn cả toàn bộ các loại cỏ, thuận theo ý định của tôi, có hương thơm được sanh lên trong giây lát.
2982. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường trầm hương trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của giọt nước.
2983. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Phusitakampiya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Phusitakampiya là phần thứ năm.
--ooOoo--
336. Ký Sự về Trưởng Lão Pabhaṅkara
2984. Ngôi bảo tháp của đức Thế Tôn Padumuttara, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy, đã ngự ở trong khu rừng đông đúc thú dữ.
2985. Không người nào đã dám đi đến để đảnh lễ ngôi bảo tháp. Bị bao phủ bởi cỏ, cây cối, và dây leo, ngôi bảo tháp đã bị sụp đổ.
2986. Khi ấy, tôi đã là người thợ rừng theo nghề của cha và ông nội. Tôi đã nhìn thấy ngôi bảo tháp đổ nát, bị chằng chịt bởi cỏ và dây leo ở trong khu rừng.
2987. Sau khi nhìn thấy ngôi bảo tháp của đức Phật, tôi đã thiết lập tâm cung kính rằng: “Đây là ngôi bảo tháp của đức Phật tối thượng, nó đã bị sụp đổ và còn tồn tại ở trong khu rừng.
2988. Thật không đúng đắn, không hợp lẽ đối với người biết được điều phải quấy! Ta hãy dọn sạch ngôi bảo tháp của đức Phật rồi hãy chăm lo công việc khác.”
2989. Sau khi dọn sạch cỏ, cây cối, và dây leo ở ngôi bảo tháp, tôi đã đảnh lễ tám lượt rồi đã cúi mình ra đi.
2990. Do việc làm ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
2991. Tại nơi ấy, có cung điện bằng vàng vô cùng rực rỡ đã được kiến tạo khéo léo dành cho tôi, có chiều cao là sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.
2992. Tôi đã cai quản Thiên quốc ba trăm lượt. Và tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương hai mươi lăm lần.
2993. Trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác, tôi đạt được của cải lớn lao, tôi không có sự thiếu hụt về của cải; điều này là quả báu của việc dọn sạch (ngôi bảo tháp).
2994. Khi tôi đang di chuyển bằng kiệu khiêng, bằng lưng voi ở trong khu rừng, bất cứ hướng nào tôi đi đến, khu rừng đều có sự trợ giúp đến tôi.
2995. Được gắn liền với nghiệp phước thiện, gốc cây hoặc thậm chí gai nhọn mà tôi không nhìn thấy bằng mắt, tự chính chúng được dời đi.
2996. Và bệnh cùi, nhọt, chàm, động kinh, ghẻ, lở, ngứa không xảy đến cho tôi; điều này là quả báu của việc dọn sạch (ngôi bảo tháp).
2997. Còn có điều phi thường khác nữa cho tôi khi ngôi bảo tháp đã được dọn sạch là tôi không biết đến khối u mọc lên ở cơ thể của tôi.
2998. Còn có điều phi thường khác nữa cho tôi khi ngôi bảo tháp đã được dọn sạch là tôi luân hồi ở hai cõi, ở bản thể Thiên nhân và loài người.
2999. Còn có điều phi thường khác nữa cho tôi khi ngôi bảo tháp đã được dọn sạch là tôi có màu da vàng chói, có sự phát ra ánh sáng ở khắp mọi nơi.
3000. Còn có điều phi thường khác nữa cho tôi khi ngôi bảo tháp đã được dọn sạch là sự khó chịu biến mất và sự khoan khoái hiện hữu.
3001. Còn có điều phi thường khác nữa cho tôi khi ngôi bảo tháp đã được dọn sạch là tâm tôi được trong sạch, có sự chăm chú, khéo được định tĩnh.
3002. Còn có điều phi thường khác nữa cho tôi khi ngôi bảo tháp đã được dọn sạch là sau khi ngồi ở ngay chỗ ngồi ấy tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
3003. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc làm sạch sẽ.
3004. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pabhaṅkara đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pabhaṅkara là phần thứ sáu.
