XIII. SEREYYAKAVAGGO - PHẨM SEREYYAKA
121. Ký Sự về Trưởng Lão Sereyyaka
1767. Là vị giảng huấn, thông thạo về chú thuật, thông suốt về ba tập Vệ-đà, trong khi đang đứng ở ngoài trời, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
1768. Bậc Đại Ẩn Sĩ giống như là con sư tử đang đi lang thang ở trong rừng, tợ như con cọp chúa không có sự sợ hãi, tợ như giống voi mātaṅga (đến tuổi) bị tiết dục ở ba nơi.
1769. Tôi đã cầm lấy bông hoa sereyya và đã ném lên không trung. Do nhờ năng lực của đức Phật, (các bông hoa ấy) quây quần ở khắp nơi.
1770. Bậc Đại Hùng, đấng Toàn Tri, bậc Lãnh Đạo Thế Gian đã chú nguyện. Các mái che bằng bông hoa ở xung quanh đã rải rắc ở đấng Nhân Ngưu.
1771. Kế đó, tấm màn bằng bông hoa ấy, có các cuống hoa ở phía trong và các vành hoa bên ngoài, đã trở thành mái che trong bảy ngày và sau đó đã biến mất.
1772. Và sau khi nhìn thấy điều phi thường kỳ diệu khiến lông rởn ốc ấy, tôi đã làm cho tâm tịnh tín ở đức Phật, bậc Thiện Thệ, đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
1773. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, được thúc đẩy bởi nhân tố trong sạch tôi đã không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
1774. (Trước đây) mười lăm ngàn kiếp, hai mươi lăm vị (cùng) tên Cittamālā ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1775. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sereyyaka[1]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sereyyaka là phần thứ nhất.
--ooOoo--
122. Ký Sự về Trưởng Lão Pupphathūpiya
1776. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên là Kukkuṭa. Ở trung tâm của ngọn núi ấy có vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật sinh sống.
1777. Có năm ngàn người học trò luôn luôn vây quanh tôi. Các vị ấy đã là những người (ngủ) thức dậy trước (tôi) và được tự tin vào các chú thuật.
1778. “Hỡi người thầy của chúng con, đức Phật đã hiện khởi ở trên thế gian, xin thầy biết rõ về điều ấy. Đấng Chiến Thắng cao quý có ba mươi hai hảo tướng và tám mươi tướng phụ, có vầng hào quang tợ như mặt trời chiếu sáng.”
1779. Sau khi lắng nghe lời nói của những người học trò, vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật đã rời khu ẩn cư và hỏi những người học trò phương hướng về khu vực mà đấng Đại Hùng bậc Lãnh Đạo Thế Gian cư ngụ.
1780. Tôi đã lễ bái phương hướng ấy (hướng đến) đấng Chiến Thắng, bậc không người đối thủ. Với tâm phấn chấn, với ý vui mừng, tôi đã tôn vinh đức Như Lai ấy.
1781. “Này các đệ tử, hãy đến. Chúng ta sẽ đi và sẽ diện kiến đức Như Lai. Sau khi đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư, chúng ta sẽ lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng.”
1782. Tôi đã ra đi một mình và tôi đã lâm bệnh. Trong khi bị hành hạ bởi căn bệnh, tôi đã đi đến nhà nghỉ chân để nằm nghỉ.
1783. Sau khi triệu tập tất cả những người học trò lại, tôi đã hỏi họ về đức Như Lai: “Đức độ của đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc có sự Giác Ngộ tuyệt đối, là như thế nào?”
1784. Được tôi hỏi, các vị ấy đã trả lời theo như đã nhìn thấy. Các vị đã mô tả đức Phật tối thượng ấy một cách kính trọng như Ngài đang ở trước mặt của tôi.
