Skip directly to content

Pháp Âm - 1996 - THIỀN ĐỊNH CƠ BẢN - MỒNG 1 TẾT BÍNH TÝ

1996 - THIỀN ĐỊNH CƠ BẢN - MỒNG 1 TẾT BÍNH TÝ

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 01/01/1996 (AL)

1- 30 NGUYÊN NHÂN TU TẬP SAI LỆCH

(00:00) Trưởng lão: Bây giờ các con im lặng để nghe Thầy giảng trạch chỗ tu sai lệch trong một năm vừa qua. Chỗ nào đúng thì các con tiếp tục tu, chỗ nào sai các con sửa lại tu cho đúng. Các con cố gắng nghe cho kỹ.

Hôm nay, là ngày Mồng Một năm Bính Tý (1996), Thầy có đôi lời nhắn nhủ cùng các phật tử trong sự tu tập. Thời gian thấm thoát trôi qua quá nhanh. Mới đó mà đã hết một năm tu tập của các con. Để kiểm điểm lại sau một năm tu tập xem có tiến bộ hay không, hay còn dậm chân tại chỗ. Để xác định điều này, đã trắc nghiệm để chọn và đưa các con lên tu tập lớp Thiền định thứ 2 ở giai đoạn "DIỆT" tức là đóng mở sáu căn nhưng hoàn toàn thất vọng. Một năm tu tập đã qua…​ rớt. Chỉ có một mình cô Huệ Ân là đủ điểm đậu ở giai đoạn “LY” thứ nhất, phần I. Các con đành phải ở lại một năm nữa để tu tập ở giai đoạn I, để “LY” cho được bản ngã và ác pháp của mình.

Tại sao các con lại rớt? - Xét ra có nhiều nguyên nhân tu sai mà con không biết:

  1. Tu sai mà không biết mình tu sai.

  2. Cô Diệu Quang nhắc nhở mà không chịu nghe theo.

  3. Cứ dựa vào Thầy để nghe thuyết giảng, tích lũy sự hiểu biết suông nên tạo thành bản ngã to lớn.

  4. Học tập, thuộc nhiều, nói nhiều, đến khi hành thì sai hết; lớp này tu tập chưa xong lại tu lớp khác.

  5. Ăn, ngủ chưa trọn vẹn.

  6. Độc cư ở giai đoạn I chưa xong, lại vượt qua ở giai đoạn II, III.

  7. Nhẫn Nhục chưa tròn mà vội Tùy Thuận, Bằng Lòng là nén tâm là tu sai.

  8. Thiếu lòng tin ở người Thiện hữu tri thức ở gần gũi bên mình.

  9. Không nghe lời dạy bảo khuyên răn của Thiện hữu tri thức thân cận.

  10. (03:05) Thường sống trong bản ngã cố giữ kiến chấp không chịu thấy và xa lìa các lỗi lầm. Thường hay tự lý luận, che đậy tranh chấp, cãi lý, nên tâm bất an.

  11. Sống thiếu lục hòa, sanh tâm ganh tị.

  12. Sống độc cư sai, tạo cảnh nén tâm, ức chế không nói.

  13. Tu sai, không thưa hỏi kỹ Thiện hữu tri thức, để trở thành lối tu có hình thức bên ngoài.

  14. Tình cảm người thân không chịu quán xét, xa lìa, nên tâm thường bị phân tán.

  15. Khi nghe nhắc nhở, thiếu trí thông minh, không chịu thưa hỏi kỹ lại.

  16. Những lỗi lầm tu sai của nhau thường che giấu.

  17. Tâm luôn luôn sợ hãi, không dám chỉ mặt, vạch tên bạn đồng tu có lỗi lầm. Đó là thiếu lòng dũng cảm, không gan dạ xây dựng mình tốt, bạn tốt, tập thể tốt.