--ooOoo--
337. Ký Sự về Trưởng Lão Tiṇakuṭidāyaka
3005. Tôi đã là người làm công cho người khác ở thành phố Bandhumatī. Tôi bị vướng bận trong việc quán xuyến công việc của người khác và (sống) lệ thuộc vào vật thực của người khác.
3006. Sau khi đi đến nơi vắng vẻ rồi ngồi xuống, vào lúc ấy tôi đã suy nghĩ như vầy: “Đức Phật đã hiện khởi ở thế gian và hành động hướng thượng của ta là không có.”
3007. Thời điểm để dọn sạch cảnh giới tái sanh, cơ hội đã được sắp xếp cho ta. Việc tiếp xúc với địa ngục là khổ sở cho những chúng sanh thật sự không có phước báu.”
3008. Sau khi suy nghĩ như thế, tôi đã đi đến gặp người chủ công việc. Sau khi yêu cầu về công việc trong một ngày, tôi đã đi vào khu rừng.
3009. Khi ấy, tôi đã mang lại cỏ, cây gỗ, và dây leo. Sau khi dựng lên ba cây gậy, tôi đã thực hiện cái lều bằng cỏ.
3010. Sau khi cúng hiến cái lều nhỏ ấy vì sự lợi ích của Hội Chúng, tôi đã trở về nội trong ngày hôm ấy và đã đi đến gặp người chủ công việc.
3011. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi. Do nhờ (quả báu của việc dâng cúng) cái lều nhỏ bằng cỏ, tại nơi ấy có cung điện được kiến tạo khéo léo dành cho tôi đã được hóa hiện ra.
3012. (Cung điện ấy) có một ngàn khu vực, có một trăm quả cầu tròn được trang hoàng với những lá cờ, được làm với màu lục, có một trăm ngàn tháp nhọn đã hiện diện ở cung điện của tôi.
3013. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, có tòa lâu đài hiện diện kế bên đúng theo ý định của tôi.
3014. Sự sợ hãi, hoặc trạng thái u mê, hoặc lông rởn ốc là không được biết đến, tôi không biết đến sự run sợ của tôi; điều này là quả báu của cái lều nhỏ bằng cỏ.
3015. Các con sư tử, cọp, báo, gấu, chó sói, linh cẩu, tất cả đều tránh xa tôi; điều này là quả báu của cái lều nhỏ bằng cỏ.
3016. Các loài bò sát và các hạng ma quỷ, các con rắn, các ác thần, và các quỷ sứ, các hạng này cũng tránh xa tôi; điều này là quả báu của cái lều nhỏ bằng cỏ.
3017. Tôi không nhớ tôi có sự nhìn thấy giấc mộng xấu xa (lần nào), niệm của tôi hiện hữu; điều này là quả báu của cái lều nhỏ bằng cỏ.
3018. Chỉ nhờ vào cái lều nhỏ bằng cỏ, tôi thọ hưởng sự thành đạt, tôi đã đắc chứng Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.
3019. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của cái lều nhỏ bằng cỏ.
3020. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Tiṇakuṭidāyaka[36]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Tiṇakuṭidāyaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
338. Ký Sự về Trưởng Lão Uttareyyadāyaka
3021. Lúc bấy giờ, ở thành phố Haṃsavatī tôi đã là vị Bà-la-môn, là vị giảng huấn, thông thạo về chú thuật, thông suốt về ba tập Vệ-đà.
3022. Tôi là người có dòng dõi, khéo được học tập, được các người học trò của mình trọng vọng. Khi ấy, tôi đã đi ra khỏi thành phố nhằm mục đích rửa tội bằng nước.
3023. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara là bậc thông suốt về tất cả các pháp. Được tháp tùng bởi một ngàn bậc Vô Lậu, đấng Chiến Thắng đã đi vào thành phố.
3024. Tôi đã nhìn thấy vị có dáng vóc vô cùng tao nhã như là đã được tạo nên bởi sự không còn dục vọng, được tháp tùng bởi các vị A-la-hán. Sau khi nhìn thấy, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín.
3025. Tôi đã chắp tay lên ở đầu và đã cúi chào bậc có sự hành trì tốt đẹp. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng tấm áo choàng.
