Skip directly to content

IV. AṬṬHAKAVAGGO - PHẨM NHÓM TÁM

Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka

 

 

Lời tiếng Việt: (văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda

 

 

Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu

 

 

1. KĀMASUTTAṂ

 

 

1. KINH GIẢNG VỀ DỤC

 

 

1. KINH VỀ DỤC

 

770. Kāmaṃ kāmayamānassa tassa ce taṃ samijjhati,
addhā pītimano hoti laddhā macco yadicchati.

770. Đối với người ham muốn về dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, đương nhiên (người ấy) có ý vui mừng sau khi đã đạt được điều con người ước muốn.

766. Ai ao ước được dục,
Nếu dục được thành tựu,
Chắc tâm ý hoan hỷ,
Ðược điều con người muốn.

771. Tassa ce kāmayānassa chandajātassa jantuno,
te kāmā parihāyanti sallaviddhova ruppati.
 

771. Nếu đối với người ấy, --(tức là) đối với người đang ham muốn, đối với con người có sự mong muốn đã sanh khởi,-- các dục ấy bị suy giảm, thì (người ấy) bị khổ sở như là bị đâm xuyên bởi mũi tên.

767. Nếu người có dục ấy,
Ước muốn được sanh khởi,
Các dục ấy bị diệt,
Bị khổ như tên đâm.

772. Yo kāme parivajjeti sappasseva padā siro,
so ’maṃ visattikaṃ loke sato samativattati.

772. Người nào xa lánh các dục tựa như các bàn chân (xa lánh) đầu của con rắn, người ấy, có niệm, vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.

768. Ai tránh né các dục
Như chân tránh đầu rắn,
Chánh niệm vượt thoát được,
Ái triền này ở đời.

773. Khettaṃ vatthuṃ hiraññaṃ vā gavāssaṃ dāsaporisaṃ,
thiyo bandhū puthukāme yo naro anugijjhati.
 

773. Người nam nào thèm muốn ruộng, đất, hoặc vàng, gia súc, ngựa, tôi tớ, người hầu, người nữ, thân quyến, vô số các dục, ...

769. Người nào tham đắm dục,
Ruộng đất, vàng, bò, ngựa,
Người nô tỳ, phục vụ,
Nữ nhân và bà con.

774. Abalā naṃ balīyanti maddante naṃ parissayā,
tato naṃ dukkhamanveti nāvaṃ bhinnamivodakaṃ.

774. ... các (ô nhiễm) yếu ớt thống trị người ấy, các hiểm họa chà đạp người ấy; do việc ấy khổ đau đi theo người ấy tựa như nước (tràn vào) chiếc thuyền đã bị vỡ.

770. Như người không sức lực,
Bị các dục chinh phục,
Tai họa dẫm đạp nó,
Khổ đau bước theo nó,
Như nước ùa tràn vào,
Chiếc thuyền bị vỡ nát.

775. Tasmā jantu sadā sato kāmāni parivajjaye,
te pahāya tare oghaṃ nāvaṃ sitvāva pāragūti.
 

775. Do đó, người luôn luôn có niệm có thể xa lánh các dục, sau khi dứt bỏ chúng thì có thể vượt dòng nước lũ, tựa như sau khi tát cạn chiếc thuyền, là người đi đến bờ kia.

771. Do vậy người thường niệm,
Từ bỏ các loài dục,
Bỏ dục, vượt bộc lưu,
Tát thuyền đến bờ kia.

 

Kāmasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Giảng về Dục.

 

 
   

 

2. GUHAṬṬHAKASUTTAṂ

 

 

2. KINH NHÓM TÁM VỀ HANG

 

 

2. KINH HANG ĐỘNG TÁM KỆ

 

776. Satto guhāyaṃ bahunābhichanno
tiṭṭhaṃ naro mohanasmiṃ pagāḷho,
dūre vivekā hi tathāvidho so
kāmā hi loke na hi suppahāyā.

776. Bị dính mắc ở hang (thân xác), bị che đậy bởi nhiều (ô nhiễm), trong khi tồn tại, con người bị đắm chìm trong sự say mê (ngũ dục). Người thuộc hạng như thế ấy quả thật cách xa sự viễn ly, bởi vì các dục ở thế gian thật không dễ gì dứt bỏ.

772. Chúng sanh vào trong hang,
Chấp chặt bị bao trùm,
Người có thái độ vậy,
Chìm sâu trong si mê.
Hạnh viễn ly với nó,
Như vậy thật xa vời,
Các dục ở trong đời,
Không dễ gì đoạn tận.

777. Icchānidānā bhavasātabaddhā
te duppamuñcā na hi aññamokkhā,
pacchā pure vāpi apekkhamānā
ime va kāme purime va jappaṃ.

777. Có ước muốn là căn nguyên, bị trói buộc vào lạc thú ở hiện hữu, đang trông mong về sau này hoặc luôn cả trước đây, đang tham muốn các dục này hoặc các dục trước đây, những kẻ ấy là khó giải thoát, đương nhiên không thể giúp cho những người khác giải thoát.

773. Dục cầu làm nhân duyên,
Bị lạc hữu trói buộc,
Họ rất khó giải thoát,
Không thể có người khác,
Ðến giải thoát cho mình,
Họ cầu việc đã qua,
Họ mong việc chưa lại;
Họ tham đắm các dục,
Những dục này hiện tại,
Và những dục quá khứ.

778. Kāmesu giddhā pasutā pamūḷhā
avadāniyā te visame niviṭṭhā,
dukkhūpanītā paridevayanti
kiṃ su bhavissāma ito cutāse.

778. Bị thèm khát ở các dục, bị đeo níu, bị mê đắm, là những người thấp kém, họ đã đi theo lối sai trái. Bị dẫn đến khổ đau, họ than vãn: ‘Vậy chúng ta sẽ trở thành cái gì sau khi đã chết từ nơi đây?’

774. Ai tham đắm các dục,
Bị trí buộc si mê,
Họ xan tham keo kiết.
An trú trên bất chánh,
Khi rơi vào đau khổ,
Họ sầu muộn than khóc,
Ở đây sau khi chết,
Tương lai sẽ thế nào?

779. Tasmā hi sikkhetha idheva jantu
yaṃ kiñci jaññā visamanti loke,
na tassa hetu visamaṃ careyya
appaṃ hidaṃ jīvitaṃ āhu dhīrā.

779. Chính vì điều ấy, con người ở ngay tại đây (trong Giáo Pháp này) nên học tập, nên biết bất cứ điều gì là ‘sai trái’ ở thế gian, không nên làm điều sai trái do nhân của điều ấy, bởi vì các bậc sáng trí đã nói mạng sống này là ít ỏi.

775. Do vậy ở tại đây,
Con người cần học tập,
Những gì mình biết được,
Là bất chánh ở đời.
Do nhân duyên như vậy,
Mà sống không bất chánh,
Vì rằng bậc Thánh nói:
Ngắn thay, sanh mạng này.

780. Passāmi loke pariphandamānaṃ
pajaṃ imaṃ taṇhāgataṃ bhavesu,
hīnā narā maccumukhe lapanti
avītataṇhā se bhavābhavesu.

780. Ta nhìn thấy con người này, bị nhiễm tham ái trong các cõi, đang chao đảo ở thế gian. Những người thấp hèn, chưa xa lìa tham ái ở hữu và phi hữu, rên rỉ ở cửa miệng Tử Thần.

776. Ta thấy ở trên đời,
Loài Người run, sợ hãi,
Ði đến khát ái này,
Trong những loại sanh hữu.
Phàm những người thấp kém,
Than van trước miệng chết,
Chưa viễn ly khát ái,
Ðối với hữu, phi hữu.

781. Mamāyite passatha phandamāne
maccheva appodake khīṇasote,
etampi disvā amamo careyya
bhavesu āsattimakubbamāno.
 

781. Hãy nhìn xem những kẻ đang chao động về vật đã được chấp là của tôi tựa như những con cá ở chỗ ít nước, ở dòng chảy bị cạn kiệt. Và sau khi nhìn thấy điều ấy, nên sống không chấp là của tôi, không tạo nên sự vướng bận ở các hữu.

777. Hãy nhìn những người ấy,
Run sợ trong tự ngã,
Như cá chỗ ít nước,
Trong dòng sông khô cạn,
Thấy được sự kiện này,
Hãy sống không của ta,
Không làm sự việc gì,
Khiến tham đắm các hữu.

782. Ubhosu antesu vineyya chandaṃ
phassaṃ pariññāya anānugiddho,
yadattagarahī tadakubbamāno
na lippati diṭṭhasutesu dhīro.

782. Nên dẹp bỏ sự mong muốn ở cả hai thái cực, sau khi biết toàn diện về xúc thì không còn thèm muốn, bản thân chê trách điều nào thì không làm điều ấy, người sáng trí không nhơ bẩn ở những điều đã được thấy đã được nghe.

778. Hãy nhiếp phục ước muốn,
Ðối với hai cực đoan,
Nhờ liễu tri các xúc,
Không còn có tham đắm,
Cái gì tự ngã trách,
Cái ấy không có làm,
Bậc trí không bị nhớp,
Bởi những gì thấy nghe.

783. Saññaṃ pariññā vitareyya oghaṃ
pariggahesu muni nopalitto,
abbūḷhasallo caraṃ appamatto
nāsiṃsatī lokamimaṃ parañcāti.

783. Sau khi biết toàn diện về tưởng, có thể băng qua dòng lũ, bậc hiền trí không bị vấy bẩn ở các sự bám giữ, có mũi tên đã được lấy ra, không bị xao lãng trong khi sinh hoạt, không mong ước đời này và đời khác.

779. Do liễu tri các tưởng,
Vượt qua khỏi bộc lưu,
Bậc Mâu-ni không nhiễm,
Ðối với mọi chấp thủ,
Với mũi tên rút ra,
Sở hành không phóng dật,
Không cầu mong đời này,
Không mong ước đời sau.

 

Guhaṭṭhakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Nhóm Tám về Hang.

 

 

   

 

3. DUṬṬHAṬṬHAKASUTTAṂ

 

 

3. KINH NHÓM TÁM VỀ XẤU XA

 

 

3. KINH SÂN HẬN TÁM KỆ

 

784. Vadanti ve duṭṭhamanāpi eke
athopi ve saccamanā vadanti,
vādañca jātaṃ muni no upeti
tasmā muni natthi khilo kuhiñci.
 

784. Thật vậy, một số người nói (bôi nhọ) với tâm ý xấu xa. Quả vậy, một số người có tâm ý chân thật cũng nói (bôi nhọ). Bậc hiền trí không tiếp cận lời nói (bôi nhọ) đã khởi lên, bởi vậy bậc hiền trí không có rác rưởi ở bất cứ đâu.

780. Thật có một số người
Nói lên với ác ý,
Và thật cũng có người,
Nói lên ý chân thật.
Dầu có lời nói gì,
ẩn sĩ không liên hệ,
Do vậy bậc Mâu-ni,
Không chỗ nào hoang vu.

785. Sakaṃ hi diṭṭhiṃ kathamaccayeyya
chandānunīto ruciyā niviṭṭho,
sayaṃ samattāni pakubbamāno
yathā hi jāneyya tathā vadeyya.

785. Bị dẫn dắt bởi lòng mong muốn, đã đi theo sự ưa thích, trong khi tự mình làm cho (các quan điểm trở nên) đầy đủ, làm thế nào có thể vượt qua quan điểm của chính mình? Bởi vì người biết như thế nào thì sẽ nói như thế ấy.

781. Người ước muốn dắt dẫn,
Thiên trú điều sở thích,
Làm sao từ bỏ được,
Ðiều tà kiến của mình,
Khi tự mình tác thành,
Quan điểm riêng của mình,
Như điều nọ được biết,
Hãy để nó nói vậy.

786. Yo attano sīlavatāni jantu
anānupuṭṭho ca paresa pāvā,
anariyadhammaṃ kusalā tamāhu
yo ātumānaṃ sayameva pāvā.

786. Người nào, dầu không được hỏi đến, mà nói với những người khác về giới và phận sự của bản thân, người nào tự chính mình nói về bản thân, các bậc thiện xảo đã nói kẻ ấy là không có Thánh pháp.

782. Người không có ai hỏi,
Lại nói cho người khác,
Biết đến những giới cấm,
Của tự cá nhân mình.
Bậc thiện xảo nói rằng,
Như vậy không Thánh pháp,
Nếu ai tự nói lên
Lời tán thán tự ngã.

787. Santo ca bhikkhu abhinibbutatto
iti ’hanti sīlesu akatthamāno,
tamariyadhammaṃ kusalā vadanti
yassussadā natthi kuhiñci loke.
 

787. Và vị tỳ khưu an tịnh, có trạng thái đã được hoàn toàn diệt tắt, không khoe khoang về các giới rằng: ‘Tôi là thế này,’ đối với vị nào không có sự kiêu ngạo ở bất cứ đâu ở thế gian, các bậc thiện xảo nói vị ấy là có Thánh pháp.

783. Vị Tỷ-kheo an tịnh,
Sống hết sức tịch tịnh,
Khi tán thán giới đức,
Không nói "Tôi là vậy".
Bậc thiện xảo nói rằng
Như vậy là Thánh pháp
Với vị ấy đề cao,
Ở đời, không khởi lên.

788. Pakappitā saṅkhatā yassa dhammā
purakkhatā santi avīvadātā,
yadattanī passati ānisaṃsaṃ
taṃ nissito kuppapaṭiccasantiṃ,

788. Các pháp (quan điểm) của người nào được xếp đặt, được tạo tác, được chú trọng, là không trong sạch, (người ấy) nhìn thấy điều nào là việc lợi ích cho bản thân, rồi đã nương vào điều ấy, vào sự an tịnh bị thay đổi, thuận theo điều kiện.

784. Với những ai các pháp,
Ðược sửa soạn tác thành,
Ðược đặt ra phía trước,
Không phải không tranh luận,
Khi đã thấy lợi ích,
Trên tự thân của mình,
Y đấy, duyên dao động,
Ðạt được sự tịch tịnh.

789. Diṭṭhi nivesā na hi svātivattā
dhammesu niccheyya samuggahītaṃ,
tasmā naro tesu nivesanesu
nirassati ādisaticca dhammaṃ.

789. Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua sau khi đã suy xét điều đã được ôm giữ trong số các pháp (tà kiến). Vì thế, trong số các sự chấp chặt ấy, loài người rời bỏ và nắm giữ tà kiến (này đến tà kiến khác).

785. Ðối với các thiên kiến,
Không dễ gì vượt qua,
Thẩm sát các pháp xong,
Mới tác thành chấp trước.
Do vậy là con người,
Ðối với trú xứ ấy,
Có khi quyết từ bỏ,
Có khi chấp nhận Pháp.

790. Dhonassa hi natthi kuhiñci loke
pakappitā diṭṭhi bhavābhavesu,
māyañca mānañca pahāya dhono
sa kena gaccheyya anūpayo so.

790. Quả thật, đối với vị đã rũ sạch thì không có quan điểm được xếp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian. Vị đã rũ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn, thì bởi điều gì mà vị ấy có thể đi (tái sanh) khi vị ấy không có sự vướng bận?

786. Vị tẩy sạch loại bỏ,
Không tìm được ở đời,
Các kiến được sửa soạn,
Ðối với hữu, phi hữu.
Bỏ man trá, kiêu mạn,
Vị tẩy sạch loại bỏ,
Vị ấy đi với gì,
Vị ấy không chấp thủ.

791. Upayo hi dhammesu upeti vādaṃ
anūpayaṃ kena kathaṃ vadeyya,
attaṃ nirattaṃ na hi tassa atthi
adhosi so diṭṭhimidheva sabbanti.
 

791. Quả thật, người vướng bận tiếp cận sự tranh luận về các pháp. Với điều gì, bằng cách nào có thể nói về người không vướng bận? Bởi vì điều được nắm lấy và được rời bỏ là không có đối với vị ấy; vị ấy đã rũ bỏ mọi tà kiến ở ngay tại nơi đây.

787. Với ai có chấp thủ,
Bị chỉ trích trong Pháp,
Với ai không chấp thủ,
Lấy gì có thể nói?
Chính đối với vị ấy,
Ngã, phi ngã đều không,
Vị ấy đã tẩy sạch,
Mọi tà kiến ở đời.

 

Duṭṭhaṭṭhakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Nhóm Tám về Xấu Xa.

 

 

   

 

4. SUDDHAṬṬHAKASUTTAṂ

 

4. KINH NHÓM TÁM VỀ TRONG SẠCH

 

4. KINH THANH TỊNH TÁM KỆ

792. Passāmi suddhaṃ paramaṃ arogaṃ
diṭṭhena saṃsuddhi narassa hoti,
etābhijānaṃ paramanti ñatvā
suddhānupassīti pacceti ñāṇaṃ.

792. ‘Tôi nhìn thấy đối tượng trong sạch, tối thắng, không bệnh. Do việc nhìn thấy, con người có được sự thank khiết,’ trong khi biết rõ như thế, người đã biết (việc ấy) là ‘tối thắng,’ có sự quan sát đối tượng trong sạch, tin tưởng rằng (điều ấy) là trí tuệ.

788. Ta thấy vị thanh tịnh,
Vị tối thượng, không bệnh,
Sự thanh tịnh con người,
Với tri kiến, đạt được.
Nắm giữ quan điểm này.
Xem đấy là tối thượng,
Vị này sẽ xem trí,
Là tùy quán thanh tịnh.

793. Diṭṭhena ce suddhi narassa hoti
ñāṇena vā so pajahāti dukkhaṃ,
aññena so sujjhati sopadhīko
diṭṭhi hi naṃ pāva tathā vadānaṃ.

793. Nếu do nhìn thấy mà con người có được sự trong sạch, hoặc do nhận biết mà người ấy dứt bỏ khổ đau, thì người ấy--người còn mầm mống tái sanh--được trong sạch do (đạo lộ) khác (so với Thánh Đạo), chính tà kiến (thế ấy) đã mớm lời cho người ấy trong khi nói như thế.

789. Nếu thanh tịnh con người,
Do tri kiến đạt được,
Hay với trí vị ấy,
Từ bỏ sự đau khổ
Vị ấy có sanh y,
Ngoài Thánh đạo được tịnh,
Vị ấy nói như vậy,
Do tri kiến cá nhân.

794. Na brāhmaṇo aññato suddhimāha
diṭṭhe sute sīlavate mute vā,
puññe ca pāpe ca anūpalitto
attañjaho nayidha pakubbamāno.

794. Vị Bà-la-môn đã nói rằng sự trong sạch là không do (đạo lộ) khác, không liên quan đến điều đã được thấy, đến điều đã được nghe, đến giới và phận sự, hoặc đến điều đã được cảm giác, là người không bị vấy bẩn bởi phước và tội, buông bỏ điều đã được chấp giữ, không tạo ra (nghiệp gì) ở nơi đây.

790. Bà-la-môn không nói,
Ngoài Thánh đạo được tịnh,
Với điều được thấy nghe,
Giới đức, được thọ tưởng;
Với công đức, ác đức,
Vị ấy không nhiễm trước,
Từ bỏ mọi chấp ngã,
Không làm gì ở đời.

795. Purimaṃ pahāya aparaṃ sitāse
ejānugā te na taranti saṅgaṃ,
te uggahāyanti nirassajanti
kapīva sākhaṃ pamukhaṃ gahāya.

795. Buông bỏ cái trước rồi nương vào cái khác, đeo đuổi dục vọng, những người ấy không vượt qua sự quyến luyến. Họ nắm bắt rồi rời bỏ, tựa như con khỉ với việc nắm lấy cành cây trước mặt.

791. Từ bỏ tri kiến cũ,
Y chỉ tri kiến mới,
Ði đến sự tham đắm,
Không vượt qua ái dục;
Họ nắm giữ chấp trước,
Họ từ bỏ xa lánh,
Như khỉ thả cành này,
Rồi lại nắm cành khác,

796. Sayaṃ samādāya vatāni jantu
uccāvacaṃ gacchati saññasatto,
vidvā ca vedehi samecca dhammaṃ
na uccāvacaṃ gacchati bhūripañño.

