Skip directly to content

Bài pháp thứ hai: Ngũ Lực

Ngũ lực gồm có:

1- Tín lực

2- Tấn lực

3- Niệm lực

4- Định lực

5- Tuệ lực

Khi tu tập pháp môn NĂM CĂN ở trên tức là dùng ý thức giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân thanh tịnh không cho NĂM CĂN chạy theo năm trần thì chúng ta đạt được năm thành quả, đó là NGŨ LỰC. NGŨ LỰC là pháp thứ II mà trong kinh sách Nguyên Thủy còn ghi lại và lưu giữ cho đến ngày nay.

Tóm lược pháp tu tập NGŨ LỰC, trước tiên chúng ta muốn tu tập TÍN LỰC thì phải hiểu nghĩa rõ ràng. TÍN LỰC có nghĩa là lòng tin sâu sắc đối với Phật pháp không bao giờ thay đổi, lòng tin bất di bất dịch dù cho ai chống trái bài bác Phật giáo chúng ta cũng không bao giờ nghe, không bao giờ thay lòng đổi dạ, chỉ biết tin vào pháp Phật.

Muốn có được lòng tin như vậy thì chúng ta phải sinh ra cùng thời với đức Phật ra đời hoặc phải sinh làm người được gặp một bậc tu chứng cũng làm chủ sinh, già, bệnh, chết như Phật.

Đó là điều cần thiết tạo nên TÍN LỰC, nếu không có điều kiện này thì dù muốn dù không lòng tin của chúng ta không mạnh mẽ, chỉ tin một cách cạn cợn.

Người không đủ lòng tin dù có tu tập đúng pháp của Phật thì cũng chỉ tu tập lấy có, thường phá hạnh độc cư, đi nói chuyện người này đến người khác. Những người này hiện thân là MA BA TUẦN trong Phật giáo thường đi đến thất người này rồi đến thất người khác làm cho mọi người không ai tu tập được.

Khi thấy những loại MA BA TUẦN này thì quý thầy, quý cô nên đóng cửa thất không tiếp giao, đừng ở gần nên tránh xa, tránh xa những người này như tránh xa vi trùng bệnh truyền nhiễm.

Trong chúng chỉ có một con MA BA TUẦN thì trong chúng đó phải cẩn thận khi thấy bóng dáng con MA đó thì nên đóng cửa thất cho chặt và ngồi thiền nhiếp tâm bất động để vượt qua loài Ma Quỷ.

Những hành động tránh xa loài MA BA TUẦN là nói lên lòng tin của mình đối với Phật pháp không lay chuyển, còn ngược lại những người không có lòng tin hay lòng tin chưa đủ thường mở cửa thất ra tiếp duyên. Đó là những người thích nói chuyện với những loài ma này. Quý vị nên lưu ý.

Vì con đường tu theo Phật giáo không khó nhưng khó là do MA BA TUẦN cám dỗ quý vị để phá hạnh ĐỘC CƯ khiến cho tâm quý vị thường bị phóng dật.

Khi có lòng tin sâu Phật pháp thì quý vị rất siêng năng tu tập không bao giờ biếng trễ. Khi có lòng tin thì mới có cố gắng tu tập. Sự cố gắng nỗ lực tu tập hết mình thì gọi là TẤN LỰC. Khi hằng ngày nỗ lực nhiếp tâm tu tập đúng pháp không hề sai sót một niệm nào cả, luôn luôn duy nhất có một niệm TÂM BẤT ĐỘNG từ giờ này đến giờ khác, từ đó niệm này trở thành một sức lực của niệm nên gọi là NIỆM LỰC. Khi niệm có lực chúng ta chỉ cần niệm là toàn cả thân tâm chúng ta gom lại thành một khối duy nhất không ai làm gì nó bị phân ra được nên gọi là ĐỊNH LỰC. Khi thân tâm gom lại thành một định lực thì trong khối định lực đó có một sự hiểu biết vượt ra khỏi không gian và thời gian. Sự hiểu biết không còn bị lệ thuộc vào không gian và thời gian được gọi là TUỆ LỰC. Đến đây chúng ta đã có đủ năm lực.

