Skip directly to content

XXIV. UDAKĀSANAVAGGO - PHẨM UDAKĀSANA

231. Ký Sự về Trưởng Lão Udakāsanadāyaka

2424. Sau khi đi ra khỏi cổng của tu viện, tôi đã trải ra tấm ván. Và tôi đã phục vụ nước nhằm đạt đến mục đích tối thượng.

2425. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu ở (sự bố thí) chỗ ngồi và nước.

2426. Trước đây mười lăm kiếp, (tôi đã là) vị có tên Abhisāma, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2427. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Udakāsanadāyaka[29]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Udakāsanadāyaka là phần thứ nhất.

--ooOoo--

232. Ký Sự về Trưởng Lão Bhājanadāyaka

2428. Lúc bấy giờ, tôi đã là người thợ làm gốm ở thành phố Bandhumatī. Trong khi ấy tôi đã cung cấp bát đĩa đến Hội Chúng tỳ khưu.

2429. (Kể từ khi) tôi đã cung cấp bát đĩa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của (việc dâng cúng) bát đĩa.

2430. Trước đây năm mươi ba kiếp, (tôi đã là) vị tên Anantajāli, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2431. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Bhājanadāyaka[30]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Bhājanadāyaka là phần thứ nhì.

--ooOoo--

233. Ký Sự về Trưởng Lão Sālapūpiya

2432. Tôi đã là người bán bánh ngọt ở thành phố Aruṇavatī. Tôi đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng Sikhī đang đi ngang qua cánh cửa của tôi.

2433. Với tâm ý trong sạch, tôi đã nhận lấy bình bát của đức Phật và đã dâng cúng bánh ngọt sālā đến đức Phật, bậc đã đi đến đạo lộ chân chánh.

2434. (Kể từ khi) tôi đã dâng cúng vật thực cứng trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của bánh ngọt sālā.

2435. Trước đây mười bốn kiếp, tôi đã là vị Amitañjala, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2436. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sālapūpiya[31]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sālapūpiya là phần thứ ba.

--ooOoo--

234. Ký Sự về Trưởng Lão Kilañjadāyaka

2437. Lúc bấy giờ, tôi đã là người thợ đan lát ở trong thành phố Tivarā đáng yêu. Dân chúng ở nơi ấy được tịnh tín ở đấng Quang Đăng của thế gian Siddhattha.

2438. Người ta tìm kiếm chiếc chiếu nhằm mục đích cúng dường đến đấng Bảo Hộ Thế Gian. Tôi đã dâng cúng chiếc chiếu đến những người đang tiến hành việc cúng dường đức Phật.

2439. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của chiếc chiếu.

2440. (Trước đây) bảy mươi bảy kiếp, tôi đã là đức vua Jutindhara, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2441. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Kilañjadāyaka[32]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Kilañjadāyaka là phần thứ tư.

--ooOoo--

235. Ký Sự về Trưởng Lão Vedikāraka

2442. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cho thực hiện vòng rào chắn ở cội cây Bồ Đề tối thượng của đức Thế Tôn Vipassī.

2443. (Kể từ khi) tôi đã cho thực hiện vòng rào chắn trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của vòng rào chắn.

2444. Trước đây mười một kiếp, tôi đã là vị tên Suriyassama, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2445. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Vedikāraka[33]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Vedikāraka là phần thứ năm.

--ooOoo--

236. Ký Sự về Trưởng Lão Vaṇṇakāra

2446. Lúc bấy giờ, tôi đã là người thợ nhuộm màu ở thành phố Aruṇavatī. Tôi đã nhuộm các màu sắc khác nhau cho các xấp vải ở ngôi bảo tháp.

2447. Kể từ khi tôi đã nhuộm màu sắc trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng màu sắc.

2448. Trước đây hai mươi ba kiếp, (tôi đã là) vị tên Candupama, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2449. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Vaṇṇākāra đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Vaṇṇākāra là phần thứ sáu.

--ooOoo--

237. Ký Sự về Trưởng Lão Piyālapupphiya

2450. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ săn thú rừng ở trong khu rừng hoang rậm. Sau khi nhìn thấy cây piyāla đã được trổ hoa, tôi đã rải rắc (bông hoa) ở con đường (đức Phật) đã đi qua.

2451. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

2452. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Piyālapupphiya[34]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Piyālapupphiya là phần thứ bảy.

--ooOoo--

238. Ký Sự về Trưởng Lão Ambayāgadāyaka

2453. Nương tựa vào nghề nghiệp của mình, tôi đã đi đến khu rừng rậm. Sau khi nhìn thấy bậc Toàn Giác đang đi, tôi đã dâng cúng vật thí là trái xoài.

2454. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc hiến dâng trái xoài.

2455. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ambayāgadāyaka[35]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ambayāgadāyaka là phần thứ tám.

--ooOoo--

 

239. Ký Sự về Trưởng Lão Jagatikāraka

2456. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Tối Thượng Nhân Atthadassī đã Niết Bàn, việc bố trí đã được tôi điều hành ở ngôi bảo tháp tối thượng của đức Phật.

2457. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy (trước đây) một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc bố trí.

2458. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Jagatikāraka[36]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Jagatikāraka là phần thứ chín.

--ooOoo--

240. Ký Sự về Trưởng Lão Vāsidāyaka

2459. Trước đây, tôi đã là người thợ rèn ở trong kinh thành Tivarā. Tôi đã dâng cúng một lưỡi rìu đến đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại.

2460. Kể từ khi tôi đã dâng cúng lưỡi rìu trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng lưỡi rìu.

2461. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Vāsidāyaka[37]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Vāsidāyaka là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Chỗ ngồi và nước, bát đĩa, vị có bánh ngọt sālā, vị liên quan đến chiếc chiếu, vòng rào chắn, thợ nhuộm màu, bông hoa piyāla,vị bố thí vật hiến dâng là trái xoài, việc bố trí, vị dâng cúng lưỡi rìu; (tổng cộng) có ba mươi tám câu kệ.

Phẩm Udakāsana là phẩm thứ hai mươi bốn.

--ooOoo--