3026. Sau khi nâng lên bằng cả hai tay, tôi đã thảy tấm vải choàng lên. Hội chúng của đức Phật đứng đến nơi đâu thì tấm vải choàng đã che đến nơi ấy.
3027. Khi ấy, trong lúc làm tấm che cho Hội Chúng tỳ khưu đông đảo, v.v... đang đi khất thực, (tấm vải choàng) đã đứng yên, khiến cho tôi được vui mừng.
3028. Trong khi tôi đang từ nhà bước ra, đấng Tự Chủ, nhân vật cao cả, bậc Đạo Sư, đứng ở tại đường lộ, đã nói lời tùy hỷ với tôi rằng:
3029. “Người nào với tâm tịnh tín, với ý vui mừng đã dâng cúng tấm vải choàng đến Ta, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.
3030. (Người ấy) sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên ba mươi ngàn kiếp, và sẽ là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc năm mươi lần.
3031. Người có được nghiệp phước thiện, trong khi đang sống ở thế giới chư Thiên, sẽ có được sự che phủ bằng tấm vải ở xung quanh một trăm do-tuần.
3032. Và (người ấy) sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương ba mươi sáu lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
3033. Người có được nghiệp phước thiện, trong khi luân hồi ở cõi hữu, sẽ tức thời đạt được mọi điều ước nguyện ở trong tâm.
3034. Người nam này sẽ đạt được các tấm vải làm bằng tơ lụa, bằng sợi len, bằng chỉ lanh, và bằng bông vải có giá trị cao.
3035. Người nam này sẽ đạt được mọi ước nguyện ở trong tâm và sẽ thọ hưởng quả thành tựu của (việc dâng cúng) một tấm vải vào mọi thời điểm.
3036. Về sau, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch, người ấy sẽ xuất gia và sẽ đắc chứng Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.”
3037. Ôi việc làm của tôi đã được thực hiện tốt đẹp đến đấng Toàn Tri, bậc Đại Ẩn Sĩ. Sau khi dâng cúng một tấm vải choàng, tôi đã đạt được vị thế Bất Tử.
3038. Trong lúc tôi sống ở mái che, ở gốc cây, hoặc ở ngôi nhà trống vắng, có tấm che bằng vải được duy trì ở xung quanh tôi một sải tay.
3039. Tôi sử dụng y và vật dụng không phải do gợi ý xin xỏ, tôi có sự thành đạt về cơm ăn nước uống; điều này là quả báu của tấm áo choàng.
3040. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng tấm vải.
3041. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Uttareyyadāyaka[37]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Uttareyyadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
339. Ký Sự về Trưởng Lão Dhammasavaṇiya
3042. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp, trong khi công bố về bốn Sự Thật, đã giúp cho nhiều người vượt qua.
3043. Lúc bấy giờ, tôi là vị đạo sĩ tóc bện có sự khổ hạnh cao tột. Khi ấy tôi di chuyển ở hư không, (vừa đi) vừa phất phơ các y phục bằng vỏ cây.
3044. Tôi không thể di chuyển ở phía trên của đức Phật tối thượng. Lúc ấy, tợ như con chim bị va vào tảng đá, tôi đã không đạt được sự di chuyển.
3045. Sự hư hoại về oai nghi này chưa từng xảy ra cho tôi trước đây. Giống như người nổi trên mặt nước, tôi (thường) di chuyển ở không trung như vậy.
3046. “Chắc là có người có bản chất cao thượng đang ngồi ở phía bên dưới. Hừ! Ta sẽ tìm hiểu việc này. Ít ra ta cũng có thể đạt được nguyên nhân.”
3047. Trong khi từ không trung đáp xuống, tôi đã nghe tiếng nói của bậc Đạo Sư đang thuyết giảng về tính chất vô thường, khi ấy tôi đã học tập điều ấy.
3048. Sau khi đã học tập sự suy tưởng về vô thường, tôi đã đi về khu ẩn cư của tôi. Sau khi sống đến hết tuổi thọ, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
3049. Khi đang ở vào thời điểm cuối cùng, tôi đã nhớ lại sự lắng nghe Giáo Pháp ấy. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
3050. Tôi đã sướng vui ở thế giới chư Thiên ba mươi ngàn kiếp. Và tôi đã cai quản Thiên quốc năm mươi mốt lần.
3051. Và tôi đã là đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi mốt lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.