  18. Không dám thẳng thắn nhận lỗi mình, chỉ lỗi người là người hèn nhát.

  19. Vị tình, thương bạn đồng tu, không dám chỉ lỗi là đặt tình thương không đúng chỗ.

  20. Sợ bạn bè đồng tu xấu hổ vì phạm lỗi lầm, không dám chỉ sai cho người khác sửa đó là làm hại bạn mình, hại tập thể, hại xã hội.

  21. Mỗi bữa ăn nào cũng không giữ yên lặng để nghe lời chỉ bảo của Thiện hữu tri thức, để tu sửa thân tâm thường tranh luận, biện lý, che đậy lỗi lầm của mình.

  22. Thường nương tựa kiến thức thế gian, sanh kiến chấp, nuôi lớn ngã mạn, khinh thường người Thiện hữu tri thức giúp mình tu học.

  23. Không chịu nương kiến thức xuất thế gian để diệt ngã, xả tâm, kính trọng người Thiện hữu tri thức của mình.

  24. Thiếu lòng tôn kính với người Thiện hữu tri thức nghịch duyên thân cận.

  25. Không chịu động não, suy tư, quán xét để tìm ra các kiến chấp và sự tu tập sai của mình.

  26. Cứ dựa vào lời giải thích lòng vòng của Thầy, mà không chịu nghe lời chỉ thẳng của cô Diệu Quang.

  27. Không chịu động não, quán xét lỗi mình, để tu sai trong lời chỉ thẳng của cô Diệu Quang.

  28. (06:05) Thấy Thầy ở xa, không nghe cô Diệu Quang ở gần; đó là bỏ mồi, bắt bóng.

  29. Nghe tiếng nói của Thầy, không chịu nghe tiếng nói của cô Diệu Quang; đó là ôm vang, bỏ tiếng.

  30. Không nghe lời chỉ thẳng của cô Diệu Quang để triển khai trí tuệ vô sư, ly dục, ly bất thiện pháp.

Do 30 nguyên nhân ở trên đây mà các con đã thi rớt, và cũng nhờ sự tuyển thi này, các con mới được biết mình giải thoát rõ hơn ở mức độ nào trong một năm tu tập. Các con cần lưu ý trong sự tu tập thiền định, có mười hai điều quan trọng ở giai đoạn đầu ly dục, ly bất thiện pháp

2- 12 ĐIỀU QUAN TRỌNG ĐỂ LY DỤC LY BẤT THIỆN PHÁP

  1. (07:00) Thường tu tập tỉnh giác trong mọi hành động của thân, khẩu, ý.

  2. Thường tu tập cẩn thận, từ việc làm nhỏ nhất đến việc làm lớn nhất; đều phải dè dặt, kỹ lưỡng.

  3. Thường tu tập ý tứ trong mọi hành động thân, khẩu, ý trong thiện pháp và tránh ác pháp.

  4. Thường tu tập, bảo vệ và giữ gìn tâm mình thanh thản để được sáng suốt, bình tĩnh.

  5. Thường tu tập nghị lực để chiến đấu với tâm mình, ly dục, ly ngã, ly bất thiện pháp.

  6. Phải tỏ lòng tôn kính, cầu xin người Thiện hữu tri thức thân cận của mình để được nghe những lời chỉ thẳng, vạch trần lỗi lầm chỗ tu sai lạc để xả ngã và tu tập lại cho đúng.

  7. Khi Thiện hữu tri thức bảo làm gì thì phải làm đúng, không nên làm sai; đó là tu tập đức Tùy Thuận ở người. Làm sai lời dạy là Tùy Thuận ở mình.

  8. Khi người Thiện hữu tri thức nói oan ức và mắng chửi mình, là để mình tu tập đức Nhẫn Nhục.

  9. Khi người Thiện hữu tri thức nói trái ý mình là để dạy mình tu tập đức Bằng Lòng.

  10. Khi người Thiện hữu tri thức chê mình, là để rèn luyện mình cách thức xả ngã.

  11. Khi người Thiện hữu tri thức khen mình, là để xem mình có xả ngã được chưa.

  12. Khi người Thiện hữu tri thức bảo mình phải tự tìm cách xả tâm, ly dục, ly bất thiện pháp, không được học thuộc lòng; đó là chỉ cho mình động não, khai triển trí tuệ vô sư, ly dục, ly bất thiện pháp.

