Skip directly to content

V. PĀRĀYANAVAGGO - PHẨM ĐI ĐẾN BỜ KIA

Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) - Tạng Sri Lanka

 

 

Lời tiếng Việt: (văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda

 

 

Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu

 

  

 VATTHUGĀTHĀ

 

 

KỆ NGÔN GIỚI THIỆU

 

 

I. BÀI KỆ MỞ ĐẦU

 

980. Kosalānaṃ purā rammā āgamā dakkhiṇāpathaṃ,
ākiñcaññaṃ patthayāno brāhmaṇo mantapāragū.

980. Có vị Bà-la-môn tinh thông chú thuật, trong khi ước nguyện về trạng thái vô sở hữu, từ thành phố đáng yêu của xứ Kosala đã đi đến khu vực phía Nam.

976. Từ thành phố đẹp đẽ,
Của các Kô-xa-la,
Có vị Bà-la-môn,
Thông đạt các chú thuật,
Hướng tầm vô sở hữu,
Hướng phía Nam bước tới.

981. So assakassa visaye aḷakassa samāsane,
vasī godhāvarīkule uñchena ca phalena ca.

981. Vị ấy đã trú ngụ ở địa phận Assaka, kế bên vùng Aḷakassa, bên bờ sông Godhāvarī (sống) bằng vật lượm lặt và trái cây.

977. Trong nước Át-xa-ka,
Gần xứ A-la-ka,
Vị ấy sống trên bờ,
Sông Gô-đa-và-rà,
Nuôi sống bằng trái cây,
Bằng đồ ăn lượm vặt.

982. Tasse va upanissāya gāmo ca vipulo ahū,
tato jātena āyena mahāyaññamakappayi.

982. Và đã có một ngôi làng rộng lớn kề cận với bờ sông ấy. Với thu nhập phát sanh từ nơi ấy, vị Bà-la-môn đã sắp đặt một cuộc tế lễ vĩ đại.

978. Gần chỗ vị ấy ở,
Có làng đất rộng rãi,
Với tài sản thâu thập,
Tổ chức tế đàn lớn.

983. Mahāyaññaṃ yajitvāna puna pāvisi assamaṃ,
tasmiṃ patipaviṭṭhamhi añño āgañchi brāhmaṇo.

983. Sau khi đã cống hiến cuộc tế lễ vĩ đại, vị Bà-la-môn đã đi vào lại nơi ẩn cư. Khi vị ấy đã đi vào trong, một người Bà-la-môn khác đã đi đến.

979. Ðại tế đàn lễ xong,
Vị ấy trở về am,
Trong khi bước vào am,
Một Phạm-chí khác đến.

984. Ugghaṭṭapādo tasito paṅkadanto rajassiro,
so ca naṃ upasaṅkamma satāni pañca yācati.

984. Và người ấy, với bàn chân bị sưng vù, run lập cập, có răng đóng bợn, với đầu lấm bụi, đã đi đến gần vị Bà-la-môn và cầu xin năm trăm (tiền).

980. Chân sưng húp, run rẩy
Ðầy bùn, đầu lấm bụi,
Người ấy bước đến gần,
Và xin năm trăm tiền.

985. Tamenaṃ bāvarī disvā āsanena nimantayī,
sukhañca kusalaṃ pucchi idaṃ vacanamabravi.

985. Sau khi nhìn thấy kẻ ấy đấy, (Bà-la-môn) Bāvarī đã mời chỗ ngồi, đã hỏi về sự an lạc và tốt lành, rồi đã nói lời này:

981. Sau khi thấy vị ấy,
Ba-va-ri mời ngồi,
Hỏi thăm, thiện, an lạc
Rồi nói lời như sau:

986. Yaṃ kho mamaṃ deyyadhammaṃ sabbaṃ vissajjitaṃ mayā,
anujānāhi me brahme natthi pañca satāni me.

986. “Quả thật, cái gì thuộc về tôi mà là vật có thể bố thí, thì tôi đã ban phát tất cả rồi. Này ông Bà-la-môn, xin hãy hiểu cho tôi, tôi không có năm trăm.”

Bàvarim:

982. Những gì tôi cho được,
Tôi đã cho tất cả,
Phạm chí hãy tin tôi,
Tôi không có năm trăm.

987. Sace me yācamānassa bhavaṃ nānupadassati,
sattame divase tuyhaṃ muddhā phalatu sattadhā.

987. “Nếu trong khi được tôi cầu xin, mà ngài không ban cho, thì vào ngày thứ bảy, cái đầu của ngài hãy bể tan thành bảy mảnh.”  

Phạm-chí:

983. Nếu điều ta xin Ông,
Tôn giả không đáp ứng,
Sau bảy ngày, đầu Ông
Sẽ bị vỡ, bảy mảnh!

988. Abhisaṅkharitvā kuhako bheravaṃ so akittayi,
tassa taṃ vacanaṃ sutvā bāvarī dukkhito ahū.

988. Sau khi làm thủ thuật, kẻ dối trá ấy đã thốt lời hăm dọa. Sau khi nghe được lời nói ấy của kẻ ấy, Bāvarī đã trở nên sầu khổ.  

984. Sau khi làm chú thuật,
Kẻ man trá tuyên bố,
Những lời nói đáng sợ,
Nghe những lời nói ấy,
Phạm-chí Ba-va-ri
Cảm thấy lòng đau khổ.

989. Ussussati anāhāro sokasallasamappito,
athopi evaṃ cittassa jhāne na ramatī mano.

989. (Vị ấy) trở nên héo mòn, không thức ăn, đã bị đâm trúng bởi mũi tên sầu muộn, Rồi cũng thế, đối với người có tâm như vậy, ý không vui thích trong việc tham thiền.

985. Gầy ốm, không uống ăn,
Bị tên sầu muộn đâm,
Với tâm tư như vậy,
Ý khó vui trong thiền,

990. Utrastaṃ dukkhitaṃ disvā devatā atthakāminī,
bāvariṃ upasaṅkamma idaṃ vacanamabravī.
 

990. Sau khi nhìn thấy Bāvarī bị run sợ, bị sầu khổ, vị Thiên nhân có lòng mong mỏi điều tốt đẹp, đã đi đến gặp Bāvarī và đã nói lời này:

986. Thấy lo sợ buồn khổ,
Một Thiên nhân đi đến,
Muốn bạn được hạnh phúc,
Nói với Ba-va-ri.

991. Na so muddhaṃ pajānāti kuhako so dhanatthiko,
muddhani muddhapāte vā ñāṇaṃ tassa na vijjati.

991. “Gã ấy không nhận biết về cái đầu. Gã dối trá ấy là kẻ tầm cầu tài sản. Sự hiểu biết của gã ấy về cái đầu hay về việc làm vỡ cái đầu không hiện hữu.”

Thiên nhân:

987. Kẻ man trá muốn tiền,
Không rõ biết về đầu,
Về đầu, đánh bể đầu,
Trí ấy nó không có
.

992. Bhotī carahi jānāti taṃ me akkhāhi pucchitā,
muddhaṃ muddhādhipātañca taṃ suṇoma vaco tava.

992. “Thưa tiên nữ, nếu nàng biết, khi được tôi hỏi, xin nàng hãy nói với tôi về điều ấy, về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu. Chúng tôi xin lắng nghe lời nói của nàng về điều ấy.”

Bàvarim:

988. Này bạn,nếu bạn biết,
Hãy nói câu hỏi tôi,
Về đầu, đánh bể đầu,
Chúng tôi nghe lời người.

993. Ahaṃ petaṃ na jānāmi ñāṇaṃ ettha na vijjati,
muddhaṃ muddhādhipāte vā jinānaṃ hettha dassanaṃ.

993. “Ngay cả tôi cũng không biết về điều này; sự hiểu biết của tôi về lĩnh vực này không hiện hữu. Kiến thức ở lĩnh vực này, cái đầu và việc làm vỡ cái đầu, chỉ riêng thuộc về các đấng Chiến Thắng.”

Thiên nhân:

989. Tôi không biết việc này,
Trí này, tôi không có,
Về đầu, đánh bể đầu,
Bậc chiến thắng thấy được.

994. Atha kho carahi jānāti asmiṃ puthuvi maṇḍale,
muddhaṃ muddhādhipātañca taṃ me akkhāhi devate.

994. “Vậy thì hiện nay, ở trái đất hình cầu này, người nào biết về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu? Thưa tiên nữ, xin nàng hãy nói điều ấy cho tôi.”

Bàvarim:

990. Vậy ai có thể biết,
Trên quả đất tròn này,
Về đầu, đánh bể đầu,
Thiên nhân, nói tôi biết.

995. Purā kapilavatthumhā nikkhanto lokanāyako,
apacco okkākarājassa sakyaputto pabhaṅkaro.

995. “Bậc Lãnh Đạo Thế Gian, hậu duệ của đức vua Okkāka, con trai dòng Sakya, đấng Mặt Trời, trước đây đã ra đi từ thành Kapilavatthu.

Thiên nhân:

991. Từ thành Ka-pi-la,
Bậc lãnh đạo thế giới,
Xuất hiện ra ở đời,
Là con cháu, hậu duệ,
Của vua Ok-ka-ka
Thích tử, chiếu hào quang.

996. So hi brāhmaṇa sambuddho sabbadhammānapāragū,
sabbābhiññābalappatto sabbadhammesu cakkhumā,
sabbakammakkhayaṃ patto vimutto upadhikkhayā.


 

996. Này Bà-la-môn, vị ấy chính là đấng Toàn Giác, bậc đã đi đến bờ kia đối với tất cả các pháp, đã đạt được năng lực của tất cả các thắng trí, bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp, đã đạt đến sự cạn kiệt đối với tất cả các nghiệp, đã được giải thoát bởi sự cạn kiệt các mầm tái sanh.

992. Vị ấy Chánh Ðẳng Giác,
Hỡi này Bà-la-môn,
Ðã đi đến bờ kia,
Ðối với tất cả pháp,
Ðạt được cả sức mạnh,
Của tất cả thắng trí,
Bậc có mặt thấy được
Trong tất cả các pháp.
Ðạt được sự diệt tận,
Của tất cả các pháp,
Ðược giải thoát, diệt tận,
Ðối với các sanh y.

997. Buddho so bhagavā loke dhammaṃ deseti cakkhumā,
taṃ tvaṃ gantvāna pucchassu so te taṃ vyākarissati.

 

997. Vị ấy là đức Phật, đấng Thế Tôn ở thế gian, bậc Hữu Nhãn thuyết giảng Giáo Pháp. Ông hãy đi đến và hỏi vị ấy. Vị ấy sẽ giải thích điều ấy cho ông.”

993. Bậc Giác ngộ, Thế Tôn,
Bậc có mắt thuyết pháp,
Hãy đến hỏi vị ấy,
Vị ấy sẽ trả lời.

998. Sambuddhoti vaco sutvā udaggo bāvarī ahū,
sokassa tanuko āsi pītiñca vipulaṃ labhi.

 

998. Sau khi nghe được câu nói “Đấng Toàn Giác,” Bāvarī đã trở nên phấn khởi. Nỗi sầu muộn của vị này đã trở thành nhỏ nhoi, và ông ta đã đạt được niềm vui bao la.

994. Nghe tiếng Chánh Ðẳng Giác,
Ba-va-ri phấn khởi,
Sầu muộn được giảm bớt,
Ðược hoan hỷ rộng lớn.

999. So bāvarī attamano udaggo
taṃ devataṃ pucchati vedajāto:
Katamamhi gāme nigamamhi vā pana
katamamhi vā janapade lokanātho
yattha gantvā namassemu sambuddhaṃ dipaduttamaṃ.
 

999. Vị Bāvarī ấy, có ý hài lòng, phấn khởi, sanh nỗi hân hoan, hỏi người tiên nữ ấy rằng: “Đấng Bảo Hộ Thế Gian ở ngôi làng hoặc ở phố thị nào, hay ở xứ sở nào? Chúng tôi sẽ đi đến nơi ấy và lễ bái đấng Toàn Giác, bậc tối thượng của loài người.”

995. Vị Ba-va-ri ấy,
Hoan hỷ và phấn khởi,
Cảm thấy lòng cảm động,
Hỏi vị thiên nhân ấy.

Bàvarim:

995b. Ở tại thôn làng nào,
Ở tại thị trấn nào,
Ở tại quốc độ nào,
Lãnh đạo thế giới trú?
Tại đấy, tôi sẽ đi,
Ðảnh lễ bậc Giác ngộ,
Bậc Vô thượng loài Người.

1000. Sāvatthiyaṃ kosalamandire jino
pahūtapañño varabhūrimedhaso,
so sakyaputto vidhuro anāsavo
muddhādhipātassa vidū narāsabho.

1000. “Đấng Chiến Thắng ở Sāvatthi, cung điện của xứ Kosala, có tuệ rộng lớn, có sự sáng suốt quảng đại cao quý. Người con trai dòng Sakya ấy không kẻ sánh bằng, không còn lậu hoặc, là bậc Nhân Ngưu, vị hiểu biết về việc làm vỡ cái đầu.”

Thiên nhân:

996. Ở tại Xa-vat-thi,
Trong thành Kô-xa-la,
Bậc chiến thắng an trú,
Với trí tuệ rộng lớn,
Với hiểu biết thù thắng,
Rộng rãi và cùng khắp.
Vị ấy là Thích tử,
Không gánh nặng vô lậu,
Bậc Ngưu vương loài Người,
Biết rõ về đỉnh đầu,
Biết rõ đánh vỡ đầu.

1001. Tato āmantayī sisse brāhmaṇe mantapārage,
etha māṇavā akkhissaṃ suṇātha vacanaṃ mama.

1001. Sau đó, vị Bà-la-môn đã bảo những người học trò tinh thông về chú thuật rằng: “Này các cậu thanh niên hãy đi đến, ta sẽ nói. Các ngươi hãy lắng nghe lời nói của ta.

997. Rồi vị Bà-la-môn,
Cho gọi các đệ tử,
Là những vị thông đạt,
Về bùa chú kệ tụng.

Bàvarim:

997b. Hãy đến, các thanh niên,
Ta sẽ nói, hãy nghe,
Những lời ta nói lên.

1002. Yasseso dullabho loke pātubhāvo abhiṇhaso,
svājja lokamhi uppanno sambuddho iti vissuto,
khippaṃ gantvāna sāvatthiṃ passavho dipaduttamaṃ.

1002. Sự xuất hiện thường xuyên ấy của vị nào là điều khó đạt được ở thế gian, vị ấy hôm nay đã hiện khởi ở thế gian, được biết tiếng là “Đấng Toàn Giác.” Chúng ta hãy nhanh chóng đi đến Sāvatthi và diện kiến bậc tối thượng của loài người.”

998. Vị ấy rất khó gặp,
Rất hiếm hiện ở đời,
Nay sanh ra ở đời,
Ðược danh bậc Chánh giác,
Hãy đi gấp Xá-vệ,
Thấy được bậc Vô thượng
.

1003. Kathaṃ carahi jānemu disvā buddhoti brāhmaṇa,
ajānataṃ no pabrūhi yathā jānemu taṃ mayaṃ.

1003. “Thưa Bà-la-môn, vậy làm thế nào chúng con có thể biết là ‘Đức Phật’ sau khi nhìn thấy? Xin thầy hãy nói ra cho những người không biết chúng con để chúng con có thể nhận biết vị ấy.”

Các đệ tử:

999. Kính thưa Bà-la-môn,
Thế nào chúng con biết,
Sau khi thấy vị ấy,
Biết vị ấy là Phật,
Chúng con chưa được biết
Hãy nói chúng con biết!

1004. Āgatāni hi mantesu mahāpurisalakkhaṇā,
dvattiṃsāni ca vyākhyātā samantā anupubbaso.

1004. “Các tướng trạng của bậc đại nhân quả đã được lưu truyền ở các chú thuật, và ba mươi hai điều đã được thuật lại đầy đủ theo thứ tự.

Bàvarim:

1000. Trong những kệ bùa chú,
Ðược truyền lại đến nay,
Có nói đến tướng tốt,
Của một bậc Ðại nhân,
Có nói ba mươi hai,
Trọn đủ, được liên tục.

1005. Yassete honti gattesu mahāpurisalakkhaṇā,
duveva tassa gatiyo tatiyā hi na vijjati.
 

1005. Vị nào có những tướng trạng của bậc đại nhân này ở các phần thân thể, đối với vị ấy chỉ có hai lối đi, bởi vì lối đi thứ ba không có.

 

1001. Ai có trên tay chân,
Ðủ tướng đại nhân ấy,
Chỉ có hai sanh thú,
Không có cái thứ ba.

1006. Sace agāraṃ ajjhāvasati vijeyya paṭhaviṃ imaṃ,
adaṇḍena asatthena dhammenamanusāsati.

1006. Nếu sống tại gia, vị ấy sẽ chinh phục trái đất này và cai quản đúng pháp, không nhờ vào gậy gộc, không nhờ vào gươm đao.