NGŨ LỰC này có được là do chúng ta tập NGŨ CĂN, khi ngũ căn thanh tịnh thì NGŨ LỰC xuất hiện đầy đủ. Tuy nói vậy chớ trên đường tu tập NGŨ CĂN khi tu tập một căn nào thanh tịnh thì nơi căn đó xuất hiện đầy đủ NGŨ LỰC. Cho nên NGŨ CĂN và NGŨ LỰC là những pháp đầu tiên tu theo Phật giáo, nếu chưa tu tập NGŨ CĂN, NGŨ LỰC mà tu tập pháp nào cũng mất căn bản vì vậy quý vị nên nhớ.

Có nhiều người bắt đầu tu tập mà không tu tập những pháp căn bản như NGŨ CĂN và NGŨ LỰC lại tu tập thiền định hoặc niệm Phật nhất tâm cầu vãng sinh Cực Lạc Tây Phương hoặc tham thoại đầu, công án hoặc niệm chú hoặc tụng kinh Pháp Hoa. Những điều tu tập như vậy chứng tỏ người tu tập không rõ đường đi lối về của Phật giáo. Do tu tập sai pháp như vậy nên dù có tu tập ngàn đời muôn kiếp cũng chẳng tu tập đến đâu. Một bằng chứng hiện giờ cho chúng ta biết có bao nhiêu tu sĩ cũng như cư sĩ tu tập hết sức nhưng cũng chẳng có một người nào tu làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT, vì đó là tu sai pháp không đúng Phật pháp. Đọc tiểu sử DANH TĂNG VIỆT NAM tập I, tập II có trên mấy trăm vị cao tăng Việt Nam nhìn lại chỉ là những nhà học giả nhất là những vị có lối sống kỳ đặc khác thường khiến cho người đời tưởng là chứng đạo, chớ xét kỹ theo đúng pháp của Phật thì chưa có một vị nào tu tập đến đâu cả. Kinh sách của các Ngài viết chỉ là kiến giải theo kinh nghiệm bản thân của mình không giống chút nào của Phật dạy, nhất là lặp lại ý nghĩa kinh sách của Tổ xưa để lại, chỉ là những lý thuyết suông, không có kinh nghiệm trong tu hành làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Vì thế những kinh sách này toàn là kinh tưởng.

Khi đọc cuốn DANH TĂNG VIỆT NAM chúng tôi rất xấu hổ, là những danh tăng Việt Nam chỉ là kiến thức hữu học thế gian huân tập những kiến thức trong kinh sách Đại Thừa của các học giả Trung Hoa, chớ Kinh sách Phật giáo của Việt Nam chẳng có cuốn sách nào cả. Ngay cả dòng Thiền lớn nhất của Việt Nam TRÚC LÂM YÊN TỬ cũng chịu ảnh hưởng THIỀN TÔNG và TỊNH ĐỘ TÔNG Trung Hoa. Việc khéo léo thiện xảo của vua Trần Nhân Tông biết hợp hai giáo pháp của hai tông phái lớn nhất của Trung Quốc này lại lập thành pháp môn tu hành cho dòng thiền TRÚC LÂM Việt Nam. Có những người không hiểu biết mới hãnh diện cho rằng Việt Nam cũng có dòng thiền không thua vì Trung Quốc, chớ kỳ thật Thiền Tông Việt Nam, THIỀN chẳng ra THIỀN mà TỊNH thì chẳng ra TỊNH.

THIỀN gì mà còn tụng niệm (Tâm kinh bát nhã). TỊNH gì mà còn tham công án, tham thoại đầu, biết vọng liền buông. Có lẽ đây là THIỀN TỊNH song tu, THIỀN TỊNH song tu đó là lời nói che đậy sự tu hành của THIỀN TÔNG VIỆT NAM bị bế tắc.

