Skip directly to content

32 - NĂNG LỰC CỦA DỤC NHƯ Ý TÚC VÀ TAM MINH

PHÁP HÀNH 32 - NĂNG LỰC CỦA DỤC NHƯ Ý TÚC VÀ TAM MINH

PHÁP HÀNH 32 - NĂNG LỰC CỦA DỤC NHƯ Ý TÚC VÀ TAM MINH

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1998

1- TỪ NHẬP ĐƯỢC SƠ THIỀN MỚI TU TẬP THẤT GIÁC CHI

(0:00) Nếu mà chúng ta còn, như bây giờ chưa có cái tâm ly dục ly ác pháp mà đem Thất Giác Chi tu thì không đúng. Cho nên cái pháp Thất Giác Chi phải đặt chỗ nào để mà tu đúng.

Đó thì bây giờ Thầy mới nói để cho thấy. Khi nào mà chúng ta ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền, do ly dục sanh hỷ lạc, thì cái hỷ lạc khinh an này là nó ứng vào trong Thất Giác Chi.

Bây giờ chúng ta trạch pháp cũng dùng Thất Giác Chi trạch pháp ra đó, trạch ra những câu để dùng pháp hướng, rồi để hướng tâm tức là Niệm Giác Chi chứ gì? Hướng tâm để nhắc cái tâm của mình chứ gì? Nhưng mà không có hiệu quả đâu.

Khi nào mà chúng ta tu tập để mà ly dục ly ác pháp, tức là chúng ta tu tập từ Tứ Chánh Cần, Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu để ly được cái tâm ham muốn các ác pháp, chừng đó nó có một cái trạng thái gọi là trạng thái do ly dục sanh hỷ lạc. Cái trạng thái hỷ lạc đó hiện tiền, tức là cái trạng thái mà hỷ và khinh an của Thất Giác Chi.

Lúc bấy giờ từ cái trạng thái nó tự nó xuất hiện do cái tâm ly dục chúng ta. Còn cái người mà chưa ly dục thì không bao giờ có trạng thái hỷ lạc đó, chỉ có cái trạng thái bây giờ là chúng ta chạy theo dục lạc mà thôi, ăn thì thấy ngon, còn cái người mà ly dục rồi, họ ăn họ cũng biết ngon, nhưng mà họ không thèm nữa, họ không có thích nữa. Bởi vì nó có một cái trạng thái do ly dục làm cho họ không thích cái dục lạc, chớ không phải gì.

Vì vậy mà khi chúng ta nỗ lực chúng ta tu được cái Sơ Thiền thì lúc bấy giờ chúng ta mới có tu Thất Giác Chi. Thì lúc bấy giờ những cái câu mà Trạch Pháp Giác Chi, chúng ta đặt ra những cái câu nó, lúc bấy giờ cái đầu óc chúng ta khi mà ly dục rồi, nó sáng suốt lắm.

Nó không phải là còn cái màn Vô Minh, Ngũ Triền Cái nó che đậy, Vô Minh nó che đậy, năm cái triền cái nó che đậy, tham, sân, si, mạn, nghi nó che đậy làm cho chúng ta trạch pháp cái đúng cái sai. Cho nên hiện giờ các thầy mà đặt ra những cái câu để mà hướng tâm “tâm như cục đất” hay hoặc này kia, nói là nói vậy chớ nó chưa đúng đâu, nó chưa đúng với cái đặc tướng của mình.

Bởi vì Phật dạy con người chúng ta có ba cái tướng mà: nhân tướng, đặc tướng và hành tướng. Cho nên cái đặc tướng của chúng ta mà đặt cái câu đó nó chưa có phù hợp cho nên chúng ta hướng tâm nó không hiệu quả. Nó không hiệu quả chút nào hết!

(2:13) Do cái chỗ đó, khi mà ly dục ly ác pháp rồi thì nó có khinh an và Hỷ Giác Chi nó xuất hiện, từ đó chúng ta mới đặt những cái câu pháp hướng thì nó có hiệu quả.

Do cái sự hiệu quả của pháp hướng đó mà chúng ta tu tập, từ đó chúng ta mới có Định Giác Chi, Niệm Giác Chi và Định Giác Chi nó mới có. Rồi Xả Giác Chi chúng ta mới thấy được cái tâm chúng ta xả, buông xả ra, diệt ngã xả tâm nó rất dễ.

Đó là lúc bấy giờ là ở chỗ cái Nhị Thiền chúng ta tiếp tục để bồi dưỡng cho cái đạo lực của chúng ta, tức là cái pháp hướng cho nó hiệu quả cao hơn, là chúng ta thường xuyên tu tập là phần nhiều là nằm ở trên Thất Giác Chi mà tu tập.

Đó thì, cái phần Thất Giác Chi thì quý thầy đã thấy rất rõ rồi đó, nó phải từ chỗ Nhị Thiền mà tu tập Thất Giác Chi, chớ cái người mà mới tu mà vô tu tập Thất Giác Chi thì không được.

Cho nên vì vậy trong kinh Phật, trong kinh Trung Bộ thì Phật có nhắc, có dạy, và bộ Tương Ưng thì Phật cũng có dạy, là vì khi mà chúng ta tu Tứ Niệm Xứ rồi, chúng ta làm cho sung mãn được Tứ Niệm Xứ rồi, thì chúng ta mới tu tập Thất Giác Chi.

Nhưng mà cái Tứ Niệm Xứ thì nó bắt đầu đi từ cái chỗ ly dục ly ác pháp cho đến khi mà đạt Tam Minh, nó nhiều cái giai đoạn quá, chúng ta cũng không biết đặt Tứ Niệm Xứ là cái khoảng nào để mà thực hiện Thất Giác Chi.

Thì ngay từ cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ “trên thân quán thân tu về nhân tướng”, tức là tu Định Vô Lậu, là nó làm cho chúng ta không còn lậu hoặc, tức là ly lậu hoặc.

Rồi “trên thân quán thân tu về hành tướng ngoại” là tu về Thân Hành Niệm thì nó làm cho chúng ta được tỉnh thức, cho nên được gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, thì nó làm cho chúng ta tỉnh thức.

Rồi chúng ta “trên thân quán thân tu về hành tướng nội”, nó là Định Niệm hơi Thở, chớ không phải là sổ tức quan đâu, Định Niệm Hơi Thở. Do hơi thở biết ra, hơi thở biết vô cho nên Phật nói , Thầy nhắc lại: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là cái pháp hướng kèm vô cái hơi thở.

Cho nên cái người nào mà biết áp dụng được cái hơi thở và cái pháp hướng thì nó làm cho sức định tỉnh của chúng ta rất lớn ở trong cái Định Niệm Hơi Thở. Chớ hơi thở nó không có định tỉnh gì hết, nhưng mà nó giúp cho chúng ta, nó trợ pháp cho chúng ta làm cho chúng ta tu các cái thứ định khác được.

Do cái chỗ mà biết tu như vậy, thì chúng ta sẽ ở trên cái Tứ Niệm Xứ mà tu ba cái loại định này, thì làm cho thân - thọ - tâm - pháp chúng ta thanh tịnh, nó ly được dục ly ác pháp.

Từ đó bắt đầu cái Thất Giác Chi nó xuất hiện từ ở cái giai đoạn đầu, mà khi chúng ta làm cho sung mãn được Thất Giác Chi cái giai đoạn đầu, thì lúc bấy giờ chúng ta đã tu tập ngay đó rồi. Chớ không phải đợi đến giai đoạn thứ hai, thứ ba, tới thứ tư mới là tu tập, không phải. Thất Giác Chi là tu tập vào cái chỗ mà làm cho sung mãn được Tứ Niệm Xứ ở trong cái giai đoạn đầu của Tứ Niệm Xứ.

Cho nên ở đây hầu hết là cái kinh nghiệm tu hành của Thầy, Thầy thấy rất rõ Tứ Niệm Xứ, từng cái giai đoạn của nó rất rõ, khi mà Thầy đã giảng rồi thì quý thầy đã nghe, còn các con mà chưa được nghe Tứ Niệm Xứ, thì kể như bây giờ nói thì cũng như là hiểu một cách mơ hồ, chưa có rõ đâu.

Cho nên ở đây bây giờ mới bắt đầu, chúng ta đã biết được cái thần lực, cái đạo lực của chúng ta để mà chúng ta thực hiện Tứ Như Ý Túc, mà Thầy xin nhắc lại cái Thất Giác Chi, để biết cái Thất Giác Chi nó xuất phát từ ở chỗ nào, rồi chúng ta tu tập Thất Giác Chi ở chỗ nào, để mà nó có cái sự giải thoát hoàn toàn ở chỗ đó, gọi là Thất Giác Chi là Bồ Đề.