 

1002. Nếu trú tại gia đình,
Chinh phục quả đất này,
Không dùng trượng, dùng kiếm,
Giáo hóa đúng Chánh pháp.

1007. Sace ca so pabbajati agārā anagāriyaṃ,
vivattacchaddo sambuddho arahā bhavati anuttaro.


 

 1007. Và nếu vị ấy xuất gia, rời nhà sống không nhà, thì (sẽ) trở thành đấng Toàn Giác, bậc A-la-hán, đấng Vô Thượng, có màn che (vô minh) đã được xua tan.

1003. Nếu vị ấy xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Rộng mở màn vô minh,
Vị ấy, được trở thành,
Bậc Chánh đẳng Chánh giác,
Bậc Ứng cúng, Vô thượng.

1008. Jātiṃ gottañca lakkhaṇaṃ mante sisse punāpare,
muddhaṃ muddhādhipātañca manasāyeva pucchatha.

 

1008. Các ngươi hãy hỏi, chỉ bằng ý mà thôi, về việc sanh ra và về dòng họ, về tướng trạng, về các chú thuật, về các học trò, về những điều khác nữa (liên quan đến ta), về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu.

1004. Với tâm ý, hãy hỏi,
Sanh, tánh tướng của ta,
Kệ chú, đệ tử ta,
Về đầu, đánh bể đầu.

1009. Anāvaraṇadassāvī yadi buddho bhavissati,
manasā pucchite pañhe vācāya vissajessati.

 

1009. Nếu là đức Phật, bậc có sự nhìn thấy không bị chướng ngại, thì khi câu hỏi được hỏi bằng ý, (vị ấy) sẽ đáp lại bằng lời nói.”

1005. Nếu vị ấy là Phật,
Thấy rõ, không che kín,
Với lời, vị ấy đáp,
Các câu hỏi bởi ý.

1010. Bāvarissa vaco sutvā sissā soḷasa brāhmaṇā,
ajito tissametteyyo puṇṇako atha mettagū.

 

 1010. Sau khi lắng nghe lời nói của Bāvarī, mười sáu vị Bà-la-môn học trò là: Ajita, Tissametteyya, Puṇṇaka, rồi Mettagū, ...

1006. Nghe lời Ba-va-ri,
Mười sáu người đệ tử,
Tất cả là Phạm chí,
Tên là A-ji-ta,
Tis-xa-mêt-tê-ya,
Pun-na-ka, Mết-gu,

1011. Dhotako upasīvo ca nando ca atha hemako,
todeyya-kappā dubhayo jatukaṇṇī ca paṇḍito,

 

1011. Dhotaka, và Upasīva, Nanda, rồi Hemaka, hai vị Todeyya, và Kappa, và vị sáng suốt Jatukaṇṇī, ...

Cùng với Ðo-ta-ka,
Và U-pa-xi-va,
Nan-da, Hê-ma-ka,
Tô-đê-ya, Kap-pa,
Với Ja-tu-kan-ni,
Là bậc danh Hiền trí.

1012. Bhadrāvudho udayo ca posālo cāpi brāhmaṇo,
mogharājā ca medhāvī piṅgiyo ca mahā isi.

 

 1012. Bhadrāvudha, và Udaya, luôn cả Bà-la-môn Posāla, và vị thông minh Mogharājā, và vị đại ẩn sĩ Piṅgiya.

1008. Và Bha-drà-vu-đa,
Cùng với U-da-ya,
Phạm Chí Po-xà-la,
Và Mo-gha-rà-jà,
Là bậc có trí tuệ,
Cùng với Pin-gi-ya,
Là vị đại ẩn sĩ,
Tất cả những vị ấy.

1013. Paccekagaṇino sabbe sabbalokassa vissutā,
jhāyī jhānaratā dhīrā pubbavāsanavāsitā.

 

 1013. Tất cả là những vị có đồ chúng riêng, được nổi tiếng khắp cả thế gian, có thiền chứng, thích thú với thiền, sáng trí, đã được huân tập thành thói quen trong quá khứ.

1009. Mỗi người có đồ chúng,
Có danh xưng ở đời,
Tu thiền, ưa thiền định,
Bậc có trí sáng suốt,
Mang theo những dấu tích,
Ðời sống trước của mình.

1014. Bāvariṃ abhivādetvā katvā ca naṃ padakkhiṇaṃ,
jaṭājinadharā sabbe pakkāmuṃ uttarāmukhā.

1014. Sau khi đã đảnh lễ Bāvarī, và thực hiện việc nhiễu quanh vị ấy, tất cả có tóc bện, mặc y da dê, đã ra đi hướng về phía bắc.

1010. Ðảnh lễ Ba-va-ri,
Thân phía hữu hướng Ngài,
Tất cả đều bện tóc,
Mặc áo vải da thú,
Mặt hướng về phía Bắc,
Tất cả chúng ra đi.

1015. Mūlakassa patiṭṭhānaṃ purimaṃ māhissatiṃ tadā,
ujjeniñcāpi gonaddhaṃ vedisaṃ vanasavhayaṃ.

1015. (Họ đã đi) đến Patiṭṭhāna của xứ sở Mūlaka trước tiên, rồi đến Māhissatī, luôn cả Ujjenī, Gonaddhā, Vedisā, và (thành phố) có tên Vana. 

1011. Trước hết, họ đi ngang,
Ðến Pa-tít-thà-na,
Của xứ A-la-ka,
Rồi Ma-hi-xa-ti,
Tiếp đến Uj-jê-ni,
Và đến Gô-nad-đăng,
Tiếp đến Vê-đi-xăng,
Va-na-xa-ha-yăng,

1016. Kosambiṃ cāpi sāketaṃ sāvatthiñca puruttamaṃ,
setavyaṃ kapilaṃ vatthuṃ kusinārañca mandiraṃ.

1016. Rồi đến Kosambī, luôn cả sāketa, và thành phố hạng nhất Sāvatthi, Setavya,  vùng đất Kapila, và cung điện Kusinārā.

1012. Ði đến Kô-xăm-bi,
Ði đến Xa-kê-ta,
Rồi đến Xa-vat-thi,
Là thành phố tối thượng,
Kế đến Xê-ta-vyam,
Ka-pi-la-vat-thu,
Rồi đến tòa lâu đài,
Tên Ku-xi-na-ra,

1017. Pāvañca bhoganagaraṃ vesāliṃ māgadhaṃ puraṃ,
pāsāṇakaṃ cetiyañca ramaṇīyaṃ manoramaṃ.

1017. Pāvā, và thành phố Bhogā, Vesālī, thành phố xứ Magadha, và điện thờ Pāsāṇakaṃ đáng yêu, thich ý.

Rồi đi đến Pa-va,
Và thành phố Bhô-ga,
Tiếp đến Vê-xá-ly,
Thành phố Ma-ga-đa,
Rồi Pa-xe-na-ka,
Ngôi điện đẹp, khả ái.

1018. Tasito vudakaṃ sītaṃ mahālābhaṃva vāṇijo,
chāyaṃ ghammābhitattova turitā pabbatamāruhuṃ.

1018. Tựa như người bị khát nước được nước mát, tựa như thương buôn được lợi lớn, tựa như người bị thiêu đốt bởi sức nóng được bóng râm, họ đã vui mừng trèo lên ngọn núi.

1014. Như người khát, nước mát,
Như người buôn, lợi lớn,
Như nóng bức, bóng mát,
Họ gấp leo ngọn núi.

1019. Bhagavā tamhi samaye bhikkhusaṅghapurakkhato,
bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseti sīhova nadatī vane.

1019. Và vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn, được hội chúng tỳ khưu tôn vinh,  thuyết giảng Giáo Pháp cho các vị tỳ khưu, tựa như con sư tử gầm thét ở khu rừng.

1015. Thế Tôn, trong lúc ấy,
Dẫn đầu chúng Tỷ-kheo,
Ngài đang thuyết Chánh pháp,
Cho các vị Tỷ-kheo,
Giống như con sư tử,
Rống tiếng rống trong rừng.

1020. Ajito addasa sambuddhaṃ sataraṃsiva bhānumaṃ,
candaṃ yathā paṇṇarase paripūriṃ upāgataṃ.

1020. Ajita đã nhìn thấy đấng Toàn Giác tựa như mặt trời có trăm ánh hào quang, giống như mặt trăng đã tiến gần đến sự tròn đầy vào ngày mười lăm.

1016. A-ja-ta thấy Phật,
Như mặt trời vàng chói,
Như mặt trăng ngày rằm,
Ðược tròn đầy viên mãn.

1021. Athassa gatte disvāna paripūrañca vyañjanaṃ,
ekamantaṃ ṭhito haṭṭho manopañhe apucchatha.
 

1021. Rồi sau khi nhìn thấy các phần thân thể của vị này và dấu hiệu được đầy đủ, Ajita, đứng ở một bên, mừng rỡ, đã hỏi bằng ý các câu hỏi rằng:

1017. Và thấy tay chân Ngài,
Ðầy đủ các tướng tốt,
Hoan hỷ đứng một bên,
Hỏi câu hỏi tâm ý.

1022. Ādissa jammanaṃ brūhi gottaṃ brūhi salakkhaṇaṃ,
mantesu pāramiṃ brūhi kati vāceti brāhmaṇo.

 

1022. “Xin Ngài hãy xác định và nói về việc sanh ra (của vị Bāvarī). Xin Ngài hãy nói về dòng họ cùng với tướng trạng. Xin Ngài hãy nói về sự toàn hảo ở các chú thuật. Vị Bà-la-môn (Bāvarī) dạy bảo được bao nhiêu?”

Ajita:

1018. Hãy nói về thọ sanh,
Nói dòng họ, các tướng,
Về tối thượng kệ chú,
Phạm chí đọc bao nhiêu?

1023. Vīsaṃvassasataṃ āyu so ca gottena bāvari,
tīṇassa lakkhaṇā gatte tiṇṇaṃ vedāna pāragū.

 

1023. “Tuổi thọ là một trăm hai mươi. Và theo dòng họ vị ấy là Bāvarī. Ở thân thể vị này có ba tướng trạng. Là vị tinh thông về ba bộ Vệ Đà.

Thế Tôn:

1019. Tuổi thọ trăm hai mươi,
Dòng họ Bà-va-ri,
Trên tay chân, ba tướng,
Thông đạt ba Vệ-đà.

1024. Lakkhaṇe itihāseva sanighaṇḍusakeṭubhe,
pañca satāni vāceti sadhamme pāramiṃ gato.

 

1024. Là người đã đạt đến sự toàn hảo về pháp (Bà-la-môn) của mình, về tướng trạng và về lịch sử, về từ vựng và về nghi lễ, (Bāvarī) dạy bảo năm trăm (học trò).”

 

1020. Về tướng và truyền thuyết,
Về tự vựng, lễ nghi,
Tụng đọc được năm trăm,
Ðạt tối thượng diệu pháp.

1025. Lakkhaṇānaṃ pavicayaṃ bāvarissa naruttama,
taṇhacchida pakāsehi mā no kaṃkhāyitaṃ ahū.

 1025. “Thưa bậc Tối Thượng Nhân, thưa bậc đã cắt đứt tham ái, xin Ngài hãy giải thích chi tiết về các tướng trạng của Bāvarī, xin chớ để chúng tôi bị hoài nghi.”

Ajita:

1021. Bậc Vô thượng, đoạn ái,
Hãy nói lên tường tận
Các tướng Ba-va-ri,
Ðể chúng con không nghi.

1026. Mukhaṃ jivhāya chādeti uṇṇ’ assa bhamukantare,
kosohitaṃ vatthaguyhaṃ evaṃ jānāhi māṇava.

1026. “(Người ấy) che khuất khuôn mặt bằng cái lưỡi, có sợi lông ở khoảng giữa chân mày của người này, vật được che giấu sau lớp vải (vật kín) được bọc lại; này người thanh niên, hãy biết như thế.”

Thế Tôn:

1022. Lưỡi che kín mặt mày,
Giữa hàng mi, lông trắng,
Có da bọc âm tàng,
Hãy biết vậy, thanh niên.

1027. Pucchaṃ hi kiñci asuṇanto sutvā pañhe viyākate,
vicinteti jano sabbo vedajāto katañajali.

1027. Trong khi không nghe bất kỳ câu hỏi nào, mà đã nghe các câu hỏi được trả lời, tất cả mọi người sanh nỗi hân hoan, tay chắp lại, suy nghĩ rằng:

1023. Không nghe câu hỏi gì,
Chỉ nghe câu trả lời,
Quần chúng rất ngạc nhiên,
Chắp tay tự suy nghĩ.

1028. Ko nu devo va brahmā vā indo vāpi sujampati,
manasā pucchite pañhe tamenaṃ paṭibhāsati.

 1028. “Vậy thì vị Trời nào, hay đấng Đại Phạm, hoặc (Thiên vương) Inda chồng của Sujā, đã hỏi bằng ý những câu hỏi ấy? (Đức Phật) đáp lại điều này cho ai?”

Dân chúng:

1024. Thiên, Phạm thiên, Ðế thích,
Hay Xu-jam-pa-ti
Ai, với ý hỏi Ngài,
Xin nói cho được biết?

1029. Muddhaṃ muddhādhipātañca bāvarī paripucchati,
taṃ vyākarohi bhagavā kaṅkhaṃ vinaya no ise.
 

1029. “Vị Bāvarī hỏi về cái đầu và về việc làm vỡ cái đầu. Thưa đức Thế Tôn, xin Ngài hãy trả lời điều ấy. Thưa bậc ẩn sĩ, xin Ngài hãy xua đi nỗi nghi ngờ của chúng tôi.”

Ajita:

1025. Ba-va-ri tìm hỏi,
Về đầu, đánh bể đầu,
Thế Tôn hãy trả lời,
Ðoạn nghi hoặc chúng con?
Ôi, thưa bậc Tiên nhân!

1030. Avijjā muddhāti jānāhi vijjā muddhādhipātinī,
saddhāsatisamādhīhi chandaviriyena saṃyutā.

1030. “Người hãy biết vô minh là ‘cái đầu,’ minh với việc đập vỡ cái đầu, được liên kết với tín, niệm, định, ... với ước muốn và tinh tấn.”

Thế Tôn:

1026. Vô minh là đỉnh đầu,
Hãy hiểu biết như vậy,
Minh là đánh bể đầu,
Liên hệ dục tinh tấn,
Với lòng tin, chánh niệm,
Liên hệ với thiền định.

1031. Tato vedena mahatā santhambhitvāna māṇavo,
ekaṃsaṃ ajinaṃ katvā pādesu sirasā pati.

1031. Do đó, với nỗi hân hoan lớn lao, sau khi trấn tĩnh lại người thanh niên Bà-la-môn đã khoác tấm da dê một bên vai, quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân (đức Phật và nói rằng):

1027. Với cảm thọ lớn mạnh,
Thanh niên tự chế ngự,
Ðắp áo da một bên,
Với đầu, đảnh lễ chân.

1032. Bāvarī brāhmaṇo bhoto sahasissehi mārisa,
udaggacitto sumano pāde vandati cakkhuma.

 1032. “Thưa Ngài, Bà-la-môn Bāvarī, có tâm phấn khởi, có ý tốt lành, cùng với các học trò đảnh lễ hai bàn chân của Ngài, thưa bậc Hữu Nhãn.”

Ajita:

1028. Phạm chí Ba-va-ri,
Cùng đệ tử, thưa Ngài,
Tâm phấn khởi, đẹp ý,
Lễ chân, bậc có mắt.

1033. Sukhito bāvarī hotu sahasissehi brāhmaṇo,
tvañcāpi sukhino hohi ciraṃ jīvāhi māṇava.

1033. “Mong sao Bà-la-môn Bāvarī cùng với các học trò được an lạc. Và luôn cả ngươi nữa hãy được an lạc. Này người thanh niên, chúc người sống thọ.

Thế Tôn:

1029. Phạm chí Ba-va-ri,
Hãy sống được an lạc,
Cùng với các đệ tử!
Mong Ông sống an lạc,
Thọ mạng được lâu dài,
Hỡi này kẻ thanh niên.

1034. Bāvarissa va tuyhaṃ vā sabbesaṃ sabbasaṃsayaṃ,
katāvakāsā pucchavho yaṃ kiñci manasicchatha.

1034. Từ cơ hội đã được tạo ra, ngươi hãy hỏi mọi điều hoài nghi của tất cả, của Bāvarī, hoặc của ngươi, bất cứ điều gì ngươi mong muốn ở trong tâm.”

1030. Ba-va-ri và Ông,
Có mọi nghi ngờ gì,
Cơ hội đến, hãy hỏi,
Tùy theo ý Ông muốn.

1035. Sambuddhena katokāso nisīditvāna pañjalī,
ajito paṭhamaṃ pañhaṃ tattha pucchi tathāgataṃ.

 1035. Với cơ hội đã được tạo ra bởi đấng Toàn Giác, Ajita đã ngồi xuống, chắp tay lại, tại nơi ấy đã hỏi đức Như Lai câu hỏi thứ nhất.

