Skip directly to content

Pháp Âm - 1993 - ĐƯỢC THÂN NGƯỜI LÀ KHÓ

1993 - ĐƯỢC THÂN NGƯỜI LÀ KHÓ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Phật tử

Thời gian: 1993

1- ĐƯỢC THÂN NGƯỜI LÀ KHÓ

(00:00) Bắt đầu ngày 14 tháng 9 năm Quý Dậu (1993), Thầy sẽ tiếp tục nhập định 48 tiếng đồng hồ. Do nhân duyên này, Thầy có lời xin nhắc nhở cùng quý thầy: “Được Thân Người Là Khó”.

Trong cuộc đời tu hành, quý thầy sẽ gặp một hạng người tiêu cực, họ cho rằng chúng ta là những người có đủ phước duyên với đạo Phật. Nhưng trong chúng ta cũng có kẻ hạ căn, người trung căn và cũng có kẻ thượng căn. Kẻ hạ căn và trung căn thì không thể tu một đời mà thành Phật được, phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp. Lời nói này có đúng hay không?

Thầy sẽ phân tách và dạy cho quý thầy thấy rõ lối lý luận này không đúng. Lối lý luận này là lối lý luận của kẻ lười biếng; của kẻ lợi dưỡng; của kẻ tham dục; của kẻ bắt cá hai tay; của kẻ mất hết ý chí tu hành. Muốn làm Phật mà không muốn lìa thế gian; muốn giải thoát sanh tử luân hồi, đau khổ, phiền não mà không muốn bỏ ái dục, dục lạc thế gian. Những kẻ lý luận này là ma vương trong đạo Phật. Lối lý luận này khiến cho chúng ta mất hết ý chí tu hành, chỉ còn biết tu cầm chừng cho qua ngày tháng, để mà hưởng thục dục lạc thế gian.

Này quý thầy! Trên đường tu hành, chúng ta sẽ đương đầu với nghiệp báo và tâm tham dục của chính chúng ta. Khi chúng ta tu hành, thường chiến đấu với tâm ham muốn của chính mình là để giữ gìn giới luật; là để bảo vệ tâm mình xa lánh ngũ dục lạc thế gian, thì tâm này sẽ có nhiều phản ứng và làm cho chúng ta khổ sở, gian nan vất vả. Trong lúc chúng ta tu hành, nhiều khi chúng ta cảm thấy mình không còn đủ sức để chiến đấu với chúng. Chúng khởi lên những loạn tưởng, cộng với cơ thể đang mệt nhọc, uể oải, rã rời, lười biếng. Do đó chúng ta không còn vững chí, mất hết lập trường tu hành, rồi sinh tâm hoang mang dao động.

(02:27) Bỗng nhớ lại lời nói này cho là chư Phật đã dạy, nên dựa vào đó, cho mình là hạ căn. Từ đó lại sinh ra lười biếng, hết muốn tu thiền định giải thoát, chỉ còn biết tu thiện, làm các pháp thiện. Rồi cũng từ đó, chúng ta bắt đầu thay đổi lối tu. Giới luật cũng từ đó đã vi phạm, oai nghi tế hạnh cũng từ đó không còn nữa. Luôn luôn tiếp duyên với ngoại cảnh; ăn nói xô bồ đụng đâu nói đó; cười cợt không đúng cách; đi đứng không khoan thai đằm thắm; lúc nào cũng ăn uống phi thời.

Tuy là thường làm việc từ thiện xã hội, bố thí, cúng dường hoặc làm thầy thuốc trị bệnh, hoặc làm thầy tụng niệm cầu siêu cầu an, hoặc làm thầy thuyết pháp giảng kinh. Họ cho đó là những hành động Bồ Tát hạnh, là Như Lai sứ giả. Trong số quý thầy này, cũng có một số người cư sĩ cùng nguyện tu Bồ Tát hạnh. Họ cũng bố thí cúng dường, làm lành lánh dữ, công quả trong các chùa để mong tạo phước báo về sau.

(4:37) Này quý thầy và quý cư sĩ! Khi quý thầy không vượt qua tâm ái dục, tâm ham thích dục lạc thế gian, thì dù cho quý thầy có công quả ngàn đời, bố thí cúng dường trăm kiếp cũng chẳng bao giờ thoát ra khỏi tâm ái dục và tâm dục lạc. Do đó, đời đời kiếp kiếp của quý thầy phải chịu trôi lăn trong biển khổ sanh tử luân hồi. Bởi câu nói “hạ, trung, thượng căn” là câu nói vô trách nhiệm, vô ý thức; câu nói có nhiều tai hại cho những người tu hành về sau.

Này quý thầy! Việc tu hành không phải là một việc dễ làm. Khi bắt đầu tu hành chân chính, quý thầy sẽ thấy được sự khó khăn vô vàn. Từ việc sửa đổi tâm tánh hung ác của chúng ta để trở thành hiền dịu. Từ việc sửa đổi tâm ham muốn dục lạc để trở thành tâm không ham muốn dục lạc, nghĩa là quý thầy phải làm ngược lại cuộc sống của thế gian. Từ đó thân dục, tâm dục của quý thầy sẽ phản ứng, tìm mọi cách cản lối ngăn đường, làm cho quý thầy khó khăn tiến tới giải thoát.

Người ta chỉ nghe nói “hạ, trung, thượng căn”, chứ có mấy ai biết rằng “hạ, trung, thượng căn” là ở mức độ nào? Chỉ biết nói một cách khơi khơi để gây sự thối tâm của kẻ tu hành chưa lập chí vững vàng. Riêng ở đây, Thầy khuyên quý vị phải hiểu lời nói này là của những người lười biếng, của quỷ dục vọng, của ma dục lạc. Khi nói ra lời này, họ sợ rằng không ai tin theo, nên gán cho Phật nói. Chứ đâu biết rằng Phật đã dạy: “Được thân người là khó, được nghe pháp chân chánh còn khó hơn”.

(06:43) Lời dạy này rất đúng! Vậy được thân khó như thế nào? Và được pháp chân chánh khó như thế nào? Để trả lời hai câu hỏi này, Đức Phật có đem một ví dụ con rùa mù và cái bọng cây giữa biển.

Này quý thầy! Quý thầy có bao giờ đến bờ biển chưa? Có bao giờ đi biển chưa? Nói đến biển, là nói đến trời nước mênh mông, trên biển có một con rùa mù đang bơi lội tìm cái bọng cây, đó là một việc khó.

Chúng ta được thân cũng khó như vậy. Lời nói này chắc ít ai tin, nhưng đó là một sự thật. Biển nước mênh mông, một cái bọng cây nhỏ trôi dạt vào, và một con rùa mù không thấy đường thì thử hỏi làm sao thấy được bọng cây? Đó là một việc khó.

Trong mênh mông biển cả, bọng cây và rùa khó mà có hữu duyên tình cờ gặp nhau, đó là một việc khó. Có duyên, có đủ hữu tình của luật nhân quả để rùa gặp được bọng cây, đó là một việc khó.

Này quý thầy! Này quý thầy! Quý thầy chưa rõ được luật nhân quả, nên cứ tưởng rằng mất thân này sẽ có thân khác liền. Điều này không đúng. Dựa vào luật nhân quả mà xét, chúng ta cả quyết xác nhận: “Được Thân Người Là Khó”, khó vô cùng vô tận. Nếu không hữu duyên, chúng ta khó có thể được gặp thân người. Nếu chúng ta lỡ để mất thân này, thì chắc chắn chúng ta khó mà có thân người được nữa. Tại sao?

Luật nhân quả đã chi phối tất cả chúng sanh trong vũ trụ. Chúng ta quyết chắc trong cuộc đời này không có một sự việc nào xảy ra do tình cờ hay ngẫu nhiên cả. Mà phải nói rằng có một định luật tuy vô hình, nhưng rất hẳn hòi và rất công minh, không hề sơ sót một ly hào nào đối với tất cả chúng sanh. Chính trong mọi hành động của chúng ta, của tất cả chúng sanh, hành động đó gọi là luật nhân quả.

(09:23) Đối với luật nhân quả không một ai trốn thoát khỏi, do đó chúng sanh khó mà được thân người. Cho nên hiện giờ, chúng ta đã được thân người, phải xem thân này là một vật vô giá. Nếu chúng ta biết sử dụng đúng chánh pháp thì có lợi ích rất lớn, vô cùng. Còn ngược lại, sử dụng thân như một món đồ tầm thường, cũng ví như viên ngọc quý, người biết thì nó là vật quý báu, người không biết thì nó là miếng vỏ ốc tầm thường. Trong thế gian này có biết bao nhiêu người quý trọng thân không đúng cách, đem thân làm một vật để mưu cầu dục lạc, khiến cho thân mau tàn tạ khô héo và chết dần mòn trong vô nghĩa.