1785. Sau khi lắng nghe lời nói của họ, tôi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín. Sau khi thực hiện ngôi bảo tháp bằng các bông hoa, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
1786. Sau khi hỏa táng thi thể của tôi, các vị ấy đã đi đến gặp đức Phật. Họ đã chắp tay lên và đã đảnh lễ bậc Đạo Sư.
1787. Sau khi thực hiện ngôi bảo tháp bằng các bông hoa dành cho đức Thiện Thệ bậc Đại Ẩn Sĩ, tôi đã không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
1788. (Trước đây) bốn mươi bốn ngàn kiếp, mười sáu vị Sát-đế-lỵ (cùng) tên Aggisama đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1789. (Trước đây) hai mươi ngàn kiếp, ba mươi tám vị lãnh chúa (cùng) tên Ghatāsana đã là các đấng Chuyển Luân Vương.
1790. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pupphathūpiya[2]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pupphathūpiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
123. Ký Sự về Trưởng Lão Pāyāsadāyaka
1791. (Tôi đã nhìn thấy) bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, có ba mươi hai hảo tướng dẫn đầu Hội Chúng tỳ khưu đang đi ra khỏi khu rừng bao la.
1792. Có ý muốn dâng tặng vật hiến cúng, tôi đây đã chuẩn bị món cơm sữa ở trong cái đĩa kim loại vô cùng quý giá rồi đã đem dâng tặng bậc có năng lực.
1793. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã khéo léo bước lên con đường kinh hành ở bầu trời trên không trung.
1794. Và sau khi nhìn thấy điều phi thường kỳ diệu khiến lông rởn ốc ấy, sau khi đặt chiếc đĩa kim loại xuống tôi đã đảnh lễ (đức Phật) Vipassī.
1795. “Bạch đấng Toàn Tri, Ngài là vị Trời ở (thế gian có cả) chư Thiên cùng nhân loại. Bạch đấng Đại Hiền Trí, vì lòng thương tưởng xin Ngài hãy thọ nhận.”
1796. Biết được ý định của tôi, đức Thế Tôn, đấng Toàn Tri, bậc Lãnh Đạo Thế Gian, đấng Đạo Sư, bậc Đại Hiền Trí ở trên đời đã thọ nhận.
1797. Kể từ khi tôi đã cúng dường vật thí trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của món cơm sữa.
1798. Trước đây bốn mươi mốt kiếp, tôi đã là vị Sát-đế-lỵ tên Buddha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1799. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pāyāsadāyaka[3]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pāyāsadāyaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
124. Ký Sự về Trưởng Lão Gandhodakiya
1800. Sau khi ngồi xuống ở nơi cao quý của tòa lâu đài, tôi đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng Vipassī, bậc Toàn Tri, người tiêu diệt sự tăm tối, tợ như cây kakudha đang chói sáng.
1801. Đấng Lãnh Đạo Thế Gian (đang) đi ở không xa tòa lâu đài. Hào quang của Ngài tỏa ra tợ như ánh sáng của mặt trời.
1802. Và tôi đã cầm lấy nước thơm rồi đã rải rắc vào đức Phật tối thượng. Với sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
1803. (Kể từ khi) tôi đã rải rắc nước thơm trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1804. Trước đây ba mươi mốt kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Sugandha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1805. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Gandhodakiya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Gandhodakiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
125. Ký Sự về Trưởng Lão Sammukhāthavika
1806. Trong khi trấn an dân chúng, tôi đã giải thích về điềm báo hiệu khi vị Vipassī đang đản sanh rằng: “Đức Phật sẽ hiện khởi ở thế gian.
1807. Và vị nào trong khi đản sanh mười ngàn thế giới đã rúng động, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1808. Và vị nào trong khi đản sanh đã có nguồn ánh sáng bao la, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1809. Và vị nào trong khi đản sanh các dòng sông đã ngưng chảy, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1810. Và vị nào trong khi đản sanh ngọn lửa ở địa ngục Avīci đã không bốc cháy, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1811. Và vị nào trong khi đản sanh bầy chim đã không bay lượn, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1812. Và vị nào trong khi đản sanh làn gió ngưng thổi, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1813. Và vị nào trong khi đản sanh tất cả châu báu đã rực sáng, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1814. Và vị nào trong khi đản sanh đã có việc bước đi bảy bước chân, vị ấy giờ đây là đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư, đấng Hữu Nhãn (đang) thuyết giảng Giáo Pháp.
1815. Và ngay khi được sanh ra, bậc Toàn Giác đã chiếu sáng tất cả các phương, Ngài đã thốt lên lời nói hùng tráng; điều này là thông lệ của chư Phật.”