1031. Ðược bậc Chánh Ðẳng Giác,
Cho cơ hội tốt đẹp,
A-ji-ta liền ngồi,
Chắp tay hỏi Như Lai,
Hỏi câu hỏi thứ nhất,
Chính ngay tại chỗ ấy,
Kệ mở đầu đã xong.

 

Vatthugāthā niṭṭhitā.

 

 

Dứt Kệ Ngôn Giới Thiệu.

 

 
   

 

1. AJITASUTTAṂ

 

 

1. KINH AJITA

 

 

II. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN A-JI-TA

 

1036. Kenassu nivuto loko (iccāyasmā ajito) kenassu nappakāsati,
kissābhilepanaṃ brūsi kiṃsu tassa mahabbhayaṃ.
 

1036. (Tôn giả Ajita hỏi:) “Thế gian bị phủ kín bởi cái gì? Không chói sáng bởi điều gì? Ngài hãy nói cái gì là sự vấy nhiễm? Sự nguy hiểm lớn lao của nó là gì?”

Ajita:

1032. Tôn giả A-ji-ta:
Do gì, đời bị che,
Do gì, không chói sáng,
Hãy nói lên cái gì,
Làm uế nhiễm cuộc đời,
Cái gì sợ hãi lớn?

1037. Avijjāya nivuto loko (ajitāti bhagavā)
vevicchā pamādā nappakāsati,
jappābhilepanaṃ brūmi dukkhamassa mahabbhayaṃ.
 

1037. (Đức Thế Tôn nói: “Này Ajita,) thế gian bị phủ kín bởi vô minh, không chói sáng bởi keo kiệt, bởi xao lãng. Ta nói tham muốn là sự uế nhiễm, khổ là sự nguy hiểm lớn lao của nó (thế gian).”

Thế Tôn:

1033. Thế Tôn liền đáp lại:
Ðời bị vô minh che,
Do xan tham, phóng dật,
Ðời không được chói sáng,
Ta nói do mong cầu,
Nên đời bị uế nhiễm,
Chính là sự đau khổ,
Nên có sợ hãi lớn.

1038. Savanti sabbadhī sotā (iccāyasmā ajito)
sotānaṃ kiṃ nivāraṇaṃ,
sotānaṃ saṃvaraṃ brūhi kena sotā pithīyare.
 

1038. (Tôn giả Ajita hỏi:) “Các dòng chảy trôi đi khắp mọi nơi. Cái gì là sự ngăn cản các dòng chảy? Ngài hãy nói về sự chế ngự các dòng chảy. Các dòng chảy được chặn đứng bởi cái gì?”

Ajita:

1034. Tôn giả A-ji-ta:
Mọi nơi dòng nước chảy,
Cái gì ngăn dòng nước?
Hãy nói lên cái gì?
Chế ngự được dòng nước?
Cái gì đóng dòng nước?

1039. Yāni sotāni lokasmiṃ (ajitāti bhagavā)
sati tesaṃ nivāraṇaṃ,
sotānaṃ saṃvaraṃ brūmi paññāyete pithīyare.

1039. (Đức Thế Tôn nói: “Này Ajita,) những dòng chảy nào hiện diện ở thế gian, niệm là sự ngăn cản chúng. Ta nói về sự chế ngự các dòng chảy. Chúng được chặn đứng bởi tuệ.”

Thế Tôn:

1035. Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này A-ji-ta,
Các dòng nước ở đời,
Chánh niệm ngăn chận lại,
Chánh niệm được Ta gọi,
Chế ngự các dòng nước,
Và chính do trí tuệ,
Ðóng lại các dòng nước.

1040. Paññā ceva satī ceva (iccāyasmā ajito)
nāmarūpañca mārisa,
etaṃ me puṭṭho pabrūhi katthetaṃ uparujjhati.

1040. (Tôn giả Ajita hỏi:) “Thưa ngài, tuệ và luôn cả niệm, danh và sắc; được tôi hỏi điều này, xin ngài hãy nói lên, ở đâu điều này được diệt tận?”

Ajita:

1036. Tôn giả A-ji-ta:
Trí tuệ và chánh niệm,
Cùng với danh và sắc,
Kính thưa bậc Tôn giả,
Hãy nói điều con hỏi,
Từ đâu chúng bị diệt?

1041. Yametaṃ pañhaṃ apucchi ajita taṃ vadāmi te,
yattha nāmañca rūpañca asesaṃ uparujjhati,
viññāṇassa nirodhena etthetaṃ uparujjhati.

1041. “Này Ajita, câu hỏi nào ông đã hỏi, Ta (sẽ) trả lời câu hỏi ấy cho ông: Nơi nào danh và sắc được diệt tận không dư sót. Do sự diệt tận của thức, ở đây, điều này (danh và sắc) được diệt tận.”

 

 

Thế Tôn:

1037. Câu hỏi gì Ông hỏi,
Hỡi này A-ji-ta,
Ta sẽ đáp cho Ông,
Chỗ nào danh và sắc,
Ðược đoạn diệt hoàn toàn,
Không còn lại dư tàn,
Chính do đoạn diệt thức,
Danh sắc được đoạn diệt.

1042. Ye ca saṅkhātadhammā se ye ca sekhā puthū idha,
tesaṃ me nipako iriyaṃ puṭṭho pabrūhi mārisa.

1042. “Những vị nào đã hiểu rõ Giáo Pháp (các bậc A-la- hán) và những vị nào là các bậc Hữu Học đông đảo ở nơi này, tôi hỏi bậc chín chắn về oai nghi của những vị ấy, thưa ngài, xin ngài hãy nói lên.”

Ajita:

1038. Những ai biết tư sát,
Các pháp thuộc hữu vi,
Cùng với bậc hữu học,
Và phàm phu ở đời,
Ðược hỏi, Ngài hãy nói,
Về nếp sống của họ?
Bậc thận trọng sáng suốt,
Hãy nói lên, thưa Ngài!

1043. Kāmesu nābhigijjheyya manasā nāvilo siyā,
kusalo sabbadhammānaṃ sato bhikkhu paribbaje ”ti.
 

1043. “Vị tỳ khưu không nên khát khao ở các dục, không nên bị vẩn đục ở tâm, thiện xảo đối với tất cả các pháp, có niệm, nên ra đi du phương.”

Thế Tôn:

1039. Chớ tham đắm các dục,
Giữ tâm tư an tịnh,
Thiện xảo trong các pháp,
Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
Sống đời sống xuất gia.

 

Ajitasuttaṃ paṭhamaṃ.

 

 

Kinh Ajita là thứ nhất.

 

 
   

2. TISSAMETTEYYASUTTAṂ

 

 

2. KINH TISSAMETTEYYA

 

 

III. CÁC CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN TISSAMETTEYYA

 

1044. Kodha saṃtusito loke (iccāyasmā tissa metatayyo)
kassa no santi iñjitā,
ko ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippati,
kaṃ brūsi mahāpurisoti ko idha sibbanim accagā?

1044. (Tôn giả Tissametteyya hỏi:) “Ở đây, người nào được hài lòng ở thế gian? Đối với người nào các sự dao động không hiện hữu? Người nào, sau khi biết rõ cả hai đầu, nhờ vào trí tuệ không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa? Ngài nói ai là ‘bậc đại nhân’? Ở đây, người nào vượt qua thợ may (tham ái)?”

Tissa:

1040. Tissa Met-tey-ya:
Ai thỏa mãn ở đời,
Với ai không dao động,
Ai thắng tri hai biên,
Ở giữa, không dính líu,
Ai Ngài gọi đại nhân,
Ở đời, ai vượt khỏi,
Thêu dệt các ái nhiễm?

1045. Kāmesu brahmacariyavā (metteyyāti bhagavā)
vītataṇho sadā sato,
saṅkhāya nibbuto bhikkhu
tassa no santi iñjitā.

1045. (Đức Thế Tôn nói: “Này Metteyya,) vị có Phạm hạnh về các dục, đã xa lìa tham ái, luôn luôn có niệm, sau khi đã suy xét, vị tỳ khưu được tịch tịnh. Đối với vị ấy các sự dao động không hiện hữu.

Thế Tôn:

1041. Thế Tôn liền đáp rằng:
Hỡi này Met-tê-ya!
Giữa dục, sống Phạm hạnh,
Không ái, luôn chánh niệm,
Tỷ-kheo lặng tính toán,
An tịnh, không dao động.

1046. So ubhantamabhiññāya majjhe mantā na lippati,
taṃ brūmi mahāpurisoti sodha sibbanimaccagāti.
 

1046. Vị ấy, sau khi biết rõ cả hai đầu, nhờ vào trí tuệ không bị nhiễm bẩn ở khoảng giữa. Ta nói vị ấy là ‘bậc đại nhân.’ Ở đây, vị ấy vượt qua thợ may (tham ái).”

1042. Ai thắng tri hai biên,
Chặng giữa, nhờ suy tư,
Không dính líu bị nhiễm,
Ta gọi là đại nhân,
Vị ấy, ở đời này,
Vượt khỏi sự thêu dệt,
Các ái nhiễm tham muốn.

 

Tissametteyyasuttaṃ dutiyaṃ.

 

 

Kinh Tissametteyya là thứ nhì.

 

 

   

 

3. PUṆṆAKASUTTAṂ

 

 

3. KINH PUṆṆAKA

 

 

IV. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN PUNNAKA

 

1047. Anejaṃ mūladassāviṃ (iccāyasmā puṇṇako)
atthi pañhena āgamaṃ
kiṃ nissitā isayo manujā khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ,
yaññamakappayiṃsu puthū idha loke pucchāmi taṃ bhagavā brūhi me taṃ.
 

1047. (Tôn giả Puṇṇaka nói:) “Với ý định hỏi câu hỏi, tôi đã đi đến với bậc không dục vọng, bậc có sự nhìn thấy gốc rễ (của các pháp): ‘Nương tựa vào điều gì, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn đã chuẩn bị lễ hiến tế đến chư Thiên, đông đảo tại nơi này, ở thế gian. Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”

Punnaka:

1043. Tôn giả Pun-na-ka:
Với ai không dao động,
Thấy rõ được cội gốc,
Con đến với câu hỏi,
Liên hệ đến mục đích,
Bậc ẩn sĩ, loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Do họ y chỉ gì,
Tế đàn cho chư Thiên.
Ðã tổ chức rộng lớn?
Con hỏi bậc Thế Tôn,
Hãy trả lời cho con.

1048. Ye kecime isayo manujā (puṇṇakāti bhagavā)
khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ
yaññamakappayiṃsu puthū idha loke,
āsiṃsamānā puṇṇaka itthabhāvaṃ
jaraṃ sitā yaññamakappayiṃsu.
 

1048. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) bất cứ những ai, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn đã chuẩn bị lễ hiến tế đến chư Thiên, đông đảo tại nơi này, ở thế gian, này Puṇṇaka, trong khi mong ước bản thể này, bị phụ thuộc vào tuổi già, họ đã chuẩn bị lễ hiến tế.”

Thế Tôn:

1044. Thế Tôn bèn đáp rằng:
Hỡi này Pun-na-ka!
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Ðã tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Khi họ thành già yếu,
Họ tổ chức tế đàn,
Vì rằng họ hy vọng,
Ðược sanh ở đời này,
Hỡi này Pun-na-ka!

1049. Ye kecime isayo manujā (iccāyasmā puṇṇako)
khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ
yaññamakappayiṃsu puthū idha loke,
kaccissu te bhagavā yaññapathe appamattā
ātāru jātiñca jarañca mārisa
pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.

1049. (Tôn giả Puṇṇaka nói:) “Bất cứ những ai, các bậc ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn đã chuẩn bị lễ hiến tế đến chư Thiên, đông đảo tại nơi này, ở thế gian, thưa đức Thế Tôn, những người ấy, không xao lãng ở đường lối tế lễ, thưa ngài, có phải họ đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”

Punnaka:

1045. Tôn giả Pun-na-ka:
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Ðã tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Thế Tôn nghĩ thế nào,
Họ không có phóng dật
Trên con đường tế đàn,
Họ vượt qua già chết,
Ðược hay không, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Con mong Ngài trả lời?

1050. Āsiṃsanti thomayanti
abhijappanti juhanti (puṇṇakāti bhagavā)
kāmābhijappanti paṭicca lābhaṃ,
te yājayogā bhavarāgarattā
nātariṃsu jātijaranti brūmi.

1050. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) những kẻ mong ước, tán dương, cầu khấn, cúng tế, cầu khấn các dục bởi vì lợi lộc, Ta nói rằng: ‘Những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, bị luyến ái với sự ái luyến vào hiện hữu, đã không vượt qua sanh và già.’”

Thế Tôn:

1046. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Họ hy vọng, tán thán,
Họ cầu nguyện, cúng lễ,
Họ cầu nguyện các dục,
Do duyên vì lợi dưỡng,
Chuyên tâm lo tế đàn,
Ưa thích, tham sanh hữu,
Họ không vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.

1051. Te ve nātariṃsu yājayogā (iccāyasmā puṇṇako)
yaññehi jātiñca jarañca mārisa,
atha ko carahi devamanussaloke
atāri jātiñca jarañca mārisa
pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.


 

1051. (Tôn giả Puṇṇaka nói:) “Thưa ngài, quả thật những kẻ ấy do sự gắn bó vào tế lễ đã không vượt qua sanh và già nhờ vào những lễ hiến tế, thưa ngài. Thưa ngài, vậy giờ đây người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”

Punnaka:

1047. Tôn giả Pun-na-ka:
Nếu chúng chuyên tế đàn,
Nhưng không thể vượt qua,
Già chết với tế đàn,
Thời ai sống ở đời,
Trong thế giới Nhơn, Thiên,
Ðã vượt qua già chết,
Ai được vậy, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Ngài trả lời cho con?

1052. Saṅkhāya lokasmiṃ parovarāni (puṇṇakāti bhagavā)
yassiñjitaṃ natthi kuhiñci loke,
santo vidhūmo anīgho nirāso
atāri so jātijaranti brūmīti.

1052. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) sau khi đã suy xét nơi này và nơi khác ở thế gian, đối với vị nào sự dao động là không có bất cứ đâu ở thế gian, có sự an tịnh, không còn sân hận, không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng: ‘Vị ấy đã vượt qua sanh và già.’”

Thế Tôn:

1048. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Ai tính toán cao thấp,
Ước lượng vậy ở đời,
Ai không bị dao động,
Bất cứ đâu ở đời,
An tịnh, không phun khói,
Không phiền não, không cầu,
Vị ấy vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.

 

Puṇṇakasuttaṃ tatiyaṃ.

 

 

Kinh Puṇṇaka là thứ ba.

 

 

   

 

4. METTAGŪSUTTAṂ

 

4. KINH METTAGŪ

 

V. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN METTAGU

 

1053. Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā mettagū)
maññāmi taṃ vedaguṃ bhāvitattaṃ,
kuto nu dukkhā samudāgatā ime
ye keci lokasmiṃ anekarūpā.
 

1053. (Tôn giả Mettagū nói:) “Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này. Tôi nghĩ rằng ngài là người hiểu biết sâu sắc, có bản thân đã được tu tập. Từ đâu mà các khổ này đã được khởi lên, bất kể loại nào ở thế gian, với nhiều hình thức?”

Mettagu:

1049. Tôn giả Mêt-ta-gu:
Con xin hỏi Thế Tôn,
Mong Thế Tôn trả lời,
Vấn đề con đã hỏi,
Con nghĩ Ngài hiền trí,
Tự ngã đã tu tập,
Từ đâu, ở trong đời,
Ðau khổ này khởi lên,
Với nhiều loại như vậy?

1054. Dukkhassa ve maṃ pabhavaṃ apucchasi (mettagūti bhagavā)
taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ,
upadhinidānā pabhavanti dukkhā
ye keci lokasmiṃ anekarūpā.

1054. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) quả thật ngươi (đã) hỏi ta về sự phát khởi của khổ. Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy cho ngươi theo như điều Ta nhận biết. Các khổ phát khởi đều có căn nguyên là mầm tái sanh, bất kể loại nào ở thế gian, với nhiều hình thức.

Thế Tôn:

1050. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Ông hỏi ta vấn đề,
Sanh khởi của khổ đau,
Ta sẽ nói cho Ông,
Như Ta đã được biết,
Chính do duyên sanh y,
Nên khổ được khởi lên,
Với nhiều loại như vậy,
Khác biệt ở trong đời.

1055. Yo ve avidvā upadhiṃ karoti
punappunaṃ dukkhamupeti mando,
tasmā hi jānaṃ upadhiṃ na kayirā
dukkhassa jātippabhavānupassī.