Này quý thầy! Khi mất thân này chúng ta đừng tưởng rằng sẽ có thân mới khác. Bao nhiêu sự ác tâm của quý thầy vì chạy theo danh lợi, ăn ngủ, sắc dục trong cuộc sống hiện tại, quý thầy đã hữu ý hay vô tình đoản mạng chúng sanh. Nợ máu phải đền nợ máu, quý thầy phải hiểu do nhân này mà mãi mãi quý thầy sinh ra làm chúng sanh trong vô lượng kiếp, để đền bù những giọt máu mà quý thầy đã từng gieo.

Này quý thầy! Quý thầy hãy xét kỹ trong cuộc sống của quý thầy, chắc chắn quý thầy chết đi sẽ không có thể sinh làm người được nữa. Nếu đã sinh làm chúng sanh, thì quý thầy sẽ không có trí tuệ và sự vô minh sẽ nhiều hơn nữa. Hàng ngày quý thầy thường thấy chúng sanh giết hại lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau không chút thương tâm. Chúng sanh thường giết nhau để ăn thịt và để mình được sống, chúng chỉ biết có thế thôi.

(11:30) Trong kiếp chúng sanh, bấy giờ ai là người đã dạy làm lành lánh dữ, nhẫn nhục, bố thí, cúng dường, tu hành? Được thân người có trí tuệ, biết phải trái, thiện ác, biết nhân quả nghiệp báo đau khổ, tái sanh và luân hồi; lại hữu duyên có chư Phật ra đời thể hiện dạy chúng ta tu hành làm lành lánh dữ, nhẫn nhục, và còn dạy chúng ta tu hành thiền định để giải thoát.

Nếu con người có được thân người mà không đủ duyên gặp chư Phật, chư hiền Thánh ra đời chỉ dạy Phật Pháp, thì chẳng khác nào một con vật, và có thể còn gian ác xảo trá hơn con vật nhiều. Con người khéo che đậy, con vật để lộ liễu; cả hai vật và người chẳng khác nhau, chỉ khác ở chỗ người thông minh khéo che đậy, vật ngu tối để lộ liễu. Khi đã làm thân loài vật, thì sự giết hại lẫn nhau càng nhiều, đó là tạo nhân ác thì làm sao được thân làm người?

Này quý thầy! Đó là việc khó được thân người. Từ kiếp chúng sanh này chuyển kiếp chúng sanh khác, khó có sự ngẫu nhiên mà chuyển kiếp được thân người; phải nói không bao giờ làm thân người trở lại được. Bởi bản năng hung ác của loài vật, càng huân tập thì càng hung ác hơn nhiều, do đó khó làm được thân người.

Có người hỏi tại sao trên quả đất này con người càng ngày càng sinh ra đông đảo? Thậm chí người ta phải hạn chế sinh đẻ, kế hoạch hóa gia đình. Còn nói như trên đây thì quả đất này sẽ không có con người.

Này quý thầy! Ở đây Thầy bảo được thân người là khó, mất đi không thể tìm được. Nghĩa là chúng ta mất thân này, mãi mãi không tìm được nó nữa. Còn con người hiện giờ được sinh ra, là do nhân thiện của những con vật hiền lành như bò, trâu, nai, hươu v.v…​ Từ trong một kiếp chúng sanh hiền lành sống bằng cỏ, bằng lá cây, không cắn hại và giết hại lẫn nhau. Và nhiều khi vô tình đã xả mình giúp người khác, vật khác, có khi hy sinh mình để cho người khác, vật khác sống. Những nhân thiện vô tình này đã đưa chúng sanh đó có được thân người.

Cũng như bây giờ quý thầy được nghe Thầy dạy hành những hạnh lành như nhẫn nhục, bố thí, cúng dường, xả bỏ tâm ác, xa lìa tâm ham muốn dục lạc tội lỗi. Đó là quý thầy có đủ nhân duyên mới được nghe dạy những lời lành này. Rồi từ đó, quý thầy cố gắng tránh những việc ác, làm những việc lành. Nhờ gieo những hành động tốt này, mà quý thầy được sinh làm người kế tiếp.

(14:36) Nếu quý thầy không được nghe lời dạy này, trong cuộc sống hàng ngày quý thầy chạy theo danh lợi, ăn ngủ và dục lạc cho thỏa mãn cái tâm ham muốn, thì quý thầy tạo thêm nhiều tội ác, và không tránh khỏi sáu nẻo luân hồi, mãi mãi làm thân chúng sanh. Ở đây có được mấy người nghe lời dạy này, đó là một việc khó được thân người.

Hôm nay quý thầy đã đủ duyên lành được có thân người. Còn biết bao nhiêu chúng sanh khác từ loài côn trùng cho đến loài thượng cầm hạ thú chưa làm được thân người. Lời nhắc nhở và cảnh giác của Đức Phật là để quý thầy xét mình có đủ duyên lành phước báo mới được thân người. Cũng là lời khuyến cáo để quý thầy cố gắng tu hành, đừng bỏ phí thì giờ quý báu của kiếp người.

Này quý thầy! Hiện giờ có ai biết được cái thân quý báu này? Họ chỉ tiêu phí thì giờ chạy theo dục lạc thế gian, cái thứ dục lạc như bóng nước, như sương buổi sớm, lạc đó rồi khổ đó. Thế mà tất cả con người trên thế gian này đang tiêu phí thì giờ quý báu của một kiếp người cho việc không có ý nghĩa.

Họ chỉ biết si mê sử dụng thân họ để thỏa mãn dục lạc giả dối vô thường. Họ chỉ biết hành hạ thân họ khổ sở tận cùng bằng những thứ dục lạc mộng ảo. Trong khi thân họ là một vật quý giá vô cùng, phải trải qua trăm ngàn muôn kiếp chúng sanh mới có được thân người.

Họ u mê đến tận cùng, chẳng biết dùng thân như chiếc phao, chiếc bè để vượt ra ba cõi và sáu nẻo luân hồi. Họ không biết sử dụng thân này như một thần dược để cứu họ thoát khỏi bịnh tham, sân, si và thoát khỏi ba đường khổ. Họ không biết dùng thân này như chiếc chìa khóa vàng để mở cửa giải thoát. Họ chẳng biết dùng thân này như một phương tiện tối độc tôn để đưa họ từ phàm phu trở thành Thánh nhân toàn thiện siêu nhiên.

Bởi được thân là khó, khó vô cùng khó, thế mà họ sử dụng thân họ trở thành một con thú dữ, một con rắn độc, một con quỷ tinh khôn xảo trá và một con ma ác hiểm ghê tởm. Bằng chứng quý thầy đã chứng kiến những hạng người này; họ từng ở trong Tu viện này, họ dám cả gan đội lốt đệ tử Phật làm chuyện đồi bại bất tịnh, bán Phật, bán Pháp, bán Tăng để mưu cầu danh lợi, dục vọng, sắc dục. Họ xem địa ngục chẳng ra gì. Họ đâu biết rằng luật nhân quả sẽ trừng trị họ mãi mãi đời đời trong biển khổ sinh tử.

(17:57) Để kết thúc: “Được Thân Người Là Khó”, chúng ta nghe Trần Nhân Tôn, một vị thiền sư thành lập phái thiền Trúc Lâm đã nói:

Vĩnh vi lạc đãng phong trần khất
Nhật viễn gia hương vạn lý tình.

Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch:

Lang thang làm khách phong trần
Quê nhà ngày một muôn lần dặm xa.

Đến đây, các thầy được nghe nói đến: “Được Nghe Pháp Còn Khó Hơn”.

2- ĐƯỢC NGHE PHÁP CÒN KHÓ HƠN

(18:43) Được Nghe Pháp Còn Khó Hơn, vậy nghe pháp khó hơn ở chỗ nào?

Này quý thầy! Quý thầy phải chú ý và lắng nghe cho kỹ để mà hiểu cho rõ.

Từ loài côn trùng, cho chí loài thượng cầm hạ thú đều không thể hiểu được Phật Pháp. Chỉ có loài người mới có đủ ý thức, có trí tuệ hiểu được lời dạy cao siêu màu nhiệm của Đức Phật. Những lời dạy này nhằm giúp cho con người chấm dứt sự đau khổ: Sanh, Già, Bệnh, Chết và thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Hiểu được lời dạy này rất khó, nghĩa là phải hiểu cho đúng, hiểu không được lệch lạc.