Đọc hết kinh sách Phật giáo và Thiền Tông Việt Nam chúng tôi chẳng thấy có một cuốn sách nào là của Việt Nam cả toàn là lai căng ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo và Thiền Tông Trung Quốc.

Tại sao một dân tộc Việt Nam có một nền văn hóa riêng biệt không thua gì văn hóa các nước trên thế giới, thế mà bị ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc rất nặng không tự mình vươn lên xây dựng cho mình một nền văn hóa đạo đức Phật giáo mà không chịu ảnh hưởng Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc và bất cứ một nước nào mang Phật giáo đến với đất nước chúng ta.

Đọc lịch sử Phật giáo Việt Nam chúng ta thấy rất rõ Phật giáo truyền vào Việt Nam đi vào ba ngõ:

1- Ngõ thứ nhất  từ Trung Hoa đến.

2- Ngõ thứ hai từ Ấn Độ sang.

3- Ngõ thứ ba từ Lào, Thái Lan và Campuchia sang.

Từ Trung Hoa truyền đến Việt Nam có hai dòng tư tưởng Phật giáo:

Dòng tư tưởng thứ nhất, đó là Phật giáo Tịnh Độ Tông do ảnh hưởng Nho giáo nên dòng tư tưởng mang tính chất mê tín hoang đường lạc hậu thường hướng dẫn giới bình dân vì giới này dễ tin.

Như chúng ta ai cũng biết Phật giáo Tịnh Độ Tông từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam là dòng tư tưởng mê tín. Đó là một Phật giáo không còn nguyên chất Phật giáo Ấn Độ, nó chịu ảnh hưởng tư tưởng Khổng giáo, Trang Tử Trung Quốc, mà sinh ra một loại Phật giáo mê tín, lạc hậu thường lấy sự cúng bái, tụng niệm làm công phu tu hành của mình. Cho nên khi có bệnh tật hay tai nạn thì tụng kinh cầu an, nếu có người chết làm ma chay thì tụng niệm kinh cầu siêu. Khi tụng niệm kinh cầu siêu thường đánh chuông, khỏ mõ, và trống kèn, đàn nhạc theo giọng tụng kinh niệm Phật ê, a giống như ca hát mà các nhạc sư gọi NHẠC ĐẠO.

Chính vì muốn ru hồn người vào cảnh mộng nên các nhà sư Đại Thừa mới xây dựng một thế giới siêu hình Cực Lạc Tây Phương để linh hồn người chết có chỗ nương tựa. Cho nên lấy sự cúng bái tụng niệm làm đường công phu: Trưa, chiều, tối khuya, chuông, mõ, trống, phách, đẩu nhịp nhàng theo giọng tụng niệm cao thấp ngâm nga giống như hát bộ.

PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ TÔNG từ Trung Hoa truyền sang qua Việt Nam gây ảnh hưởng tư tưởng mê tín rất nặng cho cả một dân tộc Việt Nam cho đến ngày nay đã trở thành một nếp sống tư tưởng văn hóa mê tín lạc hậu.

 Cho nên hiện giờ muốn bỏ một truyền thống văn hóa mê tín không phải dễ. Đó là một việc làm hết sức khó khăn. Trong những năm phong trào Việt Minh nổi dậy ra lệnh cấm dẹp những mê tín này nhưng khi phong trào Việt Minh thay đổi thì nạn mê tín lại tràn lan khắp nơi còn nhiều hơn nữa.