3052. Sau khi ngồi xuống ở căn nhà của người cha, vị Sa-môn có giác quan đã được tu tập, trong khi giải thích về câu kệ ngôn, đã đề cập đến tính chất vô thường.
3053. Trong khi luân hồi ở cõi này cõi khác, tôi có nhớ lại sự suy tưởng (về vô thường) ấy, (nhưng) tôi (đã) không thấu triệt điểm cốt yếu là Niết Bàn, vị thế Bất Tử.
3054. “Quả vậy, các pháp hữu vi là vô thường, có pháp sanh và diệt, sau khi sanh lên chúng hoại diệt, sự tịnh lặng của chúng là an lạc.”[38]
3055. Sau khi lắng nghe câu kệ ngôn, tôi đã nhớ lại việc làm quá khứ. Sau khi ngồi ở ngay chỗ ngồi ấy, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
3056. Vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Sau khi nhận biết đức hạnh (của tôi), đức Phật, bậc Hữu Nhãn, đã cho tu lên bậc trên.
3057. Trong khi chỉ là đứa bé trai, tôi đã hoàn tất việc cần làm. Hôm nay, còn có việc gì tôi cần phải làm ở Giáo Pháp của người con trai dòng Sakya?
3058. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; (điều này) là quả báu của việc lắng nghe Chánh Pháp.
3059. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Dhammasavaṇiya[39]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Dhammasavaṇiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
340. Ký Sự về Trưởng Lão Ukkhittapadumiya
3060. Tôi đã là người làm tràng hoa ở thành phố Haṃsavatī. Tôi đã lội xuống hồ sen và đã hái những đóa hoa sen.
3061. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp, cùng với một trăm ngàn bậc có tâm an tịnh như thế ấy.
3062. Khi ấy, trong khi lưu tâm đến sự tiến hóa của tôi, Ngài cùng với các bậc Lậu Tận trong sạch có sáu thắng trí, đã đi đến chỗ của tôi.
3063. Sau khi nhìn thấy vị Trời của chư Thiên, bậc Tự Chủ, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, khi ấy tôi đã ngắt đóa hoa sen ở cuống và đã thảy lên không trung.
3064. “Bạch đấng Anh Hùng, nếu Ngài là đức Phật, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, xin cho các đóa sen tự đi đến và duy trì ở trên đỉnh đầu Ngài.”
3065. Đấng Đại Hùng, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã chú nguyện. Do nhờ oai lực của đức Phật, chúng đã duy trì ở trên đỉnh đầu.
3066. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.
3067. Có cung điện được kiến tạo khéo léo dành cho tôi đây. Nó được gọi tên là “Satapattaṃ” có chiều cao sáu mươi do-tuần, chiều rộng ba mươi do-tuần.
3068. Tôi đã là vị Chúa của chư Thiên cai quản Thiên quốc một ngàn lần. Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương bảy mươi lăm lần.
3069. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm. Tôi thọ hưởng nghiệp của mình, (là nghiệp) đã khéo được thực hiện bởi bản thân trong thời quá khứ.
3070. Chỉ nhờ vào một đóa sen hồng ấy, sau khi thọ hưởng sự thành đạt, tôi đã đắc chứng Giáo Pháp của đức Thế Tôn Gotama.
3071. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
3072. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của một đóa sen hồng.
3073. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ukkhittapadumiya[40]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ukkhittapadumiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Phần Tóm Lược
Nhang thơm, (vị cúng dường) nước, bông hoa punnāga, vị có tấm vải độc nhất, giọt nước (thơm), vị Pabhaṅkara, vị dâng cúng cái lều (cỏ), vị có tấm áo choàng, vị có sự lắng nghe, vị có một đóa sen hồng; các câu kệ được gộp chung lại ở phẩm này là một trăm câu kệ và bốn mươi bốn câu nữa.
Phẩm Gandhadhūpiya là phẩm thứ ba mươi bốn.
--ooOoo--