Này quý thầy! Thời nay chúng ta hiểu Phật Pháp lệch lạc, phần nhiều tưởng giải những lời của Đức Phật, biến những lời dạy này, thay vì là những pháp môn thực hành trở thành một lý thuyết suông để trở thành một môn học. Do thế, chẳng có ai tu chứng quả A La Hán và được hoàn toàn giải thoát chấm dứt tái sanh luân hồi. Suốt bao nhiêu thế kỷ nay, Phật giáo đã có bao nhiêu người theo tu hành, thế mà chứng quả A La Hán thì chẳng có ai. Bởi vậy, được Pháp còn khó hơn là ở chỗ này. Hiểu đúng thì hành mới đúng; hiểu đúng thì tu mới có giải thoát. Hiểu sai thì hành sai; hành sai thì rơi vào những tà giáo ngoại đạo. Cụ thể quý thầy đã thấy, tu sĩ Phật giáo hiện giờ hành sai nên phá giới luật, sống đời như thế gian; mất hết phạm hạnh, làm mất uy tín của Phật Giáo; oai nghi tế hạnh không đủ. Vì thế “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Được thân người nhưng không có duyên với Phật Pháp, nên khó mà gặp được pháp chân chánh. Bằng chứng cụ thể quý thầy đã thấy hằng biết bao nhiêu kinh sách bày bán, và biết bao nhiêu thời thuyết pháp chùa nào đâu đâu cũng có. Vậy mà họ chẳng bao giờ được đọc và được đến chùa nghe thuyết pháp thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

(21:35) Có nhiều người được đọc kinh sách, được nghe thuyết giảng giáo lý của đạo Phật mà duyên không đủ để thực hành, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách, được nghe thuyết giảng giáo lý của đạo Phật. Nhưng lạc vào đạo Phật phát triển theo hình thức triết lý học, tâm lý học, thần học, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý của đạo Phật, nhưng lại đi làm thầy cúng ma chay, cầu siêu, cầu an, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý của đạo Phật và được thực hành nhưng lại thiếu người có kinh nghiệm hướng dẫn, nên đã uổng phí một đời tu hành, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý phát triển bằng những tưởng giải của nhà học giả nên thực hành chẳng có kết quả, cái số này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn.

Có nhiều người được đọc kinh sách, được nghe thuyết giảng giáo lý của đạo Phật, nhưng lại làm thầy bùa, thầy pháp, thầy coi ngày tốt xấu, thầy trừ tà ếm quỷ, trừ ma, thầy cúng sao cúng hạn, đó là một số người đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

(24:07) Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý chân chánh của đạo Phật, nhưng lại không có người có kinh nghiệm hướng dẫn nên thực hành sai, trở thành pháp môn của ngoại đạo, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý chân chánh của đạo Phật, nhưng không thực hành, chỉ học lý thuyết suông để cầu được cấp bằng cao học Phật học, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý chân chánh của đạo Phật. Và được thiện tri thức hướng dẫn, lại sinh tâm lười biếng, tu hành lơ là không tinh tấn, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý chân chánh của đạo Phật, và được sự hướng dẫn của thiện tri thức, nhưng thực hành theo ý muốn của mình, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được nghe Pháp Còn Khó Hơn”.

Có nhiều người được đọc kinh sách và được nghe thuyết giảng giáo lý chân chánh của đạo Phật, lại được thiện tri thức hướng dẫn, đầu tiên thì tinh tấn tu hành, sau lười biếng dần dần rồi bỏ cuộc, thì số người này cũng đông vô số kể, đó là cái khó “Được nghe Pháp Còn Khó Hơn”.

(26:25) Đức Phật thuật lại một câu chuyện Phật Pháp Khó Nghe”, để chúng ta suy ngẫm:

Một hôm, Đức Thế Tôn ngụ tại tịnh xá Kỳ Hoàn, có năm người đến xin Phật giảng pháp. Đức Phật hoan hỷ ân cần thuyết giảng cho họ nghe. Khi Đức Phật thuyết pháp, thì năm người này ngồi nghe pháp một cách lơ đãng. Một ông thì ngủ gục tới gục lui; một ông thì lấy tay gõ hoài trên mặt đất; một ông thì cứ loay hoay mãi một nhánh cây khô; còn một ông thì ngó nhìn lung tung trời, mây, rừng, núi. Chỉ còn lại có một ông ngồi nghe pháp chăm chú mà thôi.

Tôn giả A Nan đứng quạt hầu bên Phật, ngạc nhiên về những cử chỉ của năm ông khách xin nghe pháp. Nên khi họ vừa ra về, Ngài liền bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, thời pháp của Thế Tôn thuyết như sấm rền vang trong không trung mà chỉ có một người chăm chú nghe mà thôi, còn mấy ông kia thì lơ đãng. Bạch Đức Thế Tôn, tại sao vậy?

– Này A Nan, bộ ông tưởng giáo lý của Ta dễ nghe lắm sao?

– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng lẽ Thế Tôn cho nó là khó nghe?.

– Đúng thế!

– Bạch Thế Tôn, tại sao?

(28:48) – Này A Nan, những người này trong vòng luân hồi đã trải qua nhiều kiếp chưa từng nghe đến tên Tam Bảo, huống là những pháp môn gì của Ta. Cho nên bấy giờ họ không thể thâm nhập giáo pháp của Ta được. Cuộc đời của họ ra vào sinh tử luân hồi vô tận. Họ từng nghe tiếng nói của súc sanh, của lòng tham, sân, si; của lòng tật đố ganh tỵ ngã mạn, cống cao; của lòng tham danh hiếu lợi. Hơn nữa, họ còn tiêu phí gần hết thời gian của kiếp sống trong việc ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi ca hát, bài bạc, rượu chè, hút xách. Vì thế họ còn đâu tâm trí để nghe lời dạy của Ta.

Đó chính là nguyên nhân Phật Pháp khó nghe. Bằng chứng quý thầy nhìn con người trong thế gian này, quý thầy phải hiểu rõ. Bởi vậy, “Được Thân Người Là Khó, Được Pháp Còn Khó Hơn”.

Này quý thầy! Quý thầy là người có đủ duyên với Phật Pháp. Hiện giờ quý thầy có được thân người, được nghe Phật Pháp chân chánh và còn được thiện tri thức hướng dẫn có kinh nghiệm. Cớ sao quý thầy bảo mình là hạng người hạ căn, trung căn? Quý thầy cứ suy nghĩ và xét lại xem, những lời Thầy đã dạy ở trên là một bằng chứng cụ thể.

(31:28) Hiện giờ trên thế giới này có rất nhiều tôn giáo khác nhau, và cũng có rất nhiều pháp môn tu hành khác nhau. Chỉ trong một Phật giáo cũng đã có nhiều pháp môn, nhưng chưa chắc đã là pháp môn chân chánh của Đức Phật. Người ta bảo rằng đạo Phật có 84.000 pháp môn. Vì pháp môn nhiều quá, nên chẳng ai tu chứng quả A La Hán. Và cũng vì pháp môn nhiều quá, nên chẳng có ai hành đúng Giới Luật của Đức Phật. Vì thế mà người tu sĩ đạo Phật hiện giờ đều phạm giới luật. Họ không thấy giới luật của Phật là chỗ nương tựa vững chắc cho họ. Họ không thấy giới luật của Phật là bậc thầy thanh tịnh của họ. Bởi vậy trong giai đoạn này, được pháp còn khó hơn, khó gấp trăm ngàn lần trong thời Đức Phật còn tại thế.

Trước kia, các bậc Tôn túc của chúng ta tu học đều theo giáo pháp Đại Thừa, chỉ vì các Ngài không đủ duyên gặp kinh tạng Pàli nguyên thủy. Họ chịu ảnh hưởng Thiền Đông Độ của người Trung Hoa và kinh sách Đại Thừa. Họ cho kinh tạng A Hàm là kinh điển Tiểu Thừa. Vì thế, các Ngài xem thường và coi rẻ, chỉ học cho biết mà thôi. Còn thực hành để tu thì họ theo giáo pháp Đại Thừa; tự cho đó là một pháp môn tối thượng. Nên biết bao nhiêu thế kỷ nay, từ ngày Đức Phật nhập Niết Bàn, cách năm trăm năm sau chẳng còn ai tu chứng quả A La Hán, chỉ toàn học lý thuyết suông.

(34:44) Hôm nay chúng ta may mắn hơn nhiều, hơn người xưa nhiều: sinh ra được làm người, được gặp kinh tạng Nguyên Thủy là kinh từ kim khẩu Phật đã thuyết. Nhưng biết rằng trải qua một thời gian quá dài, nên có những bài kinh do người sau thêm vào, tuy vậy vẫn còn được chất Nguyên Thủy của nó. Kinh này được dịch từ tiếng Pàli sang tiếng mẹ đẻ, do Hòa thượng Minh Châu người Việt Nam, một học giả tài ba, một nhà trí thức uyên bác đã làm công tác phật sự này. Do đó, chúng ta gặp được Pháp chân chánh của Phật đọc bằng tiếng mẹ đẻ, nhờ thế chúng ta dễ hiểu vô cùng.

Này quý thầy! Cớ sao chúng ta lại dựa vào những lý luận của kẻ lười biếng để làm mất sự tu hành quý giá của chúng ta. Chúng ta lại còn nghe theo những lời cống cao ngạo mạn của kẻ ngông cuồng, cho rằng lời dạy chân chánh của Đức Phật là Tiểu Thừa, để cho người đời sau theo đó mà lầm lạc. Rồi lại xem thường Phật Pháp chân chánh và ném bỏ những giáo lý chân chánh. Và chạy theo và ca ngợi những pháp môn mà không phải là Phật Pháp. Dịp may ít có, nếu chúng ta không tỉnh táo, dễ bị lường gạt bởi những danh từ rỗng và những lý thuyết suông, bỏ lỡ việc tu hành chân chánh trong một thời điểm tốt đẹp.