Theo chúng tôi nghĩ muốn dẹp trừ tư tưởng Phật giáo mê tín thì không có gì bằng là nên mở những lớp học đạo đức nhân bản - nhân quả  khiến mọi người am hiểu đâu là chánh tín và đâu là mê tín. Nhờ có sự hiểu biết Chánh tín của Phật giáo thì tệ nạn mê tín trong dân gian sẽ dần dần được quyét sạch. Nói về tư tưởng mê tín được truyền thừa lâu đời thì không có một thế lực hay một quyền uy nào mà cấm được, chỉ có ý thức con người biết nó là mê tín thì mới dẹp bỏ được. Dòng tư tưởng mê tín này đã trở thành một nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Cho nên hiện giờ muốn dẹp bỏ những mê tín lạc hậu này thì bắt đầu phải biên soạn sách giáo khoa đạo đức nhân bản - nhân quả từ tiểu học, trung học và đại học để giúp các em am tường những mê tín lạc hậu đó từ đất nước Trung Quốc truyền sang.

Dân tộc Việt Nam đã chịu ảnh hưởng dòng tư tưởng văn hóa của Phật giáo mê tín Trung Quốc truyền sang mà đến giờ này muốn bỏ mà chưa bỏ được, nhìn cảnh đồng bào dân tộc chúng ta đã hao tốn biết bao nhiêu tiền bạc mua vàng mã để rồi đem thiêu đốt, nếu hằng năm trong cả nước tính ra phải tiêu phí có hằng tỷ bạc về vấn đề mê tín lạc hậu này thật là đau lòng.

Dòng tư tưởng thứ hai đó là Phật Thiền Tông chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão giáo nên dòng tư tưởng này mang tính triết lý hướng dẫn giới trí thức nên thường dùng lý luận đề cao triết học TÁNH KHÔNG, nhờ triết học tánh không nên dễ thu hút giới tri thức.

Phật giáo THIỀN TÔNG lấy lý luận dẫn chứng khoa học làm chỗ dựa vững chắc nên dễ lừa gạt giới trí thức một cách dễ dàng, nhất là khi truyền sang qua Nhật Bổn được người Nhật triển khai tận cùng loại tư tưởng Phật giáo này.

Đại diện cho Phật giáo Thiền Tông Nhật Bổn có đại sư SUZUKI, ông đã viết sách thiền làm nổi sóng các nước Đông Nam Á Châu. Từ năm 1970 đến năm 1980 người ta hướng về Thiền Tông như làn sóng ào ạt, nhưng từ năm 1980 đến nay làn sóng Thiền Tông mới lần lần xuống cấp. Bởi vì THIỀN TÔNG lý luận rất hay nhưng tu chứng đạo thiền thì không ai tu tập được. Có đạt được cũng chỉ lọt vào trạng thái KHÔNG TƯỞNG.

Qua mọi sự kiện trên chúng ta nên lưu ý pháp môn nào tu tập được và pháp môn nào tu tập không được. Mục đích tu tập của Phật giáo không phải diệt ý thức. Vì ý thức vốn là điều kiện cần thiết cho sự làm chủ thân tâm nên đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp”. Nếu ý thức bị ức chế như Tịnh Độ Tông, Thiền Tông và Mật Tông thì đó là tu tập sai pháp của Phật giáo. Phật giáo lấy ý thức dẫn tâm vào đạo. Cho nên đạo Phật mới có pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý như lời đức Phật đã dạy trong kinh LẬU HOẶC: “CÓ NHƯ LÝ TÁC Ý LẬU HOẶC CHƯA SINH SẼ KHÔNG SINH MÀ ĐÃ SINH THÌ BỊ DIỆT”. Câu này dạy quá rõ ràng, nhờ đó chúng ta mới biết Phật giáo Thiền Tông và Phật giáo Tịnh Độ Tông Trung Quốc không phải là Phật dạy mà do các tổ Trung Quốc tu hành chưa tới nơi tới chốn rồi kiến giải viết ra kinh sách theo kinh nghiệm tu tập của mình.

Khi văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang thì người Trung Quốc mượn nền văn hóa đó khéo tự chế biến thành một nền văn hóa Phật giáo Trung Quốc làm dồi dào cho văn hóa đất nước mình, thật là tuyệt vời.