2- THẦN THÔNG DỤC NHƯ Ý TÚC

(5:28) Bây giờ chúng ta tiếp tục Dục Như Ý Túc. Thì khi mà Định Như Ý Túc, tức là chúng ta muốn định nào, thì nó ngay vào định đó. Bây giờ thí dụ như Thầy không cần nhập Tứ Thiền, thì thầy nhập Nhị Thiền, Thầy nói: “Cái tâm bây giờ tịnh chỉ Tầm Tứ nhập Nhị Thiền!” thì ngay đó Thầy chỉ nằm cho đúng ở trên cái tụ điểm của Thầy, tức là cái nơi mà Thầy nằm yên lặng ở trên cái hơi thở, biết hơi thở ra vô, thì nơi đó Thầy bám chặt, thật chặt ở chỗ đó.

Cho nên ở đây các con mà đã tu, thường tu với Thầy, Thầy có dạy các con tu tập cái niệm, cái hơi thở để mà rèn luyện cái tụ điểm. Khi có tụ điểm rồi thì chúng ta có cái chỗ nằm chặt, từ cái chỗ nằm chặt đó mà chúng ta nó nhập được các định.

Bởi vậy cho nên có một nhà bác học nói: “nếu mà ai cho tôi một cái điểm tựa, tôi sẽ bẩy cả vũ trụ”. Ở đây Thầy cho các con được cái điểm tựa, cái điểm tựa đó là cái tụ điểm, cho nên bây giờ các con sẽ bẩy cả vũ trụ.

Nghĩa là bây giờ ở đây, mà cái mặt trăng ở kia, mặt trời ở kia mà ngồi đây mà rờ được nó thì không phải bẩy vũ trụ được sao? Cho nên các vật xung quanh chúng ta, chúng ta sai bảo nó, đều nó làm theo hết.

Một cái bàn này, chúng ta bảo: “Phải hiện ra một cái bàn nữa!”, thì ngay đó có một cái bàn y như vậy nữa. Một cái ca này bảo ra, không phải đây là cái sự tưởng tượng, bảo ra mọi người đều thấy sự thật. Không phải là một cái sự nói láo, mà đây là một cái sự thật, cái quyền năng của nó, nó làm như vậy đó, đó là cái sự thật.

Nhưng không phải chúng ta, cái mục đích, Thầy nhắc lại, không phải là mục đích chúng ta tu tập để có những cái thần thông đó, mục đích chúng ta để làm chủ sự sống chết. Mà khi làm chủ được sự sống chết thì cái chuyện mà làm được những chuyện này thì như trò đùa của chúng ta. Vì nó có cái đạo lực ở trong thân tâm của chúng ta bảo hơi thở ngưng, thì cái chuyện mà bảo tất cả mọi vật nó phải theo lệnh chúng ta truyền.

Đó, hôm nay thì các thầy thấy rằng, như Đức Phật đã nói, khi mà nhập Tứ Thiền, mà cái danh từ của Phật dùng ở đây thì chúng ta thấy nó không có nói tới Tứ Thiền, mà Đức Phật nói: “Với tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”. Đó, với cái tâm đó là cái Tứ Thiền đó.

Thì Tỳ Kheo đó bây giờ mới dẫn cái tâm mình đến các thần thông, và chứng được các loại thần thông như một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện lại một thân.

Bây giờ Thầy xin nói thêm cái phần này để thấy rằng nó có nhiều cái đặc biệt của cái, ở đây Đức Phật nói rất là ngắn gọn. Ở đây nó có cái phần thân và tâm.

Bây giờ Thầy ngồi đây Thầy truyền lệnh nè, thí dụ Thầy bảo nè: “Cái tâm phải biến cái thân này ra một con chim”, thì ngay cái tâm nó làm cho cái thân này trở thành một con chim, cái thân mất tiêu, không thấy cái thân nữa. Còn nếu mà cái tâm nó, truyền lệnh cho cái tâm: “Cái tâm phải biến ra con chim” thì cái thân ngồi đây mà có con chim.

Do đó mà chúng ta mới biết rằng cái pháp hướng chúng ta sử dụng tu tập như thế nào. Bây giờ đó, chúng ta mới nói: “Cái tâm biến ra cái bàn y như cái bàn này” thì cái bàn này còn một cái bàn do tâm biến ra.

Cho nên khi tu, chúng ta phải rành cái chỗ này mà chúng ta dùng pháp hướng chớ không phải là chúng ta muốn nói bừa, nói đại được. Chúng ta phải dùng pháp hướng cho chính xác. Chúng ta nói: “Tâm, phải biến ra một cái bàn, như cái bàn đang hiện trước mặt đây!” thì cái tâm biến ra cái bàn, thì cái bàn này còn nguyên.

Nhưng mà nói: “Cái bàn này phải biến ra một cái bàn nữa!” thì cái bàn này nó biến ra cái bàn nữa, cái vật này nó biến ra cái bàn nữa. Còn nói như thế này: “Cái bàn này biến ra con chim!” thì cái bàn này mất, có một con chim.

(8:52) Cho nên trong khi luyện, mà muốn luyện một cái gì đó, thì nó không phải trong một lần mà chúng ta hướng ra được liền, nó biến ra liền, mà chúng ta phải hướng tâm nhiều lần, nhắc nhiều lần.

Thí dụ như bây giờ mình bảo: “Cuốn sách này, cuốn kinh này phải biến ra một cuốn kinh nữa!”, mình nhắc như vậy, một lần nó thấy chưa, nó nằm trơ trơ, nó có một cuốn, nó chưa hai cuốn. Nhắc nhiều lần cho đến khi đủ sức, Thầy thấy nó có một cuốn kinh, thì biết rằng mình đã thành tựu được cái pháp biến ra như vậy. Đó!

Thì như vậy là mình muốn cái gì thì mình phải tập luyện cái đó. Sau đó rồi mình, khi mình tập luyện hết Dục Như Ý Túc này rồi, thì bắt đầu mình ra lệnh cái gì nó cũng làm theo hết liền tức khắc, chớ không phải còn như trong lúc tu tập. Còn trong lúc tu tập thì nó phải một lần, hai lần, ba lần, cho đến năm lần, mười lần nó mới thị hiện ra được. Còn khi mà chúng ta tu tập xong rồi, chúng ta bảo cái gì nó làm ra cái nấy hết.

Đó là một cái quyền lực, mà chúng ta đã cướp lại cái quyền làm chủ sự sống chết của chúng ta thì chúng ta cướp lại cái quyền làm chủ cả vũ trụ. Làm chủ được thân này tức là làm chủ vũ trụ rồi, cho nên làm chủ luôn các pháp.

Do đó chúng ta có một cái sức lực kinh khủng ở trong con người của chúng ta, rất là kinh khủng. Chỉ cần chúng ta rèn luyện đúng cách thì chúng ta sẽ có những cái đặc biệt vô cùng mà không thể người ta nghĩ lường được, cho nên “bất khả tư nghì” mà, không thể nghĩ lường.

Mà cái đó ở đâu? Quý thầy biết nó ở đâu? Ở trong bộ óc chúng ta đây. Khi chúng ta đánh thức một số tế bào não chúng ta mà không làm việc, nó đang nằm im lìm đây, bắt buộc cái tụi đang làm việc này ngưng lại để tụi kia làm việc, thì bắt đầu chúng ta làm được chuyện đó.

Do đó thân định trên tâm, thì thân định không còn hoạt động, thân nó ngưng rồi, thì nó định ở trên tâm, tức là nó không còn hoạt động, thì cái phần hoạt động của cái tế bào não của chúng ta hoạt động với hơi thở, thì nó cũng ngưng theo với hơi thở rồi, thì còn lại một số mà không hoạt động tức là buộc lòng nó phải hoạt động. Nó hoạt động thứ nhất là duy trì lại cái mạng sống của nó, cái phần thứ hai thì nó thể hiện siêu việt, rất siêu việt.

(10:49) Cho nên ở đây chúng ta chỉ cần pháp hướng, chúng ta muốn cái gì chúng ta hướng nấy.

Cho nên bây giờ các con đã là những người đã học pháp hướng rồi, thì Thầy không cần nhắc mất thì giờ vô ích. Cho nên Thầy nói chỉ cần hướng, mà trạch pháp, lúc bấy giờ các con đã là một cái người mà đã ly dục ly ác pháp rồi, cái tâm rất thanh tịnh, các con đặt ra cái pháp hướng nào nó rất là chính xác và hợp với khả năng của các con, tức là đặc tướng.

Còn nếu mà các con chưa ly dục ly ác pháp, tâm các con còn bị Ngũ Triền Cái, Thất Kiết Sử trói buộc, Ngũ Triền Cái che mờ thì lúc bấy giờ các con đặt có khi trúng, khi trật, cho nên có khi các con đặt ra hiệu quả lắm, nhưng mà có khi các con đặt ra không hiệu quả. Do sự ức chế tâm mà Thất Kiết Sử với Ngũ Triền Cái chưa có xả hết thì các con chưa thành tựu cao đâu.

Đó là những cái mà Thầy biết được, Thầy hiểu được, Thầy nhắc nhở các con. Không khéo các con nhắc, ức chế tâm, người cũng nhập Tam thiền, rồi cũng thân định trên tâm, mà tâm định trên thân, mà rồi sao hướng Tứ Như Ý Túc mà không đạt được như ý muốn, thì cái đó là cái sai.