Này quý thầy! Đây là một sự hy hữu trong thời điểm sinh ra làm người, lớn lên đủ duyên với Phật Pháp. Do đó, chúng ta mới có được như ngày hôm nay.

(37:43) Đời người sinh ra được gặp Phật Pháp là một hy hữu ít có. Đời người sinh ra được gặp pháp chân chánh là một hy hữu ít có. Bởi sinh ra làm người mà gặp được Phật hoặc chân pháp thì chắc chắn chúng ta sẽ vượt ra khỏi tam giới và sáu nẻo luân hồi.

Một lần nữa, chúng ta tự xét thấy mình có đủ những duyên may mắn sinh trong thời điểm này:

  1. Có được thân người.

  2. Có được Phật Pháp chân chánh.

  3. Có được thiện tri thức hướng dẫn có kinh nghiệm.

Do những điều nhận xét trên đây, chúng ta xác quyết những bậc thượng căn không phải đâu xa, mà chính chúng ta. Lời Phật dạy đã rõ ràng, “Được Thân Là Khó”, “Được Nghe Pháp Chân Chánh Còn Khó Hơn”, thế mà chúng ta đã hội đủ. Vậy chúng ta hãy vui mừng, không còn ngờ vực gì nữa. Chúng ta là những người có hữu duyên, có đầy đủ phước báo tu hành giải thoát.

Tại sao chúng ta lại bỏ những phước báo này, để đi tìm cái gì hơn? Ở đây quý thầy cần phải xét cho kỹ: “hạ, trung, thượng căn” là những lý luận của kẻ thối chuyển đạo tâm, muốn tìm cách sống lợi lưỡng trong dục lạc thế gian bằng những chiếc áo tu hành. Nên dùng những ngôn ngữ để che đậy những lỗi lầm và tính lười biếng của mình.

Thầy xin nhắc lại một lần nữa: “Được Thân Người Là Khó”. Nhưng quý thầy phải biết thân người sống đời quá ngắn ngủi. Thân này nay còn mai mất như bóng câu cửa sổ, như phù vân trước gió, như hoa phù dung sớm nở tối tàn. Thế chúng ta lại ngu si ham mê dục lạc thế gian, chạy theo cái vòng đau khổ phiền lụy luẩn quẩn này, để bỏ trôi qua những thời gian quý báu, không chịu khó tu hành, thật là quá uổng phí.

(39:52) Này quý thầy, còn gì nữa? Thân này vô thường, thân này là ổ bệnh tật, già suy và đau khổ. Quý thầy hãy tinh tấn tu hành, hãy đem hết sức lực bình sinh của mình để chiến đấu lại tâm dục vọng thế gian của quý thầy! Quý thầy hãy mạnh dạn, can đảm, gan dạ, đừng để tâm quý thầy đam mê, bị cám dỗ, bị lôi cuốn trong dục lạc của đời người! Quý thầy hãy chán chê và ngao ngán dục lạc thế gian!

Này quý thầy, còn gì nữa? Quý thầy hãy cố gắng vươn lên chiến đấu lại tâm ham muốn của quý thầy, để thoát ra khỏi vòng thế tục và chấm dứt tái sinh luân hồi! Chỉ một đời này, đừng nên kéo dài hơn nữa. Mất thân là khó được thân; mất thân là không còn chỗ để tu hành nữa. Hãy nhớ kỹ lời dạy này mà phải có ý chí quyết tâm lớn, phải có lòng sắt đá kiên cường vĩ đại thì mới có ngày giải thoát được cảnh khổ đau của đời người. Chỉ có thân này tu hành mới chấm dứt được đường sanh tử luân hồi.

Này quý thầy! Danh lợi có gì đâu, quý thầy hãy bỏ xuống đi, bỏ xuống đi!

Hãy xét kiếp người mà bỏ xuống đi!

Hãy xét sự đau khổ của đời người mà hãy bỏ xuống đi!

Hãy xét lại sự luân hồi tái sinh mãi mãi không bao giờ dứt mà hãy bỏ xuống đi!

Hãy xét lại những dục lạc thế gian toàn giả dối và đau khổ mà hãy bỏ xuống đi!

Rồi đây, quý thầy đem hết nghị lực và cả sức mạnh tinh thần bình sinh của mình, tiến lên thực hiện những gì Thầy đã dạy. Đừng làm sai một ly hào nào, quý thầy sẽ đạt được những sự giải thoát nơi thân và tâm của quý thầy bằng cách quý thầy chứng nghiệm.

(41:43) Đây là một câu chuyện chết bất ngờ, hầu hết trong đời sống hàng ngày chúng ta cũng thường chứng kiến sự chết thình lình bất ngờ này:

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn ngự tại nước Xá Vệ. Có một thương gia giàu có chở hàng hóa đi bán, vừa đến thành Ba Na Nại, trời nhấp nhem tối. Ông ta phải dừng xe nghỉ tai bên dòng sông, chờ sáng để sang sông.

Đêm hôm ấy trời mưa như trút từ ngày này sang ngày khác, suốt bảy ngày đêm không ngớt, nước sông dâng cao, đường sá lầy lội. Nhà buôn ấy tự nghĩ: “Trong chuyến buôn này, ta phải bán cho hết hàng hóa rồi mới về. Dù hết mùa mưa sang mùa đông, rồi đến mùa hạ ta cũng quyết tâm ở lại bán cho hết”. Lúc bấy giờ, Đức Phật đi khất thực trên đường phố ngang qua đoàn xe buôn, Ngài mỉm cười.

Thấy Đức Phật mỉm cười, tôn giả A nan hỏi lý do.

Đức Phật đáp:

– Này A Nan, ông có thấy vị thương gia kia không?

– Bạch đức Thế Tôn, con có thấy.

– Đời sống của ông ta sắp hết rồi, vậy mà ông ta còn dự định ngụ tại đây hết mùa này sang mùa khác để bán hàng.

– Bạch Thế Tôn, ông ấy sắp chết sao?

– Này A Nan, chỉ bảy ngày nữa ông ta sẽ chết.

– Bạch Thế Tôn, như vậy con sẽ báo cho ông ta biết.

– Được, ông cứ đi đi!

Liền đó, tôn giả A Nan đến chỗ vị thương gia khất thực. Vị thương gia ấy cung kính cúng dường thức ăn để cho Ngài.

Tôn giả hỏi:

– Ông định ở đây bao lâu?

– Bạch Tôn giả, con định ở đây suốt năm; bao giờ bán hàng xong con mới về.

– Này cư sĩ, ông nên biết đời người thật ngắn ngủi, không biết sẽ chết vào lúc nào.

Vị thương gia ngạc nhiên hỏi: “Sao, bộ con sắp chết?”.

Ông A nan điềm nhiên đáp: “Phải đó cư sĩ, ông chỉ còn có bảy ngày nữa thôi”.

Quả đúng bảy ngày, vị thương gia cảm thấy nhức đầu và đi nằm, chẳng bao lâu chết.

Do nhân duyên này, Đức Phật nói kệ sách tấn chúng ta trên đường tu hành:

“Quý thầy hãy nhớ lấy
Hãy tinh cần nỗ lực
Làm những gì cần làm
Trong hiện tại mà thôi
Đừng để ngày hôm mai
Vì ngày mai ai biết
Ai cũng đều bất lực
Trước lưỡi hái tử thần
Hạnh phúc cho kẻ nào
Chỉ biết sống hiện tại
Đó là người khôn ngoan

Đến đây, Thầy cũng xin nhắc lại quý thầy một lần nữa: “Được Thân Người Là Khó, Được Nghe Pháp Chân Chánh Còn Khó Hơn”. Vì thế, các thầy phải siêng năng tinh tấn, nỗ lực tu hành để ra khỏi nhà sanh tử; để thoát khỏi vòng đau khổ của thế gian và để chấm dứt tái sinh luân hồi. Nhưng với việc làm này không phải dễ.

Một lần nữa, Thầy nhắc nhở quý thầy phải bền chí, chắc dạ, kiên trì thì mới đạt được sự giải thoát chân thật của Đạo Phật.

Và bây giờ, quý thầy cũng nhớ lời sách tấn của thiền sư Hoàng Bá:

Thoát khỏi trần lao việc chẳng thường
Đầu dây nắm giữ vững lập trường
Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu khá dễ ngửi mùi hương

Buổi nói chuyện đến đây thầy xin chấm dứt, chúc quý thầy tiến tu cho đến ngày viên mãn, Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Trước khi ăn cơm trưa, Thầy có một vài điều cần khuyên nhắc quý thầy trên đường tu tập thiền định.

3- TU THIỀN SAI LỆCH SANH MA CHƯỚNG

(45:05) Vừa rồi có một vị tu sĩ Nam Tông đến thăm tu viện và có trình lại cho thầy biết, sư đã từng ở Thái Lan và Miến Điện tu tập thiền định. Sư là người Việt Nam quê ở Cần Thơ đã sang Mỹ và có chùa tại đó. Trước sư thọ giáo theo Bắc Tông, sau sư theo Nam Tông. Do nhân duyên này, sư sang Thái Lan và Miến Điện tu tập thiền và nghiên cứu thêm giáo lý của Đức Phật.