1055. Thật vậy, kẻ nào, (do) không biết, tạo ra mầm tái sanh, là kẻ ngu (sẽ) đi đến khổ lần này lần khác. Chính vì thế, người có sự quán xét về sự sanh ra và sự phát khởi của khổ, trong khi biết, không nên tạo ra mầm tái sanh.”

1051. Những ai vì vô minh,
Tác thành các sanh y,
Kẻ ngu tạo đau khổ,
Tiếp tục được sanh khởi,
Do vậy kẻ hiểu biết,
Không nên tạo sanh y,
Vì thấy sự sanh khởi,
Của sanh và đau khổ.

1056. Yantaṃ apucchimha akittayī no (iccāyasmā mettagū)
aññaṃ taṃ pucchāmi tadiṅgha brūhi:
Kathannu dhīrā vitaranti oghaṃ
jātijaraṃ sokapariddavañca,
taṃ me munī sādhu viyākarohi
tathā hi te vidito esa dhammo.
 

1056. (Tôn giả Mettagū nói:) “Điều nào chúng tôi đã hỏi ngài, ngài đã giải bày cho chúng tôi. Tôi hỏi ngài điều khác, vậy xin ngài hãy trả lời điều ấy: Làm thế nào các bậc sáng trí vượt qua dòng lũ, sanh và già, sầu muộn và than vãn? Thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy khéo léo giảng rõ điều ấy cho tôi, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”

Mettagu:

1052. Ðiều chúng con đã hỏi,
Ngài đã đáp chúng rồi,
Nay xin hỏi câu khác,
Mong Ngài giải đáp cho,
Thế nào bậc Hiền trí,
Vượt khỏi dòng nước mạnh,
Vượt khỏi sanh và già,
Cùng sầu muộn than khóc,
Mong rằng bậc ẩn sĩ,
Hãy khéo trả lời con,
Ðúng như Ngài đã biết,
Pháp nhĩ là như vậy?

1057. Kittayissāmi te dhammaṃ (mettagūti bhagavā)
diṭṭhe dhamme anītihaṃ,
yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.


 

1057. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) Ta sẽ giải bày cho ngươi Giáo Pháp tự mình chứng ngộ, không phải do nghe nói lại. Sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”

Thế Tôn:

1053. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Ta sẽ nói cho Ông,
Pháp thiết thực hiện tại,
Không do trao truyền lại,
Sau khi biết pháp ấy,
Vị ấy sống chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.

1058. Tañcāhaṃ abhinandāmi mahesi dhammamuttamaṃ,
yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.

 

1058. “Thưa bậc đại ẩn sĩ, tôi thích thú Giáo Pháp tối thượng ấy. Sau khi hiểu pháp ấy, có niệm, trong khi sống, tôi có thể vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”

Mettagu:

1054. Thưa bậc Ðại ẩn sĩ,
Con hết sức hoan hỷ,
Chánh pháp vô thượng ấy,
Sau khi biết pháp ấy,
Sống gìn giữ chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời
.

1059. Yaṃ kiñci sampajānāsi (mettagūti bhagavā)
uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe,
etesu nandiñca nivesanañca
panujja viññāṇaṃ bhave na tiṭṭhe.

 

1059. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) bất cứ điều gì mà ngươi tự mình nhận biết, bên trên, bên dưới, luôn cả chiều ngang và khoảng giữa, ngươi hãy xua đi sự vui thích, sự chấp chặt, và sự nhận thức ở các điều này; không nên trụ lại ở hữu.

Thế Tôn:

1055. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Mêt-ta-gu,
Phàm Ông rõ biết gì,
Trên dưới, ngang ở giữa,
Hãy từ bỏ hoan hỷ,
Hãy từ bỏ trú xứ,
Chớ để cho ý thức,
An trú trên sanh hữu.

1060. Evaṃvihārī sato appamatto
bhikkhu caraṃ hitvā mamāyitāni,
jātiṃ jaraṃ sokapariddavañca
idheva vidvā pajaheyya dukkhaṃ.

1060. An trú như vậy, có niệm, không xao lãng, vị tỳ khưu, trong khi sống, sau khi từ bỏ các vật đã được chấp là của tôi, là vị hiểu biết, ngay tại nơi này, có thể dứt bỏ khổ đau, sanh, già, sầu muộn và than vãn.”

1056. An trú vậy, chánh niệm,
Tỷ-kheo không phóng dật,
Sau khi bỏ sở hành,
Ðưa đến ngã, sở hữu.
Ðối với sanh và già,
Sầu muộn và than khóc,
Ở đây, biết được vậy,
Hãy từ bỏ đau khổ.

1061. Etābhinandāmi vaco mahesino, (iccāyasmā mettagū)
sukittitaṃ gotamanūpadhīkaṃ,
addhā hi bhagavā pahāsi dukkhaṃ
tathā hi te vidito esa dhammo.
 

1061. (Tôn giả Mettagū nói:) “Thưa ngài Gotama, tôi thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đã khéo được giải bày, không liên quan đến mầm tái sanh, bởi vì đức Thế Tôn đương nhiên đã dứt bỏ khổ, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.

Mettagu:

1057. Con cảm thấy hoan hỉ,
Lời nói bậc Ðại sĩ;
Ðoạn tận được sanh y,
Ðược Ngài khéo tuyên thuyết.
Chắc chắn đức Thế Tôn,
Ðã đoạn tận đau khổ,
Vì pháp này được Ngài,
Rõ biết là như vậy.

1062. Te cāpi nūna pajaheyyu dukkhaṃ
ye tvaṃ muni aṭṭhitaṃ ovadeyya,
taṃ taṃ namassāmi samecca nāga
appeva maṃ bhagavā aṭṭhitaṃ ovadeyya.
 

1062. Và thưa bậc hiền trí, những người nào được ngài giáo huấn không ngừng nghỉ, những người ấy chắc chắn có thể dứt bỏ khổ đau. Vì thế, thưa bậc long tượng, sau khi gặp ngài, con xin kính lễ ngài. Mong sao đức Thế Tôn sẽ giáo huấn con không ngừng nghỉ.”

1058. Những vị ấy hãy đoạn,
Hãy từ bỏ đau khổ,
Những người ấy được Ngài
Thường thường dạy, giáo hóa.
Con xin đảnh lễ Ngài,
Hãy đến, bậc Long tượng,
Mong Thế Tôn thường hằng,
Giáo hóa dạy dỗ con.

1063. Yaṃ brāhmaṇaṃ vedaguṃ ābhijaññā (mettagūti bhagavā)
akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ,
addhā hi so oghamimaṃ atāri
tiṇṇo ca pāraṃ akhilo akaṅkho.

1063. (Đức Thế Tôn nói: “Này Mettagū,) vị Bà-la-môn nào mà ngươi có thể biết rõ là người hiểu biết sâu sắc, không sở hữu gì, không dính mắc ở dục và hữu, vị ấy đương nhiên đã băng qua dòng lũ này, và đã được vượt đến bờ kia, không còn cọc nhọn (ô nhiễm), không còn hoài nghi.”

Thế Tôn:

1059. Vị Bà-la-môn nào,
Ðược thắng tri, có trí,
Không có sở hữu gì,
Không ái luyến dục hữu,
Chắc chắn vị như vậy,
Vượt qua bộc lưu này,
Ðã đến được bờ kia,
Không cứng cỏi không nghỉ.

1064. Vidvā ca so vedagū naro idha
bhavābhave saṅgamimaṃ visajja,
so vītataṇho anīgho nirāso
atāri so jātijaranti brūmīti.
 

1064. Và sau khi đã hiểu, vị ấy trở thành người hiểu biết sâu sắc ở nơi đây. Sau khi tháo gỡ sự quyến luyến này ở hữu và phi hữu, vị ấy có tham ái đã được xa lìa, không còn phiền muộn, không có mong cầu, Ta nói rằng: ‘Vị ấy đã vượt qua sanh và già.’”

1060. Người ấy sau khi biết,
Thông suốt được Thánh điển,
Không dính ái triền này,
Về hữu và phi hữu,
Vị ấy ly tham ái,
Không phiền lụy không cầu,
Ta nói rằng vị ấy,
Ðã vượt khỏi sanh già.

 

Mettagūsuttaṃ catutthaṃ.

 

 

Kinh Mettagū là thứ tư.

 

 

   

 

5. DHOTAKASUTTAṂ

 

 

5. KINH DHOTAKA

 

VI. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN DHOTAKA

1065. Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā dhotako)
vācābhikaṅkhāmi mahesi tuyhaṃ,
tava sutvāna nigghosaṃ
sikkhe nibbānamattano.

1065. (Tôn giả Dhotaka nói:) “Thưa đức Thế Tôn, con hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời con về điều này. Thưa bậc đại ẩn sĩ, con mong mỏi lời nói của ngài. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố của ngài, con có thể học tập về sự tịch diệt cho bản thân.”

Dhotaka:

1061. Tôn giả Dhô-ta-ka:
Con xin hỏi Thế Tôn,
Mong Ngài trả lời cho,
Con chờ đợi lời Ngài,
Kính thưa bậc Ðại sĩ,
Nghe lời Ngài tuyên bố,
Chúng con sẽ tự mình,
Học tập giới Niết-bàn.

1066. Tena h’ ātappaṃ karohi (dhotakāti bhagavā)
idheva nipako sato,
ito sutvāna nigghosaṃ
sikkhe nibbānamattano.

1066. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) chính vì điều ấy ngươi hãy thực hiện sự năng nỗ, ngay tại nơi này hãy là người có sự chín chắn, có niệm. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố từ nơi đây, nên học tập về sự tịch diệt cho bản thân.”

Thế Tôn:

1062. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Dhô-ta-ka,
Ở đây Ông nhiệt tâm,
Sáng suốt và chánh niệm,
Từ đây, nghe tuyên bố,
Tự học tập Niết-bàn
.

1067. Passāmahaṃ devamanussa loke (iccāyasmā dhotako)
akiñcanaṃ brāhmaṇaṃ iriyamānaṃ,
taṃ taṃ namassāmi samantacakkhu
pamuñca maṃ sakka kathaṃkathāhi.
 

1067. (Tôn giả Dhotaka nói:) “Con nhìn thấy ở thế giới của chư Thiên và loài người vị Bà-la-môn không sở hữu gì đang hành sử (bốn oai nghi). Vì thế, thưa bậc Toàn Nhãn, con xin kính lễ ngài. Thưa vị dòng Sakya, xin ngài hãy giải thoát cho con khỏi các mối nghi ngờ.”

Dhotaka:

1063. Con thấy ở thế giới,
Chư Thiên và loài Người,
Sở hành của Phạm chí,
Không một gì sở hữu.
Con đảnh lễ chính Ngài,
Bậc có mắt cùng khắp,
Kính thưa bậc Thích tử,
Hãy giải thoát cho con,
Tất cả mọi nghi ngờ.

1068. Nāhaṃ gamissāmi pamocanāya (dhotakāti bhagavā)
kathaṃkathiṃ dhotaka kañci loke,
dhammañca seṭṭhaṃ ājānamāno
evaṃ tuvaṃ oghamimaṃ taresi.

1068. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) Ta sẽ không đi đến để giải thoát cho bất cứ người nào có nỗi nghi ngờ ở thế gian. Nhưng trong khi biết rõ Giáo Pháp tối thượng, như thế ngươi có thể vượt qua dòng lũ này.”

Thế Tôn:

1064. Hỡi này Dhô-ta-ka,
Ta sẽ không đi đến,
Giải thoát cho một ai,
Có nghi ngờ ở đời,
Khi pháp được Ông biết,
Là tối thượng tối thắng,
Như vậy Ông vượt khỏi,
Dòng nước chảy mạnh này
.

1069. Anusāsa brahme karaṇāyamāno (iccāyasmā dhotakā)
vivekadhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ,
yathāhaṃ ākāsova avyāpajjamāno
idheva santo asito careyyaṃ.

1069. (Tôn giả Dhotaka nói:) “Thưa đấng Đại Phạm Thiên, xin ngài hãy từ mẫn chỉ dạy pháp viễn ly để con có thể nhận thức được pháp ấy, theo đó, ví như bầu trời không bị xâm phạm, trong khi tồn tại ở chính nơi này con có thể sống, không bị lệ thuộc.”

Dhotaka:

1065. Hãy giáo hóa, từ mẫn,
Ôi bậc đại Phạm thiên,
Ðể con được rõ biết,
Pháp viễn ly vô thượng,
Như vậy con sẽ sống,
Như trời không áp bức,
Sở hành ở đời này,
An tịnh và độc lập
.

1070. Kittayissāmi te santiṃ (dhotakāti bhagavā)
diṭṭhe dhamema anītihaṃ,
yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.

1070. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) Ta sẽ giải bày cho ngươi về sự an tịnh, tự mình chứng ngộ, không phải do nghe nói lại. Sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”

Thế Tôn:

1066. Thế Tôn liền nói rằng:
Hỡi này Dho-ta-ka,
Ta sẽ giảng cho Ông,
Pháp tịch tịnh hiện tại;
Không do xưa truyền lại,
Sau khi biết pháp này,
Hãy sống, giữa chánh niệm
Vượt tham ái ở đời
.

1071. Taṃ vāhaṃ abhinandāmi (iccāyasmā dhotako)
mahesi santimuttamaṃ,
yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.

1071. (Tôn giả Dhotaka nói:) “Thưa bậc đại ẩn sĩ, con thích thú sự an tịnh tối thượng ấy. Sau khi hiểu pháp ấy, có niệm, trong khi sống, con có thể vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”

Dhotaka:

1067. Con cảm thấy hoan hỷ,
Pháp bậc Ðại sĩ giảng,
Pháp tịch tịnh vô thượng;
Sau khi biết pháp này,
Con sẽ sống chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.

1072. Yaṃ kiñci sampajānāsi (dhotakāti bhagavā)
uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe,
etaṃ viditvā saṅgoti loke
bhavābhavāya mākāsi taṇhanti.
 

1072. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) bất cứ điều gì mà ngươi tự mình nhận biết, ở bên trên, bên dưới, luôn cả chiều ngang và khoảng giữa, sau khi hiểu điều này là ‘sự quyến luyến’ ở thế gian, ngươi chớ tạo ra tham ái ở hữu và phi hữu.”

Thế Tôn:

1068. Thế Tôn lời đáp lại:
Hỡi này Dho-ta-ka,
Phàm Ông rõ biết gì,
Cao, thấp, ngang, chặng giữa,
Sau khi được rõ biết,
Tham ái này ở đời,
Chớ tạo nên khát ái
Với hữu và phi hữu.

 

Dhotakasuttaṃ pañcamaṃ. 

 

 

Kinh Dhotaka là thứ năm. 

 
   

 

6. UPASĪVASUTTAṂ

 

 

6. KINH UPASĪVA

 

 

VII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN UPASIVA

 

1073. Eko ahaṃ sakka mahantamoghaṃ (iccāyasmā upasīvo)
anissito no visahāmi tārituṃ,
ārammaṇaṃ brūhi samantacakkhu
yaṃ nissito oghamimaṃ tareyyaṃ.

1073. (Tôn giả Upasīva nói:) “Thưa vị dòng Sakya, con, đơn độc, không nương tựa (nơi nào), không có khả năng vượt qua dòng lũ lớn. Thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói về đối tượng; được nương tựa nơi ấy, con có thể vượt qua dòng lũ này.”

Upasiva:

1069. Tôn giả U-pa-si-va:
Kính thưa bậc Thích tử,
Một mình, không y chỉ,
Con không thể vượt khỏi,
Dòng nước lớn mạnh này,
Kính thưa bậc Biến nhãn,
Hãy nói cho sở duyên,
Y chỉ sở duyên này,
Có thể vượt qua khỏi,
Dòng nước chảy mạnh này
.

1074. Ākiñcaññaṃ pekkhamāno satīmā (upasīvāti bhagavā)
natthīti nissāya tarassu oghaṃ,
kāme pahāya virato kathāhi
taṇhakkhayaṃ nattamahābhipassa.

1074. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) vị không trông mong vô sở hữu xứ, có niệm, sau khi nương tựa vào (ý niệm) ‘không có gì,’ có thể vượt qua dòng lũ. Sau khi dứt bỏ các dục, đã xa lánh hẳn các điều nghi ngờ, ngươi hãy quán sát sự cạn kiệt của tham ái đêm và ngày.”

Thế Tôn:

1070. Ðây lời dạy Thế Tôn:
Này U-pa-si-va,
Biết gìn giữ chánh niệm,
Không mong đợi vật gì,
Ông sẽ vượt bộc lưu,
Nương tựa: "không có gì ",
Ngày đêm ngươi nhận thấy,
Ðoạn dục, ly nghi ngờ,
Ái diệt là Niết-bàn
.

1075. Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (iccāyasmā upasīvo)
ākiñcaññaṃ nissito hitva yaññaṃ,
saññāvimokkhe parame vimutto
tiṭṭhe nu so tattha anānuyāyī.

