Skip directly to content

BÀI THỨ TƯ: DẠY MỘT TU SINH NAM

(Ngày 14-3-2006)

QUÁN THÂN TRÊN THÂN THEO OAI NGHI ĐI, ĐỨNG, NẰM.

Kính thưa Thầy, sau mười ngày tu tập quán thân trên thân theo pháp 4 Niệm Xứ, bản thân con gặp trở ngại vì thiếu căn bản nhiếp tâm và an trú tâm trên hơi thở trong thời gian tối thiểu 10 phút theo lời Thầy dạy, nên ngồi tu 4 Niệm Xứ không đạt kết quả đúng yêu cầu. Vì vậy, con kính xin Thầy cho con trở lui tu tập để nhiếp tâm cho được trên hơi thở và tiến lên an trú tâm trên thân hành. Sau khi hoàn toàn làm chủ hai công hạnh này, con sẽ xin tu 4 Niệm Xứ trở lại.
Ở đây mình mới tập quán thân, coi quán được hay không. Nó quan trọng là ở chỗ QUÁN THÂN. Quán thân là cảm giác toàn thân chứ không phải là đứng ở một điểm nào trên thân, mà phải ở toàn thân. Đó là điều quan trọng của sự tu tập Tứ Niệm Xứ, “Quán thân trên thân để khắc phục tham ưu”. Khi quán được thì nó nhiếp phục được niệm, không còn một niệm gì hết, bởi vì pháp Tứ Niệm Xứ đặc biệt vô cùng.
Mới đầu vô tu Tứ Chánh Cần, ngăn ác diệt ác thì gồm bốn pháp đủ trong đó: Định Niệm Hơi Thở, Định Sáng Suốt, Định Chánh Niệm Tỉnh GiácĐịnh Vô Lậu. Khi tới Tứ Niệm Xứ thì đã li dục li ác pháp rất nhiều, chỉ còn ác pháp vi tế thôi, vì vậy khi trên thân quán thân thì chỉ cần nhìn tổng quát cái thân là đã nhiếp phục hết tất cả mọi ác pháp.
Quán thân quan trọng như vậy cho nên cần tập quán cho được. Quán thân là Chánh Niệm, nó ở lớp thứ 7. Phải quán cho được, nếu quán không được thì coi như không tu Tứ Niệm Xứ được. Mà phải tu Tứ Niệm Xứ trong 4 oai nghi, bởi tứ niệm xứ có đủ trong 4 oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi; chứ không thể chỉ tu trong một oai nghi được. Mỗi oai nghi đều quán quán toàn thân được hết.
Con phải nhân ra cho được, quán cho được vì quán toàn thân rất quan trọng.
Bây giờ con tập ngồi con cảm giác hết toàn thân của con mà không bị tưởng. Thí dụ con nương vào hơi thở mà nếu con thấy hơi thở luồng trong thân, thế là không được. Phải như con dùng đôi mắt nhìn ngón tay, con thấy từ đầu ngón tay tới chân ngón tay. Đó là quán toàn ngón tay của con. Quán thân cũng vậy, nhưng không cúi xuống nhìn thân. Quán mà cứ cúi xuống nhìn thân thì không đúng, vì khi nhìn xuống thì chỉ mắt con thấy cái thân.
Còn khi cảm nhận cái thân thì tâm quay vô, có dạng tâm của tâm quay vô, do đó tâm mình không phóng dật, quay vô thì không phóng dật. Tâm quay vô quan sát trên thân không ngưng nghỉ suốt trong thời gian tu thì nó nhiếp phục được tham ưu. Cho nên tâm không phóng dật là tâm đã nhiếp phục được tham ưu, vì vậy đức Phật nói “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật” . Con thấy câu nói này và khi con quan sát thân thì thấy đúng như thế, cái tâm quay vô thật, nó nhìn cái thân của nó, không phải nhìn bằng mắt. Con ngồi bình thường mà cảm nhận cái thân tức là ý thức của con nhận ra toàn bộ thân của con.
Thầy nói nương vào bước đi là khi đi, cái thân có nhiều chuyển động theo chuyển động của chân nên cảm giác toàn thân rất dễ. Cho nên khi ta ôm pháp Tứ Niệm Xứ tu 1, 2, 3 giờ liên tục, không có một niệm nào xẩy ra. Nó an ổn vô cùng.
Còn khi Thầy nói nương vào hơi thở là khi ngồi con cảm nhận toàn bộ thân của con rung động theo hơi thở vô ra. Lúc đó làm như có hai phần: phần thân con đang ngồi và phần khác đang nhìn, đang theo dõi không rời toàn bộ thân con đang ngồi, đang hít thở, đang rung động theo hơi thở.
Khi quán được thì nhiếp vào thân rất là nhanh chóng. Nhưng khi quán không được thì nay trật cái này, mai trật cái kia; rồi khổ nổi thay vì lấy thân hành để quán sự rung động của thân, như lời đức Phật dạy “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”, hoặc là “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra”; tức là đức Phật đã gợi ý cho mình biết trên thân quán thân, thì mình lại chế ra cách này kia.
Như bên nữ, theo các thư gởi cho Thầy, thì phần nhiều là họ tu theo lối Chuyển Pháp Luân của ngoại đạo, cứ dẫn ý chạy lên trên đầu, thở ra; rồi chạy xuống chỗ này chỗ kia, vòng vòng, nhiều khi lại còn tác ý nữa, tác ý theo tưởng luồng hơi đi tới đầu, chân, đầu gối... đặng cho nó nhớ. Cách thức đó là cách thức Chuyển Pháp Luân của ngoại đạo, không phải là pháp của đức Phật.
Không được. Tập như vậy đâu đúng. Thầy bảo tập phải cảm nhận cho được toàn thân, không phải điểm này, điểm kia, cũng không phải phần này phần khác.
Tập được như vậy thì mới tu Tứ Niệm Xứ được. Nếu không được thì trở về tu tâm xả.
Tu tâm xả thì ngồi chơi mà có niệm gì, có chướng ngại gì thì đuổi như là tu Tứ Niệm Xứ trên 4 Chánh Cần cho chắc ăn. Nhưng khi tâm yên lặng thì nó quay vô quan sát thân nó. Đầu tiên khi mình ngồi thì nó thấy hơi thở, nhưng đừng có bám vào hơi thở, thấy hơi thở thì mặc nó, chỉ quan sát trên thân mà thôi. Thế thì cũng giống như Tứ Niệm Xứ.
Tu tâm xả thì phải biết cách để đừng bám vào hơi thở, chứ cứ bám vào hơi thở là bị ức chế, là trật. Trong khi được tâm yên lặng thì tâm lại bị ức chế, thì lại sai; bởi lẽ trong khi có niệm hơi thở là niệm động, nó động mà mình lúc nào cũng động để đuổi niệm, đuổi cái động đó thì cũng sai, không đúng. Đuổi cái động để cho tâm đi vào cái tịnh thanh thản, an lạc vô sự. Nhưng khi nó thanh thản, an lạc vô sự rồi thì nó ở đâu? – Nó phải ở trên thân, giống như trở về tu Tứ Niệm Xứ, nhưng nếu không biết, thì các con ức chế tâm trong hơi thở thì rất là nguy hiểm.
Vậy thì con tu Tứ Niệm Xứ như thế nào trình lại cho Thầy biết, rồi con ngồi, Thầy lắng nghe cách con tu đúng hay không. Bởi vì khi ngồi quán đúng thì nó không niệm, mà quán trật thì có niệm, quán trật mới có niệm. Quán trật là con biết ngay liền.
Thí dụ con ngồi 30 phút thì không niệm, nhưng nếu con ráng hơn nữa thì sức của con bị yếu, khi quán yếu thì sẽ có niệm vô. Hoặc là con ngồi 2, 3 tiếng đồng hồ mà con thấy có hôn trầm thùy miên tức là tu quá sức của con nên không thể nào con tránh hôn trầm thùy miên được. Do đó tập quán cũng phải tăng lên dần từ từ. Quán được lâu tới đâu thì phải chủ động tới đó, tức là chủ động nhiếp phục tham ưu tới đó. Cho nên nếu con biết tu thay đổi theo 4 oai nghi thì không bao giờ có sự mỏi mệt, không bao giờ có sự tê chân hoặc là chướng ngại nào do cảm thọ khổ. Các cảm thọ khổ không có, chỉ có cảm thọ lạc thôi.
Đó, trên Tứ Niệm Xứ là phải tu tập như vậy. Cho nên khi tu tới đâu thì các con biết tới đó, tu được hay không là biết liền. Vô Tứ Niệm Xứ quán thân trên thân để nhiếp phục tham ưu, không bao giờ còn tham ưu, mà chỉ có lạc, nhưng các con cũng không chấp nhận cái lạc mà quên cái quán thân, cho nên lúc nào cũng ở trên thân, thân lúc nào cũng hiện tiền. Và nhanh chóng lắm, nó là một pháp duy nhất mà đi đến cứu cánh, chỉ trong 7 ngày, 7 tháng, 7 năm.
Kinh nói 7 năm nhưng thật ra không tới 7 năm đâu. Khi con nhiếp được đúng 7 ngày tâm thanh thản, an lạc vô sự trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi không bị buồn ngủ, luôn luôn tỉnh táo mà thấy an lạc, nằm xuống nó cũng không ngủ đâu, nó rất tỉnh mà tâm lúc nào cũng ở yên trên thân, thấy từ trên đầu tới chân rất rõ, rất tỉnh, mà thấy nhanh chứ không phải thấy từ từ như khi mình đi.
Nó quan sát thân y như một ngọn đèn từ xa rọi chiếu vào thân, thấy rõ ràng toàn thân mà khi định tỉnh càng cao thì nó thấy thân nó càng rõ ràng hơn. Đó là định tỉnh. Mà đã được định tỉnh thì tâm nhu nhuyến dễ sử dụng, nghĩa là nó bám chặt trên toàn thân để quán thì đương nhiên là nó định tỉnh rồi. Tâm đã định tỉnh thì phải nhu nhuyến dễ sử dụng, chứ không còn khó, vì vậy mà con có đủ 4 Thần Túc.
Bây giờ mình tập quán. Quán được rồi thì mình mới nối tiếp từ oai nghi này tới oai nghi khác. Nối tiếp các oai nghi được trong một giờ, đến hai giờ rồi kéo dài thêm, tăng thời gian lên. Nếu chưa đủ sức nối tiếp các oai nghi như thế mà tăng thời gian lên thì coi chừng.
Con quán thân trong oai nghi ngồi không gián đoạn không niệm khởi trong thời gian 30 phút được rồi, thì con bắt đầu tập quán thân trong oai nghi đi; rồi trong oai nghi đứng; trong oai nghi nằm, oai nghi nào cũng quán được 30 phút hết. Sau đó con tu thay đổi từ oai nghi này sang oai nghi khác. Cứ ngồi 5 phút thì con đứng dậy đi 5 phút; đứng lại 5 phút; nằm xuống 5 phút.
Lúc nào cũng giữ tâm trên thân được như vậy và cứ giữ tiếp tục để cho nó quán thân trên thân liên tục không gián đoạn mỗi khi thay đổi oai nghi, không nhất thiết theo một thứ tự nào. Nằm, ngồi, đi, đứng, oai nghi nào cũng đều quán thân trên thân được không thay đổi, không mất niệm thân.
Sau khi quán được đủ cả 4 oai nghi rồi, nối kết liền lạc được đủ cả 4 oai nghi rồi thì lúc đó mới bắt đầu tăng giờ, chứ chưa nối kết được mà tăng giờ là sai. Không được. Nó sẽ lọt vào trong pháp; trật đi.
Điều chánh yếu là con phải biết quán và quán thân cho được, chứ không thể không quán thân được. Phải quán thân cho rõ ràng.
Bây giờ con trình bày cho Thầy cách thức quán như thế nào, như khi con đi thì con cảm nhận toàn thân của con từ trên đầu xuống tới chân như thế nào, thân rung động như thế nào.
Khi con đi muốn cho tâm chỉ biết thân rung động thôi thì con để hai tay sau lưng hoặc khoanh tay trước bụng rồi con đi con sẽ thấy sự rung động của nó cụ thể. Khi đã quán thân đi thành thục rồi thì con có thể buông thỏng hai tay dọc theo hông cho thoải mái. Mắt con nhìn xuống tới trước một đoạn độ vài thước.
Trước khi đi con nên đứng yên lặng một lúc để cảm nhận toàn thân từ trên đầu xuống chân và từ chân lên đầu. Con thấy toàn bộ thân con đang đứng. Con thấy thân con rung động theo hơi thở vô ra, cũng tương tự như khi con ngồi tu 4 Niệm Xứ. Con giữ cảm nhận đó rõ ràng không thay đổi trong tâm. Con thấy biết thân con như thật, đúng y như nó đang đứng đó, không có gì tưởng tượng.
Tất cả những điểm chuẩn bị để đi này là điều kiện con quán thân trong lúc đứng, trong oai nghi đứng. Có nhiều người đứng lâu không được, họ thường bị chao đảo ngả nghiêng. Những người này có thể tựa nhẹ người vào vách tường hay vật ổn định để giữ thân yên trong lúc đứng.
Sau khi thấy biết thân con trong khi đứng rõ ràng cụ thể như thế rồi con mới bắt đầu đi để quán thân trong oai nghi đi. Con phải đi chậm, khá chậm thì con mới quán thân kĩ lưỡng, không bỏ sót. Con thấy sự chuyển động của thân liên tục không gián đoạn khi chân trái bước rồi chân phải bước.
Khi con từ từ dở gót chân trái lên thì đồng thời thân con cũng được đẩy qua phải để toàn thân thẳng đứng trên chân phải. Khi gót chân trái vừa đặt xuống thì gót chân phải cũng bắt đầu dở lên và toàn thân từ từ được chuyển tới sang trái để đứng thẳng trên chân trái, trong lúc bàn chân trái từ từ đứng ổn định thì bàn chân phải dở khỏi mặt đất đang chuẩn bị để đưa chân phải tới, chân phải bước tới. Các chuyển động của thân trong khi chân phải bước tới thì cũng tương tự với chuyển động của thân khi chân trái bước tới. Và cứ như thế, toàn thân di chuyển tới liên tục với dạng chuyển động khi xàng qua phải (chân trái bước), khi xàng qua trái (chân phải bước) nhịp nhàng, nhịp nhàng trong khi đi.
Nếu kinh hành tỉnh giác thì con chỉ chú ý vào sự chuyển động của hai chân, nhưng ở đây con quán thân trong khi đi vậy thì con phải thấy toàn bộ thân con trong suốt tiến trình bước tới của mỗi chân, của hai chân. Con phải thấy biết thân con từ đầu xuống chân trong bất kỳ giây phút nào của bước đi, chân này rồi chân kia liên tục chuyển động bước tới. Có thể phân mỗi bước thành hai phần để dễ tác ý theo dõi chuyển động của toàn thân: Phần đầu đẩy thân khi gót chân nâng lên đẩy thân chuyển động tới trước để toàn bộ sức nặng chuyển qua chân đang đứng trụ, và phần kế chân bước khi toàn bộ sức nặng thân đã ở trên chân đang đứng thì chân kia dở lên và bước chân đưa tới.
Trong khi đi con không nên cúi đầu nhìn bước chân, phải nhìn tới trước mà vẫn thấy biết toàn thân cụ thể như thật và con chỉ nên tập lâu nhất là nửa giờ thôi, đừng lâu hơn. Trong nửa giờ đi đó mà thấy lúc nào cũng quán thân được, tức là đi thấy thân mà không có một niệm nào khác xen vô, nó nhiếp phục tham ưu trên thân trong khi đi, không bị hôn trầm thùy miên, không phóng niệm, không phóng dật, nó có một trạng thái bất động yên lặng, chỉ cảm nhận rõ ràng sự rung động trên thân thôi, thì con đã thành tựu được quán thân trong oai nghi đi.
Nằm tu Tứ Niệm Xứ thì phải nằm kiết tường nghĩa là nằm nghiêng trên hông bên phải, bàn tay phải lót đầu, tay trái xuôi theo thân, hai chân thẳng chồng lên nhau. Trong khi nằm thì con quán thân nương vào hơi thở. Hơi thở làm thân con rung động máy động để con nhận thấy biết toàn thân theo sự rung động này. Con giữ hình ảnh toàn thân con trong tâm mà không mất niệm hơi thở, không bị hôn trầm thuỳ miên, không phóng niệm. Con ở trong một trạng thái bất động yên lặng mà cảm nhận rõ ràng cụ thể sự rung động của thân, thấy biết toàn thân. Đó là con đã thành tựu quán thân trong oai nghi nằm. Tu trong oai nghi nằm rất khó vì dễ bị hôn trầm tấn công nên con phải chọn giờ nào mà con rất tỉnh táo để tu nằm và con phải tu từ 5 phút rồi tăng dần lên cho đến nửa giờ.
Khi quán thân trong oai nghi đi đã thành tựu được rồi thì con mới thay đổi qua oai nghi ngồi, rồi oai nghi đứng, rồi oai nghi nằm. Và trong cả 4 oai nghi đó đều y trang một cái quán thân như vậy hết thì lúc đó mới bắt đầu tăng giờ lên.
Thầy cho các con tu quán chỉ trong 30 phút thôi, đừng quán quá lâu.
Nếu quán quá lâu trong một tư thế, sau đó khi các con thay đổi oai nghi, các con lại quán cách khác, nhiều cách quán quá là trật. Phải chọn lấy duy nhất một cách quán cho đúng, chứ không phải khi đi thì quán như vầy, khi ngồi thì quán khác. Làm như vậy là không được. Phải y chang một cái quán thôi thì nó mới là một pháp độc nhất, chứ một lát quán cách này, lát quán cách khác thì không được. Thầy nhắc nhở như vậy để biết, nhớ và thực hành cho đúng.
Đúng ra thì Thầy phải kiểm tra các con tu, nhưng vì Thầy không có nhiều thì giờ, vì muốn kiểm tra thì Thầy phải mất ít nhất mỗi người một tiếng để tâm Thầy cũng phải yên lặng lắng đọng mới nghe, mới theo dõi từng tâm niệm của các con. Thầy bây giờ phải vừa trả lời thơ, vừa trả lời các thắc mắc của các cô. Bên nam thì ít thắc mắc chứ bên nữ quá nhiều. Không biết quý thầy tu ra sao, Thầy nghĩ chắc cũng sai chứ chưa đúng.
Nhiếp tâm đâu phải là dễ, vì khi nhiếp phục được thì phải khắc phục được tham ưu. Các con tu mà quán thân được rồi thì nhiếp phục tham ưu được, quán trật thì nhiếp phục không được, nó có niệm xẹt ra. Khi thấy có niệm khởi thì coi chừng quán sai, hoặc là các con tu tập quá sức, hoặc là tu tập chưa được nhuần nhuyễn mà đã muốn dài nên ngồi cho lâu. Đa số các con vừa thấy được an một chút thì đã tăng giờ lên là các con đã quá tham rồi. Không đúng.
Thí dụ Thầy cho 30 phút thì các con cứ tu 30 phút xong xả nghỉ, rồi chút nữa các con tu tiếp 30 phút khác, suy nghiệm xem cách quán có giống nhau hay khác nhau. Đừng tu 30 phút này quán như vầy mà 30 phút sau lại quán cách khác. Nếu trong tất cả các thời tu, các con quán thân đều giống nhau như vậy hết thì Thầy sẽ đặc cách cho lên lớp tu cao hơn.
Vậy con trình cho Thầy nghe cách con quán như thế nào. Thầy chấp nhận chỗ nào thì con về thất cứ duy nhất như chỗ đó mà tu tập và chỉ tu tập trong 30 phút thôi. Sau khi tu 30 phút mà con tu được rồi thì Thầy sẽ chịu khó để ra 30 phút kiểm tra. Nếu thấy con tu đúng như thế rồi thì Thầy sẽ cho con thay đổi oai nghi. Chứ đừng vội. Nhiều khi tự con thay đổi oai nghi Thầy không biết con đã nhiếp như thế nào. Thầy cần biết rõ tâm của con trong khi đi rồi mới chấp nhận cho con thay đổi oai nghi mà tu tập.
Bắt đầu con ngồi, Thầy theo dõi tâm của con xem con quán thân có giống y như khi con quán thân trong khi con đi không. Giống thì Thầy chấp nhận mà không giống thì Thầy không chấp nhận. Có như vậy thì con sẽ nhiếp phục được.
Thầy tin trong 30 phút các con sẽ quán biết rõ thân của mình mà không có một niệm nào. Mình không ức chế nó mà quán sát thân của mình thôi; quán sát được và quán sát đúng thì không có niệm khởi ra xen vô. Mình cứ theo hơi thở đi ra, hơi thở đi vô, biết rõ từ trên đầu tới chân, từ chân lên trên đầu mà không phải là Chuyển Pháp Luân. Chuyển Pháp Luân nhờ nhiếp tâm mà không vọng niệm nhưng lại sanh ra tưởng, cho nên nó sai.
Mình quán như cái đèn pha chiếu soi vào thân. Ý thức của mình soi vào thấy toàn thân. Mình không dùng con mắt để nhìn nhưng mình dùng cảm nhận, cảm nhận chỉ có sự rung động. Con hiểu chỗ Thầy muốn nói không?
Tuy Thầy nhìn xuống như vầy nhưng Thầy thấy cả từ trên đầu xuống tới chân. Con mắt Thầy nhìn như vầy nhưng không phải Thầy thấy bằng mắt mà cái ý của Thầy thấy xuống tới dưới chân, Thầy thấy mặt của Thầy nữa.
Cái thấy mà Thầy nhìn vầy như đèn pha soi xuống. Nếu mắt mình cứ nhìn xuống hoài như vầy thì sẽ hư thị lực, mỏi mắt, bởi nhìn bằng mắt thì phải cứ nhìn chăm chăm vào thân để có cái thấy liên tục toàn thân, chứ nếu nháy mắt thì trong khi nháy nó làm mình mất đi một khoảng thời gian không thấy thân.
Còn đằng này mình cảm nhận. Cái cảm nhận luôn luôn có, không bị cái gì làm cho sự cảm nhận gián đoạn, trừ khi mình không đạt sự nhiếp tâm và an trú tâm.
Khi đi thì hành tướng đi rất thô, rung động lớn hơn, dễ nhận ra các rung động đó. Quán thân khi đi đã nhận ra được rồi thì sau đó đi tới cái vi tế hơn, đó là quán thân rung động nhẹ trong hít thở lúc mình ngồi sẽ dễ nhận ra.
Quan sát thân khi đi chưa nhận được thì quan sát thân khi ngồi với rung động nhẹ khó nhận ra, rồi sẽ bị tưởng. Tưởng luồng đi trong cơ thể của mình chứ chưa thấy sự rung động nhẹ của thân. Phải kinh nghiệm mọi trường hợp như thế để biết cái khó, cái dễ.
Cho nên nếu ai mới vô mà muốn ngồi để quán thân trên thân thì người đó dễ sanh tưởng theo những pháp môn của ngoại đạo. Thầy cũng biết khi cho đề tài quán thân trên thân trong oai nghi ngồi thì sẽ dễ bị tưởng. Chỉ người siêng đi kinh hành thì người đó khó bị tưởng, không bị tưởng, bởi cái thân khi đi rung động dễ dàng cảm nhận hơn.
Nếu khi đi theo cách bình thường mà không nhận được thân hành thì người ta còn có cách đi chậm và mạnh để cho thân động cụ thể hơn, thấy rõ hơn để cảm nhận được sự rung động toàn thân từ trên đầu cho tới dưới chân.
Cảm nhận độ nghiêng của thân khi chân dở lên, bước chân tới, đặt chân xuống.
Thân của mình cứ bị lúc lắc, sàng qua lại bên phải bên trái. Rồi thân nghiêng tới trước khi đẩy mình đi tới. Khi chân bước tới thì thân được đưa lên cao rồi chuyển xuống thấp theo bước chân. Nói chung toàn thân mình từ trên đầu cổ, xuống tới thân mình tay chân đều có sự chuyển động rung chuyển liên tục trong mỗi bước đi. Quán thân khi đi kinh hành phải thấy biết được thân chuyển động liên tục, không gián đoạn theo bước chân trong mọi giây phút.
Nếu muốn nhiếp tâm trong khi đi kinh hành, thì các con chỉ quán duy nhất như vậy và các con thuần thục nó. Chỉ cần tinh tấn tập một tuần lễ thì chắc chắn các con sẽ thuần thục. Sau đó khi ngồi quán thân với hơi thở nhẹ nhàng, tuy không tập trung mà mình vẫn thấy độ rung của cơ thể bởi khi đi kinh hành mình đã biết cách tập trung, đã tập trung được và tâm đã định tỉnh tức là tâm đã quán thân quay vô không còn phóng dật. Lúc nào cũng quán thân được thì tâm đã định tỉnh trên thân, cho nên khi tu tập trong oai nghi ngồi cũng như oai nghi khác kết quả sẽ đến nhanh. Đức Phật nói 7 ngày, 7 tháng, 7 năm. Người nào tập đúng, siêng năng đúng là mau kết quả lắm.
Cũng như nói chỉ cần tu Nhất Dạ Hiền. Có nghĩa là mình tu một ngày mà nỗ lực tu cho kết quả như vậy, và ngày nào tu cũng đạt kết quả như vậy, không chút gì khác, thì 7 ngày không chứng đạo sao được; đó là tinh tấn mà! Tinh tấn, siêng năng trên pháp tu. Mà phải tu đúng chứ tu sai thì làm sao chứng đạo được?
Đấy, con cứ tập dần theo đúng như lời Thầy dạy cho đủ 4 oai nghi. Cái nào con cũng quán thân cho (giống) đúng nhau thì thời gian con tu sẽ nhanh lắm. Các con sẽ có đủ thần lực, không thể nào không đạt, nghĩa là trong tâm nhu nhuyến dễ sử dụng chứ không thể không. Mà trước khi tâm đạt nhu nhuyến thì tâm đạt sự định tỉnh; khi tâm định tỉnh thì tâm phải ở đâu? – Nó phải định tỉnh trên thân của nó, mà trên thân thì quán thân chứ đâu quán gì khác.
Như vậy là hợp với Tứ Niệm Xứ rồi. “Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu” thì tham ưu đâu còn trên đó nữa. Nó nhiếp phục rồi thì tham ưu không còn. Cho nên từ chỗ này suy ra những lời Phật dạy hợp nhau ở trên Tứ Niệm Xứ rất cụ thể. Bây giờ đây cái mình phải tập là tập quán. Quán được rồi thì từ từ nó sẽ đi đến định tỉnh. Tâm định tỉnh thì tâm không phóng dật, tâm phải nhu nhuyến dễ sử dụng.
Nghe thì thấy như khó tu nhưng mình siêng năng tập, tập đúng thì không khó đâu.
Theo Thầy thiết nghĩ như vầy: Cái căn bản của các con là phải tu nhiếp tâm cho an trú tâm vào hơi thở hay bước đi kinh hành cho được trong một phút, rồi nghỉ 3, 4 phút, rồi tu lại một phút khác. Chừng nào nhuần nhuyển để vô một phút là vô ngay, không còn trật vuột, vô thật dễ dàng, tự nhiên, nhanh chóng, đúng y. Nghĩa là cách thức nhiếp tâm trong hơi thở thì phải là hơi thở giống nhau, không phải một phút thì hơi thở dài, một phút khác thì hơi thở ngắn, phút nào cũng cho là một phút mà một phút lúc vầy lúc khác thì không đúng.
Đức Phật đã dạy “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài; thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài” hay “Hít vô ngắn tôi biết tôi hít vô ngắn; thở ra ngắn tôi biết tôi thở ra ngắn”, đó là trụ trong hơi thở để an trú trong một phút. Hễ hơi thở dài thì lúc nào cũng dài, mà hơi thở ngắn thì lúc nào cũng ngắn, chứ không thể lúc vầy lúc khác được; không thể lộn xộn được. Người nào hơi thở an trú cũng phải nhất định chỉ có một hơi thở đó thôi, hoặc dài, hoặc ngắn mà thôi; lúc nào cũng là hơi thở đó tôi thở vô tôi nhiếp cho được. Đừng có thay đổi hơi thở đó. Do đó phải chọn lấy một hơi thở cho được cố định, không còn thay đổi nữa, sau đó mới tới đề mục khác. Theo Định Niệm Hơi Thở thì tới “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”, đó là đề mục để hướng dẫn cho các con đi vào quán Tứ Niệm Xứ.
Vấn đề quan trọng là ở chỗ tu. Tu làm sao để phải nhiếp tâm và an trú tâm cho được hoặc là trong bước đi hoặc là trong hơi thở rồi đi vào cái thân hành niệm mà tu tập. Thân hành niệm, cái niệm chân chánh của thân, mà mình tu tập được nhiếp tâm an trú tâm được thì lần lượt những cái khác mình dễ dàng tu lắm, nhưng nếu mình tham cứ thấy hơi được là mình tăng lên.
Không được tăng như vậy. Mình phải tu tập chỉ môt phút thôi trong cái pháp đó một hoặc hai tuần lễ, tu cho nhuần nhuyễn một phút cho đạt được, lúc nào cũng chỉ một phút thôi chứ đừng có thêm, đừng có tăng lên hai ba phút.
Các con có cái sai là cứ thấy nó không niệm, hơi được một hai lần là các con tự tăng lên ba bốn phút liên tục. Trong khi đúng ra phải tu một thời gian cho nó nhuần nhuyễn, thiệt nhuần nhuyễn. Trong một phút đó mình thấy lúc nào cũng tu là được, nhiếp vô là được không có trật vuột. Và khi tu được một tuần lễ rồi, bất kỳ lúc nào thấy có hơi hôn trầm thì mình ngồi lại hít thở một cái là tỉnh bơ liền tức là mình đã nhiếp được, an trú được rồi, tâm không còn mờ mịt. Nếu mình nhiếp mà không phá được hôn trầm thì mình còn bị mờ.
Mình chỉ tu một phút thôi mà một phút nó muốn hôn trầm lừ đừ, muốn buồn ngủ thì mình nhiếp tâm vô, là an trú vô liền bởi vì mình tập nhiếp tâm và an trú. Khi nhiếp tâm và an trú được rồi thì Thầy nói quá hay, nó sẽ phá hôn trầm liền tức khắc.
Khi trên Tứ Niệm Xứ tu tập có căn bản như vậy thì chỉ nhìn thân của nó một cái thì tất cả các ác pháp khác đều bị nhiếp phục hết, nó không còn tới lui được cái tâm của con nữa, cho nên nó sáng như ngọn đèn soi, đó là chánh niệm tỉnh giác. Nó quá tỉnh rồi, nó không còn mê mờ. Còn mình tu lúc tỉnh lúc mê như các con hiện giờ thì rõ ràng là còn dẫm chân tại chỗ rồi, mình không làm chủ. Tu tập cái pháp mà mình vẫn còn bị các lực của si mê, hay lực của tham, sân, si đều ập vô cho nên mình mới có vọng niệm, tức là mình thiếu tỉnh, bị mờ mịt cho nên mới bị ác pháp xâm chiếm vô được. Còn đằng này mình nhiếp tâm rồi an trú tâm, nó quá tỉnh mới được vậy chứ.
Người ta đâu dạy mình tu nhiều, tu nhiều là tu quá sức, tu không có nổi.
Thầy dạy tu một phút thì tập một phút, một phút tập cho thuần thục đi. Đằng này cứ thấy vừa được thì tăng lên. Sức mình đâu phải sức thần mà tăng lên nhiều vậy.
Bây giờ các con phải bỏ thói quen lúc nào cũng muốn tăng giờ tu lên trong khi chưa tu được nhuần nhuyễn. Phải tu căn bản lại, một phút là một phút nhuần nhuyễn, hai phút là hai phút nhuần nhuyễn cho đến mười phút là mười phút nhuần nhuyễn. Bây giờ các con đang bước qua giai đoạn Tứ Niệm Xứ rồi thì các con phải có căn bản chứ không có căn bản thì không được. Mà căn bản thì bây giờ mình nhìn lại mình đang ở trên đề mục thứ ba và đề mục thứ tư của Định Niệm Hơi Thở “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra” tức là quán thân chứ có khác gì. Mà muốn quán được thì mình “Hít vô tôi biết tôi hít vô; thở ra tôi biết tôi thở ra” một phút nhiếp tâm và an trú tâm cho được. Mà khi đã nhiếp tâm và an trú tâm được thì giống như điều Thầy nói “Đứng ở trên lô cốt mà nhìn xuống” tức là thấy toàn diện thân và hơi thở của nó chứ, như vậy mình nương vào hơi thở chứ mình đâu trụ nó. Mình an trú trong hơi thở rồi mình bắt đầu quán soi vào trong thân thể mình coi cái thân thể của mình, chứ mình đâu kẹt vào trong hơi thở đâu mà bị ức chế. Con thấy chưa, chỉ một phút được rồi thì chỉ cần soi lại quán thân, chỉ quán thân thôi, thì Thầy thấy sẽ toàn diện có kết quả, mà không bị ức chế chút nào hết.
Thật sự đây là cái lớp đào tạo, các con chỉ cần làm đúng theo sự chỉ dạy thì chắc chắn các con sẽ đạt được kết quả liền, không thể sai trật được vì chương trình của đạo Phật là Đạo Đế, đó là chơn lí, không có thể dạy cho người thì được người thì không. Khi người đó chịu siêng năng tinh cần, chịu tu thôi thì người đó phải được. Cho nên đức Phật mới tuyên bố “Trên trời dưới trời, con người là duy nhất làm chủ sanh, già, bệnh, chết.” Chỉ có con người mới làm được nhưng phải là người làm đúng, chứ làm sai thì làm sao mà được.
Mà làm đúng thì chơn lí này dạy thực tế chứ đâu dạy mơ hồ, nó rất rõ ràng.
Khi Thầy triển khai rồi thì nó rất rõ, mà Thầy đưa vào đâu thì đức Phật dạy y như vậy.
Con thấy như “Quán thân trên thân để nhiếp phục tham ưu”, cả một câu như vậy mà từ lâu nay họ nghĩ sai chứ Thầy hiểu mình quán thân được thì mình nhiếp phục được tham ưu thì đâu phải là ngồi đó mà quán này kia nữa đâu, chỉ cần quan sát được cái thân của mình là nhiếp phục được tham ưu.
Cái đó quá rõ ràng rồi. Mà muốn quán được thân này thì phải ở trên Định Niệm Hơi Thở mà quan sát. Con thấy đúng như vậy không, con thấy đức Phật quá hợp lý phải không, cái pháp này lý lẽ quá chặt chẽ không sai trật, không kẽ hở, nó là một hệ thống đi vào thì các con đạt được kết quả của nó một cách cụ thể. Thế mà các con cứ tu từng pháp rời rạc thì thử hỏi lợi ích gì, pháp đó dẫn mình tới đâu. Nó có chân rít để nối liền các pháp lại. Như con thấy Tứ Niệm Xứ nối liền với Thất Giác Chi; Thất Giác Chi nối liền với Tam Minh. Nó nối liền chân rít nhau trong đó, chứ đâu phải nó rời rạc ra.
Cái lý lẽ rõ ràng như vậy đó mà dạy thì các con có cái thói quen cứ tự mình tăng lên tăng lên; cái này chưa có thuần, một phút chưa nhiếp tâm, chưa an trú được, nó mới được có chút chút thôi thì đã lo tăng lên; nó hỏng chân rồi, nó chưa có nhuần nhuyễn. Tu thì phải nhuần nhuyễn chứ, nó phải nhu nhuyến mới được chứ, còn đây chưa có được nhuần nhuyễn mà cứ muốn mau cho mau, cứ muốn cho 30 phút, một giờ, hai giờ; ngồi cũng vậy, đi cũng vậy. Không được làm thế. Tu là phải thấy chất lượng của sự nhiếp tâm đó.
Các con phải trở về căn bản lại, một phút phải là một phút nhiếp tâm và an trú tâm cho được. Đó là căn bản nhất của giai đoạn các con bắt đầu sau này, và đồng thời những Định Vô Lậu cần phải thông suốt “Những gì cần thông suốt phải thông suốt”, chưa thông suốt thì làm sao mà xả. Trong khi mình chỉ có nhiếp tâm và an trú được trong có một phút thôi thì còn biết bao nhiêu cái vọng niệm, cho dù các con ngồi chơi thôi thì vọng niệm cũng đến với các con rồi, các con không nhiếp không an trú mà đã có vọng niệm rồi, mà những vọng niệm đó thì chỉ Định Vô Lậu mới quét nó, trong khi các con cần tập cho an trú để sau đó các con chuyển nó qua trên Tứ Niệm Xứ mà quán, thì lúc bấy giờ tự cái quán đó sẽ nhiếp phục tham ưu. Còn bây giờ các con đâu có được nhờ Định Vô Lậu, là cái tri kiến của các con để xả tất cả các tham ưu, chứ không thì các con chạy theo dục lạc, phạm giới hết. Cho nên cái Chánh Kiến nhờ cái tri kiến đó mà nó xả tâm các con rất nhiều để tâm các con thanh tịnh.
Khi tâm thanh tịnh thì chỗ nhiếp tâm, an trú này mới vững chắc. Hai cái chân rít nó hợp nhau để nó an trú cho được, còn nếu mình không xả tâm thì cái an trú này không được.
Thầy dạy các con xả tâm được thì an trú được, an trú được thì xả tâm được, nó như hai cái chân rít quấn chặt nhau. Cái này được thuần thục rồi mình bắt đầu quán thân thì rất tốt. Cho nên khi nó được rồi thì các con sẽ nhận ra được hơi thở dài hay hơi thở ngắn ở trên chỗ nhiếp tâm an trú tâm quá cụ thể. Bởi vì trong khi con nhiếp tâm an trú tâm, con thấy rõ hơi thở nào thì con sẽ nhiếp tâm an trú lúc nào cũng được, đó là hơi thở dài hay hơi thở ngắn như thế nào. Khi con nhiếp tâm và an trú được thuần thục thì con nhận ra được hơi thở đó của con liền. Hễ con vô hơi thở đó thì con nhiếp tâm an trú liền. Đó là cách thức con chủ động. Cái hơi thở nó lợi ích rất lớn bởi vì nó là cái đường dây hơi thở để mình nắm vô an trú là vô liền.
Bây giờ con chưa biết cái hơi thở nào sẽ nhiếp tâm và an trú được thì như thế con mất căn bản rồi. Cái đó quá rõ ràng cụ thể, mình không biết cái hơi thở nào mình nhiếp tâm an trú được, cho nên vô đó cứ lát thở dài lát thở ngắn, lát thở vầy, lát thở khác, đủ các hơi thở hết thì làm sao được, làm sao mà gọi là nhiếp tâm an trú? Mình phải chọn lấy một hơi thở mà khi mình tu tập nhiếp tâm an trú thì thấy hơi thở này vô được mau mắn mà dễ nhiếp tâm an trú trong một phút. Một phút nó có đủ thời gian để cá c con nhận được cái hơi thở đó, nghĩa là cứ thở hơi thở đó thì bắt đầu nhiếp tâm an trú liền. Như thế hơi thở đó chính là đường dây cho mình vào nhiếp tâm. Cho nên con chỉ cần nhìn hơi thở và cái thân của con, con quán được liền thì lúc bấy giờ sẽ dễ cho con, còn bây giờ thì con phải tập quán bằng cách này hay cách khác.
Căn bản an trú: Thấy được hơi thở đường dây, biết hơi thở đó dài hoặc là hơi thở đó ngắn như thế nào, hoặc hơi thở đó nhẹ cái tầm vóc ra sao, sau đó bất kỳ lúc nào con vô con cũng thở ngay liền cái hơi thở đó, tập ngay liền cái hơi thở đó. Căn bản một phút nhiếp tâm an trú cho được trong hơi thở này.