Sư rất thích tu tập thiền định, nhưng sư lại bị nội ma, khiến sư không còn tu tập được nữa. Sư muốn đi tìm một vị minh sư để giúp sư vượt qua ma chướng, nhưng chưa gặp được người có khả năng thiền định cao. Hôm nay diện kiến cùng Thầy, sư có ý lưu lại đây một tháng để nhờ Thầy giúp đỡ.

Thầy bảo: Tình hình hiện nay tu viện không được phép cho người lạ ở, nhất là sư ở Mỹ. Vậy tu tập thiền định trong cả nước cần phải lưu ý và cẩn thận. Đừng quá vội vàng nhập định sai lệch tạo thành ma chướng nội tâm, khiến cho Phật Pháp trở thành tà giáo ngoại đạo.

Bằng chứng hiện giờ, Phật Giáo đã trở thành tà giáo mà chẳng hề ai biết. Đó là do sự tu hành không đúng, nên bị nội ma sai khiến làm mất chánh đạo của đạo giải thoát.

Đây là bức thơ gửi cho Minh Tâm và Tâm Như, Thầy sẽ đọc lại cho quý thầy nghe. Quý thầy cố lắng tâm và nghe cho kỹ. Những nơi nào cần giải thích, Thầy sẽ giải thích thêm để quý thầy hiểu cho rõ ràng.

(47:43) Đây bức thư:

“Ngày 6 tháng 10 năm 1993,

Gửi Minh Tâm, Tâm Như, Mai và các cháu Tuyền - Nô.

Về thăm Thầy lần này không gặp, các con đừng buồn. Đây là năm thứ ba nhập thất của Thầy để hướng dẫn quý thầy. Nhưng nay chỉ còn lại một mình Mật Hạnh cùng đi được với Thầy, tất cả đều bỏ cuộc. Nghĩa là họ theo không kịp, phải chờ đợi khoá sau. Các con hãy chờ đợi, sau khi ra thất, Thầy sẽ trả lời tất cả những điều mà tại sao quý thầy bỏ cuộc?

Phải nói, đó là một tâm bệnh chung của các con, của những người tu theo Đạo Phật ngày nay. Theo Thầy nghĩ đường đi không khó, nhưng khó vì lòng người chưa dứt dục lạc thế gian. Sau khi Thầy và Mật Hạnh nhập xong các định, Thầy sẽ mở cửa thất ra và gặp lại các con. Các con hãy chờ đợi. Các con thường về thăm Thầy, các con đừng buồn!

Sự nhiếp tâm của Mai khá tốt, hơi thở của Mai khá ổn định, cần phải tu tập thêm một thời gian nữa cho hơi thở rất thuần. Nhớ kỹ, đừng để hơi thở lặng quá và cũng đừng thở mạnh quá. Dùng ý thức tu tập, đừng dùng tưởng thức.

Thầy nhắc lại: Các con nên dùng ý thức tu tập, đừng dùng tưởng thức. Các con nhớ! Nhớ kỹ, cần nhiếp tâm kỹ, không nên để vọng tưởng và các trạng thái tưởng ấm làm chìm hơi thở, dù chỉ là một giây, một chớp mắt cũng không được. Phải vận dụng cố gắng, cố gắng hơn.

(50:32) Mai! Con đang vận dụng hơi thở đúng cách, nhưng thường bị tưởng ấm làm mờ ý thức, nên vọng tưởng còn chưa sạch. Có lúc tâm có trạng thái an lạc nhẹ nhàng, nhưng đó là một trạng thái xúc tưởng hỷ lạc. Vì hiện giờ tâm con chưa có định, chỉ đạt được nhất niệm trong thời gian còn ngắn lắm. Khi nào tâm có định, tức là có nhất tâm thì sự an lạc đó mới chính là “định sanh hỷ lạc”. Còn bây giờ chỉ là ma lạc mà thôi.

Hiện giờ hoàn cảnh của Mai, Tâm Như chưa cho phép các con ly cuộc sống thế gian. Các con còn phải cố gắng tập luyện hơi thở và xả bỏ tâm thế gian nhiều hơn nữa. Nếu xả tâm thế gian không kỹ, khi nhiếp tâm ức chế được vọng tưởng, thì điều này là tai hại lớn cho các con và cho con đường tu hành thiền định của các con. Tại sao? Vì lúc này vọng tưởng không có, nên tưởng tâm con rất mạnh. Tưởng tâm của các con cũng do từ gốc dục mà có. Nếu người tu thiền định xả tâm dục chưa hết mà vội ức chế vọng tưởng, thì tưởng dục sẽ là ngủ ấm ma của các con. Các con nhớ kỹ chứ!

(52:41) Chỗ này Thầy xin nhắc lại một lần nữa: Nếu một người tu thiền định xả tâm dục chưa hết mà vội ức chế vọng tưởng, thì tưởng dục sẽ là ngũ ấm ma của các con. Con đường tu của các con sẽ lạc hướng và có nhiều tai nạn xảy ra nơi đây:

  • Thứ nhất, các con bị điên khùng, bị ma nhập.

  • Thứ hai, lạc vào hang quỷ và chết luôn trong đó. Đó là trường hợp của một nữ cư sĩ ở Nha Trang. Và có nhiều sư bên phái Khất Sĩ đã lạc vào nơi đây và chết luôn trong đó.

  • Thứ ba, tâm dục của các con trở lại mạnh mẽ hơn trước.

  • Thứ tư, nói chuyện như lên đồng nhập xác, tự xưng ông này bà kia. Mà các con thường gặp một số người tu hành bị rơi vào trạng thái thứ tư này. Mà hầu hết mọi người đều gặp số tu sĩ này.

  • Thứ năm, có chút ít thần thông, biết chuyện quá khứ vị lai, từ đó tâm sanh ngã mạn cống cao, xem thế gian này mọi người không còn ai hơn mình. Như có một vài vị tự xưng giáo chủ, giáo chủ này hoặc giáo chủ kia.

  • Thứ sáu, tâm danh lợi phát triển, ham thích chùa to tháp lớn. Bằng chứng điều này quý hoà thượng của chúng ta đều gặp phải.

  • Thứ bảy, tưởng giải siêu việt, làm thơ, làm văn, viết kinh, dịch sách rất hay. Đó là trường hợp mà các bậc tôn túc của chúng ta gặp phải.

  • (55:18) Thứ tám, phá giới làm việc bất tịnh. Đó là trường hợp mà các bậc thầy của chúng ta cũng đang gặp phải.

  • Thứ chín, thích tranh luận cao thấp hơn thua, thường nêu cái của người khác, khoe cái hay của mình. Đó là một số tu sĩ thiền thời nay mà chúng ta đều thấy.

  • Thứ mười, thích ăn uống lặt vặt như người tầm thường thế gian. Điều này chúng ta cũng thường gặp trong các chùa.

  • Thứ mười một, thích ăn mặc sang đẹp, chải chuốt, thường soi gương làm đẹp. Điều này đâu đâu chắc cũng có, chùa nào cũng có.

  • Thứ mười hai, ngồi thiền lim dim nửa tỉnh nửa mê, từ ngày này sang ngày khác. Đó là trong các thiền viện mà chúng ta đã gặp.

  • Thứ mười ba, ngồi thiền thường thấy cảnh giới an lạc, thích thú; thường thấy tiên phật và các tổ. Đó là những người tu thiền bị lạc vào thứ mười ba này.

  • Thứ mười bốn, ngồi thiền thường thấy cảnh giới sợ hãi ghê tởm, thấy ác quỷ, ác ma, thú dữ như nhà sư Việt Nam có chùa bên Mỹ vừa gặp Thầy.

  • (57:32) Thứ mười lăm, ngồi thiền thấy thần nhãn, như trước đây Thầy có lần đã gặp.

  • Thứ mười sáu, ngồi thiền thấy ánh sáng hào quang. Trước đây Thầy cũng thấy điều này, và sau này Mật Hạnh cũng gặp điều này.

  • Thứ mười bảy, ngồi thiền thấy mình bay lên trên hư không. Điều này Thầy cũng đã gặp.

  • Thứ mười tám, ngồi thiền thấy các tổ về truyền tâm ấn và ấn chứng báo tin. Đó là sư cô Thanh Hải cùng một số tu sĩ thiền hiện giờ.

  • Thứ mười chín, ngồi thiền thấy mình xưa là vị tổ này, vị tổ khác.

  • Thứ hai mươi, ngồi thiền như người ngồi trong hang vị lim dim, chẳng mê chẳng tỉnh, ngủ chẳng ngủ, thức chẳng thức, gục tới gục lui như người say rượu. Đây là trường hợp Thầy đã gặp trong các thiền viện.