1075. (Tôn giả Upasīva nói:): “Vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc thấp thỏi) khác, không nương tựa vào vô sở hữu xứ, đã được giải thoát ở sự giải thoát tối thượng đối với tưởng, phải chăng vị ấy nên trụ lại ở nơi ấy, không đi theo nữa?”

Upasiva:

1071. U-pa-si-va nói:
Ai là người ly tham,
Ðối với tất cả dục,
Y chỉ không có gì,
Từ bỏ mọi gì khác,
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Tưởng giải thoát tối thượng,
Tại đấy vị ấy trú,
Không tiếp tục đi tới
.

1076. Sabbesu kāmesu yo vītarāgo (upasīvāti bhagavā)
ākiñcaññaṃ nissito hitvā maññaṃ,
saññāvimokkhe parame vimutto
tiṭṭheyya so tattha anānuyāyī.
 

1076. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) vị nào đã xa lìa sự luyến ái ở tất cả các dục, sau khi từ bỏ pháp (chứng đắc thấp thỏi) khác, không nương tựa vào vô sở hữu xứ, đã được giải thoát ở sự giải thoát tối thượng đối với tưởng, vị ấy nên trụ lại ở nơi ấy, không đi theo nữa.”

Thế Tôn:

1072. Thế Tôn nói như sau:
Này U-pa-si-va,
Ai hoàn toàn ly tham,
Ðối với tất cả dục,
Y chỉ không có gì,
Từ bỏ mọi gì khác,
Ðược giải thoát hoàn toàn,
Tương giải thoát tối thượng,
Tại đấy, vị ấy trú,
Không tiếp tục đi tới.

1077. Tiṭṭhe ce so tattha anānuyāyī (iccāyasmā upasīvo)
yugampi vassānaṃ samantacakkhu,
tattheva so sīti siyā vimutto
cavetha viññāṇaṃ tathāvidhassa.

1077. (Tôn giả Upasīva nói:) “Thưa bậc Toàn Nhãn, nếu vị ấy trụ lại ở nơi ấy, không đi theo nữa, thậm chí một số năm, có phải ngay tại chỗ ấy vị ấy có thể có sự mát mẻ, được giải thoát, và thức (tái sanh) của vị thuộc hạng như thế ấy có thể diệt tắt?”

Upasiva:

1073. Nếu vị ấy tại đấy,
An trú không đi tiếp,
Trong một số nhiều năm,
Ôi bậc có biến nhãn!
Nếu vị ấy tại đấy,
Ðược mát lạnh giải thoát,
Với vị được như vậy,
Còn có thức hay không?

1078. Acci yathā vātavegena khittā (upasīvāti bhagavā)
atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ,
evaṃ munī nāmakāyā vimutto
atthaṃ paleti na upeti saṅkhaṃ.
 

1078. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) giống như ngọn lửa đã bị dập tắt bởi lực đẩy của ngọn gió thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng; tương tự như vậy, vị hiền trí đã được giải thoát khỏi danh thân (tập hợp các yếu tố thuộc về tâm) thời đi đến sự chấm dứt, không đạt đến danh xưng.

Thế Tôn:

1074. Ðây lời Thế Tôn nói:
Hỡi U-pa-si-va!
Cũng giống như ngọn lửa,
Bị sức gió mạnh thổi,
Ði đến chỗ tận cùng,
Không có thể ước lượng,
Cũng vậy, vị ẩn sĩ,
Ðược giải thoát danh thân,
Ði đến chỗ tận cùng,
Không có thể ước lượng.

1079. Atthaṃgato so uda vā so natthi (iccāyasmā upasīvo)
udāhu ve sassatiyā arogo,
taṃ me munī sādhu viyākarohi
tathā hi te vidito esa dhammo.

1079. (Tôn giả Upasīva nói:) “Có phải vị ấy đi đến sự chấm dứt hay vị ấy không có (hiện hữu), hay là vị ấy thật sự ở vào trạng thái trường tồn, vô bệnh? Thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy khéo léo giảng rõ điều ấy cho con, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”

Upasiva:

1075. Vị đi đến tận cùng,
Có phải không hiện hữu,
Hai vị ấy thường hằng,
Ðạt được sự không bệnh,
Lành thay, bậc ẩn sĩ,
Hãy trả lời cho con,
Có vậy, con hiểu được,
Pháp như thật Ngài giảng.

1080. Atthaṃgatassa na pamāṇamatthi (upasīvāti bhagavā)
yena naṃ vajjuṃ taṃ tassa natthi,
sabbesu dhammesu samūhatesu
samūhatā vādapathāpi sabbeti.
 

1080. (Đức Thế Tôn nói: “Này Upasīva,) đối với vị đã đi đến sự chấm dứt, thì không có sự ước lượng (phỏng đoán). Với điều nào người ta có thể nói về vị ấy, thì điều ấy không còn có đối với vị ấy. Khi tất cả các pháp đã được bứng lên, các nền tảng cho việc nói đến cũng được bứng lên.”

Thế Tôn:

1076. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi U-pa-si-va,
Người đi đến tận cùng,
Không thể còn ước lượng,
Với gì, nói đến nó,
Không còn có cái ấy,
Khi tất cả các pháp,
Ðã được nhổ hẳn lên,
Mọi con đường nói phô,
Ðược nhổ lên sạch hết.
 

 

Upasīvasuttaṃ chaṭṭhaṃ. 

 

 

Kinh Upasīva là thứ sáu. 

 
   

 

7. NANDASUTTAṂ

 

 

7. KINH NANDA

 

VIII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN NANDA

1081. Santi loke munayo (iccāyasmā nando)
janā vadanti tayidaṃ kathaṃsu,
ñāṇūpapannaṃ no muniṃ vadanti
udāhu ce jīvitenūpapannaṃ.

1081. (Tôn giả Nanda nói:) “Dân chúng nói rẳng: ‘Có các vị ẩn sĩ ở thế gian,’ theo ngài điều này (có ý nghĩa) thế nào? Họ nói người đã thành tựu về trí là vị ẩn sĩ, hay là người đã thành tựu về lối sống?”

Nanda:

1077. Tôn giả Nan-da nói:
Quần chúng có nói rằng:
Có ẩn sĩ ở đời,
Ngài nghĩ như thế nào?
Chúng gọi là ẩn sĩ
Vị có đầy đủ trí?
Hay vị đầy đủ mạng?

1082. Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (nandāti bhagavā)
munīdha nanda kusalā vadanti,
visenikatvā anīghā nirāsā
caranti ye te munayoti brūmi.

1082. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) không phải do quan điểm, không phải do học thức, không phải do trí, mà các bậc thiện đức ở nơi đây gọi là vị ẩn sĩ. Những người nào đã tiêu diệt đạo binh (ô nhiễm), sống không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng những người ấy là ‘các vị ẩn sĩ.’”

Thế Tôn:

1078. Các bậc thiện nói rằng:
Ở đời này Nan-da,
Không phải vì tri kiến,
Vì truyền thống, vì trí
Ðược gọi là ẩn sĩ,
Ta chỉ gọi ẩn sĩ,
Những ai diệt quân lực,
Không phiền não, không cầu.

1083. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando)
diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ,
sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ
anekarūpena vadanti suddhiṃ
kaccissu te bhagavā tattha yathā carantā
atāru jātiñca jarañca mārisa
pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
 

1083. (Tôn giả Nanda nói:) “Bất cứ những Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do quan điểm và do học thức, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, thưa đức Thế Tôn, có phải những vị ấy, trong lúc sống như thế ở nơi ấy, họ đã vượt qua sanh và già, thưa ngài? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”

Nanda:

1079. Tôn giả Nan-đa thưa:
Có Sa-môn, Phạm chí,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
Bạch Thế Tôn, như vậy,
Là sở hành của chúng,
Vậy Ngài nghĩ thế nào,
Chúng có thể vượt qua,
Sanh và già thưa Ngài,
Con kính hỏi Thế Tôn,
Mong Ngài trả lời con.

1084. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (nandāti bhagavā)
diṭṭhena sutenāpi vadanti suddhiṃ,
sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ
anekarūpena vadanti suddhiṃ
kiñcāpi te tattha yathā caranti
nātariṃsu jātijaranti brūmi.

1084. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do quan điểm và do học thức, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, mặc dầu những vị ấy, trong lúc sống như thế ở nơi ấy, Ta nói rằng: ‘Họ đã không vượt qua sanh và già.’”

Thế Tôn:

1080. Thế Tôn nói: Nan-đa!
Sa-môn, Phạm chí này,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
Dầu chúng ở tại đây,
Với sở hành như vậy,
Ta nói chúng không vượt,
Khỏi sanh và khỏi già.

1085. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando)
diṭṭhena sutenāpi1 vadanti suddhiṃ,
sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ
anekarūpena vadanti suddhiṃ.
 

1085. (Tôn giả Nanda nói:) “Bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do quan điểm và do học thức, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức.

Nan-da:

1081. Tôn giả Nan-đa thưa:
Sa-môn, Phạm chí này,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.

1086. Te ce muni brūsi anoghatiṇṇo
atha ko carahi devamanussaloke,
atāri jātiñca jarañca mārisa
pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.
 

1086. Thưa bậc hiền trí, nếu ngài nói rằng những vị ấy là không vượt qua dòng lũ, vậy giờ đây người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già, thưa ngài? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”
 

Thưa ẩn sĩ, Ngài nói:
Chúng không vượt bộc lưu,
Vậy ai có thể được,
Giữa thế giới Trời, Người,
Có thể vượt qua được,
Sanh và già, thưa Ngài,
Con xin hỏi Thế Tôn
Mong Ngài trả lời con.

1087. Nāhaṃ sabbe samaṇabrāhmaṇā se (nandā ’ti bhagavā)
jātijarāya nivutāti brūmi:
Ye sūdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā
sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ
anekarūpampi pahāya sabbaṃ,
taṇhaṃ pariññāya anāsavā se
te ve narā oghatiṇṇāti brūmi.

1087. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) Ta không nói rằng tất cả các vị Sa-môn và Bà-la-môn đều bị bao trùm bởi sanh và già. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã hiểu toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, Ta nói rằng ‘những con người ấy thật sự đã vượt qua dòng lũ.’”
 

Thế Tôn:

1082. Thế Tôn nói: Nan-đa
Ta không nói tất cả,
Sa-môn, Bà-la-môn
Bị sanh già che lấp.
Những ai ở đời này,
Ðoạn tận khắp tất cả,
Ðiều được nghe được thấy,
Ðược cảm tưởng, giới cấm,
Và đoạn nhiều pháp khác,
Liễu tri ái, vô lậu,
Ta nói những người ấy,
Vượt qua được bộc lưu.

1088. Etābhinandāmi vaco mahesino (iccāyasmā nando)
sukittitaṃ gotamanūpadhīkaṃ
ye sūdha4 diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā
sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ
anekarūpampi pahāya sabbaṃ,
taṇhaṃ pariññāya anāsavā se
ahampi te oghatiṇṇāti brūmīti.
 

1088. (Tôn giả Nanda nói:) “Thưa ngài Gotama, tôi thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đã khéo được giải bày, không liên quan đến mầm tái sanh. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã hiểu toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, tôi cũng nói rằng ‘những con người ấy thật sự đã vượt qua dòng lũ.’”
 

Nanda:

1083. Con cảm thấy hoan hỷ,
Lời Ðại sĩ Cù-đàm,
Ðược Ngài khéo thuyết giảng,
Về chấm dứt sanh y,
Những ai ở đời này,
Ðoạn tận khắp tất cả,
Ðiều được nghe, được thấy,
Ðược cảm tưởng, giới cấm,
Và đoạn nhiều pháp khác,
Liễu tri ái, vô lậu,
Ta nói những người ấy,
Vượt qua khỏi bộc lưu

 

Nandasuttaṃ sattamaṃ. 

 

 

Kinh Nanda là thứ bảy. 

 
   

 

8. HEMAKASUTTAṂ

 

 

8. KINH HEMAKA

 

IX. CÁC CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN HEMAKA

1089. Ye me pubbe viyākaṃsu (iccāyasmā hemako)
huraṃ gotamasāsanaṃ,
iccāsi iti bhavissati
sabbaṃ taṃ itihītihaṃ
sabbaṃ taṃ takkavaḍḍhanaṃ
nāhaṃ tattha abhiramiṃ.

1089. (Tôn giả Hemaka nói:) “Những người nào trước đây đã giảng giải cho tôi khác với lời dạy của Gotama (nói rằng): ‘Đã là như vầy, sẽ là như vầy,’ mọi điều ấy đều do nghe nói lại theo truyền thống, mọi điều ấy đều là sự tăng trưởng suy tầm (về dục), tôi không thích thú ở nơi ấy.

Hemaka:

1084. Tôn giả He-ma-ka:
Những ai trong thời trước,
Ðã trả lời cho con,
Về lời dạy Cù-đàm,
Trước đã như thế nào,
Sau sẽ là như vậy,
Tất cả đều truyền thống,
Tất cả tăng suy tư.

1090. Tvañca me dhammamakkhāhi taṇhā nigghātanaṃ muni,
yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.

1090. Và thưa bậc hiền trí, xin ngài hãy nói cho tôi về pháp diệt trừ tham ái; sau khi hiểu pháp ấy, tôi có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”

1085. Ðây, con không hoan hỷ,
Ngài nói Pháp cho con,
Ôi mong bậc ẩn sĩ,
Nói Pháp đoạn khát ái,
Biết xong, sống chánh niệm,
Vượt ái trước ở đời.

1091. Idha diṭṭhasutamuta viññātesu piyarūpesu hemaka,
chandarāgavinodanaṃ nibbāṇapadamaccutaṃ.

1091. “Này Hemaka, ở đây, về các hình thức đáng yêu đã được thấy-đã được nghe-đã được cảm giác-đã được nhận thức là sự xua đi mong muốn và luyến ái (ở chúng), là vị thế Niết Bàn, Bất Hoại.

Thế Tôn:

1086. He-ma-ka ở đây,
Ðối các Pháp khả ái,
Ðược nghe và được thấy,
Ðược cảm tưởng, nhận thức,
Tẩy sạch ước muốn tham,
Là Niết-bàn, bất tử.

1092. Etadaññāya ye satā diṭṭhadhammābhinibbutā,
upasantā ca te sadā tiṇṇā loke visattikanti.
 

1092. Sau khi nhận biết điều này, những vị nào có niệm, đã nhận thức được Giáo Pháp, đã được diệt tắt, và luôn luôn an tịnh, những vị ấy đã vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.”

1087. Biết vậy, giữ chánh niệm,
Hiện tại, đạt mát lạnh,
Vị ấy thường an tịnh,
Vượt chấp trước ở đời.
 

 

Hemakasuttaṃ aṭṭhamaṃ. 
 

 

Kinh Hemaka là thứ tám. 

 

 

 9. TODEYYASUTTAṂ

 

 

9. KINH TODEYYA

 

 

X. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN TODEYYA

 

1093. Yasmiṃ kāmā na vasanti (iccāyasmā todeyyo)
taṇhā yassa na vijjati,
kathaṃkathā ca yo tiṇṇo vimokho tassa kīdiso.

1093. (Tôn giả Todeyya nói:) “Ở người nào các dục không sinh tồn, đối với người nào tham ái không tìm thấy, và người nào đã vượt qua các sự nghi ngờ, sự giải thoát của người ấy là như thế nào?”  

Todeyya:

1088. Tôn giả Tô-đê-ya:
Ai sống không dục vọng,
Ai sống không có ái,
Ai vượt khỏi nghi hoặc,
Giải thoát của vị ấy,
Giải thoát như thế nào?

1094. Yasmiṃ kāmā na vasanti (todeyyāti bhagavā)
taṇhā yassa na vijjati,
kathaṃkathā ca yo tiṇṇo vimokho tassa nāparo.
 

1094. (Đức Thế Tôn nói: “Này Todeyya,) ở người nào các dục không sinh tồn, đối với người nào tham ái không tìm thấy, và người nào đã vượt qua các sự nghi ngờ, đối với người ấy không có sự giải thoát khác nữa.”

Thế Tôn:

1089. Ðây lời nói Thế Tôn:
Hỡi nãy Tô-đê-ya,
Ai sống không dục vọng,
Ai sống không có ái,
Ai vượt khỏi nghi hoặc
Giải thoát của vị ấy
Không có gì là khác
.

1095. Nirāsaso so uda āsasāno
paññāṇavā so uda paññakappī,
muniṃ ahaṃ sakka yathā vijaññaṃ
taṃ me viyācikkha samantacakkhu.

1095. “Vị ấy có sự không mong ước, hay có sự mong ước? Vị ấy có tuệ hay có sự sắp đặt về tuệ? Thưa vị dòng Sakya, để cho tôi có thể nhận biết về vị hiền trí, thưa bậc Toàn Nhãn, xin ngài hãy nói rõ điều ấy cho tôi.”