Nhưng mà chắc chắn là các con sẽ không bao giờ đạt được cái định mà thân định trên tâm, không đạt được, vì nó không bao giờ ngưng hơi thở.

Cái tâm mà còn dục lạc, cái tâm mà còn chưa có đoạn dứt Thất Kiết Sử, chưa có đoạn dứt Ngũ Triền Cái, chưa có ly ra được thứ này, thì các con truyền lệnh gì cái hơi thở các con vẫn thở, không bao giờ nó nghỉ. Chỉ có tưởng là các con thấy nó mất, chứ nhưng mà các con hướng tâm ra là thấy nó cũng thở khì đó, nó không bao giờ nó mất.

Cho nên ở đây là cái đúng, và đồng thời Thầy xin nhắc lại cái phá âm thanh, là cái âm thanh nó ở bên ngoài nó luôn luôn bao giờ nó cũng có. Cho nên chúng ta phá âm thanh, tức là chúng ta hướng cái tâm chúng ta quay vào mà không để cho nó bị nghe âm thanh mà thôi, chớ không phải chúng ta đập phá âm thanh bên ngoài được.

Nhưng chúng ta phá các hành, cái lực của chúng ta phá các hành trong thân thì nó là thực tế. Cho nên khi mà chúng ta hướng tâm nhắc: “Hơi thở tịnh chỉ, các hành ngưng!” thì lúc bấy giờ hoàn toàn nó ngưng, thì lúc chúng ta hướng tâm ra, tức là trở về ý thức, thì chúng ta xem lại thì chúng ta thấy hoàn toàn là, cái thân của chúng ta hoàn toàn là ngưng hoạt động, không còn thở, không còn gì hoàn toàn.

Còn nếu mà chúng ta hướng ra mà thấy nó còn thở tức là chúng ta bị tưởng định. Tưởng định tức là chúng ta hướng ra thấy nó còn thở khì khì, thì tức là đây là cái tưởng rồi. Tưởng là thấy như mình nín thở, không thở nữa, nhưng mà sự thật ra nó còn thở, đó là bị tưởng che, che mờ, do đó chúng ta chưa nhập được Tam Thiền cho nên còn tưởng.

Bởi vì tưởng nó có tới mười tám loại hỷ tưởng lận chớ không phải một loại hỷ tưởng. (13:03) Ai đã từng học theo Thầy thì Thầy có kể ra mười tám cái loại tưởng này chớ không phải, Phật nói thì đơn giản, muốn nhập Tam Thiền thì ly hỷ trú xả, Phật nói ly hỷ, nhưng mà mười tám cái loại hỷ tưởng chớ đâu phải một loại hỷ đâu, nó đâu đơn giản. Nếu mà có một cái loại hỷ mà ly nó rồi thì dễ quá rồi, còn cái này tới mười tám loại hỷ mà, đâu phải chuyện dễ!

Đó, thì như vậy là các thầy phải thấy rằng khi mà Thất Giác Chi mà thực hiện thì cái Trạch Pháp Giác Chi nó có hiệu quả vô cùng, là chúng ta trạch pháp đâu nó đúng đó, là do cái tâm chúng ta đã ly dục ly ác pháp từ cái chỗ mà nhập Sơ Thiền.

Còn cái tâm mà chúng ta chưa ly dục ly ác pháp, bây giờ chúng ta nhập Tam Thiền hay Tứ Thiền, mà chúng ta đặt cái pháp hướng thì cái Thất Giác Chi mà gọi là Trạch Pháp Giác Chi, chúng ta sẽ đặt sai, chúng ta chọn ra cái câu không đúng.

Các thầy phải hiểu được cái chỗ mà đi từ cái con đường của đạo Phật, nó có sắp xếp từng cái lớp để mà chúng ta tu tập.

Cho nên chúng ta tu tới đâu, cái lớp thấp chúng ta tu tập, từ cái lớp thấp đến cái lớp cao chúng ta đạt thấy kết quả rõ ràng, ngày ngày chúng ta tu rất tiến bộ, nó, cái ngày nào chúng ta cũng thấy có kết quả, nó hăng hái, nó làm chúng ta thích thú tu hành lắm. Còn chúng ta tu mà dậm chân tại chỗ tức là chúng ta tu sai rồi, không thấy kết quả.

Cho nên bây giờ chúng ta muốn cái thân này mà đi qua cái vách, đi qua một cái vách đá hoặc là biến hiện ra nhiều thân, thì chúng ta cũng dùng pháp hướng, thí dụ như Thầy ngồi đây, Thầy hướng tâm Thầy thầy nhắc: “Cái thân này phải biến ra năm thân, mười thân, trăm thân!”

Thầy ra lệnh nó như vậy, rồi Thầy ngồi đây, Thầy ngồi yên lặng, một lúc Thầy thấy nó ngồi một bầy ra như thế này, đúng rồi, nó đã thực hiện được rồi. Còn nếu mà nó chưa ngồi ra một bầy thì chắc chắn là chưa được, còn hướng nữa.

Rồi Thầy thỉnh thoảng hướng rồi nằm im đó để chờ xem coi nó hiệu quả như thế nào, thì lúc bấy giờ gọi là tu Tứ Như Ý Túc, Dục Như Ý Túc.

(14:47) Còn Tuệ Như Ý Túc thì các thầy cũng biết rằng, chúng ta muốn hiểu biết cái gì đó thì chúng ta luôn luôn chúng ta hướng tâm nhắc, thì nó sẽ hiểu biết ra cái nấy, thì lúc bấy giờ Tuệ Như Ý Túc tức là nó tới Tam Minh rồi, cái giai đoạn Tuệ Như Ý Túc là bắt đầu thực hiện Tam Minh.

Cho nên lúc bấy giờ thực hiện Tam Minh, tức là cái Tuệ của chúng ta nó sẽ sáng suốt vô cùng, chúng ta muốn nó biết nhiều đời, nhiều kiếp thì ngay đó nó sẽ biết được nhiều đời nhiều kiếp.

Cũng như bây giờ, Thầy nói bây giờ Thầy đương ngồi kiết già, Thầy bảo: “Cái thân này bay lên hư không!”, một lần không thấy bay, hai lần không thấy bay, cái bắt đầu nó bay lên nó đụng cái thiết này nó không bay ra được. Thầy biết rằng mình bay được, thôi đi ra ngoài sân để ngồi làm thử coi.

Thì bắt đầu đó, ra sân mới ngồi kiết già, bảo nó: “Bay lên hư không!”, bắt đầu nó bay bổng lên, bay ngút trên đọt cây, bay ngút cao hơn đọt cây. Như vậy hôm nay mình thực hiện được bay trên hư không rồi thì thôi bây giờ dẹp cái này đi, mình đi tu tới các khác.

Cho nên mình thử, bây giờ mình truyền lệnh: “Cái tay này phải rờ cái mặt trời, mặt trăng!”, thật sự ra Thầy không có đưa cái tay Thầy rờ đâu, mà nó rờ mặt trời, mặt trăng, Thầy biết ờ mình có rờ mặt trời, mặt trăng. Đó là cái chỗ mà mình hướng tâm mình nhắc, để rồi mình thấy rõ ràng cái tay mình rờ mặt trời, mặt trăng, nóng hay mát, hay lạnh chỗ nào mình biết, và nó gồ ghề núi đá như thế nào mình phải biết.

Đó là cái chỗ siêu việt của một cái người mà tu thiền của của Phật giáo như vậy đó. Mà không cần phải tu tập cái này, chỉ cần chúng ta ly dục ly ác pháp, thì cái chỗ này là chúng ta sẽ làm được hết. Cho nên chỉ dùng cái pháp hướng mà chúng ta đã đạt được những kết quả này.

Đó là cái phần tu tập Như Ý Túc.

4- TÚC MẠNG MINH: THU NGẮN THỜI GIAN

(16:14) Và cái phần Tam Minh thì chắc chắn là nó cũng giống như vậy thôi. Khi mà Tuệ Như Ý Túc, thì cái phần đó là cái phần nói về Tam Minh rồi. Thì như vậy chúng ta cũng hướng tâm đến Tam Minh, Đức Phật dạy mà, hướng tâm đến Tam Minh.

Tức là chúng ta hướng: “Bây giờ cái tâm phải thu ngắn cái thời gian này lại, trong cái hiện tại từ 2500 năm nay để coi Đức Phật thuyết cái bài kinh Sa Môn Quả này như thế nào!”. Ra lệnh nó như vậy à, rồi mình ngồi đây mình im lặng, mình im lặng nhập ở trên cái Tứ Thiền, mình giữ cái tâm yên lặng ở trên cái định của Tứ Thiền, hoàn toàn mất tiêu.

Nhưng mà tuần tự lại nghe âm thanh của Phật và thấy được Đức Phật đang thuyết giảng với một nhà vua đang ngồi, rõ ràng là mình trực tiếp mình nghe được cái lời pháp đó, và bắt đầu cái bài pháp đó thuyết như thế nào.