(58:52) Đây Thầy chỉ kể sơ hai mươi điều ma chướng mà người tu thiền sai lệch thường gặp phải. Và còn biết bao nhiêu trạng thái thiền tà làm mất ý thức, trở thành điên khùng, làm mất giá trị con người. Do lạc vào ma chướng này mà người thời nay tu hành không nhập được định, không chứng quả A-la-hán; không làm chủ thân tâm và sanh tử; không chấm dứt tái sinh luân hồi cũng từ chỗ lạc nẻo này. Có người cho là chứng đắc, chứ họ đâu biết rằng đó là tu sai lệch vào nẻo định tà. Bởi không tu giới luật, không chịu xả bỏ tâm ham muốn dục lạc của mình. Trước khi đi tu mà không có một tâm niệm chán chê, chán ngán dục lạc thế gian thì các con phải biết không bao giờ đắc được thiền định và trí tuệ giải thoát của Phật.

(01:00:18) Cũng chính nơi đây, người thời nay tu hành đều bỏ cuộc, trở về với đời sống thế gian với nhiều hình thức khác nhau để làm lại cuộc đời. Có người lấy con đường tà giáo ngoại đạo này để lường gạt, bịp người bằng chiếc áo tu hành. Tu hành nếu không gặp người có kinh nghiệm chứng quả giải thoát A-la-hán hướng dẫn nên tu đến đây biến Phật Giáo thành tà giáo; hoặc biến Phật Giáo thành môn học; hoặc biến Phật Giáo thành một thứ triết lý kỳ đặc; hoặc biến Phật Giáo thành thần giáo.

Bằng chứng các con đã nhận thấy Phật Giáo hiện giờ quá rõ ràng mà Thầy đã kể ở trên. Vậy các con muốn tu theo Phật Giáo phải cẩn thận và cẩn thận hơn, để không uổng phí một đời tu hành, và sẽ không bị người khác lường gạt.

Các con hãy nhìn xem, những gì của Phật Giáo chân chính đã bị xô ngã và dẹp bỏ, nên thời nay có biết bao nhiêu người tu hành theo Đạo Phật, nhưng cuối cùng có được mấy người được những gì? Hay chỉ là một số học thứ giáo lý suông của bao nhiêu người thêu dệt, thêm thắt vào hoặc giải thích một cách sai lệch. Cho nên, họ sống đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, chỉ toàn chạy theo cuộc sống danh và lợi thế gian. Và rồi chỉ để hưởng thụ cá nhân của mình.”

4- PHÁP TU ĐỂ NHẬP ĐỊNH AN TOÀN

(01:02:51) “Nếu các con tu tập hơi thở kỹ càng, xả bỏ tâm dục lạc thế gian rốt ráo thì đến đây các con chỉ cần giai đoạn nữa mà thôi. Ly thế gian sống độc cư nhiếp tâm liên tục trong hơi thở mà các con đã từng tập luyện thuần thục.

Chỗ này thầy nhắc lại một lần nữa: Ly thế gian sống độc cư, nhiếp tâm liên tục trong hơi thở mà các con đã từng tập luyện thuần thục. Bấy giờ các con sẽ nhập định dễ dàng, một thứ định rất an toàn, không có ma chướng, cứ thẳng lối đó mà vào không khó khăn gì. Tại sao vậy?

Tại vì các con tu đúng, tu có căn bản. Nghĩa là các con tập tu từ Giới đến Định và Tuệ, đâu đâu thầy cũng vạch ra một lối tu quá rõ ràng. Từ chỗ dễ các con tu được đến chỗ khó khăn cao hơn, các con không làm được, rồi sẽ làm được. Từ diệt những ham muốn dục lạc tầm thường, đến diệt những ham muốn sâu sắc của tâm ái dục bằng con đường giới luật mà thầy đã vạch ra cách tu. Khi tu giới luật, diệt sạch ma ngoại cảnh, thì khi tu thiền định mới diệt sạch được ma nội tâm. Nếu không tu đúng như lời dạy của thầy, ma ngoại cảnh sẽ cùng với ma nội tâm quật các con ngã trên đường giải thoát, mà không bao giờ đạt được đến đích.

(01:05:09) Chỗ này Thầy xin nhắc lại các con một lần nữa: Khi tu giới luật phải diệt sạch ma ngoại cảnh, thì khi tu thiền định mới diệt sạch được ma nội tâm. Nếu không tu đúng như lời dạy của Thầy, ma ngoại cảnh sẽ cùng ma nội tâm hợp nhau Quật ngã các con trên đường giải thoát mà không bao giờ đạt đến đích được. Nếu không có sự quyết định cho một đời tu hành thì Mai, Tâm Như, các con sẽ mãi mãi vẫn còn đứng ngoài cổng. Đến giai đoạn này, các con phải hiểu, đó là giai đoạn cực kỳ quan trọng và quyết định sự (lạm dụng…​..) sáu trần, sáu căn và sáu thức. Nếu không được như vậy thì sự tu hành của các con chỉ còn lượm lặt những lợi ích nhỏ nhoi mà thôi.

Giai đoạn này là giai đoạn nhập định, nếu không sống độc cư, không sống cô đơn một mình thì:

  • Điều thứ nhất khó mà hộ trì và bảo vệ tâm các con được.

  • Điều thứ hai, khó mà tránh các duyên bên ngoài.

  • Điều thứ ba, khó mà giữ khẩu nghiệp thanh tịnh.

  • Điều thứ tư, khó mà nhiếp tâm liên tục trong hơi thở.

  • Điều thứ năm, khó mà nhìn tâm…​như vách đá.

  • Điều thứ sáu, khó mà phá các ma chướng nội thân.

  • Điều thứ bảy, khó mà vượt qua hơi thở.

  • Điều thứ tám, khó mà phá tưởng ấm.

  • Điều thứ chín, khó mà phá được thọ ấm.

  • Điều thứ mười, khó mà có tâm thanh tịnh.

  • Điều thứ mười một, khó mà có tâm tam minh.

  • Điều thứ mười hai, khó mà có trí tuệ giải thoát.

(01:07:12) Nếu các con tạo đủ điều kiện và sống độc cư được thì các con hộ trì bảo vệ tâm các con được. Hộ trì bảo vệ tâm các con được thì các con tránh các duyên bên ngoài được. Tránh các duyên bên ngoài được thì các con giữ được khẩu nghiệp thanh tịnh. Giữ gìn được khẩu nghiệp thanh tịnh thì nhiếp tâm liên tục trong hơi thở được. Nhiếp tâm liên tục trong hơi thở được thì nhìn tâm như vách đá được. Nhìn tâm như vách đá được thì phá được các ma chướng nội thân. Phá được các ma chướng nội tâm thì vượt qua hơi thở được. Vượt qua hơi thở được thì phá tưởng ấm được. Phá tưởng ấm được thì phá thọ ấm được. Phá thọ ấm được thì tâm mới có thanh tịnh. Tâm có thanh tịnh thì tâm mới có nhất tâm. Tâm có nhất tâm thì tâm nhập định. Tâm nhập định là tâm đoạn dục. Tâm đoạn dục là tâm lắng trong. Tâm lắng trong là tâm tam minh. Tâm tam minh là tâm giải thoát. Đến đây công đức tu hành đã hoàn mãn.

Nói thì dễ, nhưng tu tập rất khó. Các con đừng tưởng sự tu hành theo Đạo Phật là đơn giản, là dễ dàng, như các tôn giáo khác. Vì nó khó và hiếm người tu được, nên nó có một giá trị cao tuyệt. Sự tu hành theo Đạo Phật, các con cần để ý chỗ này. Hễ cái này tu được, cái kia mới tu được thì cái này tu chưa xong thì cái kia không bao giờ tu xong.

Ví dụ, một người tu giới luật mà giới luật chưa xong, vội vàng tu thiền định, thì thiền định ấy là thiền định tà, hoặc không bao giờ đạt đến. Bởi tu được cái này thì mới tu được cái kia, nếu cái này tu chưa được thì cái kia tu chưa được. Đây là một chuỗi dài của pháp môn GIỚI - ĐỊNH - TUỆ trong một quá trình tu tập từ dễ đến khó. Nếu ai tu ngang xương thì chẳng bao giờ nhập định được và chẳng bao giờ có giải thoát được, làm chủ sinh tử chấm dứt tái sanh luân hồi được. Biết khó như vậy, nhưng các con yên tâm, sự tu hành của các con có Thầy ở một bên.

Các con hãy nhìn lại gương hạnh của người xưa tu hành: Bồ-đề-đạt-Ma chín năm nhìn vách đá; Diệu Cao Phong Thiền sư 30 năm nhìn tâm không rời một phút, ngoại trừ hai thời cơm cháo; Đức Thích Ca Mâu Ni sống sáu năm khổ hạnh chưa từng ai sống được; ngài Đại An mười hai năm trong thất, mỗi cây hương tàn qua mà chưa nhiếp phục được tâm thì ngài rơi lệ.”

5- TU HÀNH CẦN BỀN CHÍ VÀ QUYẾT TÂM CAO

(01:10:00) Tại sao tu hành khó quá vậy?