- Ngõ thứ hai từ Ấn Độ Phật giáo truyền sang vào miền Bắc đất nước ta, nhưng dân tộc Việt Nam đã chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc nên họ không theo, vì thế các nhà sư Ấn Độ trở về nước. Do những điều kiện này mà di tích văn hóa Phật giáo Ấn Độ không có lưu lại đền tháp chùa ở miền Bắc Việt Nam.

- Ngõ thứ ba Phật giáo Nam Tông từ Lào, Thái Lan, Campuchia truyền sang, vì thế mà những tỉnh sát ranh giới Camphuchia, Lào có một số người theo tu tập, nhưng phần đông họ là người Việt lai Campuchia, chớ người Việt chính gốc thì không theo.

Như vậy chúng ta thấy rất rõ dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Phật giáo Trung Quốc rất sâu nặng, không thể có một tư tưởng Phật giáo nào làm thay đổi tư tưởng họ được.

Như chúng ta ai cũng biết, nếu dựa theo dòng lịch sử Phật giáo truyền sang qua đất nước chúng ta thì Phật giáo không còn là của Phật giáo chính gốc nữa mà là một Phật giáo lai căng. Phật giáo lai căng là một loại Phật giáo tu hành uổng công vô ích vì tu hành chẳng đến đâu cả mà còn làm hao tốn tiền của một cách vô ích...

Phật giáo hiện giờ là Phật giáo Bà La Môn giáo, cho nên không ai tu chứng làm chủ sinh, già, bệnh, chết được, nếu chúng tôi không ra công dựng lại Chánh pháp của Phật, chắc không còn ai biết Phật giáo chân chánh gì nữa.

Cho nên nói NGŨ LỰC mà nhận ra đúng Chánh pháp của Phật thì tu tập lần lược xuất hiện đủ NĂM LỰC, còn nhận ra không đúng Chánh pháp của Phật thì khó có NĂM LỰC được. Tại sao vậy?

Vì lòng tin phải đặt đúng chánh Pháp của Phật thì siêng năng tu tập mới có kết quả tốt đẹp, còn không đúng chánh pháp của Phật thì tu tập không bao giờ có kết quả nên dù có siêng năng cũng chỉ một thời gian mà thôi. Chính siêng năng là nhờ tu tập có kết quả, còn tu tập không kết quả thì không sao siêng năng được. Phải không quý vị?

Khi tu tập siêng năng đúng pháp thì NIỆM LỰC hiện tiền mà niệm lực hiện tiền từ giờ này sang giờ khác thì đó là ĐỊNH LỰC. Khi định lực ngự trị trong tâm chúng ta suốt bảy ngày đêm thì tâm rất thanh tịnh, giống như nước hồ trong xanh, vì thế tất cả mọi sự việc trong quá khứ hay tương lai khi chúng ta muốn biết thì chúng hiện ra rất rõ. Do đó mà danh từ trong kinh Phật gọi đó là TUỆ LỰC.

Tới đây con đường tu tập của chúng ta đã hoàn mãn tâm luôn luôn BẤT ĐỘNG. Do sự bất động này mà người tu hành làm chủ sự sống chết dễ như trở bàn tay.

Tuy Ba Mươi Bảy phẩm Trợ đạo mà không phải tu từng tự theo pháp mà nên chọn pháp nào phù hợp với đặc tướng của mình mà tu tập thì chứng đạo ở pháp đó chớ không phải tu hết cả Ba Mươi Bảy Pháp Môn.

Cho nên khi vào tu tập chúng ta nên chọn pháp phòng hộ sáu căn rồi lấy CHÂN LÝ DIỆT ĐẾ, ôm chặt pháp NGŨ LỰC tu tập đến khi TUỆ LỰC xuất hiện thì chúng ta thành công.

Nếu chúng ta không chọn pháp NGŨ CĂN và NGŨ LỰC tu tập thì chúng ta nên chọn pháp môn TỨ VÔ LƯỢNG TÂM đây là pháp thứ ba của Phật giáo trong 37 pháp tu tập.