Đó thì như vậy là chúng ta đã trở về với cái quá khứ, tức là thu ngắn cái thời gian của quá khứ trở lại nằm trên một điểm trên cái hiện tại cho chúng ta.

Cho nên ở trong cái định Tứ Thiền đó, thì chúng ta sẽ như là một cái người mà không có cái thời gian, muốn cái chỗ nào là cũng được, cái thời gian nào chúng ta cũng có thể được hết. Cho nên chúng ta muốn hướng tâm đến nhiều đời nhiều kiếp của mình, đời thứ nhất gần cái đời này, thử coi mình là ai, tên gì, họ gì, làng nào thì cũng nhắc tâm như vậy.

Bây giờ mình ngồi đây mình nhắc như thế này: “Cái tâm này đi trở về quá khứ một đời, để xem coi đời kế đây ta là ai, tên họ gì, ở làng nào, xứ nào, nước nào, cha mẹ tên gì, anh em tên gì, sinh hoạt như thế nào, làm nghề gì trong cái thời đó!”. Thì ngay đó mình ra lệnh như vậy, cái bắt đầu mình im lặng một chút xíu, thì mình vẫn biết được từ tên họ nè.

Mà nó biết được với một cách rất là cụ thể rõ ràng từng chi tiết một: tên họ, làm nghề gì, như là diễn biến từ một cuốn phim mà chúng ta đã nhìn thấy những hình ảnh mà đang sinh hoạt ở trong một cái cuốn phim.

Đó, một cách rõ ràng, nhưng mà chỉ có cần hướng như vậy thôi chớ đâu có cần làm cái gì đâu, nhưng mà ra lệnh nó làm được tất cả. Đã nói bảo cái tâm này phải biến con chim thì nó biến được con chim, thì cái chuyện mà bảo để cái tâm này nó trở về quá khứ mà nó biết được cái chuyện một đời của nó thì quá dễ rồi, không còn khó nữa, đó gọi là Tuệ Như Ý Túc.

Do cái chỗ tu tập như vậy đó, thì chúng ta thấy rằng nó rất là vi diệu. Do đó bây giờ chúng ta mới trở về một đời nữa, một đời nữa kế cho đến vô lượng đời chúng ta đều biết rất rõ, làng xã và đời đó có vợ con tên gì, đứa thứ nhất tên gì, đứa thứ hai tên gì, có vợ có chồng như thế nào, sanh bao nhiêu con, gia phả như thế nào đều biết rõ hết!

Rồi những cha mẹ mà trong cái đời trước như vậy, thì hiện bây giờ đang tái sanh chỗ nào làm gì, làm gì biết hết! Rất rõ! Cho nên khi một cái người mà tu hành mà có cái thần lực như vậy rồi thì người ta đâu có bỏ cha mẹ người ta, người ta báo hiếu, rất là báo hiếu. Cha mẹ mất rồi, người ta dùng cái thần lực để người ta tìm cha mẹ sanh chỗ nào, người ta tìm cái duyên để người ta độ cha mẹ.

Không phải cha mẹ trong một cái đời nay, như bây giờ Thầy có cha mẹ Thầy mới sanh thầy ra, thì không phải những cha mẹ trong một đời nay đâu, mà cha mẹ trong nhiều đời kiếp. Thầy mang biết bao nhiêu lớp thân, thì biết bao nhiêu cha mẹ!

Do đó mới nhìn lại trong cái quá khứ đó để tìm tất cả những cha mẹ của mình, rồi mình lần lượt mình độ. Mình độ để đền đáp ơn, mỗi một kiếp vậy người bố thí cho mình một cái thân, để cho mình tiếp tục trên con đường, đến hôm nay mình giải thoát, làm sao mình quên công ơn của người đó được? Cho nên mình luôn luôn bao giờ cũng nhớ cái người đại thí chủ này hết. Mà mình có nhiều vô lượng người đại thí chủ chớ không phải là một đại thí chủ trong một kiếp này.

(19:41) Cho nên các con bây giờ ngồi bịn rịn mà thương cha nhớ mẹ trong kiếp này là các con ngu si. Thầy nói là vô minh! Không biết bao nhiêu đời, cha mẹ biết bao nhiêu đời sao không khóc? Mà bây giờ cha mẹ trong đời nay lại khóc? Cái đó là ngu si, chỉ thấy có bây giờ!

Bây giờ chúng ta khóc phỏng chừng chúng ta có làm gì mà báo hiếu ông bà được sao? Chúng ta hãy nỗ lực tu hành, thì may ra chúng ta sẽ giúp được cha mẹ trong đời hiện nay, mà còn giúp đỡ cha mẹ biết bao nhiêu đời để đền đáp ơn!

Cho nên sự tu hành của đạo Phật rất là thực tế và hiếu hạnh rất là cao tuyệt chớ không phải hiếu như đạo Khổng. Cái chữ hiếu của Đạo Khổng rất là tầm thường, chỉ cung phụng cho một đời cha mẹ này trong vật chất lẫn tinh thần trong cái cuộc sống an ổn trong đời nay mà thôi, chứ chưa có đem lại cho người một giải thoát chân thật.

Mặc dù là an ổn, làm cái trò như là trong Nhị Thập Tứ Hiếu - hai mươi bốn cái điều hiếu của đạo Khổng, thì thật sự ra như ông Lão Lai già cả rồi làm cười cho cha mẹ vui, thì đó chẳng qua là cười trong tiếng khóc, chớ đâu phải là cười. Cười trong tiếng khóc là bây giờ thân của cha mẹ đang hoại diệt, đang già, đang khổ sở nè, đang đau bệnh nè, ông có thay thế được không mà cười? Cho nên ông chỉ làm trò để mà vui đỡ trong một cái hiện tại, trong khi đó để quên đi cái nỗi đau khổ của sự già, của sự yếu, sự bệnh tật của cha mẹ mình, chớ ông có thay thế được đâu?

Cho nên không, ở đây chúng ta chỉ cho cha mẹ chúng ta vượt thoát ra khỏi cái chỗ sinh tử này, cái đó là hiếu, hiếu rất là hiếu! Còn bây giờ chúng ta có chỉ như vậy, có làm như vậy thì cũng chẳng qua là cái hiếu nhỏ nhỏ mà thôi, trong cái vật chất, tinh thần của vật chất mà thôi.

Cho nên ở đây thật sự ra chỉ có đạo Phật mới là đại hiếu, còn các tôn giáo khác thì có hiếu, nhưng mà hiếu trong một đời và hiếu ở trong cái vật chất của thế gian, chớ không phải cái hiếu thật sâu của đạo Phật.

5- THIÊN NHÃN MINH: THU NGẮN KHÔNG GIAN

(21:21) Đó cho nên bây giờ chúng ta mới hướng đến Tam Minh để mà chúng ta thực hiện những cái quá khứ, rồi sau đó chúng ta sẽ hướng đến Thiên Nhãn Minh. Thiên Nhãn Minh tức là làm cho cái không gian nó không có trải dài ra nữa, nó thu ngắn lại.

Nó thu ngắn lại, thí dụ như bây giờ ở bên Pháp, bên Mỹ mà chúng ta có một cái người thân, mà chúng ta muốn biết cái người đó giờ đang làm gì, bệnh tật hay là đang mạnh khỏe, hay làm gì, thì chúng ta chỉ hướng tâm đến, chúng ta chỉ sai cái tâm chúng ta đi chỗ đó. Và sai tâm đi tức là chúng ta thu cái thời gian nó ngắn lại liền tức khắc là chúng ta đã thấy, biết cái người anh mình hay chị mình đang sinh hoạt như thế nào, đang bệnh đau như thế nào đều thấy biết hết.

Và chúng ta ngồi đây mà chúng ta muốn biết ở thành phố này đang có sự sinh hoạt như thế nào, những người thân, những Phật tử làm gì chúng ta đều hướng tâm biết hết.

Cũng như ví dụ như một vị thầy, mà ngồi tại thất của vị thầy đó mà biết cả toàn diện của cái khu vực này các thầy đang hoạt động như thế nào, tu hay không tu, ngủ hay không ngủ, đều là có thể dùng cái Thiên Nhãn Minh mà người ta quan sát hết. Đó là cái chỗ mà hướng dẫn.

Cho nên ngày xưa khi ông Mục Kiền Liên mà xin vào một khu rừng hoang vắng mà tu hành, mà khi ông bị hôn trầm thì Đức Phật dùng cái Thiên Nhãn Minh mà quan sát, thấy ông đang bị kẹt cho nên Đức Phật thị hiện thần thông đến ngay liền để mà chỉ ông phá hôn trầm.