Đây quý thầy nghe tổ Hoàng Bá sách tấn. trên đường tu tập, để chúng ta thấy rằng con đường tu không phải dễ. “Chẳng phải một phen sương lạnh buốt, hoa mai đâu khả dễ ngửi mùi hương”. Nếu trên đường tu tập mà quý thầy chỉ tu cầm chừng cho qua ngày tháng, thì dù cả trăm ngàn đời cũng chẳng thấy đạo. Bởi tu hành là phải đem hết sức tận cùng mà tu tập thì mới mong thấy được đạo. Nếu cho rằng tu là dễ thì sao Hoàng Bá lại bảo chẳng phải sương “một phen sương lạnh buốt”.

Trong tu viện Thầy đã chứng kiến thực tế, mới khép quý thầy vào ăn ngày một bữa, chỉ trong ba ngày là quý thầy đã kêu chóng mặt, mệt nhọc, thiếu dưỡng chất và không thể tu hành được nữa. Xin thầy cho tập ăn từ từ và cuối cùng ăn phải ba bữa, sáng tiểu thực, trưa ăn cơm chánh, chiều bún bò hoặc sữa. Đời sống tu hành này là đời sống của thiền Đông Độ, nó không phải là thiền của Đạo Phật, vì Đạo Phật ăn ngày một bữa mà thôi.

Đến khi Thầy khép giờ giấc công phu tu hành thì quý thầy lại bị hôn trầm thùy miên tấn công. Bây giờ, mọi người ngồi nghẻo cổ mà ngủ hoặc gục tới gục lui cho hết giờ. Lại có người lén vào thất nằm ngủ cho thỏa mãn sự ham ngủ của họ. Nhìn thấy cảnh này Thầy đã hiểu ngay, những người nhập thất một mình là để ở trong thất ăn và ngủ. Đến khi ra thất cơ thể mập như con heo và da trắng đỏ như cô gái đương xuân. Nhìn thấy như vậy, mọi người thường tấm tắc khen ngợi, người tu hành thật là tướng hảo quang minh. Mập, béo, trắng đỏ, thật là người đắc thiền thành Phật mới có tướng tốt như vậy. Quý thầy phải biết tướng tốt đó là tướng tốt của người thế gian, tướng tốt của ăn và ngủ nhiều. Riêng chúng tôi có kinh nghiệm, tu hành trong Đạo Phật, theo tinh thần giải thoát của Đạo Phật thì một người tu hành phải làm chủ cái ăn cái ngủ của mình. Mà đã là chủ cái ăn cái ngủ thì không thể nào ăn ngủ phi thời. Mà không ăn ngủ phi thời làm sao mà có cơ thể mập được? Giới luật của Đạo Phật được đặt ra là để tu tập làm chủ cái ăn cái ngủ đúng giờ, đúng giấc.

(01:13:02) Vương Bột là một vị quan tuần phủ trong, nghe trong phủ ngài có một vị thiền sư tu chứng đạo. Ngài đến thăm và vấn đạo, khi thấy thiền sư Trí Thường, ngài liền nói thấy không bằng nghe. Quả đúng như vậy, khi nghe người ta đồn Trí Thường chứng đạo, ngài cứ nghĩ Trí Thường sẽ là tướng hảo quang minh như trong kinh Đại Thừa thường diễn tả. Đến khi gặp thiền sư, chỉ thấy còn là một bộ xương gầy ốm, giống như một con khỉ già, chẳng có tướng hảo quang minh gì hết. Đó là một ông già ốm nhom chỉ da bọc xương mà thôi. Bởi vừa chợt thấy thiền sư thì bao nhiêu sự tưởng tượng đẹp đẽ trong đầu của ngài như trong kinh sách Đại Thừa đã dạy đã đổ tan nát.

Ngài thất vọng, nên thốt nên lời “Thấy không bằng nghe, nghe thì sao đẹp đẽ quá chừng, nghe thì cao siêu quá độ, thế mà thấy thì chẳng ra gì”. Mộng tưởng đã đổ vỡ, ông muốn lui bước trở về mà không cần gặp.

Nhưng Trí Thường bảo “đừng khinh mắt chê tai, đừng khinh mắt khen tai”.

Do câu này Vương Bột lưu lại và sau này trở thành đệ tử của ngài. Bởi tu hành quý vị không cố gắng, không gan dạ, không lìa bỏ dục lạc, lợi dưỡng thế gian thì không bao giờ thấy đạo. Mà nếu xa lìa rời bỏ dục lạc thế gian thì cơ thể của quý vị chỉ còn da bọc xương mà thôi. Nếu máu trong thân của quý vị chưa khô, xương trong thân của quý vị chưa nát thì đạo kia quý vị chưa thấy được. Con đường tu giải thoát là phải vất vả khổ sở, là phải bền chí chắc dạ, là phải dũng cảm gan lỳ, xem thân này nhẹ như lông hồng, xem cái chết như sợi chỉ mảnh treo chuông. Nếu quý vị còn tiếc thân này, Thầy e rằng quý vị khó mà đến Tây phương. Bởi “Thoát khỏi trần lao việc chẳng thường”. Việc ra khỏi sanh tử chấm dứt tại sinh luân hồi đâu phải việc thường. Việc mà hễ ai muốn làm là làm được thì đâu phải là việc chẳng thường.

(01:16:06) Thầy thông cảm với quý thầy, việc làm này không phải đòi hỏi ở người phi thường, mà chỉ đòi hỏi ở người bền chí và có sự quyết tâm cao. Việc làm này cũng khó, không dễ. Nếu ai lười biếng thì khó, còn ngược lại siêng năng tinh tấn thì sớm muộn gì cũng thành tựu. Nếu khó thì không ai làm được, còn nếu bảo rằng dễ thì sao mọi người làm không được? Khó dễ chính ở chỗ của quý thầy có thật dạ tu hành hay không? Có quyết tâm tìm sự giải thoát cho chính mình hay không? Có thấy trần lao này đầy đau khổ hay không? Nếu quý thầy có thật dạ, có quyết tâm, có thấy cuộc đời này đầy đau khổ thì sự tu hành không khó.

6- THIỀN CÓ XUẤT NHẬP CỦA ĐẠO PHẬT

(1:16:56) Tu hành thiền định thì có xuất có nhập, nếu thiền không xuất không nhập là thiền không phải của đạo Phật. Tại sao vậy?

Vì lúc Đức Phật nhập Niết Bàn, ngài lần lượt nhập các thứ thiền và các thứ định. Từ sơ thiền đến phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Nhập xuất, nhập xuôi, nhập ngược đến ba lần, rồi ngài nhập tứ thiền và nhập vào Niết bàn. Quý thầy phải hiểu đó là con đường thiền của Đạo Phật, có lối vào, có lối ra hẳn hòi.

Con đường dạy tu thiền định của Thầy cũng vậy, tuy danh từ dùng có khác với Đức Phật, nhưng sự nhập các thiền, các định giống nhau.

Bắt đầu Thầy dạy các con nhập sổ tức. Sau khi tu tập pháp sổ tức thuần thục, Thầy dạy các con xả sổ tức nhập tuỳ tức. Sau khi nhập tuỳ tức thuần thục, Thầy dạy các con xả tuỳ tức nhập trạng thái hỉ lạc. Sau khi ở trạng thái hỉ lạc thấm nhuần thuần thục. Thầy dạy xã hỷ xả lạc thọ khổ nhập tâm thanh tịnh. Lối xuất nhập thiền này tương đương với bốn thiền của Phật.

Giai đoạn thứ nhất Thầy dạy, các con tu tập sống đúng giới luật và phạm hạnh của Đạo Phật. Muốn sống đúng giới luật và phạm hạnh của Đạo Phật thì các con phải tu tập cách sống đúng như Phật sống ngày xưa. Cách sống như Phật sống ngày xưa thì chia làm 3 phần: Một ăn, hai ngủ, ba sống độc cư.

Các con phải chiến đấu để sống đúng cách ăn, cách ngủ, cách độc cư. Thời gian tập súng đống ba hạnh này thì các con tập ổn định hơi thở bằng pháp môn sổ tức.

Sổ tức là một pháp môn tu tập tỉnh giác để các con đủ sức bình tĩnh trước mọi sự cám dỗ và mọi sự thử thách của cuộc đời. Nhờ sự bình tĩnh đó, các con sẽ giữ gìn giới luật nghiêm túc; và cũng nhờ đó mà các con cũng ly được tâm dục lạc thế gian; và cũng nhờ đó oai nghi tế hạnh của các con mới được tròn đủ.

Sổ tức là pháp môn trợ duyên cho các con tu tập giới luật thanh tịnh. Sổ tức là pháp môn giúp các con có đầy đủ ý tứ để hoàn toàn chiến thắng những ác pháp trong tâm các con. Sổ túc là pháp môn giúp các con đầy đủ ý tứ sáng suốt để xả bỏ tâm dục lạc ham muốn của các con. Sổ tức cũng là một pháp môn giúp các con ly dục lạc thế gian nhập sơ thiền. Nếu trên đường tu tập thiền định mà các con xem thường pháp môn sổ tức thì chẳng bao giờ các con tu tập giới luật thanh tịnh. Chẳng bao giờ chiến thắng những ác pháp trong tâm các con; và cũng chẳng bao giờ xả bỏ tâm dục lạc thế gian. Và các con cũng nên biết chẳng bao giờ nhập được sơ thiền.