1816. Sau khi làm cho dân chúng động tâm, tôi đã ngợi ca đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Sau khi đảnh lễ bậc Toàn Giác, tôi đã ra đi, mặt hướng phía đông.
1817. (Kể từ khi) tôi đã ca ngợi đức Phật trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc ca ngợi.
1818. Trước đây 90 kiếp, (tôi đã là) vị tên Sammukhāthavika, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1819. Trước đây 89 kiếp, (tôi đã là) vị tên Paṭhavidundubhī, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1920. Trước đây 88 kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Obhāsa, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1821. Trước đây 87 kiếp, (tôi đã là) vị tên Saritacchedana, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1822. Trước đây 86 kiếp, (tôi đã là) vị tên Agginibbāpana, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1823. Trước đây 85 kiếp, (tôi đã là) vị tên Gatipacchedana, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1824. Trước đây 84 kiếp, (tôi đã là) vị vua tên Vātasama, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1825. Trước đây 83 kiếp, (tôi đã là) vị tên Ratanapajjala, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1826. Trước đây 82 kiếp, (tôi đã là) vị tên Padavikkamana, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1827. Trước đây 81 kiếp, (tôi đã là) vị vua tên Vilokana, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1828. Trước đây 80 kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Girisāra, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1829. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sammukhāthavika[4]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sammukhāthavika là phần thứ năm.
--ooOoo--
126. Ký Sự về Trưởng Lão Kusumāsaniya
1830. Tôi đã là vị Bà-la-môn ở thành phố Dhaññavatī về (khoa) tướng mạo, về truyền thống gồm cả văn tự và nghi thức.
1831. Là người thông suốt ba tập Vệ-đà, tôi được rành rẽ về điềm báo hiệu, biết về từ ngữ, về văn phạm, và tôi đã chỉ dạy các học trò về chú thuật.
1832. Có ý muốn dâng tặng vật hiến cúng trong khi đoàn tụ với cha mẹ, tôi đã đặt năm bó sen xanh ở trên chiếc ghế nhỏ.
1833. Khi ấy, đức Thế Tôn Vipassī, đấng Nhân Ngưu, dẫn đầu Hội Chúng tỳ khưu đi đến, trong lúc làm cho tất cả các phương rực sáng.
1834. Sau khi sắp xếp chỗ ngồi, tôi đã thỉnh mời bậc Đại Hiền Trí. Sau khi trải ra (các) bông hoa ấy, tôi đã rước (đức Phật) đến ngôi nhà của mình.
1835. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng đến đức Phật phần vật thực đã có sẵn ở trong nhà của tôi.
1836. Biết được thời điểm Ngài đã thọ thực xong, tôi đã dâng cúng bó bông hoa. Đấng Toàn Tri, sau khi nói lời tùy hỷ, đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
1837. Kể từ khi tôi đã dâng cúng bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bông hoa.
1838. Vào kiếp kế liền trước đây, tôi đã là đức vua Varadassana, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1839. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kusumāsaniya[5]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kusumāsaniya là phần thứ sáu.
--ooOoo--
127. Ký Sự về Trưởng Lão Phaladāyaka
1840. Là vị giảng huấn, thông thạo về chú thuật, thông suốt về ba tập Vệ-đà, tôi sống tại khu ẩn cư ở không xa núi Hi-mã-lạp.
1841. Tôi có vật cúng dường đến ngọn lửa, có các bông sen trắng và trái cây. Sau khi đặt vào trong chiếc giỏ, tôi đã treo lên ở ngọn cây.
1842. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, có ý định tiếp độ tôi, trong khi khất thực Ngài đã đi đến gần tôi.
1843. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng cúng trái cây đến đức Phật. Tôi đã là nguồn sanh lên niềm hạnh phúc, là sự đưa đến an lạc trong thời hiện tại cho chính tôi.
1844. Bậc Toàn Giác có màu da vàng chói, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đứng ở trên không trung đã nói lên lời kệ này:
1845. “Do sự dâng cúng trái cây này và do các nguyện lực của tác ý, (người này) không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.”