Và khi mà ông nhập Nhị Thiền, ông diệt Tầm Tứ thì ông không có, ông nhập được, mà an trú để kéo dài cái thời gian trong Nhị Thiền thì an trú không được. Cho nên Đức Phật dùng cái Thiên Nhãn Minh mà quan sát, thì thấy ông này bị kẹt cái chỗ này, ông ở trong cái trạng thái Nhị Thiền thì ông thường bị tác ý. Do đó cho nên Đức Phật đến mới dạy ông “Im lặng như Thánh”.

Còn bị hôn trầm, thì ông tu mà bị hôn trầm thì Đức Phật dạy ông năm cái điều kiện mà phá hôn trầm. Điều kiện hay nhất tức là đi kinh hành, tu tập Chánh Niệm Tỉnh Thức. Cho nên ông Phật ông đến dạy ông Mục Kiền Liên phá hôn trầm liền, không có để cho ngủ. Và dạy ông im lặng như Thánh, trụ như Thánh, cho nên từ đó ông thấy những cái lời nói của Phật.

Xong rồi Phật thị hiện về ngay tại thất của mình, thì ở đó ông nỗ lực ông thực hiện, cho nên cuối cùng ông trở thành một đệ tử đệ nhất thần thông của Phật.

Cho nên một vị thầy luôn luôn người ta theo sát đệ tử của mình, chớ không phải người ta bỏ đệ tử của mình, vì người ta có đủ cái năng lực người ta theo sát mình. Cho nên các thầy nghĩ rằng một vị thầy mà không đủ năng lực, học trò mình chết trong thất làm sao? Mà dám lãnh nó mà dạy tu?

Cho nên nếu mình chưa biết thiền định mà dạy nó tu, nó ở trong thất nó không tu, nó chơi suốt đời nó, thì nó làm sao nó thành tựu được, mà cái trách nhiệm mình ở đâu? Cho nên vì vậy mà luôn luôn phải theo dõi và biết. Và cũng biết cả cái nghiệp của nó, nó phải đến mức độ nào, nó tu đến mức độ nào và nó đạt được trong kiếp này giải thoát không, đều là phải rõ biết hết.

Đó là cái chỗ thực hiện Tứ Như Ý Túc và thực hiện Tam Minh.

6- LẬU TẬN MINH: GIẢI THOÁT HOÀN TOÀN, CHẤM DỨT TÁI SANH

(24:25) Thì bắt đầu bây giờ về Lậu Tận Minh là phải thấy rõ cái lậu hoặc, cái gốc lậu hoặc.

Khi mà nhập vào cái Lậu Tận Minh thì chúng ta quan sát lại cái lậu hoặc chúng ta. Thì khi quan sát lại, dùng cái trí tuệ mà quan sát như vậy, thì hồi nãy Đức Phật có nói cái đó là cái Chánh Kiến và cái Chánh Tri Kiến của chúng ta, từ cái chỗ thiền định đó nó mới phát hiện ra được, vì vậy mà nó mới thấy được cái lậu hoặc, chúng ta mới đốn sạch bứng gốc, bây giờ nó không có lậu hoặc nữa. Cho nên bây giờ thành Phật rồi thì không còn một chút lậu hoặc nào hết.

Còn chúng ta mới tu tập thì chúng ta còn lậu hoặc, nghĩa là cái gốc lậu hoặc còn, chúng ta mới ly. Cho nên ở đầu các thầy mới nghe, thì chúng ta giai đoạn đầu chúng ta ly dục ly ác pháp, chứ chúng ta đâu có nói là đoạn dục, đâu có nói là đoạn ác pháp đâu?

Nhưng mà tới Tam Minh rồi thì chúng ta mới là đoạn dứt. Cho nên dục nó cũng bị đoạn dứt, ác pháp nó cũng bị đoạn dứt, nó không còn, cho nên chứng quả A La Hán.

Còn cái chỗ mà chúng ta mới tu, nghe cái Định Vô Lậu là tập ly dục, ly ác pháp, làm cho cái lậu hoặc nó ly chớ nó chưa phải đoạn, đó là hai cái giai đoạn nó rất rõ mà.

Cho nên nói bây giờ chúng tôi ly lậu hoặc, lìa cái tâm ham muốn và cái tâm ác pháp, lìa nó ra rồi thì chúng tôi sao chưa chứng quả A La Hán? Lìa mà sao chứng được, đoạn mới chứng quả A La Hán. Cho nên thực hiện được tới Tam Minh rồi thì cái vị đó mới chứng quả A La Hán. Cái quả đó là cái quả giải thoát hoàn toàn, không còn tái sanh luân hồi ở cái thế gian này được.

Nhưng quý thầy phải nhớ rằng, có người hỏi Thầy: Khi mà mình tu mà đến đó rồi, mình thành tựu đến đó rồi, thì như vậy là sau khi mình nhập vào Niết Bàn rồi thì mình còn cái gì? Mình có còn cái gì không? Cái điều này là phải nói rằng cái tâm hữu hạn của chúng ta mà hỏi cái chuyện mà vô hạn, nếu mà giải thích ra thì chúng ta bị lầm chấp.

Lầm chấp cái thứ nhất, nói bây giờ Thầy nói bây giờ khi mà nhập vào Niết Bàn thì cái mà chúng ta tu tập nó vẫn còn, thì ngay đó chúng ta nghĩ rằng cái đó là vô hình, vô tướng. Cho nên nó biến ra thành cái Phật Tánh mất rồi. Do đó vì vậy mà có người phàm phu, tục tử mới nghĩ nó là Phật Tánh, chấp cho nó là Phật Tánh.

Cho nên ở đây chúng ta không nên nói, nói như vậy là chúng ta bị chấp ngã rồi, ngã chấp rồi. Cho nên cái người nào mà nhận ra nói rằng là Phật Tánh là một cái thường, lạc, ngã, tịnh của nó, bốn cái đức Niết Bàn của nó là thường, lạc, ngã, tịnh đó, là cái nhận ra Phật Tánh như vậy, cho nó là cái Phật Tánh như vậy, đó là cái người chấp ngã rồi, cho nên nó cũng trật à. Mà hễ còn chấp ngã như vậy thì cái người đó chưa chứng quả A La Hán.

Cho nên ở đây khi mà Đức Phật có nói: “Đối với tự thân để giải thoát, vị ấy biết sanh đã tận”, sanh đã tận tức là cái cuộc sống sanh y hàng ngày, những cái gì đồ đạc, vật chất của thế gian chớ không phải là sanh tử, sanh đẻ đâu. Mà sanh đây là cái vật chất thế gian, nó đã tận, tức là đoạn tận, chữ tận này là đoạn tận.

Nó không còn có ham thích một cái gì hoàn toàn, thì Phạm Hạnh người đó mới thành, cái Phạm Hạnh nó mới xong.

“Những cái việc làm, cần làm đã làm xong hết rồi”. Tức những cái việc tu hành từ hồi nào tới giờ thì người này không còn tu nữa, hết tu rồi. “Sau cái đời hiện tại không còn cái đời sống nào khác.” Nghĩa là sau cái đời này, cái đời mà bây giờ mình đang sống, hết cái đời này thì mình không có cái đời sống khác nào nữa hết.

Mà ai hỏi thêm cái điều đó là cái người đó thiệt là điên đảo không biết. Có hay không thì người đó tới đó sẽ biết, bây giờ mà dùng cái tâm thức hữu hạn này mà, để hiểu sau cái đời hiện tại này của một người tu rồi, mà hiểu còn hay không, thì cái người đó không thể nào mà lấy cái tâm hữu hạn này mà hiểu cái đó được.

Bởi vì chúng ta đang sống ở trong cái tâm hữu hạn là cái tâm đối đãi, bây giờ chúng ta thấy có cái thân này là tại vì xung quanh đây chúng ta còn thấy được cái nhà cửa, cây cối này kia, nó có cái đối tượng, nó làm chúng ta thấy có cái thân này.

Nhưng bây giờ cái thân chúng ta nè, nó hoàn toàn nó phi mất hết những cái vật chất này hết hoàn toàn rồi, nó xả bỏ hết, cả không gian vũ trụ này nó cũng đều mất hết, nó không còn hình tướng, hình sắc gì hết, nó không còn đối tượng, thì như vậy có cái thân này mất không?

Nhưng mà lúc bấy giờ chúng ta có thấy có đối tượng làm cho nó thấy được cái thân nó không? Đâu có thấy được cái thân nó, nhưng mà nó có mất không? Nói nó mất thì không được, mà nói nó có thì có được không? Bởi vì nó đâu có đối tượng mà để cho nó thành hình nó?

Cho nên ở chỗ này thì, cho nên Đức Phật, ai mà hỏi chỗ này Đức Phật nói thiệt là, sao mà lại không hiểu chút gì hết, thiệt là vô minh vô cùng!

Cho nên cái câu nói “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không còn đời sống nào khác nữa.” Nghĩa là từ đó về sau, coi như là tương lai thì chúng ta không có đời sống khác nào khác nữa hết, nghĩa là chấm dứt rồi. Mà hỏi như vậy, chấm dứt rồi không biết còn hay mất đây? Đâm ra lo nghĩ quá trời!

(29:04) Thật sự ra, rõ ràng là nhập Tứ Thiền chúng ta giữ được cái thức của chúng ta. Thì chúng ta giữ nó chớ còn không giữ thì nó hoại diệt, nó tiêu mất á, như người chết thì không còn, thì nó còn nhân quả chứ gì. Mà bây giờ mình đoạn dứt nhân quả rồi, nhân quả không còn thì không còn nghiệp rồi, cái gì mà đưa chúng ta tái sanh được đây?

Chúng ta tái sanh là do cái nghiệp lực nó đẩy chúng ta tái sanh, nó đẩy cái nhân quả chúng ta đi tái sanh, chớ đâu phải đẩy cái linh hồn chúng ta đi tái sanh đâu! Nó đẩy cái hành động thiện, ác của chúng ta đã làm đó, nó trở thành cái lực của nó, nó thu hút chúng ta.

Cũng như bây giờ, chúng ta là người nghiện rượu, thì cái rượu ở trong cái quán rượu kia nó thu hút chúng ta, cho nên đi ngang quán rượu nghe mùi rượu muốn vô uống liền. Đó là cái nghiệp lực nó thu hút chúng ta, nó hút chúng ta vào. Mà vì cái nhân quả chúng ta là cái người đã từng, từng cái hành động uống rượu cho nên nó đã thành ra thích thú cái đó rồi. Cho nên bây giờ nó nghe mùi là nó muốn vào cái quán đó nó ngồi uống rồi. Đó nó hút như vậy.

Cho nên nó gọi là nghiệp lực nó đẩy đi, tức là nó hút vào đó, nó hút vào theo cái nhân quả của nó. Cho nên chúng ta thiện thì nó hút vào cái thiện, mà ác thì cái nghiệp lực đó nó hút vào cái ác, nó tái sanh do cái chỗ ác thiện đó. Cho nên chúng ta ở đây rất rõ ràng, chớ không phải có linh hồn, hay có thần thức nào của chúng ta đi đầu thai hết.

Vì thế mà những người cầu siêu hay cầu an đều là không đúng cái tánh cách của đạo Phật. Đạo Phật không có thế giới siêu hình, hoàn toàn, như thân Ngũ Uẩn, thì tức là hoại diệt là không còn một cái gì mà còn lại.

Và cái thân, cái thế giới khổ là Mười Hai Nhân Duyên thì nó, khi mà nó diệt được cái duyên này thì tất cả cái duyên khác nó diệt hết, thì nó cũng không còn có một cái gì hết, nó không còn có một cái gì còn lại gọi là về đời sau hết, nghĩa là mất hết.

Nó chỉ từ cái Vô Minh mà nó sanh ra các Hành, như hồi nãy Thầy đã nói, rồi nó đi đến cái chỗ mà có Thức chớ không phải là cái Thức mà được đưa đi vào chỗ tái sanh.

Cho nên nó sanh ra là do cái sự Vô Minh nó mới có cái Thức, cho nên cái Thức và cái thân của chúng ta hoàn toàn từ cái thân con người này mà bỏ đi thì nó qua một cái thân khác, nó chỉ còn cái nhân quả là cũ thôi, mà cái thân khác là đều là mới hết toàn bộ, không có cái gì là cũ của nó hết.

7- ĐẠO PHẬT THỰC TẾ, CỤ THỂ, KHÔNG MƠ HỒ

(31:11) Đó là như vậy chúng ta mới hiểu được Phật giáo, vì vậy mà Phật giáo là một đạo Phật rất thực tế và cụ thể, rất khoa học.

Rồi cái sự tu tập của Phật giáo, cái hành pháp của Phật giáo rất là thực tế, cụ thể, đối đầu với cái tâm của chúng ta, tâm tham, sân, si. Bây giờ làm cho nó hết tham, sân, si là phải tu các pháp nào để cho nó hết tham, sân, si. Những cái pháp như vậy nó đem đến đời sống chúng ta giải thoát cụ thể ngay cái chỗ mà tham, sân, si đó.

Cho nên kinh điển của Phật rất là thực tế, không có mơ hồ, không có dạy chúng ta ái cầu khẩn. Cho nên người nào nói Đức Phật Quan Âm là một người cứu khổ thì người đó đã là cái người điên đảo mất rồi, đạo đức không còn có rồi.

Thì quý thầy phải hiểu biết là tại sao như vậy? Có một Đức Phật Quan Âm mà luôn luôn cứu khổ người khác, người ta làm ác người ta mới thọ được cái khổ đó, thì bây giờ người ta phải chịu cái quả đó. Tại sao mình lại cứu cho người ta, để cho người ta không còn khổ nữa, thì như vậy là mình đã phá cái đạo đức của con người rồi còn gì!

Cho nên cái bộ kinh Pháp Hoa là cái bộ kinh phi đạo đức, nó không phải kinh của Phật. Thầy không chấp nhận cái bộ kinh đó vì một cái phẩm Phổ Môn đã làm tan nát hết cái bộ kinh Pháp Hoa.

Đó thì như vậy chúng ta đủ thấy rằng cái sai của cái người mà đặt kinh này để nói Phật thuyết, chớ ông Phật không bao giờ thuyết một cái mơ hồ, trừu tượng như vậy, mà cũng không bao giờ thuyết có một cái đấng cứu khổ như vậy được.

Chúng ta làm nhân nào thì chúng ta phải thọ lấy cái quả khổ, thì như vậy là do cái hành động thiện, ác của chúng ta mà thôi. Cớ đâu mà chúng ta lại cầu khẩn người khác phù hộ mình để cho mình làm ác nữa sao? Đó là một cái loại kinh phi đạo đức, không đúng tánh cách của đạo Phật.

Ở đây Thầy nói thì nó rất đụng chạm với những người mà họ hiểu rằng kinh đó là quý, kinh đó là cao thượng, kinh đó là tuyệt nhất. Sự thật ra nó không có thực hiện được giải thoát. Mà chính các vị mà chấp nhận kinh đó, đọc kinh Pháp Hoa, tụng kinh Pháp Hoa mãi mà đến bây giờ thử hỏi họ được giải thoát những gì? Có thấy đức Phật Quan Âm độ họ bao giờ?

Thị hiện qua một cái tưởng của họ, họ tưởng là đức Phật Quan Âm cứu khổ họ, nhưng mà không ngờ đó là một cái thiện pháp, nó chuyển qua một cái tưởng, để nó làm như là có một sự cứu khổ họ trong cái tưởng đó mà thôi.

Cho nên ở đây, khi mà chúng ta thực hiện được như vậy chúng ta mới thấu rõ được, khi mà chúng ta có được một cái đạo lực siêu việt như vậy, chúng ta mới thấy được cái thế giới siêu hình có hay không. Và chúng ta mới thấy được những kinh sách này đúng hay không.

Bây giờ thí dụ như bây giờ mà trở về để mà nghe lại coi Đức Phật có thuyết giảng cái bộ kinh Pháp Hoa này không, chúng ta trở về quá khứ để nghe xem coi. Cách đây 2543 năm, chúng ta trở về quá khứ, chúng ta hướng tâm nhắc. Thì lúc bấy giờ chúng ta trở về, chúng ta chẳng nghe Đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa lúc nào hết.

Chúng ta trở lại cái thời gian, lui lại lần coi cái kinh Pháp Hoa này xuất hiện ở đâu. Ngay đó chúng ta tìm ra được cái nguyên nhân của, rõ ràng là ai nói, mà ai ngồi viết ở chỗ nào chúng ta cũng biết được, có gì đâu.

Ở trong cái không gian vũ trụ này, với một cái người mà có được cái tâm thanh tịnh, có được cái năng lực siêu việt của các pháp hướng rồi, thì không có một cái gì mà giấu họ được. Cho nên họ vẫn, một cái người như vậy họ thấy cái đúng, cái sai, họ rất rõ, cho nên họ dám ăn dám nói, không sợ ai hết.

Nghĩa là những người tu sai là nói sai, mà những cái người tu đúng là nói đúng. Phật pháp, những kinh sách đúng là nói đúng, mà kinh sách sai cũng nói sai nữa, chớ không bao giờ mà nói kinh Phật thì không dám nói sai, nói đúng, không phải đâu! Nói trật không đúng đường lối tu hành thì vẫn là kinh sai, không đúng.

(34:31) Đức Phật không bao giờ nói thừa lời nói ở trong cái bộ kinh, cái lời Phật dạy không bao giờ nói thừa, không bao giờ hý luận ở trong đó. Phật nói là mục đích nhắm vào, những cái lời nói của Phật có cái sự giải thoát cho chúng sanh, Đức Phật không bao giờ mà nói thừa lời nói để mà hý luận chơi, hay nói đùa giỡn chơi, không bao giờ có!

Cho nên cái Đức Phật nói chỉ như nắm lá cây, còn cái sự hiểu biết của Đức Phật như rừng lá cây. Thì chúng ta biết rằng cái chỗ mà Đức Phật khiêm tốn không có nói cái chuyện mênh mông đó, để chúng ta nghe mà vui chơi hý luận đó, thì Đức Phật không nói. Mà nói như nắm lá cây, chúng ta đã biết, nói cái đó để ích lợi cho chúng sanh thì nói.

Hôm nay Thầy cũng thuyết giảng cho các thầy thấy rằng không có nói mênh mông, không có đem kinh sách Phật giảng mênh mông, mà cái nào cần thiết trên con đường tu tập thì nói, chớ không có cần thiết…​

Thì bây giờ chúng ta đã học Tứ Niệm Xứ rồi, Tứ Thánh Định rồi, và học Tứ Như Ý Túc rồi, phải không? Các thầy đã biết cái pháp hướng rồi chứ gì. Nhưng mà pháp hướng đúng thì các thầy phải thể hiện được ly dục, ly ác pháp, thì nơi đó Thất Giác Chi nó hiện ra, cái pháp giác chi nó phải hiện ra.

Cho nên Phật ở trong kinh điển Phật mà dạy về Tứ Niệm Xứ, Đức Phật mới nói muốn câu hữu với, kết hợp với Thất Giác Chi mà tu tập, thì cái người đó phải thực hiện Tứ Niệm Xứ cho viên mãn thì cái Thất Giác Chi tu tập mới tốt.

Do đó chúng ta biết ở giai đoạn nào của Tứ Niệm Xứ mà Thất Giác Chi thể hiện được, thì lúc bấy giờ cái Trạch Pháp, cái Niệm Giác Chi, cái Trạch Pháp Giác Chi, cái Khinh An, cái Lạc của Giác Chi; cái Hỷ của Giác Chi đều là nó thể hiện ra rất rõ, cụ thể, để cho chúng ta thực hiện cho đúng cái cách tu tập của nó, của Thất Giác Chi, thì chúng ta đạt được cái kết quả rõ ràng.

8- VỌNG TƯỞNG TỪ ÁC PHÁP, THAM SÂN SI MÀ ĐẾN

(36:08) Đó thì đến đây, cái phần Tứ Như Ý Túc đã là xong. Thì hôm nay Thầy xin trả lời một số câu hỏi, như cô Viên Minh hỏi. Thì các thầy thấy cái này là tại vì cô Viên Minh chưa có dự cái khóa tu ở đây lần nào, cho nên mới hỏi những câu hỏi này, chứ còn nếu mà đã dự thì chắc không hỏi câu hỏi này đâu.

Hỏi: “Khi ngồi thiền vọng tưởng đến con biết nhưng sao vẫn không xả được? Vọng tưởng ở đâu đến, chỗ xuất phát của vọng tưởng, phá vọng tưởng bằng cách nào? Kính thưa Thầy chỉ dạy cho con rõ!”

Đáp: “Không xả được vọng tưởng là tại tu thiền chưa đúng pháp.”

Con xả chưa được vọng tưởng là tại tu chưa có đúng pháp, ức chế tâm, mà cũng chưa có đủ cái duyên mà ngồi ức chế như các thầy mà ngồi ức chế. Nếu mà ức chế thì nó cũng được chớ không phải không được, nhưng mà nó rất là nhọc nhằn.

“Vọng tưởng từ lòng ham muốn, dục và ác pháp tham, sân, si mà đến.”

Cái vọng tưởng từ cái lòng ham muốn của chúng ta. Bây giờ mà chúng ta ngồi, nó nghĩ lăng xăng cái này, nó nhớ cái kia đó, là cái lòng ham muốn của chúng ta đó, thương, ghét, giận, hờn, tham, sân, si nó đến đó, cái vọng tưởng từ chỗ đó mà đến.

“Vọng tưởng xuất phát từ cái tưởng thức.”

Bây giờ chúng ta khởi tác ý cái này kia là ý thức của chúng ta đó. Mà chúng ta ngồi chúng ta không tác ý ra thì bắt đầu cái tưởng chúng ta làm việc đó, chớ không phải là ý thức chúng ta đâu. Nhưng mà cái tưởng chúng ta làm việc rồi gọi là vọng tưởng, tức là tưởng thức đó.

Cho nên hỏi Thầy cái chỗ xuất phát của vọng tưởng, thì vọng tưởng xuất phát từ tưởng thức. Chúng ta phải biết rằng, về cái thân thức của chúng ta thì nó có sáu thức: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức. Thì về cái tưởng thì nó có cái tưởng thức thôi, nó có một cái tưởng thức.

Cho nên trong cái thân Ngũ Uẩn chúng ta có ba cái thức rất rõ ràng: Cái thức thứ nhất mà chúng ta hoạt động hàng ngày là sáu cái thức mà gọi chung là ý thức. Cái thức thứ hai là tưởng thức. Cái thức thứ ba gọi là thức thức tức là thức uẩn đó, nó ba cái thức.

Cho nên khi mà nằm mộng đó là tưởng thức đó, chớ không phải là ý thức của chúng ta đâu. Còn hàng ngày chúng ta tiếp duyên với nhau nói chuyện, phân biệt cái này, cái kia đó là cái ý thức. Các thầy thấy, các vị thấy rất rõ, cho nên chúng ta biết rằng chúng ta đang sống ở trong ba cái thức.

Nhưng mà cái thức thứ ba là thức thức chưa bao giờ nó làm việc, trừ ra khi chúng ta nhập Tứ Thiền thì nó mới làm việc. Chớ còn hiện giờ thì nó chưa làm việc, nó nằm im lìm đó, cái thức thức đó nó nằm im lìm. Nó chỉ có làm việc ở trong cái ý thức của chúng ta với cái tưởng thức mà thôi. Ban ngày thì chúng ta làm việc bằng ý thức, chứ ban đêm chúng ta ngủ đó là tưởng thức làm việc, cho nên nó có mộng mị.

“Phá vọng tưởng bằng cách ly dục ly ác pháp.”

Tức là ly bất thiện pháp đó. Nghĩa là muốn phá vọng tưởng không phải ngồi ức chế mà phải ly dục ly ác pháp. Thì cái pháp nào mà dạy chúng ta ly dục, ly ác pháp thì chúng ta tu cái pháp đó thì chúng ta sẽ hết vọng tưởng à!

Chớ không phải là ngồi đó mà hít thở hay niệm Phật cho hết vọng tưởng, lần chuỗi cho được nhiếp tâm bất loạn thì cái chuyện đó chúng ta bị rơi vào cái định tưởng mất rồi, do ức chế. Từ đó tâm chúng ta nó chưa có định chút nào, nó bị ức chế nó không phải định đâu, mà nó thuộc về cái định của tưởng.

Đó là những cái câu hỏi của Viên Minh hỏi Thầy, Thầy trả lời cái câu hỏi đầu.

9- BA LOẠI ĐỊNH VÉN MÀN NGŨ TRIỀN CÁI

(39:18) Qua câu hỏi kế:

Khi bị Ngũ Triền Cái che mờ, con không biết làm thế nào để phá được nó và hành pháp nào để dứt bỏ nó được?”

Đáp: “Muốn vén sạch…​”

Ngũ Triền Cái là năm cái màn ngăn che. Cho nên muốn mà vét cho sạch năm cái màn này:

“…​năm cái màn Ngũ Triền Cái này thì con nên tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu.”

Thì muốn ly được năm cái Ngũ Triền Cái này - tham, sân, si, mạn, nghi - thì các con nên tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Niệm Hơi Thở và Định Vô Lậu.

Thì trong khi mà Thầy dạy Chánh Niệm Tỉnh Giác, thì cách thức tu như thế nào thì các vị ở đây đã biết rồi, và Định Niệm Hơi Thở tu như thế nào. Chớ không phải ngồi đó mà đếm một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám hơi thở, đó là cách thức sai, đó là sổ tức quan. Sổ tức quan với Định Niệm Hơi Thở không giống nhau đâu. Và tu cái Định Vô Lậu quán xét như thế nào để xả cái tâm mình gọi là vô lậu.

Đó là ba cái định để mà chúng ta vén sạch cái màn vô minh của Ngũ Triền Cái làm cho chúng ta hết tham, sân, si.

10- TỈNH THỨC THÂN HÀNH NIỆM NỘI VÀ NGOẠI

(40:27) Hỏi: “Tu tập tỉnh thức như thế nào để sáng biết ly dục ly ác pháp? Mỗi khi bị thử thách và khảo nghịch con phải sử tâm như thế nào? Xin Thầy chỉ dạy!”

Đây Thầy đáp đây:

“Tỉnh thức Thân Hành Niệm…​”

Nghĩa là:

“Tỉnh thức Thân Hành Niệm Ngoại và Nội.”

Tức là Thầy muốn nói tỉnh thức Thân Hành Niệm Ngoại và Nội tức là Thầy muốn nói Chánh Niệm Tỉnh Thức Định và tu Định Niệm Hơi Thở, đó là hai cái định mà Thầy ở đây dùng một cái tên để cho thấy rõ: Tỉnh Thức Thân Hành Niệm Ngoại và Nội.