(01:20:51) Đó là một pháp môn sơ khởi cho sự tu thiền định. Nếu người tu thiền định thiếu căn bản này, thì sự tu hành hoài công vô ích. Bởi nó quan trọng, nhưng mấy ai đã biết, vì thế tu sĩ hiện giờ đều phạm giới.

Bạch thầy! Pháp sổ tức của thầy có giống pháp sổ tức của ngài Thiên Thai Trí Khải Đại Sư hay không?”

Trưởng lão: Không! Pháp sổ tức của thầy Thiên Thai Trí Khải Đại Sư trong Lục Diệu pháp môn là pháp môn ức chế vọng tưởng đển đi đến chỉ. Còn pháp môn sổ tức của Thầy chỉ giúp các con tỉnh giác để các con bình tĩnh trước mọi sự việc và mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng. Để chiến thắng tâm của các con trong việc ác và những điều bất thiện. Để chiến thắng tâm của các con lìa xa những ham muốn dục lạc.

Sổ tức của Thầy là pháp môn tu tập tỉnh giác để thấy đúng một sự thật, tư duy đúng chánh pháp. Để giúp các con ly dục lạc thế gian, để thắng lại lòng ham muốn của các con và để cho các con nhập được sơ thiền.

Vì muốn nhập sơ thiền thì phải “ly dục sanh hỷ lạc” mới nhập được sơ thiền. Đó là một loại thiền thứ nhất trong bốn thứ thiền của Đạo Phật. Cách tu hành sổ tức của Thầy là giúp các con giữ gìn giới hạnh nghiêm túc, lìa xa ngũ dục lạc thế gian để nhập sơ thiền. Đến đây quý thầy có thấy lối dạy của Thầy có cách thức, có sự tu tập từ chỗ dễ đến chỗ khó, để đạt được thiền định của Đạo Phật, không làm lệch con đường Đạo Phật? Đây cũng là người Việt Nam đầu tiên hướng dẫn thiền Việt Nam, nhưng đạt được đích giải thoát của Đạo Phật từ gốc Nguyên Thuỷ.

Quý thầy cứ xét lại có đúng không? Khi giới luật nghiêm túc, sổ tức tỉnh giác thuần thục, phạm hạnh đầy đủ, tức là quý thầy đã ly được dục lạc thế gian. Ly được dục lạc thế gian, tức là nhập được sơ thiền.

(01:23:14) Đến đây, Thầy dạy các con xả sổ tức nhập tuỳ tức. Tu tập tuỳ tức một thời gian cho thuần thục và nhuần nhuyễn. Khi tuỳ tức thuần thục và nhuần nhuyễn, Thầy dạy các con xả hơi thở, xả tùy tức nhập chỉ, tức là diệt tầm diệt tứ, tương đương nhập thiền thứ hai.

“Trong nhị thiền của Đạo Phật, bạch Thầy! Chỉ này có tương ưng trong Lục Diệu Pháp Môn của ngài Trí Khải Đại Sư hay không?”

Không! “Chỉ” của ngài Trí Khải Đại Sư chỉ là ngưng hơi thở, giữ tâm lặng lẽ đến để rồi quán. “Chỉ” của Thầy là ngưng hơi thở, diệt tầm tứ để nhập hỷ lạc, tức là nhập nhị thiền, tương ưng với thiền thứ hai của Phật. Khi tu tập “chỉ” thuần thục và thấm nhuần thì các con xả hỷ, còn giữ lạc nên nhập tam thiền tương ưng với thiền thứ ba của Phật.

Đến đây Thầy dạy các con xả lạc xả khổ, phá tưởng diệt thọ. Làm chủ thân tâm tự tại trong sinh tử, muốn chết hồi nào là chết, muốn sống hồi nào là sống, không còn bị sợ ngăn ngại của sanh tử. Chấm dứt tái sanh luân hồi, nhập tâm thanh tịnh tức là nhập tứ thiền tương ưng với thiền thứ tư của Đạo Phật. Đến đây công đức tu hành đã hoàn mãn.

Tóm lại, để các con dễ nhận định, thiền của Thầy không phải là thiền Lục Diệu Pháp Môn. Thiền của Thầy là thiền của Đạo Phật có đầy đủ kinh nghiệm từ bản thân của Thầy để dẫn dắt các con tu hành vào con đường của Đạo Phật không sợ lạc lối. Và lối thực hành có quy củ, có cách thức để mọi người ai khéo tu tập là đạt được kết quả giải thoát ngay. Thiền của Thầy tu tập đi từ đức hạnh đến giải thoát, không cầu kỳ, rất đơn giản; không mê tín dị đoan; chính xác như khoa học; không dài dòng lý thuyết như kinh Đại Thừa; rất trực tiếp và thực tế trong cuộc sống hàng ngày.

(01:25:51) Thiền của Thầy có lối vào có lối ra giống như thiền của Đức Phật ngày xưa. Còn thiền không xuất không nhập là thiền của Đại Thừa, Thầy không bàn vấn đề này. Vì ai có duyên với pháp môn nào thì nên tu pháp môn ấy, đừng tranh luận hơn thua để rồi chẳng ích lợi gì cho cả hai. Ai tu sao được giải thoát là điều quý. Chúng ta người thời nay chỉ mới tu một tháng hai tháng ba tháng đến một năm hai năm ba năm là đã muốn thối tâm. Tu thì muốn dễ, thành phật thì muốn mau, giải thoát sinh tử thì cầu mong mà dục lạc thế gian chẳng bỏ. Sanh lão bệnh tử thì quá sợ hãi, nhưng tâm ái dục thì chẳng muốn lìa. Tu hành kiểu như vậy thì làm sao có giải thoát được, chấm dứt tái sinh luân hồi được?.

Tâm Như, Minh Tâm, Mai và các cháu hãy chờ đợi Thầy, khi nào ra thất Thầy sẽ giúp các con tu hành. Cháu Tuyền cố gắng học tập, thường tập tỉnh giác và mục đích giải thoát. Khi nào Thầy hướng dẫn Mật Hạnh tu xong sẽ ra thất dẫn dắt các con.

Một lần nữa các con đừng buồn, hãy chờ đợi Thầy, ngày nào đó thầy trò sẽ gặp nhau, phải không các con? Thăm và chúc các con vui tươi và mạnh khoẻ. Các con cố gắng hằng tu tập những gì Thầy đã dạy, đừng bỏ trôi qua những thời gian quý báu. Thầy của các con!”

7- TU TẬP ĐỂ THẮP LÊN NGỌN ĐUỐC PHẬT GIÁO

(01:27:24) Đến đây, quý thầy đã nghe xong bức thơ Thầy gửi cho gia đình Minh Tâm và Tâm Như. Các thầy để ý trong bức thơ này, con đường tu tập thiền định của Thầy là con đường thiền định của Việt Nam. Hay nói thẳng là con đường Phật Giáo Việt Nam, do chính người Việt Nam tu tập thiền định, làm sáng tỏ Phật Giáo, không bị ảnh hưởng của Phật Giáo thế giới, đang làm sai lệch con đường của Đạo Phật.

Vậy quý thầy đã rõ, đọc thiền sử 129 vị thiền sư Việt Nam đều bị ảnh hưởng thiền Trung Hoa, Nhật Bản và Tây Tạng, biến Phật Giáo Việt Nam thành một tôn giáo triết lý. Vì triết lý biến Phật Giáo thành một môn học để đào tạo những ông tiến sĩ Phật Giáo, điều này sai. Phật Giáo Việt Nam phải thực tu thực chứng, để chứng minh cho Phật Giáo thế giới thấy rằng Phật Giáo Việt Nam là một ánh đuốc sáng để cả thế giới cùng soi. Vậy quý thầy hãy cố gắng tu tập để thắp lên ngọn đuốc Phật Giáo, để làm ánh hào quang sáng chói huy hoàng, để làm cái gương tốt cho mọi người, và để xây dựng xã hội đạo đức tươi đẹp ở ngày mai.

Này quý thầy! Có gì quý hơn là lấy mình làm gương đạo đức, để xây dựng con người đạo đức, xã hội đạo đức, đất nước đạo đức. Đó là bổn phận của quý thầy, trách nhiệm của quý thầy, của mỗi con người đang theo Đạo Phật. Đừng chối bỏ bổn phận này, đừng trốn trách nhiệm này hỡi những người con Phật! Quý thầy hãy cùng Thầy nỗ lực tu hành, đừng sợ gian lao khó khăn nhọc nhằn, hãy chặt dạ bền lòng, bên quý thầy còn có Thầy. Đừng chùn bước hãy tiến bước, Thầy là người dẫn lối cho các con, Thầy cầm đuốc soi đường cho các con đi, các con không còn sợ sa hầm lọt hố. Tình dục mà chi, tiền bạc mà chi, danh lợi mà chi, để rồi trên khắp thế giới chiến tranh máu đổ, thịt tan.

Đến đây, Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay. Chúc quý thầy tinh tấn tu hành.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

HẾT BĂNG