(08:46) Trong 12 điều trên đây, các con cần phải ghi nhớ kỹ. Những gì chưa hiểu, phải thưa hỏi thêm để biết cách tu tập cho đúng. Rút tỉa ưu khuyết một năm tu tập đã qua, các con đã có nhiều kinh nghiệm hơn. Bước sang năm mới, các con hãy chuẩn bị tinh thần dũng mãnh, nghị lực kiên cường để luôn luôn chiến thắng trong mặt trận sinh tử, ly dục, ly bất thiện pháp; để đem lại cho các con một tâm hồn thanh bình, yên vui và vô sự; để đem lại kết quả tuyển thi sắp tới; để bước sang giai đoạn tu học cao hơn. Để thực hiện được giấc mộng làm chủ sanh tử.

Cố gắng! Các con hãy cố gắng lên! Phần thưởng chiến thắng danh dự cho những ai biết cố gắng đang chờ phía trước. Đừng lấy những gì thất bại đã qua mà hối tiếc. Hãy nhìn hiện tại và vị lai tiến bước tu tập. Có quyết tâm phải có thành công. Sự tu tập không khó, khó vì những người không có quyết tâm. Những lời sách tấn này các con hãy ghi nhớ mãi trên bước đường tu tập thiền định. Các con đừng ngại khó khăn, vì bên cạnh các con đã có cô Diệu Quang, kế đó còn có Thầy. Đường đi khó là vì chưa biết đường. Nhưng khi đã biết đường, thì dù đường đi có khó đến đâu cũng vẫn đến đích. Mạnh dạn tiến lên hỡi các con! Để chấm dứt đau khổ, sanh tử luân hồi muôn đời. Đừng để thân tâm này trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, tiếp diễn mãi mãi đau.

Sau khi nghe lời Thầy giảng trạch chỗ tu sai, các con đã hiểu rõ rồi; và đã nhận ra; bây giờ các con cố gắng suy tư, động não, tìm hiểu chỗ sai của mình, để tu sửa lại, để được giải thoát, để được tu tập lớp cao hơn. Thầy sẽ bắt đầu giảng trạch bổ túc thêm những phần các con đang tu tập dở dang.

(11:24) Hôm nay bắt đầu cho một năm tu tập, Thầy xin nhắc lại, trên con đường tu tập theo Đạo Phật, có 3 giai đoạn tu Thiền định: Một là LY, hai là DIỆT, ba là XẢ.

  • LY có nghĩa là gì? - Có nghĩa là rời xa, lìa xa, tránh xa.

  • DIỆT nghĩa là gì? - Diệt nghĩa là đóng lại, làm cho ngưng hoạt động, dừng lại.

  • XẢ nghĩa là gì? - Xã nghĩa là là bỏ ra, ném ra, không cần dùng nữa.

Giai đoạn thứ nhất trong một năm tu tập, các con chỉ có tu tập LY DỤC, LY BẤT THIỆN PHÁP. Thế mà các con đã lầm lẫn nên chỉ tu tập DIỆT và XẢ. Vì thế sự tu tập của các con trở thành mù mờ, nên không biết tu cái nào chính, cái nào phụ. Cái chính là ly dục, ly bất thiện pháp; tức là tu tập BA ĐỨC, BA HẠNH. Còn cái tu phụ là nhiếp tâm trong hơi thở; nó chỉ phụ trợ cho sự tu tập LY mà thôi. Các con đã lầm, nên lấy cái tu chính làm cái tu phụ; còn cái tu phụ làm cái tu chính. Vì thế, khi thi các con đều rớt hết là phải. Qua một năm tu tập, khi tuyển thi lên lớp, mới nhận ra cái tu sai của các con.