796. Sau khi tự mình thọ trì các phận sự, con người đi đến chỗ cao chỗ thấp, bị dính mắc vào tưởng; còn người có sự hiểu biết, nhờ các sự hiểu biết sau khi thông hiểu pháp không đi đến chỗ cao chỗ thấp, là người có tuệ bao la.

792. Người tự mình chấp nhận,
Các chủng loại giới cấm,
Ði chỗ cao chỗ thấp,
Sống bị tưởng chi phối;
Người có trí rộng lớn,
Nhờ trí tuệ, quán pháp,
Có trí, không đi đến
Các pháp cao và thấp.

797. Sa sabbadhammesu visenibhūto
yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā,
tameva dassiṃ vivaṭaṃ carantaṃ
kenīdha lokasmiṃ vikappayeyya.

797. Vị ấy, người diệt đạo binh ở tất cả các pháp, về bất cứ điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác. Vị ấy, người có nhãn quan như thế, đang hành xử rõ ràng, với cái gì ở thế gian này có thể chi phối được vị ấy?

793. Vị ấy đạt thù thắng,
Trong tất cả các pháp,
Phàm có điều thấy, nghe,
Hay cảm thọ, tưởng đến;
Với vị tri kiến vậy,
Sống đời sống rộng mở,
Không bị ai ở đời,
Có thể chi phối được.

798. Na kappayanti na purekkharonti
accantasuddhīti na te vadanti,
adānaganthaṃ gathitaṃ visajja
āsaṃ na kubbanti kuhiñci loke.

798. Các vị ấy không sắp đặt, không chú trọng, không nói về ‘sự trong sạch tột cùng.’ Sau khi tháo gỡ sự trói buộc vào chấp thủ đã bị buộc trói, các vị không tạo lập sự mong mỏi ở bất cứ đâu ở thế gian.

794. Họ không tác thành gì,
Họ không đề cao gì,
Họ không có nói lên,
Ðây tối thắng thanh tịnh,
Không dính líu tham đắm,
Mọi chấp trước triền phược,
Họ không tạo tham vọng,
Bất cứ đâu ở đời.

799. Sīmātigo brāhmaṇo tassa natthi
ñatvā va disvā va samuggahītaṃ,
na rāgarāgī na virāgaratto
tassīdha natthi paramuggahītanti.
 

799. Vị Bà-la-môn, có sự vượt quá ranh giới, đối với vị ấy không có điều gì được ôm giữ sau khi đã biết và sau khi đã thấy, không có sự luyến ái với ái dục, không bị luyến ái ở pháp ly ái dục; đối với vị ấy, điều tối thắng được ôm giữ là không có ở nơi đây.

795. Với vị Bà-la-môn
Ðã vượt khỏi biên giới,
Sau khi biết và thấy,
Không có kiến chấp trước.
Tham ái không chi phối,
Cũng không tham, ly tham,
Vị ấy ở đời này,
Không chấp thủ gì khác.

 

Suddhaṭṭhakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Nhóm Tám về Trong Sạch.

 

 

   

 

5. PARAMAṬṬHAKASUTTAṂ

 

 

5. KINH NHÓM TÁM VỀ TỐI THẮNG

 

5. KINH TỐI THẮNG TÁM KỆ

800. Paramanti diṭṭhīsu paribbasāno
yaduttariṃ kurute jantu loke,
hīnāti aññe tato sabbamāha
tasmā vivādāni avītivatto.

800. Trong khi sống trong các tà kiến, (nghĩ rằng) ‘(Điều này) là tối thắng,’ con người làm nổi trội điều ấy ở thế gian, rồi đã nói tất cả những điều khác là ‘thấp hèn’ so với điều ấy, vì thế không vượt lên trên các sự tranh cãi.

796. Ai thiên trú trong kiến,
Xem kiến ấy tối thắng,
Ở đời đặt kiến ấy,
Vào địa vị tối thượng.
Người ấy nói tất cả,
Người khác là hạ liệt,
Do vậy không vượt khỏi,
Sự tranh luận ở đời.

801. Yadattanī passati ānisaṃsaṃ
diṭṭhe sute sīlavate mute vā,
tadeva so tattha samuggahāya
nihīnato passati sabbamaññaṃ.

801. Người nhìn thấy cái gì đó ở điều đã được thấy, ở điều đã được nghe, ở giới và phận sự, hoặc ở điều đã được cảm giác là sự lợi ích cho bản thân, sau khi ôm giữ chính cái (tà kiến) ấy về điều ấy, người ấy nhìn thấy mọi cái khác đều là hèn kém.

797. Khi nó thấy lợi ích,
Ðến với tự ngã nó,
Ðối với vật thấy nghe,
Giới đức hay thọ tưởng;
Vị ấy ở tại đấy,
Liền chấp trước nắm giữ,
Nó thấy mọi người khác,
Là hạ liệt thấp kém.

802. Taṃ vāpi ganthaṃ kusalā vadanti
yaṃ nissito passati hīnamaññaṃ,
tasmā hi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā
sīlabbataṃ bhikkhu na nissayeyya.

802. Hơn nữa, các bậc thiện xảo gọi điều ấy là sự trói buộc, người bị nương tựa vào điều ấy nhìn thấy cái khác là thấp hèn. Chính vì thế, vị tỳ khưu không nên nương tựa vào điều đã được thấy, điều đã được nghe, điều đã được cảm giác, hoặc vào giới và phận sự.

798. Người y chỉ kiến ấy,
Thấy người khác hạ liệt,
Bậc thiện nói như vậy,
Ðấy là sự trói buộc;
Do vậy đối thấy nghe,
Thọ, tưởng hay giới cấm,
Bậc Tỷ-kheo không có
Y chỉ, nương tựa vào.

803. Diṭṭhimpi lokasmiṃ na kappayeyya
ñāṇena vā sīlavatena vāpi,
samoti attānamanūpaneyya
hīno na maññetha visesi vāpi.
 

803. Cũng không nên hình thành quan điểm (nào nữa) ở thế gian dựa vào trí (chứng đắc) hoặc dựa vào giới và phận sự. Không nên tự nhủ bản thân là ‘ngang bằng,’ không nên nghĩ mình là thấp hèn hoặc là có sự đặc biệt.

799. Chớ có tác thành ra
Tri kiến ở trên đời,
Từ ở nơi chánh trí,
Hay từ nơi giới đức,
Không bận tâm so sánh,
Tự ngã bằng người khác,
Không có suy nghĩ đến,
Ðây "liệt " hay đây "thắng".

804. Attaṃ pahāya anupādiyāno
ñāṇepi so nissayaṃ no karoti,
sa ve viyattesu na vaggasārī
diṭṭhimpi so na pacceti kiñci.

804. Sau khi dứt bỏ điều đã được chấp giữ, không còn chấp thủ, vị ấy không tạo lập sự nương tựa dầu là ở trí. Quả vậy, giữa những người đã bị phân ly, vị ấy không theo phe nhóm, vị ấy không quay trở lại bất cứ tà kiến nào nữa.

800. Ðoạn tận, từ bỏ ngã,
Không chấp thủ sự gì,
Không tác thành, dựng nên,
Nương tựa ở nơi trí,
Chân thật giữa tranh chấp
Không theo phe phái nào,
Vị ấy không đi theo
Một loại tri kiến nào.

805. Yassūbhayante paṇidhīdha natthi
bhavābhavāya idha vā huraṃ vā,
nivesanā tassa na santi keci
dhammesu niccheyya samuggahītaṃ.

805. Đối với vị nào, ở đây, không có ước vọng về cả hai thái cực, về hữu và phi hữu, về đời này hay đời sau, đối với vị ấy, không có bất cứ các sự chấp chặt nào sau khi đã suy xét điều đã được ôm giữ trong số các pháp (tà kiến).

801. Với ai, hay cực đoan,
Không có hướng nguyện gì,
Với hữu và phi hữu,
Hay đời này đời sau,
Vị ấy không an trú,
Tại một trú xứ nào,
Từ bỏ mọi chấp thủ,
Ðối với tất cả pháp.

806. Tassīdha diṭṭhe va sute mute vā
pakappitā natthi aṇūpi saññā,
taṃ brāhmaṇaṃ diṭṭhimanādiyānaṃ
kenīdha lokasmiṃ vikappayeyya.

806. Sự nhận thức được xếp đặt liên quan đến điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác ở nơi đây, dầu là nhỏ nhoi, cũng không có đối với vị ấy; vị Bà-la-môn ấy không chấp thủ tà kiến, ở thế gian này đây với cái gì có thể chi phối được vị ấy?

802. Ðối vị ấy ở đây,
Những gì được thấy nghe,
Ðược cảm thọ tưởng đến,
Chút suy tưởng cũng không;
Vị Bà-la-môn ấy
Không chấp thủ tri kiến,
Không ai ở đời này
Có thể chi phối được.

807. Na kappyanti na purekkharonti
dhammāpi tesaṃ na paṭicchitāse,
na brāhmaṇo sīlavatena neyyo
pāraṃgato na pacceti tādīti.
 

807. (Các bậc A-la-hán) không sắp đặt, không chú trọng, luôn cả các pháp (tà kiến), đối với các vị ấy, đều không được chấp nhận. Vị Bà-la- môn không bị dẫn dắt đi bởi giới và phận sự, là bậc tự tại, đã đi đến bờ kia, không quay trở lại.

803. Họ không tác thành gì,
Họ không đề cao gì,
Các pháp không được họ,
Chấp trước nắm giữ gì
Không một Phạm chí nào,
Bị giới cấm dắt dẫn,
Ði đến bờ bên kia,
Vị ấy không trở lui.

 

Paramaṭṭhakasuttaṃ niṭṭhitaṃ. 

 

 

Kinh Nhóm Tám về Tối Thắng. 

 
   

 

6. JARĀSUTTAṂ

 

 

6. KINH VỀ SỰ GIÀ

 

 

6. KINH GIÀ

 

808. Appaṃ vata jīvitaṃ idaṃ
oraṃ vassasatāpi mīyati,
yo cepi aticca jīvati
atha kho so jarasāpi mīyati.

 

808. Quả thật, mạng sống này là ít ỏi, thậm chí kém hơn trăm tuổi cũng chết rồi. Nếu người nào vượt qua (hạn tuổi ấy) vẫn còn sống, người ấy rồi cũng chết vì già.

804. Sinh mạng này ngắn thay,
Trong trăm năm, rồi chết,
Nếu ai sống hơn nữa,
Rồi cũng chết vì già.

809. Socanti janā mamāyite
na hi santā niccā pariggahā,
vinābhāvaṃ santamevidaṃ
iti disvā nāgāramāvase.
 

809. Loài người sầu muộn về vật đã được chấp là của ta, bởi vì các sự bám giữ được trường tồn là không có. Sự chia lìa này thật sự đang hiện diện, sau khi nhìn thấy như thế thì không nên sống đời tại gia.

805. Loài Người sầu vì ngã,
Mọi chấp thủ vô thường,
Trống không là đời này,
Thấy vậy sống không nhà.

810. Maraṇenapi taṃ pahīyati
yaṃ puriso mamidanti maññati,
etaṃ disvāna paṇḍito
na mamattāya nametha māmako.
 

810. Cái nào mà người suy nghĩ rằng: ‘Cái này là của tôi,’ cái ấy bị dứt bỏ cũng bởi sự chết. Sau khi nhìn thấy điều này, vị sáng suốt, là người thành tín, không nên thiên về trạng thái chấp là của tôi.

806. Vì loài Người nghĩ rằng
Cái này là của tôi,
Cái ấy bị sự chết,
Làm hoại diệt hư tàn.
Biết vậy, bậc Hiền trí,
Không gọi, không hướng đến,
Cái này ngã của ta,
Cái này là của ta.

811. Supinena yathāpi saṅgataṃ
paṭibuddho puriso na passati,
evampi piyāyitaṃ janaṃ
petaṃ kālakataṃ na passati.
 

811. Cũng giống như sự việc đã được gặp gỡ qua giấc chiêm bao, khi thức giấc, người không còn nhìn thấy, tương tự như thế, với người được yêu mến đã từ trần, đã quá vãng, thì không nhìn thấy nữa.

807. Như những gì hiện lên,
Trong giấc ngủ mộng mị,
Con người khi tỉnh dậy,
Không còn thấy được gì.
Cũng vậy ở đời này,
Người được ưa, ái luyến,
Rồi sẽ chết mất đi,
Không ai còn thấy được.

812. Diṭṭhāpi sutāpi te janā
yesaṃ nāmamidaṃ pavuccati,
nāmamevāvasissati
akkheyyaṃ petassa jantuno.

812. Những người ấy dầu đã được thấy, dầu đã được nghe, đề cập đến họ, tên gọi này được nói ra. Chỉ mỗi tên gọi sẽ còn ở lại, sẽ được nhắc đến đối với người đã từ trần.

808. Các loại hạng người ấy
Ðược thấy và được nghe,
Nên họ được gọi tên,
Tên này hay tên khác.
Với người đã chết đi,
Chỉ được gọi tên không,
Vì chỉ có tên suông,
Sẽ được còn tồn tại.

813. Sokaparidevamaccharaṃ
na jahanti giddhā mamāyite,
tasmā munayo pariggahaṃ
hitvā acariṃsu khemadassino.
 

813. Những người bị thèm khát ở vật đã được chấp là của ta không buông bỏ sầu muộn, than vãn, và bỏn xẻn. Do đó, các bậc hiền trí, với việc nhìn thấy sự an toàn, sau khi từ bỏ sự bám giữ, đã du hành.

809. Tham đắm cái của ta,
Họ không có từ bỏ,
Sầu khổ và than van,
Cùng xan tham keo kiết.
Do vậy bậc ẩn sĩ,
Sau khi bỏ chấp thủ,
Ðã sống một đời sống,
Thấy được sự an ổn.

814. Patilīnacarassa bhikkhuno
bhajamānassa vivittamāsanaṃ,
sāmaggiyamāhu tassa taṃ
yo attānaṃ bhavane na dassaye.

814. Ðối với vị tỳ khưu có hạnh sống tách ly, đang thân cận chỗ ngồi vắng vẻ, các vị đã nói rằng điều này là hợp nhất đối với vị ấy, vị ấy sẽ không thị hiện bản thân ở cảnh giới (tái sanh nào nữa).

810. Ðối với vị Tỷ-kheo
Sống thanh vắng một mình,
Sống tu tập tâm ý,
Hướng đến hạnh viễn ly,
Nếp sống vậy được nói,
Hòa hợp với vị ấy,
Và không nêu tự ngã,
Trong hiện hữu của mình.

815. Sabbattha munī anissito
na piyaṃ kubbati nopi appiyaṃ,
tasmiṃ paradevamaccharaṃ
paṇṇe vāri yathā na lippati.
 

815. Bậc hiền trí, không bị lệ thuộc vào tất cả các nơi, không tạo ra vật yêu mến cũng không tạo ra vật không yêu mến, than vãn và bỏn xẻn không gây bẩn ở vị ấy, giống như nước không gây bẩn ở lá sen.

811. Vị ẩn sĩ không tựa,
Không y chỉ một ai,
Không làm thành thương yêu,
Không tác thành ghét bỏ.
Do vậy trong sầu than,
Trong xan tham keo kiết,
Như nước trên lá cây,
Không dính ướt làm nhơ.

816. Udabindu yathāpi pokkhare
padume vāri yathā na lippati,
evaṃ muni no palippati
yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā.

816. Cũng giống như giọt nước ở lá sen, giống như nước không gây bẩn ở hoa sen, tương tự như thế bậc hiền trí không vấy bẩn ở những điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác.

812. Giống như một giọt nước,
Không dính ướt hoa sen,
Như nước trên bông sen,
Khôn dính ướt làm nhơ.
Ðối với vật thấy nghe,
Ðược cảm thọ tưởng đến,
Cũng vậy bậc ẩn sĩ
Không dính ướt tham đắm.

817. Dhono na hi tena maññati
yadidaṃ diṭṭhasutaṃ mutesu vā,
nāññena visuddhimicchati
na hi so rajjati no virajjatī ”ti.
 

817. Thật vậy, vị đã rũ sạch không suy nghĩ theo lối ấy, tức là về những điều đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, (cũng) không ước muốn sự thanh tịnh theo cách nào khác, bởi vì vị ấy không luyến ái, (cũng) không lìa luyến ái.

813. Do vậy bậc tẩy sạch,
Không có suy tư đến,
Ðiều được thấy được nghe,
Ðược cảm thọ tưởng đến.
Vị ấy muốn thanh tịnh,
Không có dựa gì khác,
Vị ấy không tham đắm,
Cũng không có ly tham.

 

Jarāsuttaṃ niṭṭhitaṃ. 

 

 

Dứt Kinh về Sự Già. 

 
   

 

7. TISSAMETTEYYASUTTAṂ

 

 

7. KINH VỀ TISSAMETTEYYA

 

7. KINH TISSAMETTEYYA

818. Methunamanuyuttassa (iccāyasmā tisso metteyyo)
vighātaṃ brūhi mārisa,
sutvāna tava sāsanaṃ
viveke sikkhissāma se.

818. “Thưa Ngài, xin Ngài hãy nói về sự tàn hại dành cho kẻ đeo bám việc đôi lứa. Sau khi lắng nghe lời dạy của Ngài, chúng con sẽ học tập về hạnh viễn ly,” (Đại đức Tissa Metteyya đã nói thế ấy).

814. Tissa Metteyya,
Tôn giả nói như sau:
Thế Tôn hãy nói lên,
Sự tai hại của người,
Ðắm say về dâm dục,
Sau khi nghe, chúng con
Sẽ học tập lời Ngài,
Lời dạy về viễn ly.

819. Methunamanuyuttassa (metteyyāti bhagavā)
mussate vāpi sāsanaṃ,
micchā ca paṭipajjati
etaṃ tasmiṃ anāriyaṃ.
 

819. (Đức Thế Tôn đã nói như vầy: “Này Metteyya,) đối với kẻ đeo bám việc đôi lứa, lời giảng dạy thậm chí còn bị quên lãng và là kẻ thực hành sai trái; điều này ở kẻ ấy là không thánh thiện.

815. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi này Metteyya,
Ai đắm say dâm dục,
Quên mất lời giảng dạy,
Rơi vào đường tà vạy,
Nếp sống ấy không thánh.

820. Eko pubbe caritvāna
methunaṃ yo nisevati,
yānaṃ bhantaṃ va taṃ loke
hīnamāhu puthujjanaṃ.

820. Sau khi sống một mình trước đây, kẻ nào (giờ) gần gũi việc đôi lứa, kẻ ấy ở thế gian, tựa như chiếc xe bị chao đảo, người ta đã gọi là kẻ phàm phu thấp hèn.

816. Ai trước sống một mình,
Nay rơi vào dâm dục,
Như xe bị nghiêng ngã,
Người ấy ở trong đời,
Ðược gọi là phàm phu,
Ðược gọi là hạ liệt.

821. Yaso kittiñca yā pubbe
hāyate vāpi tassa sā,
etampi disvā sikkhetha
methunaṃ vippahātave.

821. Danh vọng và tiếng tăm nào (đã có) trước đây, điều ấy của kẻ ấy (giờ) hiển nhiên cũng bị giảm thiểu. Sau khi nhìn thấy điều này, nên học tập nhằm dứt bỏ hẳn việc đôi lứa.

817. Tiếng tốt có từ trước,
Người ấy bị tổn giảm,
Thấy vậy hãy học tập,
Từ bỏ sự dâm dục.

822. Saṃkappehi pareto so
kapaṇo viya jhāyati,
sutvā paresaṃ nigghosaṃ
maṅku hoti tathāvidho.
 

822. Kẻ ấy, bị chi phối bởi các suy tư, trầm tư như là kẻ khốn khổ. Sau khi lắng nghe lời quở trách của những người khác, kẻ thuộc hạng như thế trở nên tủi hổ.

818. Chi phối bởi suy tư,
Trầm ngâm như kẻ nghèo,
Nghe tiếng trách người khác,
Như kẻ bị thất vọng.

823. Atha satthāni kurute
paravādehi codito,
esa khavassa mahāgedho
mosavajjaṃ pagāhati.
 

823. Rồi (kẻ ấy) tạo ra các vũ khí (các uế nghiệp), bị khiển trách bởi các lời nói của những người khác. Điều ấy, đối với kẻ này, quả là sự vướng mắc lớn lao; (kẻ ấy) lún sâu vào sự giả dối.

819. Bị người khác buộc tội,
Nó làm các đao kiếm,
Trở thành người tham lớn,
Chấp thủ điều vọng ngôn.

824. Paṇḍitoti samaññāto
ekacariyaṃ adhiṭṭhito,
athāpi methune yutto
mando va parikissati.

824. Đã được công nhận là ‘bậc sáng suốt,’ đã phát nguyện hạnh sống một mình, rồi cũng gắn bó vào việc đôi lứa, tựa như gã ngu khờ (kẻ ấy) bị sầu muộn.

820. Ðược danh là Hiền trí,
An trú sống một mình,
Nếu rơi vào dâm dục,
Sầu não như kẻ ngu.

825. Etamādīnavaṃ ñatvā
muni pubbāpare idha,
ekacariyaṃ daḷhaṃ kayirā
na nisevetha methunaṃ.
 

825. Sau khi biết được điều bất lợi này, ở đây bậc hiền trí trước đó và sau này, nên thực hành vững chải hạnh sống một mình, không nên gần gũi việc đôi lứa.

821. Thấy nguy hại như vậy,
Bậc ẩn sĩ trước sau,
Kiên trì sống cô độc,
Không thực hành dâm dục.

826. Vivekaṃ yeva sikkhetha
etadariyānamuttamaṃ,
na tena seṭṭho maññetha
sa ve nibbānasantike.

826. Nên học tập mỗi hạnh viễn ly, điều này đối với các bậc Thánh là tối thượng, với điều ấy không nên nghĩ (bản thân) là hạng nhất; vị ấy quả nhiên ở gần Niết Bàn.

822. Hãy học tập viễn ly,
Ðây hạnh thánh tối thượng,
Không nghĩ mình tối thắng,
Dầu gần được Niết-bàn.

827. Rittassa munino carato
kāmesu anapekkhino,
oghatiṇṇassa pihayanti
kāmesu gathitā pajāti.
 

827. Đối với bậc hiền trí đang sống, trống vắng (mọi ô nhiễm), không có sự trông mong các dục, đã vượt qua (bốn) dòng nước lũ, người đời, bị buộc trói ở các dục, mong cầu (được như vị ấy)."

823. Sở hành bậc ẩn sĩ,
Trống không, không mong dục,
Bậc vượt khỏi bộc lưu,
Ðược các người ở đời,
Bị tham dục trói buộc,
Ganh tị và thèm muốn.

 

Tissameteyyasuttaṃ niṭṭhitaṃ. 

 

 

Dứt Kinh về Tissametteyya. 

 
   

 

8. PASŪRASUTTAṂ

 

 

8. KINH VỀ PASŪRA

 

8. KINH PASŪRA

828. Idheva suddhi iti vādiyanti
nāññesu dhammesu visuddhimāhu,
yaṃ nissitā tattha subhaṃ vadānā
paccekasaccesu puthū niviṭṭhā.

828. Họ (những kẻ theo tà kiến) nói rằng: ‘Chính ở đây là trong sạch.’ Họ đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác. Điều mà họ nương tựa, họ nói điều ấy là tốt đẹp. Phần đông đã đi theo những chân lý riêng biệt.

824. Ở đây chính thanh tịnh,
Họ thuyết giảng như vậy,
Họ nói trong pháp khác,
Không có sự thanh tịnh,
Họ nói chỗ y chỉ,
Ở đây là thanh tịnh,
Họ rộng rãi an trú,
Trong sự thật của mình.

829. Te vādakāmā parisaṃ vigayha
bālaṃ dahantī mithu aññamaññaṃ,
vadanti te aññasitā kathojjaṃ
pasaṃsakāmā kusalā vadānā.
 

829. Mong muốn tranh luận, những kẻ ấy sau khi chen vào hội chúng, từng đôi, chúng đánh giá lẫn nhau là ngu dốt. Dựa dẫm vào người khác, chúng nói lời bàn cãi, mong muốn lời ca ngợi, chúng nói (học thuyết) là tốt lành.

825. Những ai muốn tranh luận,
Sau khi vào hội chúng,
Họ công kích lẫn nhau,
Họ gọi nhau là ngu,
Họ đi đến người khác,
Và khởi lên tranh luận,
Họ muốn được tán thán,
Họ gọi chúng thiện xảo.

830. Yutto kathāyaṃ parisāya majjhe
pasaṃsamicchaṃ vinighāti hoti,
apāhatasmiṃ pana maṅku hoti
nindāya so kuppati randhamesī.

830. Kẻ gắn bó với sự phát biểu ở giữa hội chúng, trong khi ước muốn lời ca ngợi, thì trở nên lo lắng. Hơn nữa, khi bị bác bỏ thì trở nên xấu hổ, vì sự chê bai kẻ ấy bị bực tức, có sự tìm kiếm điểm thiếu sót.

826. Ham mê thích tranh luận,
Ở giữa các hội chúng,
Ước muốn được tán thán,
Họ sợ hãi thất bại,
Khi bị đánh thất bại,
Họ trở thành rủn chí,
Bị chê, họ nổi giận,
Kẻ tìm lỗi người khác.

831. Yamassa vādaṃ parihīnamāhu
apāsadaṃ pañhavīmaṃsakā se,
paridevati socati hīnavādo
upaccagā manti anutthunāti.

831. Họ đã nói rằng cuộc tranh luận của người này là hèn mọn, những vị xem xét câu hỏi đã bác bỏ. Người có cuộc tranh luận thấp hèn than vãn, sầu muộn, kể lể rằng: ‘Kẻ ấy đã vượt hẳn tôi.’

827. Khi các nhà thẩm sát,
Phê bình các câu hỏi,
Tuyên bố cuộc tranh luận,
Ði đến chỗ thất bại,
Kẻ nói lời hạ liệt,
Than khóc và sầu não,
Họ rên rỉ than van,
Nó đã đánh bại ta.

832. Ete vivādā samaṇesu jātā
etesu ugaghāti nighāti hoti,
evampi disvā virame kathojjaṃ
na haññadatthatthi pasaṃsalābhā.

832. Những sự tranh cãi này đã sanh khởi giữa các vị Sa-môn. Ở những việc này có sự hưng phấn và chán nản. Sau khi nhìn thấy luôn cả điều này, nên xa lánh sự bàn cãi, bởi vì không có lợi ích nào khác ngoài việc đạt được lời ca ngợi.

828. Giữa các vị Sa-môn,
Các tranh luận khởi lên,
Trong các tranh luận này,
Có chiến thắng chiến bại.
Do thấy rõ như vậy,
Không vui thích tranh luận
Dầu có được tán thán,
Cũng không lợi ích gì.

833. Pasaṃsito vā pana tattha hoti
akkhāya vādaṃ parisāya majjhe,
so taṃ hasatī unnamaticca tena
pappuyya tamatthaṃ yathāmano ahū.

833. Hoặc hơn nữa, kẻ được ca ngợi ở nơi ấy, sau khi đã nói lên lời tranh luận ở giữa hội chúng, kẻ ấy cười về điều ấy, hãnh diện vì điều ấy, sau khi đã đạt được mục đích ấy theo như ý định đã có.

829. Hay trong tranh luận này,
Nó được lời tán thán,
Sau khi đã nói lên,
Chính giữa các hội chúng.
Do vậy nó vui cười,
Nó tự hào kiêu hãnh,
Ðạt được mục đích ấy,
Như tâm ý nói lên.

834. Yā unnatī sāssa vighātabhūmi
mānātimānaṃ vadate paneso,
etampi disvā na vivādayetha
na hi tena suddhiṃ kusalā vadanti.
 

834. Cái nào là sự kiêu hãnh, cái ấy đối với kẻ ấy là vùng đất tiêu diệt. Hơn nữa, kẻ ấy nói một cách ngã mạn và ngã mạn thái quá. Sau khi nhìn thấy luôn cả điều này, không nên tranh cãi, các bậc thiện xảo nói sự trong sạch hiển nhiên là không do việc ấy.

830. Cái làm nó cống cao,
Cũng là đất hại nó,
Tuy vậy nó vẫn nói,
Lời cống cao kiêu mạn,
Khi thấy được như vậy,
Hãy đừng có tranh luận,
Bậc thiện xảo nói rằng,
Thanh tịnh không do vậy.

835. Sūro yathā rājakhādāya puṭṭho
abhigajjameti paṭisūramicchaṃ,
yeneva so tena palehi sūra
pubbeva natthi yadidaṃ yudhāya.

835. Giống như vị dũng sĩ, được chu cấp với thức ăn của nhà vua, đi đến, la hét, ước muốn có dũng sĩ đối địch. Này dũng sĩ, ngươi hãy đi đến nơi kẻ (dũng sĩ đối địch) ấy, quả thật trước đây đã không còn (ô nhiễm) gì để mà chiến đấu.

831. Cũng như bậc anh hùng,
Nuôi dưỡng đồ ăn vua,
La hét muốn tìm cầu,
Một địch thủ anh hùng,
Ôi anh hùng hãy tránh,
Chỗ nào có vị ấy,
Từ trước đã không có,
Sự đấu tranh như vậy.

836. Ye diṭṭhimuggayha vivādayanti
idameva saccanti ca vādayanti,
te tvaṃ vadassu na hi tedha atthi
vādamhi jāte paṭisenikattā.

836. Những kẻ nào sau khi học hỏi tà kiến, rồi tranh cãi và nói rằng: ‘Chỉ mỗi điều này là sự thật.’ Ngươi hãy nói với những kẻ ấy rằng: ‘Khi cuộc nói chuyện sanh khởi, người đối kháng với ngươi ở đây thật sự không có.’

832. Những ai chấp tri kiến,
Tranh luận về kiến ấy,
Tuyên bố thuyết giảng rằng:
Chỉ đây là sự thật,
Ông hãy nói với họ,
Ở đây không tranh luận,
Ông hãy nói thêm rằng
Ở đây không địch thủ.

837. Visenikatvā pana ye caranti
diṭṭhīhi diṭṭhiṃ avirujjhamānā,
tesu tvaṃ kiṃ labhetho pasūra
yesīdha natthi paramuggahītaṃ.
 

837. Hơn nữa, sau khi tiêu diệt đạo binh (ô nhiễm), những vị nào sống không chống đối quan điểm (này) bằng các quan điểm (khác), này Pasūra, ngươi có thể đạt được gì ở những vị ấy, là những vị ở đây không có điều gì được ôm giữ là tối thắng.

833. Cuộc chiến đấu đã tàn,
Những ai sống như vậy,
Không có sự va chạm,
Giữa kiến này kiến khác,
Hỡi này Pasùra!
Ông được gì nơi họ,
Với người không chấp thủ,
Một sự gì tối thượng?

838. Atha tvaṃ pavitakkamāgamā
manasā diṭṭhigatāni cintayanto,
dhonena yugaṃ samāgamā
na hi tvaṃ sakkhasi sampayātaveti.

Giờ ngươi đã đi đến sự suy xét trong khi dùng ý suy nghĩ về các tà kiến. Ngươi đã gặp gỡ sánh đôi với vị đã rũ sạch, ngươi quả không có khả năng để đi cùng.

834. Vậy Ông hãy đi đến,
Suy tư ngẫm nghĩ kỹ,
Với tâm ý suy tư,
Trên những loại tri kiến,
Hãy hoà đồng chung hợp,
Với bậc đã tẩy sạch,
Ông không có thể không
Cùng vị ấy tiến bước.

 

Pasūrasuttaṃ niṭṭhitaṃ. 
 

 

Dứt Kinh về Pasūra. 

 

 

9. MĀGANDIYASUTTAṂ

 

 

9. KINH VỀ MĀGANDIYA

 

 

(IX). KINH MĀGANDIYĀ

 

839. Disvāna taṇhaṃ aratiṃ ragañca
nāhosi chando api methunasmiṃ,
kimevidaṃ muttakarīsapuṇṇaṃ
pādāpi naṃ samphusituṃ na icche.

839. Sau khi nhìn thấy tham ái, bất mãn, và luyến ái,
ngay cả sự mong muốn về việc đôi lứa đã không có.
Vật được chứa đầy nước tiểu và phân này là cái gì đây?
Ta không muốn chạm đến nó dầu là bàn chân.

Thế Tôn:

835. Sau khi thấy khát ái,
Bất lạc và tham đắm,
Không thể có ưa muốn,
Ðối với sự dâm dục.
Sao, với bao đầy tràn,
Nước tiểu, phân uế này,
Ta không có ước muốn,
Với chân động chạm nó.

840. Etādisaṃ ce ratanaṃ na icchasi
nāriṃ narindehi bahūhi patthitaṃ,
diṭṭhiggataṃ sīlavatānujīvitaṃ
bhavūpapattiñca vadesi kīdisaṃ.

840. Nếu Ngài không ước muốn báu vật như thế này, một người nữ được mong ước bởi nhiều vị vua chúa, vậy Ngài nói về quan điểm, về giới, về phận sự, về cuộc sống, và về sự sanh lên của hiện hữu thuộc loại như thế nào?

Màgandiya:

836. Nếu Ngài không ước muốn:
Ngọc báu như thế này,
Nữ nhân được mong cầu,
Bởi rất nhiều đế vương,
Hãy nói như thế nào,
Là tri kiến của Ngài,
Giới cấm và sinh mạng,
Cùng sự hữu phát sanh
.

841. Idaṃ vadāmīti na tassa hoti (māgandiyāti bhagavā)
dhammesu niccheyya samuggahītaṃ,
passañca diṭṭhīsu anuggahāya
ajjhattasantiṃ pacinaṃ adassaṃ.
 

841. (Đức Thế Tôn nói: “Này Māgandiya,) sau khi đã suy xét trong số các pháp (tà kiến), đối với Ta đây không có điều gì đã được nắm bắt (nói rằng): ‘Ta nói điều này.’ Và trong khi nhìn thấy mà không bám níu vào các tà kiến, trong khi tìm tòi, Ta đã nhìn thấy sự an tịnh ở nội phần.”

Thế Tôn:

837. Thế Tôn liền trả lời,
Cho Màgandiya,
Với Ta không có nói,
Ta nói như thế này,
Sau khi quán sát kỹ
Sự chấp thủ trong pháp,
Trong tất cả tri kiến,
Ta không có chấp trước,
Ta thấy sự cất chứa,
Tịch tịnh trong nội tâm
.

842. Vinacchayā yāni pakappitāni (iti māgandiyo)
te ve muni brūsi anuggahāya,
ajjhantasantīti yametamatthaṃ.
kathaṃ nu dhīrehi paveditaṃ taṃ.

842. (Māgandiya nói rằng:) “Các phán đoán nào đã được xếp đặt, này bậc hiền trí, ngài nói về chính chúng mà không bám níu. Điều nào có ý nghĩa là ‘sự an tịnh ở nội phần,’ điều ấy đã được tuyên bố thế nào bởi các bậc sáng trí?”

Màgandiya:

838. Màgandiya nói:
Các lý thuyết quyết định,
Ngài nói vị ẩn sĩ,
Không nắm giữ thuyết nào.
Còn về ý nghĩa này,
Của hai chữ nội tịnh,
Thế nào là bậc Hiền trí,
Hiểu biết hai chữ ấy?

843. Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (māgandiyāti bhagavā)
sīlabbatenāpi na suddhimāha,
adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā
asīlatā abbatā nopi tena,
ete ca nissajja anuggahāya
santo anissāya bhavaṃ na jappe.

843. (Đức Thế Tôn nói: “Này Māgandiya,) người ta đã nói rằng sự trong sạch không phải do kiến, không phải do nghe, không phải do trí, không phải do giới và phận sự, cũng không phải do (không có) điều ấy là do không kiến, do không nghe, do không trí, do không giới, do không phận sự. Và sau khi không nương tựa, không bám níu vào các điều này, được an tịnh, không phụ thuộc, không còn tham muốn hữu.”

Thế Tôn:

839. Thế Tôn nói như sau:
Này Màgandiya,
Không phải từ tri kiến,
Từ truyền thống, từ trí,
Không phải từ giới cấm,
Thanh tịnh được đem đến.
Người ta nói như vậy,
Nhưng cũng không phải là
Không kiến, không truyền thống,
Không trí, không giới cấm,
Từ bỏ tất cả chúng,
Không chấp thủ sự gì,
Bậc thiện không y chỉ,
Không ước muốn sanh hữu.

844. No ce kira diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (iti māgandiyo)
sīlabbatenāpi visuddhimāha,
adiṭṭhiyā assutiyā añāṇā1
asīlatā abbatā nopi tena,
maññāmahaṃ momuhameva dhammaṃ
diṭṭhiyā eke paccenti suddhiṃ.
 

844. (Māgandiya nói rằng:) “Nếu nói rằng sự trong sạch không phải do kiến, không phải do nghe, không phải do trí, không phải do giới và phận sự, cũng không phải do (không có) điều ấy, là do không kiến, do không nghe, do không trí, do không giới, do không phận sự, tôi nghĩ rằng giáo lý (ấy) thật mù mờ; một số người tin rằng trong sạch là do kiến.”

Màgandiya:

840. Màgandiya nói:
Nếu không từ tri kiến,
Từ truyền thống, từ trí,
Không phải từ giới cấm,
Thanh tịnh được đưa đến.
Người ta nói như vậy,
Cũng không phải không kiến,
Không truyền thống, không trí,
Không giới luật giới cấm,
Thanh tịnh được đem đến
Con nghĩ rằng pháp vậy,
Là pháp kẻ ngu si,
Vì rằng thật có người,
Nhờ kiến đến thanh tịnh.

845. Diṭṭhiñca nissāya anupucchamāno (māgandiyāti bhagavā)
samuggahitesu pamohamāga,
ito ca nāddakkhi aṇumpi saññaṃ
tasmā tuvaṃ momuhato dahāsi.

845. (Đức Thế Tôn nói: “Này Māgandiya,) sau khi nương tựa vào kiến, trong khi tìm hiểu, ngươi đã đi đến sự mê muội ở những điều đã được nắm bắt. Và từ đây ngươi đã không tiếp thâu sự nhận thức dầu là nhỏ nhoi; do đó ngươi ghi nhận (điều ấy) là mù mờ.”

Thế Tôn:

841. Thế Tôn nói như sau:
Này Màgandiya,
Nếu y vẫn tri kiến,
Ông còn tiếp tục hỏi,
Chính do những chấp thủ,
Ði đến sự ngu si,
Từ đó, Ông không thấy,
Một chút gì về tưởng,
Do vậy, Ông chớ thấy,
Tất cả là ngu si.

846. Samo vihesi uda vā nihīno
yo maññati so vivadetha tena,
tīsu vidhāsu avikampamāno
samo visesīti na tassa hoti.

846. Bằng nhau, đặc biệt, hoặc thấp hèn,
kẻ nào nghĩ vậy, kẻ ấy sẽ tranh cãi vì điều ấy.
Người không dao động ở ba trạng thái kiêu mạn ấy,
đối với người ấy không có (ý nghĩ): ‘bằng nhau’ hay ‘đặc biệt.’

842. Bằng ta thắng hơn ta,
Hay thấp kém hơn ta,
Ai suy nghĩ như vậy,
Do vậy đấu tranh khởi,
Ai không bị dao động
Bởi ba vấn đề ấy,
Như vậy, đối vị ấy,
Không bằng, không thù thắng.

847. Saccanti so brāhmaṇo kiṃ vadeyya
musāti vā so vivadetha kena,
yasmiṃ samaṃ visamaṃ vāpi natthi
sa kena vādaṃ paṭisaṃyujeyya.

847. Vị Bà-la-môn ấy có thể nói gì (cho rằng): ‘Đây là sự thật’?
Hoặc vị ấy có thể tranh cãi với ai rằng: ‘Đây là sai trái’?
Ở vị nào (ý niệm so sánh) bằng nhau hay không bằng nhau là không có,
vị ấy có thể vướng víu vào sự tranh luận với ai đây?
 

843. Sao Bà-la-môn ấy
Lại nói: "Ðây sự thật ",
Ðây chính là nói láo,
Ðể gây nên tranh luận,
Với ai không hề có,
Bằng nhau, không bằng nhau.
Do đâu nó có thể,
Mắc vào tranh luận được.

848. Okam pahāya aniketasārī
gāme akubbaṃ muni santhavāni,
kāmehi ritto apurekkharāno
kathaṃ na viggayha janena kayirā.

848. Sau khi từ bỏ chỗ ngụ, không có sự vương vấn nhà ở,
vị hiền trí không nên tạo ra các sự thân thiết ở trong làng,
trống vắng đối với các dục, không ước vọng,
không nên tạo ra cuộc nói chuyện cãi vã với người (khác).

844. Ðoạn tận mọi nhà cửa,
Sống là kẻ không nhà,
Ẩn sĩ không thân thiết,
Với một ai ở làng,
Trống không các dục vọng,
Không xem trọng sự gì,
Không nói chuyện tranh luận,
Với một ai ở đời.

849. Yehi vivitto vicareyya loke
na tāni uggayha vadeyya nāgo,
elambujaṃ kaṇṭakaṃ vārijaṃ yathā
jalena paṅkena canūpalittaṃ,
evaṃ munī santivādo agiddho
kāme ca loke ca anūpalitto.

849. Sống ở thế gian, (bản thân) đã được viễn ly với những điều nào, bậc long tượng sẽ không tiếp thu và sẽ không nói về những điều ấy. Giống như cây sen có gai (ở cuống), được sanh ra ở trong nước, không bị vấy bẩn bởi nước và bùn, tương tự như vậy, bậc hiền trí nói về sự an tịnh, không bị thèm khát, không bị vấy bẩn ở dục và ở thế gian.

845. Vị ấy sống viễn ly,
Mọi sự việc ở đời,
Bậc Long tượng không chấp,
Và không nói đến họ.
Như hoa sen có gai,
Sanh ra ở trong nước,
Không bị nước và bùn,
Mắc dính và thấm ướt.
Như vậy bậc ẩn sĩ,
Nói an tịnh, không tham,
Không bị dục và đời,
Mắc dính và thấm ướt.

850. Na vedagū diṭṭhiyā na mutiyā
sa mānameti na hi tammayo so,
na kammunā nopi sutena neyyo
anūpanīto sa nivesanesu.

850. Bậc hiểu biết sâu sắc không do tà kiến, không do cảm giác mà vị ấy đi đến ngã mạn, bởi vì vị ấy không có điều ấy là bản tính. Không do hành động, cũng không do điều đã được nghe mà vị ấy có thể bị dẫn đi, vị ấy không bị dẫn dắt vào trong các sự chấp chặt.

846. Bậc trí, không do kiến,
Cũng không do thọ tưởng,
Ði đến sự kiêu mạn,
Không có tham dự vào,
Không để cho hành động,
Cho truyền thống dắt dẫn,
Không để bị chi phối,
Trong trú xứ của ý.

851. Saññā virattassa na santi ganthā
paññā vimuttassa na santi mohā,
saññañca diṭṭhiñca ye aggahesuṃ
te ghaṭṭayantā vicaranti loketi.

851. Đối với vị đã xa lìa tưởng, các trói buộc không hiện hữu,
đối với vị đã được giải thoát do tuệ, các si mê không hiện hữu.
Và những người nào đã nắm giữ tưởng và tà kiến,
những người ấy sống, gây
va chạm, ở thế gian.

847. Người không ưa thích tưởng,
Không có bị trói buộc,
Vị được tuệ giải thoát,
Không có sự si mê,
Và những ai chấp thủ,
Tư tưởng và tri kiến,
Người ấy sống xung đột,
Với mọi người ở đời.

 

Māgandiyasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Māgandiya.

 

 

 

 

 

 

 

10. PURĀBHEDASUTTAṂ

 

 

10. KINH TRƯỚC KHI HOẠI RÃ

 

(X) KINH TRƯỚC KHI BỊ HỦY HOẠI

852. Kathaṃdassī kathaṃsīlo upasantoti vuccati,
taṃ me gotama pabrūhi pucchito uttamaṃ naraṃ.

852. “Có sự hiểu biết thế nào, có giới thế nào, được gọi là an tịnh? Thưa ngài Gotama, được hỏi về con người tối thượng, xin ngài hãy nói về vị ấy.”
 

Người hỏi:

848. Người sống đời an tịnh,
Kiến và giới thế nào?
Con hỏi Gotama,
Là bậc người tối thượng.

853. Vītataṇho purā bhedā (iti bhagavā) pubbamantamanissito,
vemajjhenupasaṅkheyyo tassa natthi purekkhataṃ.

853. (Đức Thế Tôn nói): “Vị có tham ái đã được xa lìa trước khi hoại rã (xác thân) không nương tựa vào thời gian trước (quá khứ), ở vào khoảng giữa (hiện tại) không thể phân hạng; việc mong ước là không có đối với vị ấy.”

Thế Tôn:

849. Thế Tôn đáp như sau:
Ly ái trước thân hoại,
Không y chỉ ban đầu,
Không y chỉ cuối cùng,
Không kể đến vật giữa,
Không có ưa thích nào.

854. Akkodhano asantāsī avikatthi akukkuco,
mantabhāṇī anuddhato sa ve vācāyato muni.
 

854. Không có sự giận dữ, không xao động, không khoe khoang, không hối tiếc, có lời nói khôn khéo, không cao ngạo, vị ấy quả thật là bậc hiền trí đã thu thúc về khẩu.

850. Không phẫn nộ, không sợ,
Không khoa đại, không hối,
Nói hòa nhã, không động,
Bậc ẩn sĩ thận ngôn.

855. Nirāsatti anāgate atītaṃ nānusocati,
vivekadassī phassesu diṭṭhīsu ca na nīyati.
 

855. Vị không có sự dính mắc ở tương lai, không sầu muộn về quá khứ, có cái nhìn tách biệt ở các xúc, và không bị dẫn đi bởi các tà kiến.

Không ước vọng tương lai,
Không sầu muộn quá khứ,
Thấy viễn ly giữa xúc,
Không để kiến dắt dẫn.

856. Patilīno akuhako apihālu amaccharī,
appagabbho ajeguccho pesuneyye ca no yuto.

856. Vị đã xa rời (các bất thiện pháp), không xảo trá, không mong cầu, không bỏn xẻn, không xấc xược, không gây nhờm gớm, và không can dự vào việc nói đâm thọc.

852. Sống riêng, không man trá,
Không thích, không xan tham,
Không xông xáo nhàm chán,
Không đi đến hai lưỡi.


857. Sātiyesu anassāvi atimāne ca no yuto,
saṇho ca paṭibhānavā na saddho na virajjati.

857. Vị không có sự buông xuôi theo các khoái lạc, không can dự vào việc ngã mạn thái quá, tế nhị, và có biện tài, không cả tin, không thờ ơ lãnh đạm.

853. Không mê vật khả ái,
Cũng không có quá mạn,
Nhu hòa, nhưng ứng biện,
Không vọng tín, không tham.

858. Lābhakamyā na sikkhati alābhe na ca kuppati,
aviruddho ca taṇhāya rasesu nānugijjhati.

858. Vị học tập không vì ham muốn lợi lộc và không bực tức khi không được lợi lộc, không chống đối và không thèm muốn các vị nếm do tham ái.

854. Không tu tập vì lợi,
Không được lợi, không sân,
Không bị ái kích thích,
Không đam mê các vị.

859. Upekkhako sadā sato na loke maññate samaṃ,
na visesī na nīceyyo tassa no santi ussadā.

859. Vị hành xả, luôn luôn có niệm, ở thế gian không nghĩ (bản thân) là ngang bằng, không (nghĩ) là có sự đặc biệt, không (nghĩ) là thấp hèn. Đối với vị ấy, không có các (thái độ) kiêu ngạo.

855. Thường trú xả, chánh niệm,
Ở đời, không nghĩ mình,
Bằng hơn hay thua người,
Vị ấy, không bồng bột.

860. Yassa nissayatā natthi ñatvā dhammaṃ anissito,
bhavāya vibhavāya vā taṇhā yassa na vijjati.

860. Đối với vị nào không có sự nương tựa—sau khi hiểu được Giáo Pháp (vị ấy) không còn nương tựa—đối với vị ấy tham ái ở hữu và phi hữu không tìm thấy.

856. Không y chỉ một ai,
Biết pháp, không y chỉ,
Vị ấy không có ái,
Ðối với hữu, phi hữu.

861. Taṃ brūmi upasantoti kāmesu anapekkhinaṃ,
ganthā tassa na vijjanti atāri so visattikaṃ.
 

861. Ta nói rằng vị ấy là “bậc an tịnh” không trông mong về các dục, đối với vị ấy các sự trói buộc không tìm thấy; vị ấy đã vượt qua sự vướng mắc.

857. Ta gọi vị an tịnh,
Không mong cầu các dục,
Vị ấy không triền phược,
Vượt khỏi các tham trước.

862. Na tassa puttā pasavo khettaṃ vatthuṃ ca vijjati,
attā vāpi nirattā vā na tasmiṃ upalabbhati.
 

862. Đối với vị ấy, những người con, các thú nuôi, ruộng vườn và đất đai đều không tìm thấy. Ngã (thường kiến) và luôn cả phi ngã (đoạn kiến) cũng không tồn tại ở vị ấy.

858. Vị ấy không con cái,
Thú vật, ruộng, đất đai,
Không có gì nắm lấy,
Là ta, là không ta.

863. Yena naṃ vajju puthujjanā atho samaṇabrāhmaṇā,
taṃ tassa apurekkhatā tasmā vādesu n’ ejati.

863. Vì việc nào mà các phàm phu, rồi các Sa-môn, và các Bà-la-môn có thể kết tội vị ấy, việc ấy là không được mong ước bởi vị ấy; vì thế vị ấy không run sợ ở những lời (buộc tội).

859. Phàm phu có buộc tội,
Hoặc Sa-môn, Phạm chí,
Vị ấy không quan tâm,
Trong lời nói không động,

864. Vītagedho amaccharī na ussesu vadate muni,
na samesu na omesu kappaṃ neti akappiyo.

864. Có sự thèm khát đã được xa lìa, không bỏn xẻn, bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ưu việt, không trong số những người ngang bằng, không trong số những người thấp kém, là vị không bị sắp đặt, không đi đến sự sắp đặt (bởi tham ái và tà kiến).

860. Không tham, không xan lẫn,
Ẩn sĩ không nói cao,
Không nói bằng, nói thấp,
Không đi đến thời kiếp,
Vì vị ấy vượt khỏi,
Sự chi phối thời kiếp.

865. Yassa loke sakaṃ natthi asatā ca na socati,
dhammesu ca na gacchati sa ve santoti vuccatīti.
 

865. Đối với vị nào, vật sở hữu ở thế gian là không có, vị không sầu muộn do tình trạng không có, và không đi đến (sự lầm lẫn) trong mọi pháp; thật vậy vị ấy được gọi là ‘bậc an tịnh.’”

861. Ai không có vật gì,
Không có, không sầu muộn,
Không đi đến các pháp,
Vị ấy gọi an tịnh.

 

Purābhedasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Trước Khi Hoại Rã.

 

 

 

   

 

11. KALAHAVIVĀDASUTTAṂ

 

 

11. KINH CÃI CỌ VÀ TRANH CÃI

 

(XI) KINH TRANH LUẬN

866. Kuto pahūtā kalahā vivādā
paridevasokā sahamaccharā ca,
mānātimānā sahapesunā ca
kuto pahūtā te tadiṅgha brūhi.

866. “Từ đâu khởi sanh các sự cãi cọ, các sự tranh cãi,
các sự than vãn, các nỗi sầu muộn, và thêm các sự bỏn xẻn,
các sự ngã mạn, và ngã mạn thái quá, rồi thêm các việc nói đâm thọc?
Từ đâu chúng khởi sanh? Nào, xin Ngài hãy nói về điều ấy.”

Người hỏi:

862. Từ đâu được khởi lên,
Các tranh luận, đấu tranh,
Than van và sầu muộn,
Cùng với tánh xan tham,
Mạn và tăng thượng mạn,
Kể cả với hai lưỡi,
Từ đâu chúng sanh nhiều,
Mong Ngài hãy nói lên.

867. Piyā pahūtā kalahā vivādā
paridevasokā sahamaccharā ca,
mānātimānā sahapesunā1 ca
macchiriyayuttā kalahā vivādā
vivādajātesu ca pesunāni.

867. “Từ vật được yêu thương, khởi sanh các sự cãi cọ, các sự tranh cãi,
các sự than vãn, các nỗi sầu muộn, và thêm các sự bỏn xẻn,
các sự ngã mạn, và ngã mạn thái quá, rồi thêm các việc nói đâm thọc.
Các sự cãi cọ, các sự tranh cãi là có liên quan đến sự bỏn xẻn.
Và ở các cuộc tranh cãi đã được sanh ra, có các việc nói đâm thọc.”

Thế Tôn:

863. Từ ái sanh khởi nhiều,
Các tranh luận, đấu tranh
Than van và sầu muộn,
Cùng với tánh xan tham,
Mạn và tăng thượng mạn,
Kể cả với hai lưỡi,
Các tranh luận, đấu tranh,
Ðều liên hệ xan tham,
Những lời nói hai lưỡi,
Khởi lên từ tranh luận.

868. Piyāsu lokasmiṃ kutonidānā
ye cāpi lobhā vicaranti loke,
āsā ca niṭṭhā ca kutonidānā
ye samparāyāya narassa honti.
 

868. “Vậy các vật được yêu thương ở thế gian có căn nguyên từ đâu, và cũng do tham chúng (loài người) sống ở thế gian? Mong mỏi và sự thành tựu (của mong mỏi),―(nhân) đưa đến đời sống kế tiếp của con người,―có căn nguyên từ đâu?”

Người hỏi:

864. Do những nhân duyên nào,
Khả ái sanh ở đời?
Hay những tham lam nào,
Ðược lưu hành ở đời?
Ước vọng và thành đạt,
Là do nhơn duyên nào?
Khiến loài Người được sanh,
Trong thời gian tương lai?

869. Chandanidānāni piyāni loke
ye cāpi lobhā vicaranti loke,
āsā ca niṭṭhā ca itonidānā
ye samparāyāya narassa honti.

869. “Các vật được yêu thương ở thế gian có mong muốn là căn nguyên, và cũng do tham chúng (loài người) sống ở thế gian. Mong mỏi và sự thành tựu (của mong mỏi),―(nhân) đưa đến đời sống kế tiếp của con người,―có căn nguyên từ đây (sự mong muốn).”

Thế Tôn:

865. Do ước muốn là nhân,
Khả ái sanh ở đời,
Hay với những tham lam,
Ðược lưu hành ở đời,
Ước vọng và thành đạt,
Do ước muốn làm nhân,
Khiến loài Người được sanh,
Trong thời gian tương lai.

870. Chando nu lokasmiṃ kutonidāno
vinicchayā vāpi kuto pahūtā,
kodho mosavajjañca kathaṃkathā ca
ye vāpi dhammā samaṇena vuttā.

870. “Vậy mong muốn ở thế gian có căn nguyên từ đâu?
Hoặc luôn cả các phán đoán được khởi sanh từ đâu?
Sự giận dữ, lời nói giả dối, và sự nghi ngờ,
hoặc luôn cả các pháp nào đã được bậc Sa-môn nói đến?”

Người hỏi:

866. Ước muốn sanh ở đời
Là do nhân duyên nào?
Hay cả những quyết định,
Do nhân nào được sanh?
Phẫn nộ và vọng ngữ,
Cùng với cả nghi hoặc,
Hoặc là những pháp nào,
Ðược Sa-môn nói đến?

871. Sātaṃ asātanti yamāhu loke
tamupanissāya pahoti chando,
rūpesu disvā vibhavaṃ bhavañca
vinicchayaṃ kurute jantu loke.

871. “‘Khoái lạc, không khoái lạc’ là điều người ở thế gian đã nói;
nương tựa vào điều ấy, mong muốn khởi sanh.
Sau khi nhìn thấy sự biến mất và sự hình thành ở các sắc,
con người ở thế gian tiến hành sự phán đoán.

Thế Tôn:

867. Khả ý, bất khả ý,
Ðược gọi vậy ở đời,
Do y chỉ nơi chúng,
Ước muốn được sanh khởi.
Sau khi thấy trong sắc,
Cả hữu và phi hữu,
Chúng sanh mới làm được,
Những quyết định ở đời.

872. Kodho mosavajjañca kathaṃkathā ca
etepi dhammā dvayameva sante,
kathaṃkathī ñāṇapathāya sikkhe
ñatvā pavuttā samaṇena dhammā.

872. Sự giận dữ, lời nói giả dối, và sự nghi ngờ,
các pháp này (sanh lên) trong khi cặp đôi có mặt.
Kẻ có sự nghi ngờ nên học tập theo lộ trình của trí.
Các pháp đã được bậc Sa-môn nói lên sau khi Ngài đã biết.”
 

868. Phẫn nộ và vọng ngữ,
Cùng với cả nghi hoặc,
Những pháp này lưu hành,
Khi pháp đôi có mặt,
Kẻ nghi hãy học tập,
Trên con đường chánh trí,
Sau khi biết các pháp,
Do Sa-môn thuyết giảng.

873. Sātaṃ asātañca kutonidānā
kismiṃ asante na bhavanti hete,
vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthaṃ
etaṃ me pabrūhi yatonidānaṃ.

873. “Khoái lạc và không khoái lạc có căn nguyên từ đâu?
Khi cái gì không có mặt, thì hai pháp này không có mặt?
Về sự biến mất và sự hình thành, điều nào là ý nghĩa,
xin ngài hãy nói cho tôi điều ấy có căn nguyên từ đâu?

Người hỏi:

869. Khả ý, bất khả ý,
Là do nhân duyên nào,
Do cái gì không có,
Họ không có hiện hữu.
Còn về ý nghĩa này,
Về phi hữu và hữu,
Hãy nói cho chúng con,
Nguyên nhân gì chúng sanh?

874. Phassanidānaṃ sātaṃ asātaṃ
phasse asante na bhavanti hete,
vibhavaṃ bhavañcāpi yametamatthaṃ
etaṃ te pabrūmi itonidānaṃ.

874. “Khoái lạc và không khoái lạc có xúc là căn nguyên.
Khi xúc không có mặt, hai pháp này không có mặt.
Về sự biến mất và sự hình thành, điều nào là ý nghĩa,
Ta nói cho ngươi điều ấy có căn nguyên từ đây.”

Thế Tôn:

870. Do nhân duyên cảm xúc,
Khả ý, bất khả ý,
Nếu không có cảm xúc,
Họ cũng không hiện hữu,
Còn về ý nghĩa này,
Về phi hữu và hữu,
Ta nói cho Ông rõ,
Nguyên nhân này, chúng sanh.

875. Phasso nu lokasmiṃ kutonidāno
pariggahā cāpi kuto pahūtā,
kismiṃ asante na mamattamatthi
kismiṃ vibhūte na phusanti phassā.

875. “Vậy xúc ở thế gian có căn nguyên từ đâu?
Và các sự bám giữ được khởi sanh từ đâu?
Khi cái gì không có mặt, thì không có trạng thái chấp là của tôi?
Khi cái gì bị biến mất, thì các xúc không xúc chạm?”

Người hỏi:

871. Còn cảm xúc ở đời,
Do nhân gì sanh khởi,
Hay các loại chấp thủ,
Do từ đâu sanh nhiều,
Do cái gì không có,
Ngã sở hữu không có,
Cái gì không hiện hữu,
Khiến không có cảm xúc?

876. Nāmañca rūpañca paṭicca phassā
icchānidānāni pariggahāni,
icchāya ’santyā na mamattamatthi
rūpe vibhūte na phusanti phassā.

876. “Các xúc tùy thuộc vào danh và sắc.
Và các sự bám giữ có ước muốn là căn nguyên.
Khi ước muốn không có mặt thì không có trạng thái chấp là của tôi.
Khi sắc bị biến mất, thì các xúc không xúc chạm.”

Thế Tôn:

872. Do duyên danh và sắc,
Nên có các cảm xúc,
Do nhân các ước muốn,
Nên có những chấp thủ,
Nếu ước muốn không có,
Ngã sở hữu cũng không,
Do sắc không hiện hữu,
Khiến không có cảm xúc.

877. Kathaṃ sametassa vibhoti rūpaṃ
sukhaṃ dukhaṃ vāpi kathaṃ vibhoti,
etaṃ me brūhi yathā vibhoti
taṃ jānissāma iti me mano ahū.

877. “Đối với vị đã thành đạt thế nào thì sắc biến mất?
Hạnh phúc hoặc luôn cả khổ đau biến mất thế nào?
Xin ngài hãy nói cho tôi việc ấy biến mất ra sao,
‘chúng tôi nên biết điều ấy,’ ý nghĩ của tôi đã là thế ấy.”

Người hỏi:

873. Sở hành như thế nào,
Sắc pháp không hiện hữu,
An lạc và khổ đau,
Thế nào không có mặt,
Hãy nói lên cho con,
Không có như thế nào,
Chúng con muốn được biết,
Tâm ý con nói vậy.

878. Na saññasaññī na visaññasaññī
nopi asaññī na vibhūtasaññī,
evaṃ sametassa vibhoti rūpaṃ
saññānidānā hi papañcasaṅkhā.

878. “Không phải là có tưởng ở tưởng, không phải là có tưởng ở tưởng sai lệch, cũng không phải là không có tưởng, không phải là có tưởng bị biến mất; đối với vị đã thành đạt như vậy thì sắc biến mất, bởi vì cái gọi là vọng tưởng có tưởng là căn nguyên.”

Thế Tôn:

874. Không có tưởng các tưởng,
Không có tưởng vô tưởng,
Phi tưởng cũng không có,
Vô hữu tưởng cũng không.
Do sở hành như vậy,
Sắc pháp không hiện hữu,
Do nhân duyên các tưởng,
Hý luận được hình thành
.

879. Yaṃ taṃ apucchimha akittayi no
aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhi,
ettāvataggaṃ nu vadanti heke
yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se
udāhu aññampi vadanti etto.

879. “Điều mà chúng tôi đã hỏi ngài, ngài đã trả lời chúng tôi. Chúng tôi hỏi ngài điều khác. Nào, xin Ngài hãy nói về điều ấy. Có phải một số bậc sáng suốt ở nơi đây nói rằng sự trong sạch của chúng sanh đến chừng này là cao nhất, hay là họ còn nói về điều khác so với điều này?”

Người hỏi:

875. Ngài đã nói chúng con,
Những điều chúng con hỏi,
Có điều nữa hỏi Ngài,
Mong Ngài trả lời cho,
Bậc Hiền trí nói rằng,
Như thế này tối thượng,
Nghĩa là ở đời này,
Sự thanh tịnh Dạ-xoa
Hay là chúng muốn nói,
Có điều gì khác nữa?

880. Ettāvataggampi vadanti heke
yakkhassa suddhiṃ idha paṇḍitā se,
tesaṃ paneke samayaṃ vadanti
anupādisese kusalā vadānā.

880. “Một số bậc sáng suốt ở nơi đây nói rằng sự trong sạch của chúng sanh chỉ đến chừng này là cao nhất. Trái lại, một số trong số đó nói về sự tịch diệt (đoạn kiến), tuyên bố là thiện xảo về trạng thái không còn dư sót.”
 

Thế Tôn:

876. Bậc Hiền trí nói rằng,
Như thế là tối thượng,
Nghĩa là ở đời này,
Sự thanh tịnh Dạ-xoa,
Như có người nói rằng,
Chính là sự hoại diệt,
Lại một số thiện nhân,
Nói rằng: "Không dư y".

881. Ete ca ñatvā upanissitāti
ñatvā munī nissaye so vimaṃsī,
ñatvā vimutto na vivādameti
bhavābhavāya na sameti dhīroti.

881. Và sau khi nhận biết những người này là ‘những kẻ nương tựa,’
sau khi nhận biết, bậc hiền trí ấy có sự cân nhắc về các sự nương tựa,
sau khi nhận biết, bậc đã được giải thoát không đi đến tranh cãi,
bậc sáng trí không đi đến tái sanh ở hữu và phi hữu.”
 

877. Biết được những pháp ấy,
Ðều nương tựa y chỉ,
Biết vậy bậc ẩn sĩ,
Suy tư trên y chỉ,
Biết được, nên giải thoát,
Không đi đến tranh luận,
Bậc Hiền không tìm đến,
Cả hữu và phi hữu.

 

Kalahavivādasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Cãi Cọ và Tranh Cãi.

 

 

 

   

 

12. CŪḶAVIYŪHASUTTAṂ

 

12. KINH SỰ DÀN TRẬN NHỎ

 

(XII) NHỮNG VẤN ĐỀ NHỎ BÉ

882. Sakaṃ sakaṃ diṭṭhiparibbasānā
viggayha nānā kusalā vadanti,
yo evaṃ jānāti sa vedi dhammaṃ
idaṃ paṭikkosamakevalī so.

882. “Trong khi sống theo quan điểm của chính mình, nhiều vị khác nhau (tự xưng là) thiện xảo, giữ khư khư (quan điểm của mình), nói rằng: ‘Người nào biết như vầy, người ấy hiểu biết pháp. Kẻ khinh miệt điều này, kẻ ấy là không toàn hảo.’

Người hỏi:

878. Mỗi người tự thiên chấp,
Về tri kiến của mình,
Do chấp thủ sai biệt,
Bậc thiện xảo nói lên,
Ai biết như thế này,
Vị ấy biết được pháp,
Ai chỉ trích điểm này,
Vị ấy không hoàn toàn.

883. Evampi viggayha vivādiyanti
bālo paro akkusaloti cāhu,
sacco nu vādo katamo imesaṃ
sabbeva hime kusalāvadānā.

883. Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi, và đã nói rằng: ‘Người khác là ngu si, không thiện xảo.’ Vậy thì lời nói nào trong số này là sự thật, bởi vì tất cả những người này đều tuyên bố (họ) là thiện xảo?”

879. Do chấp thủ như vậy,
Họ tranh luận với nhau,
Họ nói kẻ khác ngu.
Không có khéo thiện xảo.
Trong những lời nói này,
Lời nói ai chân thật,
Hay tất cả vị này,
Là những bậc khéo nói?

884. Parassa ce dhammamanānujānaṃ
bālo mago hoti nihīnapañño,
sabbeva bālā sunihīnapaññā
sabbevime diṭṭhiparibbasānā.
 

884. “Nếu không thừa nhận pháp của người khác,
(kẻ ấy) là ngu si, là loài thú, có tuệ thấp kém,
tất cả quả là những kẻ ngu si, có tuệ vô cùng thấp kém,
tất cả những người này quả đang sống theo quan điểm (của mình).

Thế Tôn:

880. Nếu không có chấp thuận,
Pháp của các người khác,
Nói kẻ khác là ngu,
Tuệ như vậy thấp kém.
Tất cả là ngu si,
Có tuệ thật thấp kém.
Tất cả tri kiến này.
Ðều chỉ là thiên chấp.

885. Sandiṭṭhiyā ceva na cevadātā
sa suddhapaññā kusalā mutīmā,
na tesaṃ koci parihīnapañño
diṭṭhi hi tesampi tathā samattā.

885. Và nếu do quan điểm của mình, những kẻ không trong sạch
trở nên có tuệ thanh tịnh, thiện xảo, có sự nhận thức,
không ai trong số họ là có tuệ hoàn toàn thấp kém,
bởi vì quan điểm của họ cũng đã đạt đến bản thể thật.

 

881. Nếu các cuộc tranh luận,
Ðược tri kiến gạn lọc,
Trí tuệ được thanh tịnh,
Thiện xảo trí sáng suốt,
Họ không có một ai,
Là trí tuệ hạ liệt,
Và tri kiến của họ,
Ðược hoàn toàn viên mãn.

886. Na cāham etaṃ tathīyanti brūmi
yamāhu bālā mithu aññamaññaṃ,
sakaṃ sakaṃ diṭṭhimakaṃsu saccaṃ
tasmā hi bāloti paraṃ dahanti.

886. Nhưng Ta không nói rằng: ‘Điều ấy là bản thể thật,’
là điều mà các kẻ ngu đã nói đối chọi lẫn nhau.
Họ đã tạo lập quan điểm của chính mình là chân lý,
chính vì điều ấy, họ đã xem người khác là ‘kẻ ngu si.’”

882. Ta không có nói rằng:
"Ðây chính là sự thật".
Các người ngu với nhau,
Cùng nhau nói như vậy,
Với tri kiến tự mình,
Họ nói là chân thật,
Do vậy các người khác,
Ðược họ xem là ngu.

887. Yamāhu saccaṃ tathiyanti eke
tamāhu aññe tucchaṃ musāti,
evampi viggayha vivādiyanti
tasmā na ekaṃ samaṇā vadanti.

887. “Điều mà một số kẻ đã nói: ‘Là sự thật, là bản thể thật,’
những kẻ khác đã nói điều ấy ‘Là rỗng không, là sai trái.’
Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, họ tranh cãi.
Vì sao các vị Sa-môn nói không đồng nhất?”

Người hỏi:

883. Một số người nói rằng:
"Ðây mới là sự thật"
Họ nói các người khác,
Là trống không, giả dối,
Do chấp thủ như vậy,
Họ tranh luận đấu tranh,
Vì sao bậc Sa-môn,
Không cùng nói một lời?

888. Ekaṃ hi saccaṃ na dutiyamatthi
yasmiṃ pajā no vivade pajānaṃ,
nānā te saccāni sayaṃ thunanti
tasmā na ekaṃ samaṇā vadanti.
 

888. “Bởi vì Sự Thật chỉ có một, không có cái thứ nhì,
trong khi nhận biết về Sự Thật ấy, chúng sanh sẽ không tranh cãi.
Chúng tự mình nói về các sự thật khác nhau;
vì thế, các vị Sa-môn nói không đồng nhất.”

Thế Tôn:

884. Sự thật chỉ có một,
Không sự thật thứ hai,
Người hiểu biết tranh luận,
Với người có hiểu biết,
Nhưng chân thật họ khen,
Chỉ sự thật của họ,
Do vậy bậc Sa-môn,
Không cùng nói một lời.

889. Kasmā nu saccāni vadanti nānā
pavādiyā se kusalā vadānā,
saccāni sutāni bahūni nānā
udāhu te takkamanussaranti.

889. “Nhưng vì sao họ—những nhà biện luận tuyên bố (mình) là thiện xảo—lại nói về các sự thật khác nhau? Phải chăng các sự thật đã được nghe là có nhiều và khác nhau? Hay là các vị ấy theo đuổi sự suy tư (của riêng mình)?”

Người hỏi:

885. Vì sao họ nói lên,
Những chân thật sai khác,
Vì sao bậc thiện xảo,
Lại nói lời tranh luận,
Nếu các sự thật ấy,
Là nhiều và sai biệt,
Hay họ chỉ nhớ đến,
Những suy luận của họ.

890. Na heva saccāni bahūni nānā
aññatra saññāya niccāni loke,
takkañca diṭṭhīsu pakappayitvā
saccaṃ musāti dvayadhammamāhu.
 

890. “Đương nhiên là không có nhiều sự thật khác nhau và thường còn ở thế gian, ngoại trừ (các sự thật) do tưởng (tạo ra). Và sau khi xếp dặt sự suy tư về các quan điểm (do chúng tạo ra), chúng đã nói về hai pháp là: ‘Đúng và sai.’

Thế Tôn:

886. Thật sự các sự thật,
Không có nhiều sai biệt,
Từ các luồng tư tưởng,
Về thường còn ở đời,
Do họ suy nghĩ đến,
Tư tưởng các tri kiến,
Họ nói có hai pháp,
Sự thật và giả dối.

891. Diṭṭhe sute sīlavate mute vā
ete ca nissāya vimānadassī,
vinicchaye ṭhatvā pahassamāno
bālo paro akkusaloti cāha.
 

891. Liên quan đến điều đã được thấy, đến điều đã được nghe, đến giới và phận sự, hoặc đến điều đã được cảm giác, sau khi nương tựa vào các điều này, rồi có sự coi khinh (người khác), sau khi đứng vững ở các phán đoán, trong lúc hớn hở, (kẻ ấy) đã nói rằng: ‘Người khác là ngu si, là không thiện xảo.’

887. Các pháp được thấy nghe,
Ðược giữ giới, thọ tưởng,
Họ y cứ pháp này,
Họ suy tư, nhìn thấy,
An trú các quyết định,
Họ chê cười người khác,
Họ nói các người khác,
Là ngu si bất thiện.

892. Yeneva bāloti paraṃ dahāti
tenātumānaṃ kusaloti cāha,
sayamattanā so kusalāvadāno
aññaṃ vimāneti tatheva pāvā.

892. Bởi chính lý do nào mà kẻ ấy xem người khác là ‘ngu si,’
thì bởi lý do ấy kẻ ấy đã nói về bản thân là ‘thiện xảo.’
Kẻ ấy, trong khi tự mình tuyên bố chính mình là thiện xảo,
rồi khinh chê người khác, và đã phát biểu y như thế.


 

888. Vì rằng đối người khác,
Nó xem là ngu si,
Tự mình gọi chính mình,
Là thiện xảo tốt đẹp,
Do chính mình khen mình,
Vị ấy gọi thiện xảo,
Khinh thường các người khác,
Lời người ấy là vậy.

893. Atisāradiṭṭhiyā so samatto
mānena matto paripuṇṇamānī,
sayameva sāmaṃ manasābhisitto
diṭṭhīhi sā tassa tathā samattā.

893. Với quan điểm vượt quá giới hạn, kẻ ấy được thỏa mãn,
bị say đắm vì ngã mạn, có sự tự cao là toàn thiện,
rồi bằng tâm ý, tự mình đăng quang cho chính mình;
quan điểm ấy của kẻ ấy đã được tiếp nhận như thế.

889. Vị ấy quá say mê,
Với tri kiến của mình,
Nên trở thành kiêu mạn,
Viên mãn tự ý mình,
Tự mình với tâm ý,
Làm lễ quán đảnh mình,
Do vậy, bị say mê,
Trong tri kiến của mình.

894. Parassa ce hi vacasā nihīno
tumo sahā hoti nihīnapañño,
atha ce sayaṃ vedagū hoti dhīro
na koci bālo samaṇesu atthi.

894. Bởi vì, nếu do lời nói của kẻ khác mà trở thành thấp kém,
thì bản thân, do điều ấy, (cũng) trở thành có tuệ thấp kém.
Còn nếu do (lời nói) của mình mà trở thành người thông hiểu, sáng trí,
thì không có bất cứ người nào là kẻ ngu trong số các vị Sa-môn.

890. Nếu người khác nói rằng:
Nó là hạng hạ liệt.
Như vậy đối tự mình,
Kẻ kia cũng liệt tuệ,
Nếu tự nó sáng suốt,
Bậc Hiền trí hiểu biết,
Không có ai ngu si,
Giữa các bậc Sa-môn.

895. Aññaṃ ito yābhivadanti dhammaṃ
aparaddhā suddhimakevali te,
evampi tithyā puthuso vadanti
sandiṭṭhirāgena hi tebhirattā.
 

895. Những kẻ nào thuyết về pháp nào khác so với điều này,
những kẻ ấy bị thất bại về (đạo lộ) trong sạch, họ không toàn hảo.
Các kẻ ngoại đạo cũng nói như vậy theo kiểu cách riêng,
bởi vì họ bị nhiễm nặng do sự luyến ái với quan điểm của mình.

891. Những ai tuyên bố pháp,
Sai khác với pháp này,
Ði ngược lại thanh tịnh,
Không là người hoàn toàn,
Như vậy các ngoại đạo,
Tuyên bố thật rộng rãi,
Do lòng tham tri kiến,
Họ quá sức đam mê.

896. Idheva suddhiṃ itivādiyanti
nāññesu dhammesu visuddhimāhu,
evampi titthyā puthuso niviṭṭhā
sakāyane tattha daḷhaṃ vadānā.

896. ‘Chỉ nơi đây có sự trong sạch,’ họ nói như thế ấy.
Họ đã nói sự thanh tịnh không có ở các giáo pháp khác.
Các kẻ ngoại đạo cũng đã gầy dựng như vậy theo kiểu cách riêng
về đường lối của họ, trong khi nói một cách khẳng khái về điều ấy.

892. Những ai tuyên bố rằng,
Chính đây là thanh tịnh,
Họ nói không thanh tịnh,
Trong các pháp sai khác.
Như vậy các ngoại đạo,
An trú thật rộng rãi,
Họ kiên trì tuyên bố,
Con đường riêng của mình.

897. Sakāyane cāpi daḷhaṃ vadāno
kamettha bāloti paraṃ daheyya,
sayameva so medhagaṃ āvaheyya
paraṃ vadaṃ bālamasuddhidhammaṃ.

897. Và trong khi nói một cách khẳng khái về đường lối của họ,
người nào khác ở đây mà kẻ ấy có thể xem là ‘ngu si’?
Kẻ ấy tự chính mình đem lại sự gây gỗ,
trong khi nói kẻ khác là ngu si, là có pháp không trong sạch.

893. Ai kiên trì tuyên bố,
Con đường riêng của mình,
Sao ở đây có thể,
Nói người khác là ngu?
Vị ấy tự chê mình,
Ðem lại tiếng liệt tuệ,
Người khác nói nói ngu,
Không được pháp thanh tịnh.

898. Vinicchaye ṭhatvā sayaṃ pamāya
uddhaṃ so lokasmiṃ vivādameti,
hitvāna sabbāni vinicchayāni
na medhagaṃ kurute jantu loketi.

898. Sau khi đứng vững ở sự phán đoán, sau khi ước lượng bản thân,
kẻ ấy đi đến sự tranh cãi ở thế gian nhiều hơn.
Sau khi từ bỏ tất cả các sự phán đoán,
con người không tạo ra sự gây gỗ ở thế gian.”

894. An trú trên quyết định,
Tự mình lượng sức người
Vị ấy ở trên đời,
Chỉ tăng thêm tranh luận,
Ai từ bỏ tất cả,
Mọi quyết định, chủ trương,
Không bị người ở đời,
Chê là kẻ liệt tuệ
.

 

Cūḷaviyūhasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Sự Dàn Trận Nhỏ.

 

 
   

 

13. MAHĀVIYŪHASUTTAṂ

 

 

13. KINH SỰ DÀN TRẬN LỚN

 

 

(XIII) NHỮNG VẤN ĐỀ TO LỚN

899. Ye kecime diṭṭhi paribbasānā
idameva saccanti vivādayanti,
sabbeva te nindamanvānayanti
atho pasaṃsampi labhanti tattha.

899. “Bất cứ những người nào, trong khi sống theo quan điểm (riêng của cá nhân), tranh cãi rằng: ‘Chỉ điều này là chân lý,’ có phải tất cả những người ấy đều mang lại sự chê trách, hay họ cũng đạt được sự khen ngợi về việc ấy?”

Người hỏi:

895. Với những ai thiên vị,
Ðối với những tri kiến này,
Chỉ đây là sự thật,
Họ cãi cọ tranh luận,
Tất cả những người ấy,
Ðem lại sự chỉ trích,
Hay chính tại ở đây,
Họ được lời tán thán?

900. Appaṃ hi etaṃ na alaṃ samāya
duve vivādassa phalāni brūmi,
evampi disvā na vivādayetha
khemābhipassaṃ avivādabhūmiṃ.

900. “Bởi vì việc (ca ngợi) này là nhỏ nhoi, không đủ để đưa đến sự yên lặng. Ta nói đến hai kết quả của sự tranh cãi.[1] Và sau khi nhìn thấy như vậy, thì không nên tạo ra sự tranh cãi, trong khi nhận thấy vùng đất không tranh cãi là an toàn (Niết Bàn).


[1] khen chê, thắng thua, v.v... (SnA. ii, 557).

Thế Tôn:

896. Ðây chỉ là nhỏ bé,
Không đủ đem an tịnh,
Ta nói về hai quả
Của các loại đấu tranh.
Sau khi thấy như vậy,
Chớ có nên tranh luận,
Nên thấy rằng an ổn,
Không phải đất tranh luận.

901. Yā kācimā sammutiyo puthujjā
sabbā ’va etā na upeti vidvā,
anūpayo so upayaṃ kimeyya
diṭṭhe sute khantimakubbamāno.

901. Bất cứ những thỏa thuận chung nào được sanh lên từ số đông, bậc đã hiểu biết không tiếp cận tất cả những điều ấy. Trong khi không thể hiện sự chấp nhận ở điều đã được thấy, ở điều đã được nghe, vị ấy, không có sự vướng bận, tại sao lại đi đến với sự vướng bận?

 

 

 

897. Phàm những thế tục này,
Ðược sanh giữa phàm phu,
Bậc trí không dựa vào,
Tất cả thế tục này,
Ðã không có quan tâm,
Sao nay tìm quan tâm,
Sao có thể kham nhẫn,
Với vật được thấy nghe.

902. Sīluttamā saññamenāhu suddhiṃ
vataṃ samādāya upaṭṭhitā se,
idh' eva sikkhema athassa suddhiṃ
bhavūpanītā kusalā vadānā.

902. Những kẻ chủ trương giới là tối thượng đã nói sự trong sạch là do sự tự chế ngự. Sau khi thọ trì phận sự, họ duy trì (nghĩ rằng): ‘Chúng ta hãy học tập ở lãnh vực này thôi, rồi sẽ có sự trong sạch;’ họ bị dẫn đến hữu trong khi tuyên bố (mình) là thiện xảo.

 

898. Bậc xem giới tối thượng,
Nói tịnh nhờ chế ngự,
Chấp thủ giới cấm xong,
Họ an trú như vậy.
Ở đây họ tu tập,
Do đây được thanh tịnh,
Họ chỉ khéo nói năng,
Họ bị hữu dắt dẫn.

903. Sace cuto sīlavatato hoti
sa vedhatī kammaṃ virādhayitvā,
sa jappatī patthayatīdha suddhiṃ
satthā va hīno pavasaṃ gharamhā.

903. Nếu bị hư hỏng về giới và phận sự,
kẻ ấy run rẩy sau khi thất bại về hành động,
kẻ ấy tham muốn, ước nguyện sự trong sạch ở nơi này,
ví như người bị bỏ lại bởi đoàn xe trong khi sống xa nhà.
 

899. Nếu có ai vi phạm,
Giới hạnh và giới cấm,
Người ấy sẽ run sợ,
Vì sở hành khiếm khuyết.
Ở đây người ấy than,
Cố gắng được thanh tịnh,
Như lữ hành lạc đoàn,
Như kẻ bỏ gia đình.

904. Sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ
kammañca sāvajjanavajjametaṃ,
suddhiṃ asuddhinti apatthayāno
virato care santimanuggahāya.

904. Hoặc là sau khi đã dứt bỏ tất cả giới và phận sự,
cùng hành động có tội hoặc không có tội ấy,
trong khi không ước nguyện về ‘sự trong sạch hay không trong sạch,’
đã lìa bỏ, vị ấy sống, không nắm bắt sự an tịnh (do tà kiến).
 

900. Ðối với giới cấm thủ,
Sau khi đoạn tất cả,
Cùng với các sở hành,
Có tội,không có tội,
Không còn có cố gắng,
Thanh tịnh, không thanh tịnh,
Hãy sống hạnh viễn ly,
Không chấp thủ an tịnh.

905. Tamūpanissāya jigucchitaṃ vā
athavāpi diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā,
uddhaṃsarā suddhimanutthunanti
avītataṇhā se bhavābhavesu.


 

905. Sau khi nương tựa vào điều đã bị chán ghét ấy (khổ hạnh),

hoặc vào điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác,

những kẻ chủ trương luân hồi hướng thượng[1] nói về sự trong sạch,

chúng chưa xa lìa tham ái ở hữu và phi hữu.


[1] uddhaṃsarā: những vị này có quan điểm không hành động (SnA. ii, 558). Mahāniddesa cho biết có bốn hạng thuyết về uddhaṃsarā và giải thích rằng những vị này chủ trương sự trong sạch đạt được thông qua tái sanh luân hồi (Nidd. i, 315; TTPV tập 35, trang 431).

 

901. Người y chỉ khổ hạnh,
Người y chỉ nhàm chán,
Kẻ dựa vào nghe thấy,
Hay dựa vào thọ tưởng,
Họ là hạng nói lớn,
Tán thán sự thanh tịnh,
Chưa đoạn được tham ái,
Ðối với hữu, phi hữu.

906. Patthayamānassa hi jappitāni
pavedhitaṃ vāpi pakappitesu,
cutūpapāto idha yassa natthi
sa kena vedheyya kuhiṃva jappe.

906. Bởi vì đối với những người đang ước nguyện, các sự tham muốn
hoặc sự run sợ về các điều đã được (họ) xếp dặt.
Ở đây, đối với vị nào tử và sanh là không có,
vị ấy có thế run rẩy vì cái gì, có thể tham muốn về cái gì?
 

902. Với ai có nỗ lực,
Cầu mong và ham muốn,
Họ mới phải run sợ,
Với những kiến của mình,
Với những ai ở đời,
Không có sanh và chết,
Do gì, khiến họ sợ,
Họ tham vọng cái gì?

907. Yamāhu dhammaṃ paramanti eke
tameva hīnanti panāhu aññe,
sacco nu vādo katamo imesaṃ
sabbeva h’ ime kusalā vadānā.


907. Pháp nào mà một số vị đã nói là ‘tối cao,’
trái lại, những vị khác đã nói về chính pháp ấy là ‘thấp kém;’
vậy trong số những vị này, lời nói nào là sự thật,
bởi vì tất cả các vị này đều tuyên bố (mình) là thiện xảo?

Người hỏi:

903. Có những người tuyên bố,
Pháp này là tối thượng,
Nhưng người khác lại nói,
Pháp ấy là hạ liệt.
Ai nói lời chân thật,
Giữa hai hạng người này,
Hay tất cả hạng này,
Ðều là hạng khéo nói?

908. Sakaṃ hi dhammaṃ paripuṇṇamāhu
aññassa dhammaṃ pana hīnamāhu,
evampi viggayha vivādayanti
sakaṃ sakaṃ sammutimāhu saccaṃ.

908. Bởi vì họ đã tuyên bố pháp của chính mình là hoàn hảo,
hơn nữa, họ đã tuyên bố pháp của người khác là thấp kém.
Sau khi giữ khư khư (quan điểm của mình) như vậy, chúng tranh cãi,
và đã tuyên bố quan điểm riêng của từng cá nhân là sự thật.
 

904. Với pháp tự của mình,
Nói pháp này viên mãn
Chỉ trích pháp người khác,
Là thấp kém hạ liệt,
Do chấp thủ như vậy,
Họ luận tranh đấu tranh,
Mọi thế tục tự mình,
Họ nói là chân thật.

909. Parassa ce vambhayitena hīno
na koci dhammesu visesi assa,
puthū hi aññassa vadanti dhammaṃ
nihīnato samhi daḷhaṃ vadānā.

909. Nếu là thấp kém do việc bị khinh miệt của người khác,
thì không có pháp nào là đặc biệt trong số các pháp,
bởi vì số đông tuyên bố pháp của người khác
là thấp hèn, trong khi nói một cách chắc chắn về (pháp) của mình.

Thế Tôn:

905. Nếu có bị người khác,
Khinh rẻ là hạ liệt,
Như vậy giữa các pháp,
Không gì thù thắng sao?
Kẻ phàm phu nói rằng
Pháp người khác hạ liệt,
Cương quyết tự đề cao,
Pháp mình không hạ liệt.

910. Sadhammapūjā ca panā tatheva
yathā pasaṃsanti sakāyanāni,
sabbeva vādā tathiyā bhaveyyuṃ
sudhī hi tesaṃ paccattameva.

910. Họ ngợi khen đường lối của chính mình như thế nào,
thì việc cúng dường đến học thuyết của họ sẽ là y như vậy.
Tất cả các học thuyết có thể là đúng đắn,
bởi vì sự trong sạch của họ chỉ liên quan đến cá nhân.

906. Như mọi người tôn thờ,
Chánh pháp của tự mình,
Giống như họ tán thán,
Mọi sở hành bản thân,
Tất cả những lời nói
Trở thành lời chân thật,
Sự thanh tịnh đối họ,
Tự mỗi người tác thành.

911. Na brāhmaṇassa paraneyyamatthi
dhammesu niccheyya samuggahītaṃ,
tasmā vivādāni upātivatto
na hi seṭṭhato passati dhammamaññaṃ.

911. Sau khi suy xét về điều đã được ôm giữ trong số các pháp (tà kiến), đối với vị Bà-la-môn, không có việc bị dẫn dắt bởi người khác. Do điều ấy, vị Bà-la-môn vượt lên trên các sự tranh cãi, bởi vì vị Bà-la-môn nhìn thấy học thuyết khác là không tối thắng.

907. Với người Bà-la-môn,
Không người khác lãnh đạo,
Sau khi đã nghiên cứu,
Chấp thủ trong các pháp,
Do vậy nên vị ấy
Vượt khỏi các tranh luận,
Không thấy pháp người khác,
Có thể thù thắng hơn.

912. Jānāmi passāmi tatheva etaṃ
diṭṭhiyā eke paccenti suddhiṃ,
addakkhi ce kimhi tumassa tena
atisitvā aññena vadanti suddhiṃ.

 

912. (Nói rằng): ‘Tôi biết, tôi thấy điều ấy chắc chắn là như thế,’
một số tin rằng sự trong sạch là do việc thấy.
Nếu đã nhìn thấy, điều gì có được cho bản thân với việc (thấy) ấy?
Sau khi sai sót, chúng nói về sự trong sạch theo cách khác.


 

908. Họ nói: "Tôi thấy, biết,
Cái này là như vậy".
Họ đi đến quan điểm,
Thanh tịnh nhờ tri kiến,
Vị ấy đã thấy vậy,
Cần gì kiến người khác,
Vượt qua được quan điểm,
Thanh tịnh nhờ pháp khác.

913. Passaṃ naro dakkhiti nāmarūpaṃ
disvāna vā ñassati tāni meva,
kāmaṃ bahuṃ passatu appakaṃ vā
na hi tena suddhiṃ kusalā vadanti.

913. Một người, trong khi nhìn, sẽ nhìn thấy danh và sắc,
hoặc sau khi nhìn thấy thì sẽ biết được mỗi chúng mà thôi.
Hãy để người ấy nhìn nhiều hay ít theo ý thích,
các bậc thiện xảo hẳn nhiên không nói sự trong sạch là do điều ấy.

909. Người có mắt thấy được,
Cả danh và cả sắc,
Sau khi thấy được họ,
Sẽ biết họ là vậy,
Hãy để họ được thấy,
Các dục nhiều hay ít,
Bậc thiện xảo không nói,
Thanh tịnh là nhờ dục.

914. Nivissavādī na hi subbināyo
pakappitaṃ diṭṭhi purekkharāno,
yaṃ nissito tattha subhaṃ vadāno,
suddhiṃ vado tattha tathaddasā so.

914. Trong khi sùng bái quan điểm đã được xếp dặt,
kẻ đã chấp chặt vào học thuyết quả thật không dễ hướng dẫn.
Nương tựa vào cái gì thì nói điều tốt đẹp về cái ấy,
với lời tuyên bố về sự trong sạch, kẻ ấy đã nhìn thấy sự thật ở nơi ấy.

910. Người đã gọi cuồng tín,
Không đưa đến thanh tịnh,
Vì đã có thiên vị,
Với tri kiến tác thành,
Y chỉ nơi cái gì,
Nơi đấy là tinh sạch,
Người tuyên bố thanh tịnh,
Thấy ở đấy như vậy.

915. Na brāhmaṇo kappamupeti saṅkhaṃ
na diṭṭhisārī napi ñāṇabandhu,
ñatvā ca so sammatiyo puthujjā
upekkhati uggaṇhanti maññe.

915. Sau khi cân nhắc, vị Bà-la-môn không tiếp cận sự sắp đặt (của tham ái và tà kiến), không có sự hùa theo quan điểm, cũng không có sự thân thiết với các (thắng) trí. Và sau khi biết các sự đồng thuận được sanh lên từ số đông, vị ấy thản nhiên (nói rằng): ‘Hãy để những kẻ khác tiếp thu.’
 

911. Phạm chí không rơi vào,
Thời gian và ước lượng,
Không theo các tri kiến,
Không bà con với trí,
Biết được các thế tục,
Do phàm phu chấp thủ,
Các người khác học hỏi,
Vị ấy sống hỷ xả.

916. Visajja ganthāni munīdha loke
vivādajātesu na vaggasāri,
santo asantesu upekkhako so
anuggaho uggaṇhantimaññe.

916. Sau khi tháo gở các sự trói buộc ở thế gian này, bậc hiền trí

không hùa theo phe nhóm ở các cuộc tranh cãi đã được sanh lên.

Vị ấy thản nhiên, an tịnh giữa những người không an tịnh,

không tiếp thu, (nói rằng): ‘Hãy để những kẻ khác tiếp thu.’

 

912. Không chấp thủ triền phược,
ẩn sĩ sống ở đời,
Giữa tranh luận khởi lên,
Không theo phe phái nào,
Sống an tịnh, hỷ xả,
Giữa những người không tịnh,
Các người khác học hỏi,
Vị ấy sống không học.

917. Pubbāsave hitvā nave akubbaṃ
na chandagū nopi nivissavādī,
sa vippamutto diṭṭhigatehi dhīro
na lippati loke anattagarahī.

917. Sau khi từ bỏ các lậu hoặc trước đây, không tạo ra những lậu hoặc mới, không là người đi theo sự (tác động của) mong muốn, cũng không phải là kẻ đã chấp chặt vào học thuyết, vị ấy đã được giải thoát khỏi các tà kiến, là bậc sáng trí, không bị nhơ bẩn ở thế gian, không có sự chê trách bản thân.

913. Từ bỏ lậu hoặc cũ,
Không tạo lậu hoặc mới,
Không đi đến ước muốn,
Không cuồng tín chấp thủ,
Vị Hiền trí như vậy,
Thoát khỏi các tà kiến,
Không tham dính ở đời,
Không bị ngã chỉ trích.

918. Sa sabbadhammesu visenibhūto
yaṃ kiñci diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā,
sa pannabhāro muni vippayutto
na kappiyo nūparato na patthiyoti.

 918. Vị ấy là người diệt đạo binh ở tất cả các pháp (tà kiến),

về bất cứ điều gì đã được thấy, đã được nghe, hoặc đã được cảm giác.

Bậc hiền trí ấy có gánh nặng đã đặt xuống, đã được tách riêng,

không chịu sự phân hạng, không phải kiêng chừa, không có ước nguyện.”

 

914. Không có sự thù hằn
Ðối với tất cả pháp,
Phàm có thấy nghe gì,
Cùng với tưởng và thọ,
ẩn sĩ không hệ lụy,
Ðã đặt gánh nặng xuống
Không liên hệ thời gian,
Không chấm dứt, không cầu,
Thế Tôn nói như vậy
.

 

Mahāviyūhasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Sự Dàn Trận Lớn.

 

 

 

 

 

 

 

14. TUVAṬAKASUTTAṂ

 

 

14. KINH MỘT CÁCH NHANH CHÓNG

 

(XIV) KINH TUVATAKA (CON ĐƯỜNG MAU CHÓNG)

 

919. Pucchāmi taṃ ādiccabandhuṃ
vivekaṃ santipadañca mahesiṃ,
kathaṃ disvā nibbāti bhikkhu
anupādiyāno lokasmiṃ kiñci.

919. “Tôi hỏi ngài, đấng quyến thuộc của mặt trời,
bậc đại ẩn sĩ, về sự viễn ly và vị thế an tịnh.
Sau khi nhìn thấy như thế nào, vị tỳ khưu được tịch diệt,
không còn chấp thủ bất cứ cái gì ở trên đời?”

Người hỏi:

915. Con hỏi bậc Ðại tiên,
Bậc bà con mặt trời,
Con đường đến viễn ly,
Con đường đến an tịnh,
Tỷ-kheo sau khi thấy,
Làm thế nào mát lạnh,
Không có sự chấp thủ,
Một vật gì ở đời?

920. Mūlaṃ papañcasaṅkhāya (iti bhagavā)
mantā asmīti sabbamuparundhe,
yā kāci taṇhā ajjhattaṃ
tāsaṃ vinayā sadā sato sikkhe.

920. (Đức Thế Tôn nói)
“Nên chận đứng tất cả gốc rễ của cái được gọi là vọng tưởng: ‘Tôi là’ nhờ vào trí tuệ. Bất cứ những tham ái nào ở nội phần, sau khi dẹp bỏ chúng, nên học tập, luôn luôn có niệm.

Thế Tôn:

916. Thế Tôn đáp như sau:
Hãy chặt đứt hoàn toàn,
Gốc rễ các hý luận,
Mọi tư tưởng "tôi là ",
Tất cả phải chấm dứt,
Phàm có nội ái nào,
Sau khi nhiếp phục chúng,
Thường chánh niệm học tập.

921. Yaṃ kiñci dhammamabhijaññā
ajjhattaṃ athavāpi bahiddhā,
na tena mānaṃ kubbetha
na hi sā nibbuti sataṃ vuttā.
 

921. Bất cứ pháp (đức tính tốt) nào có thể biết rõ
ở nội phần (nơi bản thân) hay là ở ngoại phần (nơi người khác),
không vì điều ấy mà tạo ra sự ngã mạn,
bởi vì điều ấy không được các bậc thiện nhân gọi là sự tịch diệt.
 

917. Phàm có loại pháp gì,
Ðược thắng tri hoàn toàn,
Hoặc thuộc về nội pháp,
Hay thuộc về ngoại pháp,
Chớ có làm kiên trì,
Bất cứ một pháp nào,
Trạng thái ấy không gọi,
Sự mát lạnh của tịnh.

922. Seyyo na tena maññeyya
nīceyyo atha vāpi sarikkho,
phuṭṭho anekarūpehi
nātumānaṃ vikappayaṃ tiṭṭhe.

922. Không nên vì việc (ngã mạn) ấy mà nghĩ rằng (bản thân) là tốt hơn,
kém thua, hoặc thậm chí là tương đương.
Bị tác động bởi nhiều hình thức,
trong khi sắp đặt về bản thân, không nên dừng lại ở điều ấy.

918. Chớ có nghĩ như sau:
Cái kia là tốt hơn,
Ðây là hạ liệt hơn,
Hay đây là ngang bằng,
Do phải bị xúc chạm,
Với các sắc sai biệt,
Hãy chớ để tự mình,
An trú trên vọng tưởng.

923. Ajjhattameva upasame
na aññato bhikkhu santimeseyya,
ajjhattaṃ upasantassa
natthi attā kuto nirattā vā.

923. Nên an tịnh ngay ở nội tâm,
vị tỳ khưu không nên tìm kiếm sự an tịnh từ nơi khác.
Đối với vị đã được an tịnh ở nội tâm,
điều được nắm bắt là không có, từ đâu có điều được buông lơi?

919. Hãy giữ được an tịnh,
Về phía tự nội tâm,
Tỷ-kheo không cầu tìm,
An tịnh từ chỗ khác,
Với người được an tịnh,
Từ phía tự nội tâm,
Ðã không có tự ngã,
Từ đâu có vô ngã.

924. Majjhe yathā samuddassa hoti
ūmi no jāyatī ṭhito hoti,
evaṃ ṭhito anejassa
ussadaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci.

924. Giống như ở giữa biển cả,
là đứng yên, sóng biển không sanh ra,
tương tự như vậy, nên trầm tĩnh, không dục vọng
vị tỳ khưu không nên tạo ra (thái độ) kiêu ngạo ở bất cứ đâu.”

920. Như chính giữa trung ương,
Của biển cả đại dương,
Sóng biển không có sanh,
Biển hoàn toàn đứng lặng,
Cũng vậy, này Tỷ-kheo
Hãy đứng lặng không động,
Không tạo nên bồng bột,
Ðối sự gì ở đời
.

925. Akittayi vivaṭacakkhu
sakkhidhammaṃ parissayavinayaṃ,
paṭipadaṃ vadehi bhaddante
pātimokkhaṃ athavāpi samādhiṃ.

925. “Bậc có mắt được mở ra đã nói về
pháp thực chứng, có sự xua đi các hiểm họa.
Thưa ngài đại đức, xin ngài hãy nói về đường lối thực hành,
về giới giải thoát, và luôn cả định nữa.”

Người hỏi:

921. Vị có mắt rộng mở
Ðã tuyên bố rõ ràng,
Pháp có thể chế ngự,
Mọi nguy hiểm khó khăn,
Bậc Hiền thiện mong Ngài,
Tuyên bố rõ con đường,
Hay về biệt giải thoát,
Hoặc về pháp thiền định?

926. Cakkhūhi neva lolassa
gāmakathāya āvareyya sotaṃ,
rase ca nānugijjheyya
na ca mamāyetha kiñci lokasmiṃ.

926. “Không nên buông thả với đôi mắt,
nên che đậy lỗ tai đối với chuyện làng xóm,
và không nên thèm muốn ở các vị nếm,
và không nên chấp là của ta về bất cứ cái gì ở thế gian.


 

Thế Tôn:

922. Chớ có những con mắt,
Ðầy dẫy những tham đắm!
Hãy chận đứng lỗ tai,
Nghe câu chuyện của làng.
Lại chớ nên đắm say,
Các mùi vị ngon lành,
Chớ xem là của ta,
Mọi sự vật ở đời!

927. Phassena yadā phuṭṭhassa
paridevaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñca,
bhavaṃ ca nābhijappeyya
bheravesu ca na sampavedheyya.

927. Khi nào bị xúc chạm bởi xúc (bất hạnh),
vị tỳ khưu không nên thể hiện sự than vãn về bất cứ điều gì,
và không nên tham đắm sự hiện hữu,
và không bị lay động ở các sự khiếp đảm.

 

923. Trong khi được cảm giác,
Với các loại cảm xúc,
Tỷ-kheo không than van,
Bất cứ một điều gì.
Vị ấy không cầu mong,
Dầu lại sanh hữu nào,
Và không có run sợ,
Rơi vào các kinh hoàng.

928. Annānamatho pānānaṃ
khādanīyānaṃ athopi vatthānaṃ,
laddhā na sannidhiṃ kayirā
na ca parittase tāni alabhamāno.
 

928. Đối với các thức ăn, rồi đối với các thức uống,
đối với các vật thực cứng, rồi đối với các loại vải vóc,
sau khi nhận được, không nên tạo ra sự cất giữ,
và không nên băn khoăn trong khi không nhận được chúng.

 

924. Các đồ ăn thâu được,
Cùng với các đồ uống,
Các món ăn nhai được,
Các đồ vải mặc được,
Chớ có cất chứa chúng,
Những đồ vật nhận được,
Chớ có quá lo âu,
Nếu không thâu được chúng.

929. Jhāyī na pādalol’ assa
virame kukkuccā nappamajjeyya,
atha āsanesu sayanesu
appasaddesu bhikkhu vihareyya.

929. Nên là vị có thiền, không nên buông thả bàn chân (đi đó đây),
nên xa lánh trạng thái hối hận, không nên xao lãng,
và ở những chỗ ngồi, ở những chỗ nằm,
ở những nơi có ít tiếng động, vị tỳ khưu nên cư trú.

925. Hãy tu tập thiền định
Chớ làm kẻ lang thang,
Chớ ưa thích trạo cử,
Ðừng rơi vào phóng dật,
Ðối với các chỗ ngồi,
Cùng với các chỗ nằm,
Tỷ-kheo hãy an trú,
Những chỗ không tiếng động.

930. Niddaṃ na bahulīkareyya
jāgariyaṃ bhajeyya ātāpī,
tandiṃ māyaṃ hassaṃ khiḍḍaṃ
methunaṃ vippajahe savibhūsaṃ.
 

930. Không nên thực hiện nhiều việc ngủ nghỉ. Nên thân cận sự tỉnh thức, có sự tinh cần. Nên dứt bỏ hẳn sự uể oải, xảo quyệt, cười cợt, đùa giỡn, việc đôi lứa, cùng với việc trang điểm.

926. Ngủ nghỉ có chừng mực,
Chớ có ngủ quá nhiều,
Hãy luôn luôn tỉnh thức,
Nỗ lực và nhiệt tâm,
Hãy từ bỏ biếng nhác,
Man trá, cười, chơi đùa,
Hãy từ bỏ dâm dục,
Bỏ ưa thích trang điểm.

931. Āthabbaṇaṃ supinaṃ lakkhaṇaṃ
no vidahe athopi nakkhattaṃ,
virutañca gabbhakaraṇaṃ
tikicchaṃ māmako na seveyya.
 

931. Không nên thực hành việc bùa chú, giải mộng, bói tướng, và luôn cả chiêm tinh. Người đệ tử thành tín không nên chuyên chú về việc giải đoán tiếng thú kêu, việc thụ thai, và việc chữa bệnh.

927. Chớ có dùng bùa chú,
A-thar-va Vệ-đà,
Chớ tổ chức đoán mộng,
Coi tướng và xem sao,
Mong rằng đệ tử Ta,
Không đoán tiếng thú kêu,
Không chữa bệnh không sanh,
Không hành nghề lang băm.

932. Nindāya nappavedheyya
na unnameyya pasaṃsito bhikkhu,
lobhaṃ saha macchariyena
kodhaṃ pesuniyañca panudeyya.

932. Không nên run sợ vì sự chê bai, vị tỳ khưu khi được ca ngợi không nên kiêu hãnh, nên xua đi sự tham lam cùng với sự bỏn xẻn, sự giận dữ và việc nói đâm thọc.

928. Tỷ-kheo không run sợ,
Khi bị người chỉ trích,
Cũng không có cống cao,
Khi được khen tán thán,
Hãy từ bỏ tham ái,
Cùng với tánh xan tham,
Kể luôn cả phẫn nộ,
Cùng với nói hai lưỡi.

933. Kayavikkaye na tiṭṭheyya
upavādaṃ bhikkhu na kareyya kuhiñci,
gāme ca nābhisajjeyya
lābhakamyā janaṃ na lapayeyya.

933. Không nên duy trì việc mua bán,
vị tỳ khưu không nên tạo sự chê trách ở bất cứ nơi nào,
và không nên ràng buộc vào làng xóm,
không nên tỉ tê với người thế vì mong muốn lợi lộc.

929. Tỷ-kheo không an trú,
Trong nghề nghiệp bán buôn,
Lại không có chỉ trích,
Bất cứ tại chỗ nào,
Khi ở tại thôn làng,
Không tức giận một ai,
Chớ có vì lợi dưỡng,
Nói chuyện với quần chúng.

934. Na ca katthiko siyā bhikkhu
na ca vācaṃ payutaṃ bhāseyya,
pāgabbhiyaṃ na sikkheyya
kathaṃ viggāhikaṃ na kathayeyya.

934. Và vị tỳ khưu không nên là kẻ nói khoe khoang,
và không nên nói lời nói ướm (liên quan bốn món vật dụng),
không nên học tập lối cư xử xấc xược,
không nên nói ra ngôn từ đưa đến sự cãi vã.

930. Tỷ-kheo không nên nói,
Khoa trương quá mức độ,
Và cũng không nói lời
Có dụng ý lợi dưỡng.
Chớ có học tập theo,
Lối sỗ sàng trâng tráo,
Chớ có thốt ra lời
Khiêu khích xung đột ai!

935. Mosavajje na niyyetha
sampajāno saṭhāni na kayirā,
atha jīvitena paññāya
sīlabbatena nāññamatimaññe.

935. Không nên bị xui khiến trong việc nói lời dối trá, không nên cố tình thực hiện các điều xảo trá, và không nên khinh khi người khác về sự sinh sống, về sự nhận thức, về giới và phận sự.

931. Chớ có bị dắt dẫn,
Rơi vào lời nói láo,
Không cố ý làm nên,
Ðiều man trá giả dối,
Chớ có khinh người khác,
Về vấn đề sinh mạng,
Về vấn đề trí tuệ,
Và vấn đề giới hạnh.

936. Sutvā rusito bahuṃ vācaṃ
samaṇānaṃ puthuvacanānaṃ,
pharusena ne na paṭivajjā
na hi santo paṭiseniṃ karonti.

936. Bị xúc phạm sau khi nghe nhiều lời nói
của các vị Sa-môn, của những kẻ phàm phu,
không nên đáp trả lại những kẻ ấy một cách thô lỗ,
bởi vì các bậc thiện nhân không thể hiện sự phản kháng.

932. Sau khi phẫn uất nghe
Nhiều ngôn từ lời lẽ
Của các vị Sa-môn,
Hay những kẻ phàm phu,
Chớ có phản ứng họ,
Với những lời thô ác,
Bậc hiền lành an tịnh,
Không phản pháo một ai.

937. Etañca dhammamaññāya
vicinaṃ bhikkhu sadā sato sikkhe,
santīti nibbutiṃ ñatvā
sāsane gotamassa nappamajjeyya.
 

937. Và sau khi hiểu thông Giáo Pháp này,
trong khi chọn lựa, vị tỳ khưu nên học tập, luôn luôn có niệm,
sau khi biết được sự diệt tắt là ‘an tịnh,’
không nên xao lãng về lời giáo huấn của đức Gotama.

933. Sau khi rõ biết được
Pháp này là như vậy,
Tỷ-kheo hãy học tập,
Sáng suốt và chánh niệm,
Rõ biết sự mát lạnh,
Ðược gọi bậc "an tịnh ",
Chớ có sống phóng dật,
Trong lời dạy Cù-đàm.

938. Abhibhū hi so anabhibhūto
sakkhidhammaṃ anītihamadassī,
tasmā hi tassa bhagavato sāsane
appamatto sadā namassamanusikkhe ”ti.

938. Bởi vì, vị ấy là đấng Chiến Thắng, bậc không bị chế ngự, vị đã nhìn thấy pháp thực chứng, không do nghe nói lại theo truyền thống. Chính vì thế, luôn luôn không xao lãng, trong lúc kính lễ, nên học tập theo lời giáo huấn của đức Thế Tôn ấy.”

934. Bậc đã được chiến thắng,
Không ai chiến thắng nổi
Tự mình thấy được pháp,
Không nghe theo tin đồn,
Do vậy hãy học tập
Luôn luôn không phóng dật,
Với tâm tư cung kính,
Lời dạy đức Thế Tôn,
Thế Tôn nói như vậy.

 

Tuvaṭakasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Một Cách Nhanh Chóng.

 

 

 

 

 

15. ATTADAṆḌASUTTAṂ

 

 

15. KINH UẾ HẠNH CỦA BẢN THÂN

 

 

(XV) KINH CHẤP TRƯỢNG

 

939. Attadaṇḍā bhayaṃ jātaṃ janaṃ passatha medhagaṃ,
saṃvegaṃ kittayissāmi yathā saṃvijitaṃ mayā.

939. Sự sợ hãi sanh lên do uế hạnh của bản thân.[1] Các người hãy nhìn xem loài người đang gây gỗ. Ta sẽ thuật lại trạng thái chấn động đúng theo sự việc đã bị chấn động bởi Ta.


[1] attadaṇḍā được dịch là “uế hạnh của bản thân” căn cứ vào lời giải thích của Chú Giải: “attadaṇḍā bhayaṃ jātaṃ attano duccaritakāraṇā jātaṃ” (SnA. ii, 566). Tựa đề của bài Kinh đã được ghi nghĩa theo ý nghĩa ấy.

Thế Tôn:

935. Từ người cầm các trượng,
Sợ hãi được sanh ra,
Hãy xem các loài người,
Trong khi đấu tranh nhau,
Ta sẽ nói sợ hãi,
Như Ta đã được biết.

940. Phandamānaṃ pajaṃ disvā macche appodake yathā,
aññamaññehi vyāruddhe disvā maṃ bhayamāvisi.

940. Sau khi nhìn thấy nhân loại đang run rẩy tựa như những con cá ở chỗ ít nước, sau khi nhìn thấy chúng chống đối lẫn nhau, sự sợ hãi đã xâm nhập Ta.

936. Thấy loài, người vùng vẫy,
Như cá trong nước cạn,
Thấy họ chống đối nhau,
Ta rơi vào sợ hãi.

941. Samantamasāro loko disā sabbā sameritā,
icchā bhavanamattano nāddasāsiṃ anositaṃ.

941. Toàn bộ thế gian là không có cốt lõi, tất cả các phương đều bị chuyển động. Trong khi ước muốn chỗ trú ngụ cho bản thân, Ta đã không nhìn thấy (một nơi nào là) không bị chiếm cứ.

937. Ðời toàn không lõi cây,
Mọi phương đều dao động
Muốn cho mình ngôi nhà,
Ta không thấy nhà ở.

942. Osāne tveva vyāruddhe disvā me aratī ahu,
athettha sallaṃ addakkhiṃ duddasaṃ hadayanissitaṃ.

942. Nhưng ngay sau khi nhìn thấy chúng chống đối vào giai đoạn cuối, sự chán ngán đã khởi lên ở Ta. Và ở đây, Ta đã nhìn thấy mũi tên khó thể nhìn thấy đã được cắm sâu vào trái tim (tâm thức).
 

938. Cuối cùng là xung đột,
Thấy vậy Ta chán ngắt,
Ðây Ta thấy mũi tên,
Khó thấy, gắn vào tim.

943. Yena sallena otiṇṇo disā sabbā vidhāvati,
tameva sallaṃ abbuyha na dhāvati na sīdati.

943. Kẻ đã bị mũi tên đâm vào chạy khắp tất cả các phương (luân hồi khắp các cõi), sau khi đã nhổ chính mũi tên ấy lên thì không chạy, (và) không chìm xuống.

939. Ai bị mũi tên đâm,
Chạy khắp mọi phương hướng,
Ai rút mũi tên ra,
Không chạy, liền ngồi xuống.

944. Tattha sikkhānugīyanti
yāni loke gathitāni na tesu pasuto siyā,
nibbijjha sabbaso kāme
sikkhe nibbānamattano.
 

944. Ở nơi ấy, các môn học tập được truyền tụng.
Những gì bị trói buộc vào thế gian, không nên quan tâm đến chúng.
Sau khi thấu triệt các dục về mọi phương diện,
nên học tập về sự tịch diệt cho bản thân.
 

940. Ở đây sự học tập,
Ðã được nói rõ lên,
Phàm triền phược ở đời,
Chớ liên hệ với chúng,
Ðâm thủng dục hoàn toàn,
Tự học tập Niết-bàn.

945. Sacco siyā appagabbho amāyo rittapesuno,
akkodhano lobhapāpaṃ vevicchaṃ vitare muni.

945. Nên chân thật, không hỗn xược, không xảo quyệt, việc nói đâm thọc được buông bỏ, không giận dữ, bậc hiền trí có thể vượt qua sự xấu xa của tham, (và) sự keo kiệt.

941. Chân thật không xông xáo,
Không man trá, hai lưỡi,
Không phẫn nộ, ẩn sĩ,
Vượt tham ác, xan tham.

946. Niddaṃ tandiṃ sahe thīnaṃ pamādena na saṃvase,
atimāne na tiṭṭheyya nibbānamanaso naro.

946. Người có tâm ý hướng Niết Bàn nên khắc phục trạng thái ngủ gà ngủ gật, sự uể oải, sự dã dượi, không nên cộng trú với sự xao lãng, không nên trụ lại ở sự ngã mạn thái quá.

942. Người nghĩ đến Niết-bàn,
Bỏ ngủ, nhác, thụy miên,
Không sống với phóng dật,
Không an trú, quá mạn.

947. Mosavajje na niyyetha rūpe snehaṃ na kubbaye,
mānañca parijāneyya sāhasā virato care.

947. Không nên bị lôi kéo vào việc nói lời dối trá, không nên tạo ra sự thương yêu ở sắc, và nên hiểu toàn diện về ngã mạn, nên sống tránh xa sự hung bạo.

943. Không rơi vào nói láo,
Không tham ái các sắc,
Cần liễu tri quá mạn,
Sống từ bỏ bạo ác.

948. Purāṇaṃ nābhinandeyya nave khantiṃ na kubbaye,
hīyamāne na soceyya ākāsaṃ na sito siyā.

948. Không nên thích thú cái cũ (ngũ uẩn quá khư), không nên tạo ra sự ưa chuộng cái mới (ngũ uẩn vị lai), trong khi (cái gì) đang bị tiêu hoại, không nên sầu muộn, không nên nương tựa hư không (tham ái).

944. Không hoan hỷ việc cũ,
Không nhẫn chịu sự mới,
Trong tổn giảm không sầu,
Không liên hệ tham ái,

949. Gedhaṃ brūmi mahoghoti ājavaṃ brūmi jappanaṃ,
ārammaṇaṃ pakappanaṃ kāmapaṅko duraccayo.

949. Ta gọi thèm khát là ‘dòng lũ lớn,’ ta gọi tham muốn là dòng nước mạnh, sự bám vào (đối tượng) là rung động, dục là bãi lầy khó vượt qua được.
 

945. Ái, Ta gọi bộc lưu,
Mong cầu gọi bọt nước,
Sở duyên gọi biến kể,
Bùn dục khó vượt qua.

950. Saccā avokkamma muni thale tiṭṭhati brāhmaṇo,
sabbaṃ so paṭinissajja sa ve santoti vuccati.

950. Không chệch khỏi sự thật (gọi là) bậc hiền trí, đứng ở đất liền (gọi là) vị Bà-la-môn. Vị ấy sau khi xả bỏ tất cả, vị ấy quả thật được gọi là ‘bậc an tịnh.’

946. ẩn sĩ không rời chân,
Phạm chí trú đất liền,
Vị từ bỏ tất cả,
Thật được gọi an tịnh.

951. Sa ve vidvā sa vedagū ñatvā dhammaṃ anissito,
sammā so loke iriyāno na pihetīdha kassaci.

951. Quả thật, vị ấy là bậc đã hiểu biết, vị ấy là bậc đã đạt được sự thông hiểu, sau khi biết pháp, vị ấy không nương tựa (vào tham ái và tà kiến). Vị ấy, trong khi cư xử chân chánh ở thế gian, không mong cầu đối với bất cứ người nào ở nơi này.
 

947. Biết vậy, gọi người biết,
Biết rồi không y pháp,
Chơn chánh sống ở đời,
Không tham ái một ai.

952. Yodha kāme accatari saṅgaṃ loke duraccayaṃ,
na so socati nājjheti chinnasoto abandhano.

952. Ở đây, vị nào vượt qua các dục, sự quyến luyến ở thế gian khó vượt qua được, vị ấy không sầu muộn, không ưu tư, có dòng chảy đã được cắt đứt, không còn sự trói buộc.

948. Ai ở đây vượt dục,
Ái khó vượt ở đời,
Không sầu, không tham muốn,
Cắt dòng không trói buộc.

953. Yaṃ pubbe taṃ visosehi pacchā te māhu kiñcanaṃ,
majjhe ce no gahessasi upasanto carissasi.

953. Điều gì trước đây (quá khứ), ngươi chớ nắm lấy điều ấy. Chớ có bất cứ điều gì sanh khởi đến ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi không nắm lấy ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống, được an tịnh.

949. Trước Ông làm khô cạn
Sau Ông không vật gì,
Ở giữa không nắm giữ,
Ông sẽ sống an tịnh.

954. Sabbaso nāmarūpasmiṃ yassa natthi mamāyitaṃ,
asatā ca na socati sa ve loke na jiyyati.

954. Đối với vị nào không có vật đã được chấp là của ta liên quan đến danh và sắc về mọi phương diện, và (là vị) không sầu muộn do tình trạng không có, vị ấy quả thật không bị thua thiệt ở thế gian.

950. Toàn diện đối danh sắc,
Không gì nghĩ "của ta"
Không có gì không sầu,
Không có già ở đời.

955. Yassa natthi idaṃ meti paresaṃ vāpi kiñcanaṃ,
mamattaṃ so asaṃvindaṃ natthi meti na socati.
 

955. Đối với vị nào, không có (ý nghĩ): ‘Cái này là của tôi,’ hoặc ‘(Cái này) là của những người khác’ về bất cứ điều gì, trong lúc không tìm kiếm trạng thái sở hữu chủ (nghĩ rằng): ‘Không có gì là của tôi,’ vị ấy không sầu muộn.

951. Không nghĩ "đây của tôi ",
Không nghĩ "đây của người ",
Người không có tự ngã,
Không sầu vì không ngã.

956. Aniṭṭhurī ananugiddho anejo sabbadhī samo,
tamānisaṃsaṃ pabrūmi pucchito avikampinaṃ.

956. Không ganh tỵ, không tham đắm, không dục vọng, bình đẳng ở mọi nơi, điều ấy là sự lợi ích mà Ta (sẽ) nói, khi được hỏi về vị không dao động.

952. Không tàn bạo, không tham,
Không dục, thường đồng đẳng,
Ðược hỏi Ta nói lên,
Lợi ích bậc bất động.

957. Anejassa vijānato natthi kāci nisaṅkhiti,
virato so viyārambhā khemaṃ passati sabbadhi.

957. Đối với vị không dục vọng, đang nhận thức, không có bất cứ sự tạo tác nào. Đã tránh xa khỏi sự tạo tác, vị ấy nhìn thấy an toàn ở mọi nơi.
 

953. Bậc ly dục rõ biết,
Vị ấy không sở hành,
Thoát ly, không tinh cần,
Thấy an ổn khắp nơi.

958. Na samesu na omesu na ussesu vadate muni,
santo so vītamacchero nādeti na nirassatī ”ti.

958. Bậc hiền trí không mô tả (bản thân) là trong số những người ngang bằng, không trong số những người thấp kém, không trong số những người ưu việt. Được an tịnh, đã xa lìa sự bỏn xẻn, vị ấy không nắm giữ, không buông bỏ.”

954. Bậc ẩn sĩ, không nói,
Bằng nhau, thua, hơn nhau,
An tịnh, ly xan tham,
Không nhận, không bác bỏ.
Thế Tôn giảng như vậy.

 

Attadaṇḍasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

 

 

Dứt Kinh Uế Hạnh của Bản Thân.

 

 

 

 

 

 

 

16. SĀRIPUTTASUTTAṂ

 

 

16. KINH SĀRIPUTTA

 

 

(XVI) KINH SĀRĪPUTTA (XÁ-LỢI-PHẤT)

959. Na me diṭṭho ito pubbe
(iccāyasmā sāriputto)
nasuto uda kassaci,
evaṃ vagguvado satthā
tusitā gaṇimāgato.
 

959. Từ đây trở về trước, con chưa từng được thấy,
(Đại đức Sāriputta đã nói thế ấy),
hoặc chưa từng được nghe của bất cứ người nào,
tương tự như bậc Đạo Sư, vị có giọng nói êm dịu,
bậc có đồ chúng, đã đi đến từ cõi trời Tusitā.

Sàriputta:

955. Trước con chưa từng thấy,
Chưa ai từng được nghe,
Tiếng nói thật ngọt ngào,
Như tiếng bậc Ðạo Sư,
Từ cõi Ðâu-suất đến,
Xá-lợi-phất nói vậy.

960. Sadevakassa lokassa yathā dissati cakkhumā,
sabbaṃ tamaṃ vinodetvā ekova ratimajjhagā.

960. Đối với thế gian có cả chư Thiên, bậc Hữu Nhãn được nhìn thấy là như thế. Sau khi xua đi tất cả tăm tối, Ngài, chỉ một mình, đã đạt đến sự khoái cảm (của việc xuất gia, của sự viễn ly, của sự an tịnh, của sự giác ngộ).

956. Bậc có mắt xuất hiện,
Ðời này và thiên giới,
Quét sạch mọi u ám,
Ðộc cư, chứng an lạc.

961. Taṃ buddhaṃ asitaṃ tādiṃ akuhaṃ gaṇimāgataṃ,
bahunnamidha baddhānaṃ atthi pañhena āgamaṃ.

961. Với ý định (hỏi) câu hỏi cho số đông đã được gắn bó ở đây, con đã đi đến gặp đức Phật, bậc không nương tựa, đấng tự tại, vị không dối trá, bậc có đồ chúng, đã đi đến ấy.

957. Bậc Giác ngộ, độc lập,
Như thật, không man trá,
Ngài đến ở đời này,
Lãnh đạo các đồ chúng,
Từ nhiều người trói buộc,
Con đến với câu hỏi.

962. Bhikkhuno vijigucchato bhajato rittamāsanaṃ,
rukkhamūlaṃ susānaṃ vā pabbatānaṃ guhāsu vā.

962. Đối với vị tỳ khưu nhờm gớm (sanh, già, bệnh, chết, v.v...) đang thân cận chỗ ngồi trống vắng, gốc cây, mộ địa, hoặc ở các hang động của những ngọn núi.

958. Vị Tỷ kheo nhàm chán,
Sống an tọa, trống không,
Tại gốc cây, nghĩa địa,
Hay núi rừng hang sâu.

963. Uccāvacesu sayanesu kīvanto tattha bheravā,
yehi bhikkhu na vedheyya nigghose sayanāsane.

963. Ở những chỗ trú ngụ cao thấp, có bao nhiêu sự khiếp đảm ở nơi ấy mà vị tỳ khưu không nên run sợ ở chỗ nằm ngồi không tiếng động?

959. Tại chỗ cao thấp ấy,
Có bao nhiêu sợ hãi,
Khiến Tỷ kheo không run,
Tại trú xứ vắng lặng?

964. Katī parissayā loke gacchato agataṃ disaṃ,
ye bhikkhu abhisambhave pantamhi sayanāsane.

964. Đối với vị đang đi đến khu vực chưa từng đi đến, có bao nhiêu hiểm họa ở thế gian mà vị tỳ khưu cần khắc phục ở các chỗ nằm ngồi xa vắng?

960. Bao nguy hiểm ở đời,
Tỷ Kheo cần chinh phục,
Trong hướng đi bất tử,
Tại trú xứ xa vắng?

965. Kyāssa vyappathayo assu kyāssassu idha gocarā,
kāni sīlabbatānassu pahitattassa bhikkhuno.

965. Cách thức nói năng của vị ấy nên là như thế nào? Hành xứ ở nơi này của vị ấy nên là như thế nào? Giới và phận sự của vị tỳ khưu có bản tánh cương quyết nên là như thế nào?
 

961. Ngôn ngữ và hành xứ
Của vị ấy là gì?
Có bao nhiêu giới cấm,
Tỷ Kheo cần tinh tấn?

966. Kaṃ so sikkhaṃ samādāya ekodi nipako sato,
kammāro rajatasseva niddhame malamattano.

966. Sau khi thọ trì sự học tập gì, vị có sự chuyên nhất (của tâm), chín chắn, có niệm ấy, có thể loại bỏ bụi bặm (ô nhiễm) của bản thân, ví như người thợ kim hoàn có thể loại bỏ cáu bẩn của bạc?”

962. Chấp nhận học tập gì,
Vị Tỷ Kheo nhất tâm,
Thông minh, giữ chánh niệm,
Tẩy sạch các cấu uế,
Trên tự ngã của mình,
Như thợ lọc vàng bạc?

967. Vijigucchamānassa yadidaṃ phāsu
(Sāriputtāti bhagavā)
rittāsanaṃ sayanaṃ sevato ce,
sambodhikāmassa yathānudhammaṃ
taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ.

967. (Đức Phật nói: “Này Sāriputta,) Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi theo như Ta nhận biết, tức là sự thoải mái (an trú) dành cho vị nhờm gớm (sanh, già, bệnh, chết, v.v...) nếu vị ấy đang thân cận chỗ ngồi nằm trống vắng, có mong muốn quả vị giác ngộ thuận theo Giáo Pháp.

Thế Tôn:

963. Này Sàriputta,
Thế Tôn bèn trả lời:
Với người biết nhàm chán,
Có gì là khoan khoái!
Khi sử dụng sàng tọa,
Tại chỗ tịnh trống không,
Với ai muốn giác ngộ,
Sống đúng với tùy pháp,
Ta sẽ nói người ấy,
Như Ta đã quán tri.

968. Pañcannaṃ dhīro bhayānaṃ na bhāye
bhikkhu sato sappariyantacāriṃ,
ḍaṃsādhipātānaṃ siriṃsapānaṃ
manussaphassānaṃ catuppadānaṃ.

968. Vị tỳ khưu, sáng trí, có niệm, sống trong khuôn khổ, không nên sợ hãi đối với năm điều sợ hãi: đối với loài ruồi và muỗi mòng, đối với loài rắn, đối với các sự va chạm với con người, đối với loài bốn chân.

964. Vị Tỷ kheo có trí,
Chánh niệm sống biên địa,
Không có sợ năm điều,
Ðáng sợ hãi ở đời.
Các loại ruồi, mối bay
Cùng các loài bò sát,
Xúc chạm của loài người,
Cùng các loại bốn chân.

969. Paradhammikānampi na santaseyya
disvāpi tesaṃ bahubheravāni,
athāparāni abhisambhaveyya
parissayāni kusalānuesī.

969. Cũng không nên sợ sệt đối với những kẻ theo các giáo phái khác, ngay cả sau khi nhìn thấy nhiều điều khiếp đảm của họ. Và vị tầm cầu điều tốt đẹp còn phải khắc phục những hiểm họa khác nữa.

965. Vị ấy không nên sợ,
Tri kiến của người khác,
Khi đã được thấy biết,
Nhiều sợ hãi của chúng,
Bậc tìm đến chí thiện,
Thấy được các nguy hiểm
Cần phải lo khắc phục
Tất cả nguy hiểm khác.

970. Ātaṅkaphassena khudāya phuṭṭho
sītaṃ athuṇhaṃ adhivāsayeyya,
so tehi phuṭṭho bahudhā anoko
viriyaṃ parakkamma daḷhaṃ kareyya.

970. Bị tác động bởi sự xúc chạm của bệnh tật, của cơn đói, nên chịu đựng sự lạnh, sự nóng. Bị tác động bởi những việc ấy dưới nhiều hình thức, vị không trú xứ ấy nên nỗ lực tinh tấn và nên thể hiện sự vững chãi.

966. Khi thọ lãnh bệnh hoạn,
Khi cảm xúc đói khổ,
Với lạnh và cực nóng,
Cần phải nhiếp phục chúng,
Bị chúng cảm xúc nhiều,
Kẻ không bỏ nhà cửa
Cần tinh tấn cần mẫn,
Lòng hết sức kiên trì.

971. Theyyaṃ na kareyya na musā bhaṇeyya
mettāya phasse tasathāvarāni,
yadā vilattaṃ manaso vijaññā
kaṇhassa pakkhoti vinodayeyya.

971. Không nên thực hiện việc trộm cắp, không nên nói lời dối trá,
nên tiếp xúc bằng từ tâm với các loài yếu hay mạnh,
khi nào nhận biết được trạng thái bị khuấy động của tâm,
nên xua đi (nghĩ rằng): ‘Nó là phần đen tối.’

967. Chớ ăn trộm, ăn cắp,
Chớ nói lời nói láo,
Hãy cảm xúc từ tâm,
Ðối kẻ yếu, kẻ mạnh,
Khi rõ biết tâm tư,
Trong tình trạng dao động,
Hãy gột sạch, tẩy sạch,
Phần hắc ám đen tối.

972. Kodhātimānassa vasaṃ na gacche
mūlampi tesaṃ palikhañña tiṭṭhe,
athappiyaṃ vā pana appiyaṃ vā
addhā bhavanto abhisambhaveyya.
 

972. Không nên rơi vào quyền lực của sự giận dữ và ngã mạn thái quá, nên đứng vững sau khi đào lên gốc rễ của chúng. Và trong khi khắc phục vật được yêu mến hoặc không được yêu mến, nên chế ngự chúng một cách chắc chắn.

968. Chớ để bị chi phối,
Bởi phẫn nộ, quá mạn,
Hãy đào chúng tận gốc,
Và an trú như vậy,
Ðối những gì khả ái,
Hay đối không khả ái,
Hãy hoàn toàn nhiếp phục,
Chớ để bị chi phối.

973. Paññaṃ purakkhatvā kalyāṇapīti
vikkhambheyya tāni parissayāni,
aratiṃ sahetha sayanamhi pante
caturo sahetha paridevadhamme.

973. Sau khi chú trọng về trí tuệ, với sự hoan hỷ về thiện pháp,
nên loại trừ các hiểm họa ấy,
nên khống chế sự không thích thú ở chỗ trú ngụ xa vắng,
nên khống chế bốn pháp tạo nên sự than vãn.
 

969. Thiên trọng về trí tuệ,
Hoan hỷ trong chí thiện,
Hãy chận đứng loại bỏ,
Nguy hiểm ách nạn ấy,
Hãy khắc phục bất lạc,
Ðối trú xứ vắng lặng,
Hãy khắc phục bốn pháp,
Khiến sầu muộn khóc than.

974. Kiṃsu asissāmi kuvaṃ vā asissaṃ
dukkhaṃ vata settha kuvajja sessaṃ,
ete vitakke paridevaneyye
vinayetha sekho aniketasārī.

974. ‘Vậy ta sẽ ăn gì? Hoặc ta sẽ ăn ở đâu?
Quả thật ta đã ngủ khổ sở. Hôm nay, ta sẽ ngủ ở đâu?’
Vị hữu học, không có sự vương vấn nhà ở,
nên loại bỏ những suy tầm có tính chất than vãn này.

970. Ta sẽ ăn những gì,
Và được ăn tại đâu.
Thật khó khăn ta ngủ,
Nay ta ngủ tại đâu?
Với những tư tưởng ấy,
Vị ấy có thể than,
Bậc hữu học, không nhà,
Hãy nhiếp phục trừ chúng.

975. Annañca laddhā vasanañca kāle
mattaṃ so jaññā idha tosanatthaṃ,
sotesu gutto yatacāri gāme
rusitopi vācaṃ pharusaṃ na vajjā.

975. Sau khi nhận lãnh vật thực và y phục đúng thời hạn,
vị ấy nên biết chừng mực ở đây với mục đích vừa lòng.
Vị đã được bảo vệ ở các dòng chảy (giác quan), sống thu thúc ở trong làng,
dầu cho bị xúc phạm, không nên nói lời nói thô lỗ.

971. Với đồ ăn, vải mặc,
Ðúng thời, thâu hoạch được,
Cần ước lượng vừa đủ,
Với mục đích thỏa mãn,
Chế ngự đối với chúng,
Sống nhiếp phục trong lòng,
Dầu phẫn uất, không nói,
Những lời độc thô ác.

976. Okkhittacakkhu na ca pādalolo
jhānānuyutto bahujāgarassa,
upekhamārabbha samāhitatto
takkā sayaṃ kukkuccañcupachinde.

 

976. Có mắt nhìn xuống và không buông thả bàn chân (đi đó đây),
nên gắn bó với việc tham thiền, nên có nhiều tỉnh thức,
sau khi nỗ lực về hành xả, có bản thân định tĩnh,
nên cắt đứt nền tảng của sự suy tư và trạng thái hối hận.

972. Với mắt cúi nhìn xuống,
Chân không đi lang thang,
Chú tâm vào thiền định,
Với rất nhiều tỉnh giác,
Cố gắng tu tập xả,
Tự ngã khéo định tĩnh,
Hãy cắt đứt trừ khử,
Các nghi ngờ hối tiếc.

977. Cudito vacīhi satimābhinande
sabrahmacārīsu khilaṃ pabhinde,
vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelaṃ
janavādadhammāya na cetayeyya.

977. Bị quở trách bởi những lời nói, vị (tỳ khưu) có niệm nên hoan hỷ.
Nên phá vỡ sự cay nghiệt đối với các vị đồng phạm hạnh.
Nên thốt lên lời nói tốt lành, không vượt quá giới hạn.
Không nên suy nghĩ về chuyện phiếm luận của những người (khác).
 

973. Bị buộc, tội bằng lời,
Chánh niệm, tâm hoan hỉ,
Phá hoại sự cứng rắn,
Giữa các đồng Phạm hạnh,
Nói lên những lời nói,
Hiền thiện và đúng thời,
Không để tâm suy tư,
Các chủ thuyết người khác.

978. Athāparaṃ pañca rajāni loke
yesaṃ satīmā vinayāya sikkhe,
rūpesu saddesu atho rasesu
gandhesu phassesu sahetha rāgaṃ.

978. Và hơn thế nữa, có năm loại bụi bặm ở thế gian, đối với chúng vị có niệm nên học tập để loại bỏ. Nên khống chế sự luyến ái ở các sắc, ở các thinh, rồi ở các vị, ở các hương, ở các xúc.
 

974. Lại nữa, năm loại vua,
Hiện có ở trên đời,
Hãy học nhiếp phục chúng.
Luôn luôn giữ chánh niệm.
Ðối với sắc và tiếng,
Ðối với vị và hương,
Cùng đối các cảm xúc,
Hãy chế ngự tham ái.

979. Etesu dhammesu vineyya chandaṃ
bhikkhu satīmā suvimuttacitto,
kālena so sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno
ekodibhūto vihane tamaṃ so ”ti.

979. Vị tỳ khưu có niệm, có tâm khéo được giải thoát, Nên loại bỏ sự mong muốn ở các pháp ấy. Vị ấy, đúng thời điểm, trong khi suy xét toàn diện một cách đúng đắn về Giáo Pháp, có trạng thái chuyên nhất (của tâm), vị ấy có thể diệt trừ sự tăm tối.”
 

975. Hãy chế ngự ước muốn,
Ðối với những pháp ấy,
Vị Tỷ kheo chánh niệm,
Tâm tư khéo giải thoát,
Rồi đúng thời vị ấy,
Chơn chánh suy tư pháp,
Với chuyên tâm nhất trí,
Hãy đoạn tận hắc ám.
Thế Tôn nói như vậy.

 

Sāriputtasuttaṃ niṭṭhitaṃ.

Aṭṭhakavaggo catuttho.

 

 

Dứt Kinh Sāriputta.

Phẩm Nhóm Tám là thứ tư.

 

 

 

TASSUDDĀNAṂ

 

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

 

Kāmaguhaṭṭha duṭṭhāva suddhaṭṭha paramā jarā,
metteyyo ca pasūro ca māgandi purābhedanaṃ.
Kalahaṃ dveva vyuhāni punarevatuvaṭṭakaṃ,
attadaṇḍaṃ therasuttaṃ therapañhena soḷasa,
tāni etāni suttāni sabbānaṭṭhakavaggikā ”ti.
 

Nhóm Tám về Dục, về Hang, về Xấu Xa, về Trong Sạch, về Tối Thắng, (bài Kinh về) Sự Già, vị Tissametteyya, vị Pasūra, và (Bà-la-môn) Māgandiya, (bài Kinh) Trước Khi Hoại Rã, sư Cãi Cọ, hai (bài Kinh) Sự Dàn Trận, rồi (bài Kinh) Một Cách Nhanh Chóng nữa, (bài Kinh) Uế Hạnh của Bản Thân, bài Kinh vị trưởng lão (Sāriputta) với câu hỏi của vị trưởng lão là mười sáu; tất cả những bài Kinh này đây là thuộc về Phẩm Nhóm Tám.