Todeyya:

1090. Vị sống không ước vọng
Hay sống có ước vọng,
Vị ấy có trí tuệ,
Hay tác thành trí tuệ,
Ôi kính bậc Biến nhãn,
Hãy trả lời con rõ,
Ðể con có thể biết,
Thế nào là ẩn sĩ,
Ôi kính bậc Thích tử.

1096. Nirāsaso1 so na so āsasāno
paññāṇavā so na ca paññakappī,
evampi todeyya muniṃ vijāna
akiñcanaṃ kāmabhave asattanti.
 

1096. “Vị ấy có sự không mong ước, vị ấy không có sự mong ước. Vị ấy có tuệ và không có sự sắp đặt về tuệ. Này Todeyya, ngươi hãy nhận biết về vị hiền trí là như vậy, là vị không sở hữu gì, không bị dính mắc ở dục và hữu.”

Thế Tôn:

1091. Vị sống không ước vọng,
Không có ước vọng nào,
Vị ấy có trí tuệ,
Không tác thành trí tuệ,
Như vậy, Tô-đê-ya,
Hãy biết bậc ẩn sĩ,
Không có sở hữu gì,
Không tham dính dục hữu.

 

Todeyyasuttaṃ navamaṃ.

 

 

Kinh Todeyya là thứ chín.

 

 
   

 

10. KAPPASUTTAṂ

 

 

10. KINH KAPPA

 

 

XI. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN KAPPA

 

1097. Majjhe sarasmiṃ tiṭṭhataṃ (iccāyasmā kappo)
oghe jāte mahabbhaye,
jarāmaccuparetānaṃ dīpaṃ pabrūhi mārisa,
tvañca me dīpamakkhāhi yathāyidaṃ nāparā siyā.

1097. (Tôn giả Kappa nói:) “Đối với những người đang đứng giữa hồ nước, ở dòng lũ có sự nguy hiểm lớn đã được sanh ra, thưa ngài, xin ngài hãy nói về hòn đảo dành cho những người đang bị chế ngự bởi sanh và chết. Và xin ngài hãy giải thích cho tôi về hòn đảo để điều này không thể xảy ra lần khác nữa.” 

Kappa:

1092. Tôn giả Káp-pa nói:
Những ai đứng giữa nước,
Trong dòng nước mạnh chảy,
Giữa sợ hãi lớn lao,
Thưa Ngài hãy nói lên,
Hòn đảo cho những kẻ,
Bị già chết chinh phục,
Ngài nói con hòn đảo,
Ðể không có khổ khác,
Giống như đau khổ này.

1098. Majjhe sarasmiṃ tiṭṭhataṃ (kappāti bhagavā)
oghe jāte mahabbhaye,
jarāmaccuparetānaṃ dīpaṃ pabrūmi kappa te.

1098. (Đức Thế Tôn nói: “Này Kappa,) đối với những người đang đứng giữa hồ nước, ở dòng lũ có sự nguy hiểm lớn đã được sanh ra, này Kappa, Ta sẽ nói cho ngươi về hòn đảo dành cho những người đang bị chế ngự bởi sanh và chết.

Thế Tôn:

1093. Thế Tôn nói Kap-pa,
Những ai đứng giữa nước,
Trong dòng nước mạnh chảy,
Giữa sợ hãi lớn lao,
Ta nói Ông hòn đảo,
Cho những ai đang bị,
Già và chết chinh phục.

1099. Akiñcanaṃ anādānaṃ etaṃ dīpaṃ anāparaṃ,
nibbānamiti taṃ brūmi jarāmaccuparikkhayaṃ.

1099. Hòn đảo này là không sở hữu gì, không nắm giữ, không có cái nào khác, Ta gọi cái ấy là ‘Niết Bàn,’ sự diệt tận sanh và chết.

1094. Hòn đảo vô song này,
Không sở hữu, chấp trước,
Ta nói Ông Niết-bàn,
Già chết được đoạn diệt,

1100. Etadaññāya ye satā diṭṭhadhammābhinibbutā,
na te māravasānugā na te mārassa paddhagūti.
 

1100. Sau khi nhận biết điều này, những người nào có niệm, đã nhận thức được Giáo Pháp, đã được diệt tắt, những người ấy không đi theo quyền lực của Ma Vương, những người ấy không là nô bộc của Ma Vương.”

 

1095. Biết vậy, giữ chánh niệm,
Hiện tại đạt mát lạnh,
Không rơi vào ma lực,
Không tùy tùng theo ma.

 

Kappasuttaṃ dasamaṃ.

 

 

Kinh Kappa là thứ mười.

 

 
   

 

11. JATUKAṆṆISUTTAṂ

 

 

11. KINH JATUKAṆṆI

 

 

XII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN JATUKANNI

 

1101. Sutvān’ ahaṃ vīraṃ akāmakāmiṃ (iccāyasmā jatukaṇṇi )
oghātigaṃ puṭṭhumakāmamāgamaṃ,
santipadaṃ brūhi sahājanetta
yathātacchaṃ bhagavā brūhi metaṃ.

1101. (Tôn giả Jatukaṇṇi nói:) “Sau khi nghe về bậc anh hùng, vị không có lòng ham muốn các dục, tôi đã đi đến để hỏi bậc đã vượt qua dòng lũ, không có lòng ham muốn. Thưa bậc có nhãn quan (Toàn Giác) đã được đồng sanh, xin ngài hãy nói về vị thế an tịnh. Thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy nói cho tôi về điều này đúng theo sự thật.

Jatukanni:

1096. Ja-tu-kan-ni nói:
Ðược nghe bậc anh hùng,
Không tham đắm dục vọng,
Nên con đã đến đây,
Ðể hỏi bậc vô dục,
Ðã thoát khỏi bộc lưu,
Bậc sanh với con mắt,
Hãy nói đường an tịnh,
Thế Tôn hãy như thật,
Nói cho con được biết.

1102. Bhagavā hi kāme abhibhuyya iriyati
ādiccova paṭhaviṃ teji tejasā,
parittapaññassa me bhūripañña,
ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ
jātijarāya idha vippahānaṃ.
 

1102. Bởi vì sau khi đã chế ngự các dục, đức Thế Tôn hành sử (các oai nghi) ví như mặt trời có sức nóng (chế ngự) trái đất bằng sức nóng. Thưa bậc có tuệ bao la, đối với tôi là người có tuệ nhỏ nhoi, xin ngài hãy chỉ bảo về Giáo Pháp để tôi có thể nhận thức sự lìa bỏ đối với sanh và già ở nơi đây.”

1097. Chinh phục dục vọng xong,
Thế Tôn sống ở đời,
Như mặt trời chiếu sáng,
Cõi đất với hào quang,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Hãy nói pháp cho con,
Kẻ trí tuệ bé nhỏ,
Do rõ biết pháp này,
Ở đây, con đoạn được,
Kể cả sanh và già.

1103. Kāmesu vinaya gedhaṃ (jatukaṇṇīti bhagavā)
nekkhammaṃ daṭṭhu khemato,
uggahītaṃ nirattaṃ vā mā te vijjittha kiñcanaṃ.
 

1103. (Đức Thế Tôn nói: “Này Jatukaṇṇi,) ngươi hãy xua đi sự thèm khát ở các dục để nhìn thấy sự xuất ly là an toàn. Đối với ngươi, chớ có bất cứ điều gì được nắm bắt hay bị rời bỏ.
 

Thế Tôn:

1098. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi Ja-tu-kan-ni!
Hãy nhiếp phục lòng tham,
Ðối với các dục vọng;
Hãy nhìn hạnh xuất ly,
Ðưa đến sự an ổn;
Chớ chấp chờ, từ bỏ,
Sự vật gì ở đời.

1104. Yaṃ pubbe taṃ visosehi pacchā te māhu kiñcanaṃ,
majjhe ce no gahessasi upasanto carissasi.
 

1104. Điều (ô nhiễm) nào trước đây (quá khứ), ngươi hãy làm cho nó khô héo. Chớ có bất cứ (ô nhiễm) gì ở nơi ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi sẽ không nắm lấy (điều gì) ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống an tịnh.
 

1099. Những gì có trước Ông,
Hãy làm nó khô cạn,
Ðừng có sự vật gì,
Ở phía đàng sau Ông,
Ở giữa, Ông không chấp,
Ông sẽ sống an tịnh.

1105. Sabbaso nāmarūpasmiṃ vītagedhassa brāhmaṇa,
āsavāssa na vijjanti yehi maccuvasaṃ vajeti.
 

1105. Này ông Bà-la-môn, đối với vị đã xa lìa sự thèm khát ở danh và sắc về mọi phương diện, đối với vị ấy các lậu hoặc không hiện hữu, bởi vì chúng con người rơi vào sự thống trị của Tử thần.”
 

1100. Hỡi này Bà-la-môn!
Ðối với danh và sắc,
Hoàn toàn không tham đắm,
Không có các lậu hoặc,
Chính do lậu hoặc này,
Bị thần chết chi phối.

 

Jatukaṇṇisuttaṃ ekādasamaṃ.

 

 

Kinh Jatukaṇṇi là thứ mười một.

 

 

   

 

12. BHADRĀVUDHASUTTAṂ

 

 

12. KINH BHADRĀVUDHA

 

 

XIII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN BHADRĀVUDHA

 

1106. Okaṃ jahaṃ taṇhacchidaṃ anejaṃ (iccāyasmā bhadrāvudho)
nandiṃ jahaṃ oghatiṇṇaṃ vimuttaṃ,
kappaṃ jahaṃ abhiyāce sumedhaṃ
sutvāna nāgassa apanamissanti ito.

1106. (Tôn giả Bhadrāvudha nói:) “Tôi khẩn cầu bậc khôn ngoan, bậc từ bỏ chỗ trú ngụ, bậc cắt đứt tham ái, bậc không còn dục vọng, bậc từ bỏ thú vui, bậc đã vượt qua dòng lũ, bậc đã được giải thoát, bậc từ bỏ sự sắp đặt (do tham ái và tà kiến). Sau khi lắng nghe (lời nói) của bậc Long Tượng, từ đây họ sẽ ra đi.

Bhadràvudha:

1101. Bha-đra-vu-đa nói:
Con có lời yêu cầu,
Bậc Thiện Tuệ nói lên,
Bậc bỏ nhà, đoạn ái,
Bất động, bỏ hỷ ái,
Giải thoát, vượt bộc lưu,
Thời gian, không chi phối,
Nghe xong, bậc Long tượng,
Từ đây, họ ra đi.

1107. Nānā janā janapadehi saṅgatā
tava vīra vākyaṃ abhikaṅkhamānā,
tesaṃ tuvaṃ sādhu viyākarohi
tathā hi te vidito esa dhammo.

1107. Thưa bậc anh hùng, vô số người từ các xứ sở đã tụ hội lại, mong muốn lời nói của ngài. Xin ngài hãy khéo léo giải thích cho họ, bởi vì pháp này đã được ngài biết đúng theo bản thể.”

1102. Quần chúng sai biệt ấy,
Từ quốc độ tụ họp,
Họ ao ước khát vọng,
Ðược nghe lời của Ngài,
Ôi anh hùng chiến thắng,
Ngài hãy khéo trả lời,
Pháp Ngài dạy thế này,
Như vậy họ hiểu biết.

1108. Ādānataṇhaṃ vinayetha sabbaṃ (bhadrāvudhāti bhagavā)
uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe,
yaṃ yaṃ hi lokasmiṃ upādiyanti
teneva māro anveti jantuṃ.

1108. (Đức Thế Tôn nói: “Này Bhadrāvudha,) nên xua đi sự nắm giữ và tham ái, ở bên trên, bên dưới, luôn cả chiều ngang và khoảng giữa. Bởi vì, mỗi một điều gì họ chấp thủ ở thế gian, do chính điều ấy Ma Vương theo đuổi loài người.

Thế Tôn:

1103. Thế Tôn nói như sau:
Này Bha-đra-vu-đa!
Hãy nhiếp phục tất cả,
Mọi tham ái chấp thủ,
Trên, dưới cả bề ngang,
Và kể luôn chặng giữa,
Những ai có chấp thủ,
Sự gì ở trong đời,
Chính do sự việc ấy,
Ác ma theo người ấy.

1109. Tasmā pajānaṃ na upādiyetha
bhikkhu sato kiñcanaṃ sabbaloke,
ādānasatte iti pekkhamāno
pajaṃ imaṃ maccudheyye visattanti.

 

1109. Vì thế, trong khi nhận biết rằng: ‘Họ bị dính mắc ở sự nắm giữ,’ trong khi xem xét nhân loại này bị vướng mắc ở lãnh địa của Thần Chết, vị tỳ khưu, có niệm, không nên chấp thủ bất cứ điều gì ở khắp thế gian.”

1104. Do vậy, bậc hiểu biết,
Không có chấp thủ gì,
Tỷ-kheo giữ chánh niệm,
Trong tất cả thế giới,
Phàm có sở hữu gì,
Vị ấy không mong ước,
Nhìn xem quần chúng này,
Là chúng sanh chấp thủ,
Trong lãnh vực của Ma,
Bị tham dính chấp trước.

 

Bhadrāvudhasuttaṃ dvādasamaṃ.

 

 

Kinh Bhadrāvudha là thứ mười hai.

 

 

   

 

13. UDAYASUTTAṂ

 

13. KINH UDAYA

 

XIV. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN UDAYA

 

1110. Jhāyiṃ virajamāsīnaṃ (iccāyasmā udayo)
katakiccaṃ anāsavaṃ
pāraguṃ sabbadhammānaṃ atthi pañhena āgamaṃ,
aññāvimokkhaṃ pabrūhi avijjāya pabhedanaṃ.

1110. (Tôn giả Udaya nói:) “Với ý định (hỏi) câu hỏi, tôi đã đi đến bậc có thiền chứng, không còn ô nhiễm, đã làm xong phận sự, không còn lậu hoặc, đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp, xin ngài hãy nói về sự giải thoát do trí giác ngộ, về sự phá vỡ vô minh.

Udaya:

1105. Tôn giả U-da-ya:
Con đến với câu hỏi,
Về tất cả mọi pháp,
Ðể hỏi bậc tu thiền,
Bậc an tọa không bụi;
Trách nhiệm đã làm xong,
Bậc không có lậu hoặc,
Ðã đạt bờ bên kia,
Hãy nói trí giải thoát
Ðể phá hoại vô minh.

1111. Pahānaṃ kāmacchandānaṃ (udayāti bhagavā)
domanassānaṃ cūbhayaṃ,
thīnassa ca panūdanaṃ kukkuccānaṃ nivāraṇaṃ.

1111. (Đức Thế Tôn nói: “Này Udaya,) sự dứt bỏ đối với lòng mong muốn ngũ dục và nỗi ưu phiền, cả hai loại, sự xua đi dã dượi, và sự chế ngự các trạng thái hối hận.

Thế Tôn:

1106. Ðây lời Thế Tôn nói:
Hỡi này U-đa-ya,
Ðoạn ước muốn, dục vọng,
Và cả hai loại ưu,
Và trừ bỏ hôn trầm,
Ngăn chận mọi hối hận.

1112. Upekhāsatisaṃsuddhaṃ dhammatakkapurejavaṃ,
aññāvimokkhaṃ pabrūmi avijjāya pabhedanaṃ.
 

1112. Ta nói về sự giải thoát do trí giác ngộ, về sự phá vỡ vô minh có xả và niệm đã được thanh tịnh, có sự suy tầm đúng pháp đi trước.”

1107. Ta nói trí giải thoát,
Ðể phá hoại vô minh,
Thanh tịnh nhờ xả niệm,
Suy tư pháp đi trước.

1113. Kiṃsu saṃyojano loko (iccāyasmā udayo)
kiṃsu tassa vicāraṇā,
kissassa vippahānena nibbānamiti vuccati.
 

1113. (Tôn giả Udaya nói:) “Thế gian có cái gì là sự ràng buộc? Cái gì là phương tiện xét đoán của nó? Do lìa bỏ cái gì được gọi là ‘Niết Bàn’?”

Udaya:

1108. Ðời cái gì trói buộc,
Cái gì, đời vận hành?
Do đoạn được cái gì,
Ðược gọi là Niết-bàn?

1114. Nandisaṃyojano loko (udayāti bhagavā)
vitakkassa vicāraṇā,
taṇhāya vippahānena nibbānamiti vuccati.

1114. (Đức Thế Tôn nói: “Này Udaya,) thế gian có vui thích là sự ràng buộc? Suy tầm là phương tiện xét đoán của nó. Do lìa bỏ tham ái được gọi là ‘Niết Bàn.’”

Thế Tôn:

1109. Ðời bị hỷ trói buộc,
Suy tầm là sở hành,
Do đoạn được khát ái,
Ðược gọi là Niết-bàn.

1115. Kathaṃ satassa carato (iccāyasmā udayaṃ)
viññāṇaṃ uparujjhati,
bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma taṃ suṇoma vaco tava.

1115. (Tôn giả Udaya nói:) “Đối với vị đang thực hành niệm, thức (của vị ấy) được hoại diệt như thế nào? Chúng tôi đã đi đến để hỏi đức Thế Tôn, hãy cho chúng tôi nghe lời nói của ngài.”

Udaya:

1110. Người sở hành chánh niệm,
Thức được diệt thế nào?
Con đến hỏi Thế Tôn,
Nghe lời Thế Tôn nói.

1116. Ajjhattañca bahiddhā ca vedanaṃ nābhinandito,
evaṃ satassa carato viññāṇaṃ uparujjhatīti.
 

1116. “Đối với vị không thích thú cảm thọ ở nội phần và ngoại phần, đối với vị đang thực hành niệm như vậy, thức (của vị ấy) được hoại diệt.”

Thế Tôn:

1111. Ai không có hoan hỷ,
Với nội và ngoại thọ,
Sở hành chánh niệm vậy,
Thức đạt được hoại diệt.

 

Udayasuttaṃ terasamaṃ.

 

 

Kinh Udaya là thứ mười ba.

 

 

   

 

14. POSĀLASUTTAṂ

 

 

14. KINH POSĀLA

 

XV. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN POSĀLA

1117. Yo atītaṃ ādiyati (iccāyasmā posālo)
anejo chinnasaṃsayo,
pāraguṃ sabbadhammānaṃ atthi pañhena āgamaṃ.

1117. (Tôn giả Posāla nói:) “Với ý định (hỏi) câu hỏi, tôi đã đi đến bậc đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp, vị chỉ ra thời quá khứ, không còn dục vọng, đã cắt đứt sự nghi ngờ.

Posàla:

1112. Tôn giả Po-sa-la:
Vị nói về quá khứ,
Bất động nghi hoặc đoạn,
Ðã đến bờ bên kia,
Con đến với câu hỏi
Hỏi về hết thảy pháp.

1118. Vibhūtarūpasaññissa sabbakāyappahāyino,
ajjhattañca bahiddhā ca natthi kiñcīti passato,
ñāṇaṃ sakkānupucchāmi kathaṃ neyyo tathāvidho.

1118. Đối với vị có sắc tưởng đã không còn, có sự dứt bỏ toàn bộ về thân, đang nhìn thấy nội phần và ngoại phần là ‘không có gì,’ thưa vị dòng Sakya, tôi hỏi thêm về trí (của vị ấy). Vị thuộc hạng như thế ấy nên được hướng dẫn như thế nào?”
 

1113. Với ai, sắc tưởng diệt,
Ðoạn tận hết thảy thân,
Nhìn thấy nội và ngoại,
Thật sự không có gì,
Con hỏi bậc Thích-ca,
Thế nào người như vậy,
Có thể bị dắt dẫn?

1119. Viññāṇaṭṭhitiyo sabbā (posālāti bhagavā)
abhijānaṃ tathāgato,
tiṭṭhantamenaṃ jānāti vimuttaṃ tapparāyaṇaṃ.
 

1119. (Đức Thế Tôn nói: “Này Posāla,) trong khi biết rõ tất cả các chỗ trú của thức, đức Như Lai biết vị ấy đang trú (ở đâu), được tự do, có nơi ấy là mục tiêu chính yếu.

Thế Tôn:

1114. Thế Tôn bèn đáp rằng:
Hỡi này Pô-sa-la,
Như Lai được thắng trí,
Tất cả nhờ thức trú,
Rõ biết vị an trú,
Giải thoát, đạt cứu cánh.

1120. Ākiñcaññāsambhavaṃ ñatvā nandi saṃyojanaṃ iti,
evametaṃ abhiññāya tato tattha vipassati,
etaṃ ñāṇaṃ tathaṃ tassa brāhmaṇassa vusīmato ”ti.
 

1120. Sau khi biết được nguồn sanh khởi của Vô sở hữu xứ, (biết được) ‘vui thích là sự ràng buộc,’ sau khi biết rõ điều ấy như vậy, từ đó nhìn thấy rõ nơi ấy; đây là trí như thật của vị Bà-la-môn đã sống hoàn hảo ấy.”
 

1115. Biết được sự tác thành,
Thuộc về vô sở hữu,
Biết hỷ là kiết sử,
Do thắng tri như vậy,
Tại đấy, thấy như vậy,
Ðây là trí như thật,
Của vị Bà-la-môn,
Ðã thành tựu Phạm hạnh.

 

Posālasuttaṃ cuddasamaṃ. 

 

 

Kinh Posāla là thứ mười bốn. 

 
   

 

15. MOGHARĀJASUTTAṂ

 

 

15. KINH MOGHARĀJA

 

 

XVI. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN MOGHARĀJA

 

1121. Dvāhaṃ sakka apucchissaṃ (iccāyasmā mogharājā)
na me vyākāsi cakkhumā,
yāva tatiyañca devīsi vyākarotīti me sutaṃ.

1121. (Tôn giả Mogharājā nói:) “Thưa vị dòng Sakya, tôi đã hỏi hai lần. Bậc Hữu Nhãn đã không giải thích điều ấy cho tôi. Và tôi đã được nghe rằng: ‘(Được hỏi) đến lần thứ ba, bậc Thiên Nhân Ẩn Sĩ (sẽ) giải thích.’

Mogharàja:

1116. Mo-gha-rà-ja nói:
Ðã hai lần con hỏi,
Bậc có mắt, họ Thích,
Ngài chưa trả lời con,
Nhưng con được nghe rằng,
Cho đến lần thứ ba,
Vị Thiên nhân ẩn sĩ,
Sẽ trả lời cho con.

1122. Ayaṃ loko paro loko brahmaloko sadevako,
diṭṭhiṃ te nābhijānāti gotamassa yasassino.

1122. Thế giới này, thế giới khác, thế giới Phạm Thiên luôn cả chư Thiên không biết rõ quan điểm của ngài, của vị Gotama có danh tiếng.

1117. Ðời này và đời sau,
Phạm thiên giới, thiên giới,
Con không rõ quan điểm,
Gotama lừng danh.

1123. Etaṃ abhikkantadassāviṃ atthi pañhena āgamaṃ,
kathaṃ lokaṃ avekkhantaṃ maccurājā na passati.

1123. Với ý định (hỏi) câu hỏi, tôi đã đi đến bậc có nhãn quan vượt trội này. Người đang xem xét thế gian như thế nào thì Tử Thần không nhìn thấy (người ấy)?”

1118. Vị thầy được thù diệu,
Con đến với câu hỏi,
Cần nhìn đời thế nào,
Ðể thần chết không thấy.

1124. Suññato lokaṃ avekkhassu mogharāja sadā sato,
attānudiṭṭhiṃ ūhacca evaṃ maccutaro siyā,
evaṃ lokaṃ avekkhantaṃ maccurājā na passatīti.
 

1124. “Này Mogharāja, ngươi hãy xem xét thế giới là trống không, luôn luôn có niệm. Sau khi nhổ lên tà kiến về bản ngã, như vậy có thể vượt qua sự chết. Người đang xem xét thế gian như vậy, Thần Chết không nhìn thấy (người ấy).”

Thế Tôn:

1119. Này Mô-gha-ra-ja,
Hãy nhìn đời trống không,
Luôn luôn giữ chánh niệm,
Nhô lên ngã tùy kiến,
Như vậy vượt tử vong,
Hãy nhìn đời như vậy,
Thần chết không thấy được.

 

Mogharājasuttaṃ paṇṇarasamaṃ. 

 

 

Kinh Mogharāja là thứ mười lăm. 

 
   

 

16. PIṄGIYASUTTAṂ

 

 

16. KINH PIṄGIYA

 

XVII. CÂU HỎI CỦA THANH NIÊN PINGIYA

1125. Jiṇṇohamasmi abalo vītavaṇṇo (iccāyasmā piṅgiyo)
nettā na suddhā savanaṃ na phāsu,
māhaṃ nassaṃ momuho antarāva
ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ
jātijarāya idha vippahānaṃ.
 

1125. (Tôn giả Piṅgiya nói:) “Tôi đã già, yếu sức, không còn vẻ đẹp, cặp mắt không còn trong sáng, việc nghe không thoải mái, mong rằng tôi chớ mệnh chung ngay trong lúc mê muội. Xin ngài hãy chỉ bảo về Giáo Pháp để tôi có thể nhận thức sự lìa bỏ đối với sanh và già ở nơi đây.”

Pingiya:

1120. Tôn giả Pin-gi-ya:
Con đã già, yếu đuối,
Không còn có dung sắc,
Mắt không thấy rõ ràng,
Tai không nghe thông suốt,
Ðể con khỏi mệnh chung,
Với tâm tư si ám,
Mong Ngài nói Chánh pháp,
Nhờ rõ biết pháp ấy,
Chính tại ở đời này,
Con đoạn tận sanh già.

1126. Disvāna rūpesu vihaññamāne (piṅgiyāti bhagavā)
rūppanti rūpesu janā pamattā,
tasmā tuvaṃ piṅgiya appamatto
jahassu rūpaṃ apunabbhavāya.
 

1126. (Đức Thế Tôn nói: “Này Piṅgiya,) sau khi nhìn thấy những người bị sầu khổ ở các sắc, các hạng người xao lãng bị khổ sở ở các sắc, này Piṅgiya, vì thế, (là người) không xao lãng, ngươi hãy từ bỏ sắc để không còn hiện hữu lại nữa.”

Thế Tôn:

1121. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Pin-gi-ya,
Thấy được sự tác hại,
Trong các loại sắc pháp,
Chúng sanh sống phóng dật,
Bị phiền lụy trong sắc,
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật,
Hãy từ bỏ sắc pháp
Chớ đi đến tái sanh.

1127. Disā catasso vidisā catasso
uddhaṃ adho dasadisā imāyo
na tuyhaṃ adiṭṭhaṃ asutaṃ ’mutaṃ vā,
atho aviññāṇaṃ kiñci na matthi loke
ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ
jāti jarāya idha vippahānaṃ.

1127. “Bốn hướng chính, bốn hướng phụ, bên trên, bên dưới, đây là mười phương. Đối với ngài, không có điều gì ở thế gian là không được thấy, không được nghe, không được cảm giác, và không được nhận thức (bởi ngài). Xin ngài hãy chỉ bảo về Giáo Pháp để tôi có thể nhận thức sự lìa bỏ đối với sanh và già ở nơi đây.”

Pingiya:

1122. Bốn phương chính, bốn phụ,
Cộng thêm trên và dưới,
Như vậy có mười phương,
Và trong thế giới này,
Không có sự việc gì,
Mà Ngài không được thấy,
Không nghe, không nghĩ đến,
Và không được thức tri,
Hãy nói đến Chánh pháp,
Nhờ rõ biết pháp này,
Con ngay tại đời này,
Ðoạn tận được sanh già.

1128. Taṇhādhipanne manuje pekkhamāno (piṅgiyāti bhagavā)
santā pajā te jarasā parete,
tasmā tuvaṃ piṅgiya appamatto
jahassu taṇhaṃ apunabbhavāyāti.
 

1128. (Đức Thế Tôn nói: “Này Piṅgiya,) trong khi nhìn xem những người theo đuổi tham ái bị chế ngự bởi sự già, những con người ấy bị mệt mỏi, này Piṅgiya, vì thế, (là người) không xao lãng, ngươi hãy từ bỏ tham ái để không còn hiện hữu lại nữa.”

Thế Tôn:

1123. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi này Pin-gi-ya!
Thấy chúng sanh loài Người,
Rơi vào trong khát ái,
Bị già nua đốt cháy,
Bị già nua chinh phục
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật
Hãy từ bỏ khát ái,
Không còn bị tái sanh.

 

Piṅgiyasuttaṃ soḷasamaṃ. 

 

 

Kinh Piṅgiya là thứ mười sáu. 

 
  

 

XVIII. KẾT LUẬN

 

Idamavoca bhagavā magadhesu viharanto pāsāṇake cetiye paricārikasoḷasānaṃ brāhmaṇānaṃ ajjhiṭṭho puṭṭho puṭṭho pañhe vyākāsi, ekamekassa cepi pañhassa atthamaññāya dhammamaññāya dhammānudhammaṃ paṭipajjeyya gaccheyyeva jarāmaraṇassa pāraṃ pāraṅgamanīyā ime dhammāti. Tasmā imassa dhammapariyāyassa pārāyananteva adhivacanaṃ:

Đức Thế Tôn đã nói điều này trong lúc cư ngụ ở xứ sở Magadha tại bảo điện Pāsāṇaka. Được yêu cầu bởi mười sáu vị Bà-la-môn tùy tùng (của Bà-la-môn Bāvarī), Ngài đã giải thích các câu hỏi mỗi khi được hỏi. Nếu sau khi hiểu thông ý nghĩa của từng câu hỏi một, sau khi hiểu thông Giáo Pháp, thì có thể thực hành đúng pháp và thuận pháp, và còn có thể đi đến bờ kia của sự già và sự chết. Các pháp này là sẽ đi đến bờ kia, vì thế, tên gọi của bài giảng pháp này là ‘Đi Đến Bờ Kia.’

Thế Tôn nói như vậy. Trong khi ở tại Magadha, tại điện Phà-xa-na-ka, Thế Tôn được mười sáu Bà-la-môn đệ tử của Bàvani tìm đến, được hỏi nhiều câu hỏi và Ngài đã trả lời. Nêu từng câu hỏi một, sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, thực hành pháp và tùy pháp, thì có thể đi đến bờ bên kia của già chết. Những pháp này có thể đưa người qua bờ bên kia, cho nên pháp môn này cũng được gọi là Pàràyanam: "Con đường đưa đến bờ bên kia".

1129. Ajito tissa metteyyo puṇṇako atha mettagū,
dhotako upasīvo ca nando ca atha hemako.

1129. Ajita, Tissametteyya, Puṇṇaka, rồi Mettagū, Dhotaka, và Upasīva, Nanda, rồi Hemaka.

1124. Phạm chí Ajita,
Tissa-Met-tayya,
Phạm chí Pun-na-ka,
Cùng với Met-ta-gù,
Thanh niên Dhotaka,
Và Upasiva,
Nan-đa, He-ma-ka,
Cả hai vị thanh niên.

1130. Todeyyakappā dubhayo jatukaṇṇī ca paṇḍito,
bhadrāvudho udayo ca posālo cāpi brāhmaṇo,
mogharājā ca medhāvī piṅgiyo ca mahā isi.

1130. Hai vị Todeyya, và Kappa, và vị sáng suốt Jatukaṇṇī, Bhadrāvudha, và Udaya, luôn cả Bà-la-môn Posāla, vị thông minh Mogharājā, và vị đại ẩn sĩ Piṅgiya.

1125. To-dey-ya, Kap-pà;
Và Ja-tu-kha-ni,
Với Bhad-rà-vu-dha
Phạm chí U-da-ya
Phạm chí Po-sà-la,
Với Mo-gha-rà-ja
Là bậc đại Hiền trí,
Cùng với bậc đại sĩ,
Tên là Pin-gi-ya.

1131. Ete buddhaṃ upāgacchuṃ sampannacaraṇaṃ isiṃ,
pucchantā nipuṇe pañhe buddhaseṭṭhaṃ upāgamuṃ.
 

1131. Những vị này đã đi đến gặp đức Phật, bậc ẩn sĩ có đức hạnh đầy đủ. Trong khi hỏi các câu hỏi vi tế, họ đã đến gần đức Phật tối thượng.
 

1126. Những vị này đi đến,
Ðức Phật, bậc Tiên nhân,
Bậc hạnh đức đầy đủ,
Những vị này đi đến,
Bậc giác ngộ tối thượng,
Hỏi câu hỏi tế nhị.

1132. Tesaṃ buddho vyākāsi pañhe puṭṭho yathātathaṃ,
pañhānaṃ veyyākaraṇena tosesi brāhmaṇe muni.

1132. Được hỏi những câu hỏi, đức Phật đã giải thích cho các vị ấy đúng theo bản thể (câu hỏi). Với việc giải thích các câu hỏi, bậc Hiền Trí đã làm hài lòng các vị Bà-la-môn.

1127. Ðức Phật đã như thật,
Trả lời các vị ấy,
Tùy theo các câu hỏi,
Và bậc đại ẩn sĩ
Trả lời những câu hỏi,
Khiến các Bà-la-môn,
Ðược hoan hỷ vui thích.

1133. Te tositā cakkhumatā buddhenādiccabandhunā,
brahmacariyamacariṃsu varapaññassa santike.

1133. Được hài lòng với đức Phật, bậc Hữu Nhãn, thân quyến của mặt trời, các vị ấy đã thực hành Phạm hạnh ở sự hiện diện của bậc có tuệ cao quý.

1128. Họ được vui, hoan hỷ,
Nhờ Phật, bậc có mắt,
Nhờ bà con mặt trời,
Họ hành trì Phạm hạnh,
Dưới chỉ đạo hướng dẫn,
Bậc trí tuệ tuyệt diệu.

1134. Ekamekassa pañhassa yathā buddhena desitaṃ,
tathā yo paṭipajjeyya gacche pāraṃ apārato.

1134. Theo như điều đã được thuyết giảng bởi đức Phật đối với từng câu hỏi một, người nào thực hành theo như thế có thể từ bờ bên này đi đến bờ kia.

1129. Theo từng câu hỏi một,
Tùy đức Phật thuyết giảng,
Ai như vậy hành trì,
Ði được từ bờ này,
Ðến được bờ bên kia.

1135. Apārā pāraṃ gaccheyya bhāvento maggamuttamaṃ,
maggo so pāraṃ gamanāya tasmā parāyanaṃ iti.
 

1135. Người tu tập đạo lộ tối thượng có thể từ bờ bên này đi đến bờ kia. Đạo lộ ấy đưa đến việc đi đến bờ kia, vì thế gọi là ‘Đi Đến Bờ Kia.’”

 

1130. Ði được từ bờ này,
Ðến được bờ bên kia,
Tu tập đạo vô thượng,
Và chính con đường ấy,
Ðưa đến bờ bên kia,
Do vậy được tên gọi,
Con đường đến bờ kia.

 

17. PARĀYANĀNUGĪTIGĀTHĀ

 

 

17. ĐI ĐẾN BỜ KIA - CÁC KỆ NGÔN TƯỜNG THUẬT

 

 

 

 

Rồi Tôn giả Pingiya đi về Godhàvari và nói lại với Bà-la-môn Bàvari những điều đã xảy ra.

1136. Pārāyanamanugāyissaṃ (iccāyasmā piṅgiyo)
yathāddakkhi tathā akkhāsi,
vimalo bhūrimedhaso,
nikkāmo nibbano nāgo
kissa hetu musā bhaṇe.

1136. (Tôn giả Piṅgiya nói:) “Tôi sẽ tường thuật lại Kinh Đi Đến Bờ Kia. Bậc vô nhiễm, có tuệ bao la, không còn dục vọng, đã ra khỏi rừng (tham ái), bậc long tượng đã thấy như thế nào, ngài đã nói ra như thế ấy. Nguyên nhân gì khiến ngài lại nói lời sai trái?

Pingiya:

1131. Tôn giả Pin-gi-ya:
Con sẽ đọc tụng lên
Con đường đến bờ kia,
Ngài được thấy thế nào,
Ngài nói lên thế ấy,
Bậc vô cấu, quảng trí,
Bậc lãnh đạo không dục,
Bậc Niết-bàn an tịnh,
Làm sao do nhân gì,
Ngài nói điều không thật.

1137. Pahīnamalamohassa mānamakkhappahāyino,
handāhaṃ kittayissāmi giraṃ vaṇṇūpasaṃhitaṃ.

1137. Giờ tôi sẽ thuật lại lời nói đức độ của bậc đã dứt bỏ vết nhơ và si mê, của bậc có sự dứt bỏ ngã mạn và sự thâm hiểm.

1132. Bậc đã đoạn trừ hết,
Uế nhiễm và si mê,
Bậc đã diệt trừ sạch,
Kiêu mạn và gièm pha,
Con sẽ nói tán thán,
Âm thanh vi diệu ấy.

1138. Tamonudo buddho samantacakkhu
lokantagū sabbabhavātivatto,
anāsavo sabbadukkhappahīno
saccavhayo brahme upāsito me.

1138. Thưa vị Bà-la-môn, đức Phật, bậc xua tan bóng tối, đấng Toàn Nhãn, đã đi đến tận cùng thế giới, vượt trội mọi hiện hữu, không còn lậu hoặc, đã dứt bỏ tất cả khổ, có tên gọi là Sự Thật, đã được hầu cận bởi tôi.

1133. Bậc quét sạch u ám,
Phật-đà, bậc Biến nhãn,
Ðã đến, tận cùng đời,
Ðã vượt qua sanh hữu,
Bậc không có lậu hoặc,
Ðoạn tận mọi đau khổ,
Vị được gọi sự thật,
Hỡi vị Bà-la-môn,
Con được hầu vị ấy.

1139. Dvijo yathā kubbanakaṃ pahāya
bahupphalaṃ kānanaṃ āvaseyya,
evaṃpahaṃ appadasse pahāya
mahodadhiṃ haṃsarivajjhapatto.

1139. Giống như con chim, sau khi lìa bỏ khu rừng cây nhỏ, có thể sống ở khu rừng có nhiều trái cây, cũng tương tự như thế, sau khi lìa bỏ người có tầm nhìn nhỏ nhoi, tôi ví như con chim thiên nga đã đạt đến biển lớn.

1134. Như chim bỏ rừng hoang,
Ðến ở rừng nhiều trái,
Cũng vậy con từ bỏ,
Những bậc thấy nhỏ nhen,
Con đạt đến biển lớn,
Chẳng khác con thiên nga.

1140. Ye me pubbe vyākaṃsu
huraṃ gotamasāsanā
iccāsi iti bhavissati,
sabbantaṃ itihītihaṃ
sabbantaṃ takkavaḍḍhanaṃ.
 

1140. Những người nào trước đây đã giải thích cho tôi khác với lời dạy của Gotama (nói rằng): ‘Đã là như vầy, sẽ là như vầy,’ mọi điều ấy đều do nghe nói lại theo truyền thống, mọi điều ấy đều là sự tăng trưởng suy tầm (về dục).
 

1135. Những ai trong đời khác,
Ðã nói cho con nghe,
Lời dạy bậc Cù-đàm
Như vậy đã xảy ra,
Như vậy sẽ xảy đến,
Tất cả là tin đồn,
Chỉ làm tăng nghi ngờ.

1141. Eko tamanudāsīno jutimā so pabhaṃkaro,
gotamo bhūripaññāṇo gotamo bhūrimedhaso.

1141. Vị xua tan bóng tối, một mình, đang ngồi, sáng chói, bậc tạo ra ánh sáng ấy là vị Gotama có tuệ bao la, là vị Gotama có sự sáng suốt bao la.

1136. Chỉ một vị an trú,
Quét sạch các hắc ám,
Sanh trưởng gia đình quý,
Vị ấy chiếu hào quang,
Cù-đàm, bậc quảng tuệ,
Cù-đàm, bậc quảng trí.

1142. Yo me dhammamadesesi sandiṭṭhikamakālikaṃ,
taṇhakkhayamanītikaṃ yassa natthi upamā kvaci.

1142. Vị ấy đã thuyết giảng cho tôi Giáo Pháp có thể thấy được bởi tự thân, không bị chi phối bởi thời gian, có sự đoạn diệt tham ái, không có rủi ro, điều tương đương với pháp (Niết Bàn) ấy là không có ở bất cứ đâu.”

1137. Ai thuyết pháp cho con,
Pháp thiết thực hiện tại,
Ðến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.

1143. Kinnu tamhā vippavasasi muhuttamapi piṅgiya,
gotamā bhūripaññāṇā gotamā bhūrimedhasā.

1143. “Này Piṅgiya, sao ngươi không thể sống, dầu chỉ trong chốc lát, xa lìai khỏi vị Gotama có tuệ bao la, khỏi vị Gotama có sự sáng suốt bao la?

Bàvari:

1138. Hỡi này Pin-gi-ya,
Sao Ông lại không thể,
Sống xa lánh vị ấy,
Chỉ trong một chốc lát,
Bậc Cù-đàm quảng tuệ,
Bậc Cù-đàm quảng trí,

1144. Yo te dhammamadesesi sandhiṭṭhikamakālikaṃ,
taṇhakkhayamanītikaṃ yassa natthi upamā kvaci.
 

1144. Là vị đã thuyết giảng cho ngươi Giáo Pháp có thể thấy được bởi tự thân, không bị chi phối bởi thời gian, có sự đoạn diệt tham ái, không có rủi ro; điều tương đương với pháp (Niết Bàn) ấy là không có ở bất cứ đâu.”

1139. Vị thuyết pháp cho người,
Pháp thiết thực hiện tại,
Ðến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.

1145. Nāhaṃ tamhā vippavasāmi muhuttampi brāhmaṇa,
gotamā bhūripaññāṇā gotamā bhūrimedhasā.

1145. Thưa vị Bà-la-môn, tôi không thể sống, dầu chỉ trong chốc lát, xa lìa khỏi vị Gotama có tuệ bao la, khỏi vị Gotama có sự sáng suốt bao la.

Pingiya:

1140. Hỡi này Bà-la-môn,
Con không có thể được,
Sống xa lánh vị ấy
Chỉ trong một chốc lát,
Gotama quảng tuệ,
Gotama quảng trí.

1146. Yo me dhammamadesesi sandhiṭṭhikamakālikaṃ,
taṇhakkhayanītikaṃ yassa natthi upamā kvaci.

1146. Là vị đã thuyết giảng cho tôi Giáo Pháp có thể thấy được bởi tự thân, không bị chi phối bởi thời gian, có sự đoạn diệt tham ái, không có rủi ro; điều tương đương với pháp (Niết Bàn) ấy là không có ở bất cứ đâu.

1141. Vị thuyết pháp cho con,
Pháp thiết thực hiện tại,
Ðến ngay không chờ đợi,
Ái diệt, vượt đau khổ,
Vị ấy không ai sánh.

1147. Passāmi naṃ manasā cakkhunā ca
rattiṃ divaṃ brāhmaṇa appamatto,
namassamāno vivasemi rattiṃ
teneva maññāmi avippavāsaṃ.

1147. Thưa vị Bà-la-môn, tôi nhìn thấy Ngài ấy bằng tâm và bằng mắt, ban đêm và ban ngày không bị xao lãng. Trong khi kính lễ (đến Ngài), tôi sống qua đêm; chính bằng cách ấy, tôi nghĩ là sống không xa lìa.

1142. Chính con thấy vị ấy,
Với ý, với con mắt,
Ngày đêm không phóng dật,
Kính thưa Bà-la-môn,
Con trải qua suốt đêm
Ðảnh lễ, kính vị ấy,
Do vậy con nghĩ rằng,
Con không xa vị ấy.

1148. Saddhā ca pīti ca mano satī ca
nāpenti me gotamasāsanamhā,
yaṃ yaṃ disaṃ vajati bhūripañño
sa tena teneva natohamasmi.

1148. Tín, hỷ, tâm ý, và niệm của tôi không lìa xa lời giảng dạy của đức Gotama. Mỗi phương hướng nào bậc có tuệ bao la di chuyển đến, tôi đây đều kính lễ theo chính phương hướng ấy.
 

1143. Với tín và với hỷ,
Với ý luôn chánh niệm,
Không làm con xa rời,
Lời dạy Gotama!
Chính tại phương hướng nào,
Bậc quảng tuệ đi đến,
Chính ở phương hướng ấy,
Con được dắt dẫn đến.

1149. Jiṇṇassa me dubbalathāmakassa
teneva kāyo na paleti tattha,
saṅkappasattāya vajāmi niccaṃ
mano hi me brāhmaṇa tena sutto.

1149. Đối với tôi, là người đã già nua, có thể lực và sức mạnh kém cỏi, chính vì thế, thân xác của tôi không theo đến được nơi ấy. Thưa vị Bà-la-môn, tôi thường đi đến bằng cách hướng tâm, bởi vì tâm ý của tôi đã được gắn bó với vị ấy.

1144. Với con tuổi đã già,
Yếu đuối, không sức mạnh,
Do vậy thân thể này,
Không đến được chỗ ấy,
Với tâm tư quyết chí,
Con thường hằng đi đến.
Vì rằng thưa Phạm chí,
Ý con cột vị ấy.

1150. Paṅke sayāno pariphandamāno dīpā dīpaṃ upaplaviṃ,
athaddasāsiṃ sambuddhaṃ oghatiṇṇamanāsavaṃ.
 

1150. Trong khi đang nằm giãy giụa trong đám bùn (ngũ dục), tôi đã bơi từ hòn đảo này đến hòn đảo khác. Và tôi đã nhìn thấy bậc Toàn Giác, vị đã vượt qua dòng lũ, không còn lậu hoặc."
 

1145. Nằm dài trong vũng bùn,
Vùng vẫy, vật qua lại,
Con đã bơi qua lại,
Ðảo này đến đảo khác,
Con đã thấy đức Phật,
Vượt bộc lưu, vô lậu.

 

CHÚ THÍCH CỦA NGƯỜI DỊCH: Vào thời điểm này, đức Phật đang ngự tại thành Sāvatthi. Biết được sự chín muồi về khả năng của Piṅgiya và Bārarī, Ngài đã phóng ra hào quang có màu sắc vàng chói. Piṅgiya ngay trong lúc đang ngồi tán dương ân đức của Phật cho Bāvarī đã nhìn thấy hào quang ấy, trong lúc xem xét ‘cái gì đây?’ và sau khi đã nhìn thấy đức Thế Tôn như đang đứng trước mặt, Piṅgiya đã bảo vị Bà-la-môn Bārarī rằng: ‘Đức Phật đã ngự đến.’ Bà-la-môn Bārarī đã từ chỗ ngồi chắp tay lên và đứng dậy. Đức Thế Tôn sau khi phóng ra hào quang đã hiện thân cho vị Bà-la-môn thấy. Sau khi thấy thời điểm phù hợp cho cả hai vị, trong lúc chỉ dạy riêng cho Piṅgiya, Ngài đã nói lên kệ ngôn này (SnA. ii,606).

Ðến đây, khi chúng đang nói, đức Phật hiện ra và nói:

1151. Yathā ahū vakkali muttasaddho
bhadrāvudho āḷavi gotamo ca,
evameva tvampi pamuñcassu saddhaṃ
gamissasi tvaṃ piṅgiya maccudheyyassa pāraṃ.

1151. “Giống như Vakkali có niềm tin đã được khẳng định, Bhadrāvudha và Āḷavi Gotamo (cũng thế), tương tự y như vậy, ngươi cũng hãy khẳng định niềm tin. Này Piṅgiya, ngươi sẽ đi đến bờ bên kia đối với lãnh địa của Thần Chết.”

Thế Tôn:

1146. Cũng như Vak-ka-li
Nhờ tin, được giải thoát,
Với Bhad-rà-vu-dha,
A-la-vi, Cù-đàm,
Cũng vậy, Ông đã được,
Giải thoát nhờ lòng tin.
Hỡi này Pin-gi-ya,
Ông sẽ đi đến được,
Ðến được bờ bên kia,
Của thế giới thần chết.

1152. Esa bhiyyo pasīdāmi sutvāna munino vaco,
vivattacchaddo sambuddho akhilo paṭibhānavā.

1152. “Sau khi lắng nghe lời nói của bậc hiền trí, tôi đây càng thêm tịnh tín. Ngài là bậc Chánh Đẳng Giác, có màn che đã được cuốn lên, không cọc nhọn (ô nhiễm), có tài biện giải.

Pingiya:

1147. Ðược nghe lời ẩn sĩ,
Con tăng trưởng tịnh tín,
Bậc Chánh đẳng Chánh giác,
Ðã vén lên tấm màn,
Không cứng cỏi, biện tài.

1153. Adhideve abhiññāya sabbaṃ vedi parovaraṃ,
pañhānantakaro satthā kaṅkhinaṃ paṭijānataṃ.

1153. Sau khi biết rõ chư Thiên bậc cao, Ngài đã hiểu tất cả từ thấp đến cao. Bậc Đạo Sư, vị làm chấm dứt các câu hỏi của những người có sự nghi hoặc, của những người bộc lộ cho biết.

1148. Thắng tri các chư Thiên,
Biết tất cả cao thấp,
Bậc Ðạo Sư chấm dứt,
Tất cả các câu hỏi,
Với những ai tự nhận,
Còn có chỗ nghi ngờ.

1154. Asaṃhīraṃ asaṅkuppaṃ yassa natthi upamā kvaci,
addhā gamissāmi na mettha kaṅkhā evaṃ padhārehi adhimuttacittanti.
 

1154. Đương nhiên, tôi sẽ đi đến trạng thái (Niết Bàn) không bị tiêu hoại, không bị lay chuyển, điều tương đương với pháp (Niết Bàn) ấy là không có ở bất cứ đâu. Sự nghi hoặc của tôi về nơi này (Niết Bàn) là không có. Như vậy xin Ngài hãy ghi nhận tôi là người có tâm đã được khẳng định.”

1149. Không run rẩy, dao động,
Không ai có thể sánh,
Chắc chắn con sẽ đi,
Tại đây, con không nghi,
Như vậy, thọ trì Ta
Như tâm người tín giải.

 

Pārāyanavaggo niṭṭhito. 

 

 

Dứt Phẩm Đi Đến Bờ Kia. 

 

 

Phẩm "Con đường đi đến bờ bên kia " đã xong. 

 

 

SUTTANIPĀTO SAMATTO. 

 

 

KINH TẬP ĐƯỢC ĐẦY ĐỦ