Đó là hai cái định Thầy gom lại một cái tên, để cho thấy ở cái chỗ tu tập của chúng ta thì lúc bấy giờ đó, thì nó mới có ly dục ly ác pháp, nó mới ngăn chặn được các các pháp, nó không còn cho các ác pháp xen vào.

Thí dụ như bây giờ “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”, thì bây giờ chúng tôi đang biết cái hành động đang đi nè, đang bước đi. Thì lúc bấy giờ có cái niệm nào mà khởi trong đầu được, mà có niệm thì tức là chúng ta đã tu sai rồi, cho nên đó là tu cái hành động ngoại.

Còn bây giờ hành động nội là ngồi đây mà hít thở, biết hơi thở ra, biết hơi thở vô nè, mà suốt một phút cho đến mười phút, ba mươi phút, một giờ mà không có niệm nào xen vô, đó gọi là Tỉnh Thức Thân Hành Niệm Nội và Ngoại.

Cái danh từ nói mà để chúng ta xét được cái chỗ tu tập của chúng ta. Thầy không có nói ra những cái định như hồi nãy, nhưng mà nói ra như vậy để chúng ta biết đó là một cái tên để chỉ cho cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và Định Niệm Hơi Thở. Mà Định Niệm Hơi thở nó còn có một cái tên là Định Hiện Tại An Lạc Trú nữa mới gọi là Định Niệm Hơi Thở.

11- XẢ TÂM NHỜ QUÁN NHÂN QUẢ

(42:13) “Khi bị thử thách hoặc bị khảo nghịch thì nên nhìn và quán xét đối tượng bằng nhân quả.”

Nghĩa là luôn luôn lúc nào mình mà bị cái cảnh thử thách và bị khảo nghịch, tức là làm cho mình giận hờn, phiền não, trong những cảnh mà nó xảy ra cho sợ hãi, lo lắng thì phải nhìn nó bằng cái đôi mắt nhân quả thiện với ác, trả quả hay là không trả quả. Do đó cái tâm thanh thản liền tức khắc, giải thoát liền.

Đó là cách thức tu tập, ở đây dạy rất cụ thể rõ ràng. Khi một người biết nhìn nhân quả thì ngay đó dù cảnh nó có cực kỳ đau khổ cách gì người đó vẫn thấy an vui. Mình đã trả quả mà, sao mình lại không an vui?

Mình đang thử thách những cái tai nạn, bệnh tật gì đó, mình đang rầu rĩ thì đó là cái sai. Mà mình nhìn nhân quả thì thấy nó bằng nhân quả, thì mình biết đây là mình đang trả quả, thì do đó mình vui vẻ trong cái sự thử thách này, vì vậy mà mình rất an vui.

Và cũng từ cái sự an vui đó, cái thử thách đó nó sẽ không còn thử thách nữa, nhân quả không tác dụng được nữa, do đó nó làm giảm bớt và cái hoàn cảnh nó thăng tiến, nó đưa mình đến thiện pháp, từ đó mình hưởng được cái quả vui, nó không còn làm cho mình đau khổ nữa.

Còn mình rầu khổ, phiền não trong tâm mình, bị khảo đảo rồi mình sanh ra những ác pháp, mình hờn trách, mình rủa người ác độc này kia, thì từ đó mình chồng thêm những cái ác pháp trong tâm của mình, mình gieo những cái nhân đó, nó làm cho mình cái quả nó càng nhiều chồng lên, nó làm cho mình khốn đốn và khổ sở hơn nữa.

Còn mình biết nó được nhân quả cho nên tâm mình không có phiền trách ai hết, mình thấy đây là một sự thử thách của nhân quả, cho nên mình vui vẻ, mình đối xử với người đó rất là thân tình, không còn thấy người đó là thù nghịch, không còn thấy hoàn cảnh đó là chán ghét, đau khổ nữa, mà thấy hoàn cảnh đó nó giúp cho mình thăng tiến được ở trên những cái giải thoát.

Cho nên mình thấy được nhân quả, thì ngay đó là mình đã giải thoát tâm mình không còn gọi là bị khảo đảo hay là khảo nghịch.

Đó là cách thức tu ở đây là như vậy, nó giúp cho chúng ta nhìn bằng cái đôi mắt nhân quả, không phải nhìn bằng cái đôi mắt trái đúng sai, phải trái của nó nữa.

Cho nên người nào đang bị thử thách và đang bị khảo đảo mà vội tức giận, phiền não, nói người ta là ác độc, hay hoặc là cho người ta là như thế này thế khác, thì người đó là tạo thêm cái nhân quả cho mình, thêm chồng chất lên cái sự đau khổ cho mình thêm.

Từ đó mình càng khổ đau hơn và mình càng tạo nên cái nhân quả ác cho chính mình. Rồi từ đó mình thọ lấy cái quả, nó tiếp diễn ở trong cái thời tương lai sắp tới của mình sẽ gặp những cái quả khổ, vì cái tâm ác của mình đã khiến người ta ác, thì do đó mình đã là người ác rồi.

Cho nên gặp trường hợp người ta làm một cái điều gì, thì mình hoàn toàn là mình thấy người ta đều thiện, người ta giúp cho mình vượt ra những cái nhân quả nghiệp báo của mình.

Người ta nói chửi mình, người ta mắng mình, người ta nói thậm tệ mình, người ta nói mình thế này, thế khác, đều là người ta giúp cho mình để cho mình vượt qua những cái nhân quả mình đang thử thách. Và khi mình thử thách, mình vượt qua, mình vui vẻ, mình thấy người đó là một cái người ơn của mình, người đó là người giúp cho mình.

Cho nên Thầy nhắc lại một cái vấn đề mà Đức Phật hỏi ông Phú Lâu Na. Khi ông Phú Lâu Na xin đi một cái xứ đó để độ cho chúng sanh ở đó, thì Đức Phật hỏi: “Cái dân ở xứ đó ác độc lắm, con không thể đi được đâu!” Ông Phú Lâu Na mới nói: “Con đi được, xin Đức Phật cho con đi.”

Thì ông Phật nói: “Dân ở đó, ông đến đó nó chửi mắng ông, ông chịu không có nổi đâu. Nó gặp ông, rồi nó kêu ông thầy chùa này ông thầy chùa kia, nó kêu ông trọc này ông trọc kia, rồi ông chịu không nổi, thì chừng đó ông thấy khổ tâm lắm.” Ông nói với Đức Phật: “Nó có chửi mắng con, nó có kêu con là trọc này trọc kia đi nữa, thì nó còn thương con chớ nó chưa lấy đá, lấy sỏi nó ném con!”

Thì ông Phật nói: “Như vậy là nó sẽ lấy đá, lấy sỏi nó ném con!” Thì ông ta nói: “Nó cũng còn thương con chớ nó đâu có ghét con, cho nên nó chưa lấy gậy gộc nó đánh con.”

Thì ông Phật nói: “Nó sẽ lấy gậy gộc nó đánh ông à!” Thì ông nói nó cũng còn thương ông, nó chưa có lấy gươm, lấy dao nó chém, nó giết ông. Thì ông Phật nói: “Nó sẽ giết ông, nó sẽ lấy gươm, đao nó đâm ông chết!”. Thì ông nói: “Chính nó, nó đã thương con, cho nên con mang cái thân nhân quả này, nó rất khổ, mà nó đâm, nó chém giết con, thì tức là nó làm cho con hết khổ!” Cuối cùng thì ông Phật nói: “Được như vậy là ông nên đi qua xứ đó!”

Tức là ông thấy được nhân quả các con. Còn chúng ta chưa thấy nhân quả, khi mà họ vừa nói ông “ông trọc” là chúng ta đã tức rồi. Người ta nói ông thầy chùa này kia, người ta mới nói cái thầy chùa thôi mà mình đã tức rồi. Còn người ta nói thầy thầy, Thượng tọa, Hòa thượng thì mình khoái lắm. Nhưng mà nói thằng trọc này, trọc kia thì chúng ta tức rồi. Phải không các thầy? Các thầy có thấy điều đó chớ?

Cho nên vì vậy chúng ta thấy là chúng ta chưa thấy nhân quả đâu. Phải không? Hồi đó biết đâu chừng, người ta, cũng mấy thằng nhỏ đó nó cũng làm thầy chùa, rồi mình cũng kêu nó trọc trọc, bây giờ nó cũng kêu mình lại, thì cái nhân quả mình trả có gì đâu mà mình sợ. Nó kêu mình chứ có mắc mớ, có đau đớn gì mình đâu, mà giờ mình tức mấy thằng nhỏ này “Tao, tao đập mày chết đó!”, thì cái chuyện đó là mình còn nói cái lời nói còn ác nữa, đập người ta chết, phải không? Do đó mình tạo nhân tạo quả.

Vì vậy mình phải thấy bằng nhân quả, các con. Cho nên ở đây Thầy trả lời cô Viên Minh là mình thấy bằng nhân quả, cái đối tượng…​

(Xem tiếp ở Pháp hành 33)

HẾT BĂNG