3- GIAI ĐOẠN 1: LY DỤC, LY BẤT THIỆN PHÁP

(13:12) Bây giờ Thầy sẽ giảng trạch giai đoạn thứ nhất là LY, để các con hiểu đúng cách, rồi nương vào cô Diệu Quang chỉ thẳng, đập thẳng tu tập. Xưa, đức Phật Thích Ca Mâu Ni phải tu ở giai đoạn này sáu năm khổ hạnh mới ly dục. Còn ở giai đoạn II, III, Thầy không giảng, vì có giảng thì các con sẽ hiểu lộn xộn, rồi không biết lớp lang tu tập. Chờ khi nào các con tu tập xong giai đoạn thứ nhất, Thầy sẽ giảng giai đoạn thứ hai; tu xong ở giai đoạn thứ hai, Thầy sẽ giảng tiếp giai đoạn thứ ba.

(14:01) Tu tập ở Giai đoạn thứ nhất là phải xét lại Ba Đức, Ba Hạnh; Ba Đức, Ba Hạnh là phương tiện tu tập Ly Dục, Ly Bất Thiện Pháp. Ba Đức, Ba Hạnh là gì?

  • Ba Đức là Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng.

  • Ba Hạnh là gì? - Ăn, Ngủ, Độc Cư.

Bây giờ Thầy triển khai giai đoạn I. Giai đoạn này Thầy chia làm hai phần:

  1. Ly Dục

  2. Ly Bất Thiện Pháp.

4- PHẦN I: LY DỤC

(14:28) Các con tu tập phần thứ nhất trước, đó là phần Ly Dục. Phần này các con phải lập ba hạnh:

  1. Ăn

  2. Ngủ

  3. Độc cư

Vậy ly dục là gì? Ly dục là rời xa, lìa xa lòng ham muốn của mình. Muốn lìa xa thì các con phải tìm xem đối tượng của lòng ham muốn là cái gì? Trong đời sống hàng ngày của con người có NĂM ĐỐI TƯỢNG DỤC LẠC khiến cho tâm các con sanh ra ham muốn; một là ăn, hai là ngủ, ba là sắc dục,bốn là danh, năm là lợi. Muốn xa lìa các thứ dục này, Thầy lấy ba hạnh để các con tu tập ly dục:

  • Hạnh thứ nhất: Ăn.

  • Hạnh thứ hai: Ngủ.

  • Hạnh thứ ba: Độc cư.

Muốn tu lập được ba hạnh này, thì các con đã xa lìa tâm ham muốn, mà còn gọi là tâm ly dục. Muốn lập được ba hạnh này, các con cần phải hiểu rõ nó, cái lợi và cái hại của ăn, ngủ, độc cư như thế nào?

4.1- HẠNH ĂN

(16:28) Bây giờ Thầy triển khai về hạnh ĂN, để các con thấu rõ.

Hạnh ăn uống là một phương tiện để tu tập ly dục về ăn uống. Người đời thường nói “ham ăn, hốt uống” là để chỉ những hạng người xấu, cố thực, tham ăn, tham uống. Chúng ta là những tu sĩ tu tập hạnh giải thoát, mà không giải thoát được cái ăn thì còn giải thoát được cái gì? Vậy chúng ta phải tập ăn, uống ngày một bữa để nuôi sống thân chúng ta mà thôi; không được ăn uống lặt vặt; không được ăn uống phi thời; không được chạy theo dục lạc về ăn uống; phải luôn luôn cố gắng khắc phục.

Theo Đạo Phật không có dạy người tu tuyệt thực, hay tiết thực (ăn quá ít). Xưa kia Ngài đã tu khổ hạnh, tối đa là tiết thực ăn quá ít, nên cơ thể hao mòn, tinh thần không còn sáng suốt, do chỗ tu sai này, không tìm được giải thoát. Nên đức Phật xả bỏ khổ hạnh tối đa, tức là bỏ hạnh tiết thực, chỉ còn giữ lại ăn uống đủ sống, để cơ thể khoẻ mạnh tu tập. Khi xả khổ hạnh tối đa, đức Phật trở về đời sống ăn ngày một bữa bình thường, vẫn khