Skip directly to content

III. PĀRĀJIKUDDESO (PHẦN ĐỌC TỤNG VỀ GIỚI PĀRĀJIKA)

Tatrime  aṭṭha - pārājikā  dhammā  uddesaṃ  āgacchanti. 

Ở đây, tám điều pārājikā (bất cộng trụ) được đưa ra đọc tụng.

1.  Yā  pana  bhikkhunī  chandaso  methunaṃ  dhammaṃ  paṭiseveyya  antamaso  tiracchānagatenapi  pārājikā  hoti  asaṃvāsā. 

1.  Vị tỳ khưu ni nào thuận tình thực hiện việc đôi lứa ngay cả với loài thú đực là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú. (bct.1, tk.)[2]

2.  Yā  pana  bhikkhunī  gāmā  vā  araññā  vā  adinnaṃ  theyyasaṅkhātaṃ  ādiyeyya,  yathārūpe  adinnādāne  rājāno  coraṃ  gahetvā  haneyyuṃ  vā  bandheyyuṃ  vā  pabbājeyyuṃ  vā,  corāsi  bālāsi  mūḷhāsi  thenāsīti,  tathārūpaṃ  bhikkhunī  adinnaṃ  ādiyamānā  ayampi  pārājikā  hoti  asaṃvāsā. 

2.  Vị tỳ khưu ni nào lấy vật không được cho từ làng hoặc từ rừng theo lối trộm cướp; tương tợ như trong vụ đánh cắp, các vị vua sau khi bắt được nữ đạo tặc thì có thể hành hạ, hoặc có thể giam giữ, hoặc có thể trục xuất (phán rằng): “Cô là kẻ trộm, cô là kẻ ngu, cô là kẻ khờ, cô là kẻ cướp;” tương tợ như thế, vị tỳ khưu ni khi lấy vật không được cho, vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú. (bct.2, tk.)

3.  Yā  pana  bhikkhunī  sañcicca  manussaviggahaṃ  jīvitā  voropeyya  satthahārakaṃ  vāssa  pariyeseyya  maraṇavaṇṇaṃ  vā  saṃvaṇṇeyya  maraṇāya  vā  samādapeyya,  ambho  purisa  kiṃ  tuyhiminā  pāpakena  dujjīvitena  mataṃ  te  jīvitā  seyyoti  iti  cittamanā  cittasaṅkappā  anekapariyāyena  maraṇavaṇṇaṃ  vā  saṃvaṇṇeyya  maraṇāya  vā  samādapeyya,  ayampi  pārājikā  hoti  asaṃvāsā. 

3.  Vị tỳ khưu ni nào cố ý đoạt lấy mạng sống con người, hoặc tìm cách đem lại vũ khí cho người ấy, hoặc ca ngợi lợi ích của sự chết, hoặc xúi giục đưa đến sự chết: “Này người ơi, còn gì cho ngươi với mạng sống tội lỗi xấu xa này, sự chết đối với ngươi còn tốt hơn sự sống!” Vị ni có tâm ý và có tâm tư như thế rồi bằng nhiều phương thức ca ngợi lợi ích của sự chết hoặc xúi giục đưa đến sự chết, vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú. (bct.3, tk.)

4.  Yā  pana  bhikkhunī  anabhijānaṃ  uttarimanussadhammaṃ  attūpanāyikaṃ  alamariyañāṇadassanaṃ  samudācareyya  iti  jānāmi  iti  passāmīti,  tato  aparena  samayena  samanuggāhiyamānā  vā  asamanuggāhiyamānā  vā  āpannā  visuddhāpekkhā  evaṃ  vadeyya,  ajānamevaṃ  ayye  avacaṃ  jānāmi  apassaṃ  passāmi  tucchaṃ  musā  vilapinti  aññatra  adhimānā,  ayampi  pārājikā  hoti  asaṃvāsā. 

4.  Vị tỳ khưu ni nào tuyên bố về pháp thượng nhân chưa được thắng tri, là pháp thể nhập của bản thân, là pháp thuộc về trí tuệ và sự thấy biết của bậc thánh rằng: “Tôi biết như vầy, tôi thấy như vầy.” Sau đó vào lúc khác, dầu được hỏi hay không được hỏi, (vị ni ấy) có ước muốn được trong sạch tội đã vi phạm lại nói như vầy: “Này các đại đức ni, tôi đã không biết như vầy lại nói biết, đã không thấy lại nói thấy, tôi đã nói điều phù phiếm, điều dối trá,” ngoại trừ vì sự tự tin thái quá; vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú. (bct.4, tk.)

5.  Yā  pana  bhikkhunī  avassutā  avassutassa  purisapuggalassa  adhakkhakaṃ  ubbhajānumaṇḍalaṃ  āmasanaṃ  vā  parāmasanaṃ  vā  gahaṇaṃ  vā  chupanaṃ  vā  paṭipīḷanaṃ  vā  sādiyeyya,  ayampi  pārājikā  hoti  asaṃvāsā  ubbhajānumaṇḍalikā. 

5.  Vị tỳ khưu ni nào nhiễm dục vọng ưng thuận sự sờ vào hoặc sự vuốt ve hoặc sự nắm lấy hoặc sự chạm vào hoặc sự ôm chặt từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên của người nam nhiễm dục vọng, vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú, là người nữ sờ phần trên đầu gối. (bct.1, tkni.)[3]

6.  Yā  pana  bhikkhunī  jānaṃ  pārājikaṃ  dhammaṃ  ajjhāpannaṃ  bhikkhuniṃ  nevattanā  paṭicodeyya  na  gaṇassa  āroceyya  yadā  ca  sā  ṭhitā  vā  assa  cutā  vā  nāsitā  vā  avassatā  vā,  sā  pacchā  evaṃ  vadeyya  pubbevāhaṃ  ayye  aññāsiṃ  etaṃ  bhikkhuniṃ  evarūpā  ca  evarūpā  ca  sā  bhaginīti  no  ca  kho  attanā  paṭicodessaṃ  na  gaṇassa  ārocessanti,  ayampi  pārājikā  hoti  asaṃ  vāsā  vajjappaṭicchādikā. 

6.  Vị tỳ khưu ni nào dầu biết vị tỳ khưu ni đã vi phạm tội pārājika vẫn không tự chính mình khiển trách cũng không thông báo cho nhóm khi vị ni kia hãy còn tồn tại, hoặc bị chết đi, hoặc bị trục xuất, hoặc bỏ đi. Sau này, vị ni ấy nói như vầy: “Này các ni sư, chính trước đây tôi đã biết rõ tỳ khưu ni kia rằng: ‘Sư tỷ ấy là như thế và như thế’ mà tôi không tự chính mình khiển trách cũng không thông báo cho nhóm;” vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú, là người nữ che giấu tội. (bct.2, tkni.)

7.  Yā  pana  bhikkhunī  samaggena  saṅghena  ukkhittaṃ  bhikkhuṃ  dhammena  vinayena  satthusāsanena  anādaraṃ  appaṭikāraṃ  akatasahāyaṃ  tamanuvatteyya,  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  evamassa  vacanīyā  eso  kho  ayye  bhikkhu  samaggena  saṅghena  ukkhitto  dhammena  vinayena  satthusāsanena  anādaro  appaṭikāro  akatasahāyo  māyye  etaṃ  bhikkhuṃ  anuvattīti,  evañca  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  vuccamānā  tatheva  paggaṇheyya  sā  bhikkhunī  bhikkhunīhi  yāvatatiyaṃ  samanubhāsitabbā  tassa  paṭinissaggāya  yāvatatiyaṃ  ce  samanubhāsiyamānā  taṃ  paṭinissajjeyya  iccetaṃ  kusalaṃ  no  ce  paṭinissajjeyya,  ayampi  pārājikā  hoti  asaṃvāsā  ukkhittānuvattikā. 

7.  Vị tỳ khưu ni nào xu hướng theo vị tỳ khưu đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đồng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: “Này ni sư, vị tỳ khưu ấy đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đồng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đạo Sư. Này ni sư, chớ có xu hướng theo vị tỳ khưu ấy.” Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ, vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú, là người nữ xu hướng theo kẻ bị phạt án treo. (bct.3, tkni.)

8.  Yā  pana  bhikkhunī  avassutā  avassutassa  purisapuggalassa  hatthaggahaṇaṃ  vā  sādiyeyya  saṅghāṭikaṇṇaggahaṇaṃ  vā  sādiyeyya  santiṭṭheyya  vā  sallapeyya  vā  saṅketaṃ  vā  gaccheyya  purisassa  vā  abbhāgamanaṃ  sādiyeyya  channaṃ  vā  anupaviseyya  kāyaṃ  vā  tadatthāya  upasaṃhareyya  etassa  asaddhammassa  paṭisevanatthāya,  ayampi  pārājikā  hoti  asaṃvāsā  aṭṭhavatthukā. 

8.  Vị tỳ khưu ni nào nhiễm dục vọng thích thú sự nắm lấy cánh tay của người nam nhiễm dục vọng, hoặc thích thú sự nắm lấy chéo áo choàng (của người nam), hoặc đứng chung, hoặc trò chuyện, hoặc đi đến nơi hẹn hò, hoặc thích thú sự viếng thăm của người nam, hoặc đi vào nơi che khuất, hoặc kề sát cơ thể nhằm mục đích ấy là nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy, vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú, là người nữ liên quan tám sự việc. (bct.4, tkni.)

Uddiṭṭhā  kho  ayyāyo  aṭṭha  pārājikā  dhammā.  Yesaṃ  bhikkhunī  aññataraṃ  vā  aññataraṃ  vā  āpajjitvā  na  labhati  bhikkhunīhi  saddhiṃ  saṃvāsaṃ  yathā  pure  tathā  pacchā  pārājikā  hoti  asaṃvāsā.  Tatthāyyāyo  pucchāmi  kaccittha  parisuddhā,  dutiyampi  pucchāmi  kaccittha  parisuddhā,  tatiyampi  pucchāmi  kaccittha  parisuddhā.  Parisuddhetthāyyāyo  tasmā  tuṇhī  evametaṃ  dhārayāmīti.

Bạch chư đại đức ni, tám điều pārājika đã được đọc tụng xong. Vị tỳ khưu ni vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này thì không có được sự cộng trú cùng với các tỳ khưu ni, trước đây như thế nào thì sau này là như vậy; (vị ni ấy) là vị ni phạm tội pārājika không được cộng trú. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?Các đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Pārājikuddeso  niṭṭhito.
(Phần Đọc Tụng Giới Pārājika được chấm dứt).