1846. Do nhờ nhân tố trong sạch ấy, tôi đã thọ hưởng sự thành đạt. Sau khi từ bỏ sự hơn thua, tôi đã đạt được vị thế Bất Động.
1847. Trước đây bảy trăm kiếp, tôi đã là đức vua Sumaṅgala, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1848. Bốn (tuệ) phân tích, ―(như trên)― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Phaladāyaka[6]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Phaladāyaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
128. Ký Sự về Trưởng Lão Ñāṇasaññaka
1849. Tôi sống trong vùng đồi núi tại núi Hi-mã-lạp. Sau khi nhìn thấy bãi cát đang chói sáng, tôi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng rằng:
1850. “Về trí tuệ, không có gì so sánh, không có gì đối địch với bậc Đạo Sư. Sau khi biết rõ tất cả các pháp, Ngài đã giải thoát nhờ vào trí tuệ.
1851. Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Tối Thượng Nhân, con kính lễ Ngài! Không có gì sánh bằng trí tuệ của Ngài cho dầu là trí tuệ hạng nhất.”
1852. Sau khi làm cho tâm của mình được tịnh tín ở trí tuệ (đức Phật), tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp. Trong những kiếp còn lại, điều tốt lành đã được tôi thực hiện.
1853. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về trí tuệ.
1854. Trước đây bảy mươi ba kiếp, (tôi đã là) vị độc nhất tên Pulinapupphiya, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1855. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ñāṇasaññaka[7]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ñāṇasaññaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
129. Ký Sự về Trưởng Lão Gandhapupphiya
1856. Bậc Toàn Giác Vipassī có màu da vàng chói, bậc xứng đáng sự cúng dường, dẫn đầu các vị Thinh Văn, đã rời khỏi tu viện.
1857. Sau khi nhìn thấy đức Phật tối thượng, đấng Toàn Tri, bậc tiêu diệt sự tăm tối, với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cúng dường bông hoa có hương thơm.
1858. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm đối với đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy, tôi đã trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ tôi đã đảnh lễ đức Như Lai lần nữa.
1859. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1860. Trước đây bốn mươi mốt kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Caraṇa, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1861. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Gandhapupphiya[8]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Gandhapupphiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
130. Ký Sự về Trưởng Lão Padumapūjaka
1862. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên Gotama được che phủ bởi nhiều loại cây cối khác nhau, là nơi trú ngụ của các nhóm chúng sanh vĩ đại.
1863. Và có khu ẩn cư đã được tạo nên ở trung tâm của ngọn núi ấy. Được vây quanh bởi những học trò của mình, tôi sống tại khu ẩn cư.
1864. “Này các nhóm học trò của ta, hãy mang lại cho ta hoa sen hồng. Chúng ta sẽ thực hiện việc cúng dường đức Phật, đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.”
1865. Các vị ấy đã đáp lại rằng: “Xin vâng,” rồi đã mang lại hoa sen hồng cho tôi. Tại nơi ấy, sau khi xác định đối tượng, tôi đã dâng lên đức Phật.
1866. Khi ấy, tôi đã triệu tập các người học trò lại và đã giáo huấn điều tốt đẹp: “Các ngươi chớ xao lãng, không xao lãng là nguồn đem lại sự an lạc.”
1867. Sau khi đã giáo huấn như vậy cho những người học trò có sự chấp nhận lời dạy bảo ấy, được gắn bó với đức tính không xao lãng, tôi đã mệnh chung vào khi ấy.
1868. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1869. (Trước đây) 51 kiếp, tôi đã là đức vua Jaluttama, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
xxxx. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Padumapūjaka[9]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Padumapūjaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Phần Tóm Lược
Vị Sereyyaka, vị có ngôi bảo tháp bằng bông hoa, vị (dâng cúng) cơm sữa, vị (rắc) nước thơm, vị ca ngợi, vị có chỗ ngồi, vị (dâng cúng) trái cây, vị suy tưởng, bông hoa có hương thơm, vị có hoa sen hồng; (tổng cộng) có 105 câu kệ đã được thuật lại bởi các vị nhìn thấy sự lợi ích.
Phẩm Sereyyaka là phẩm thứ mười ba.
--ooOoo--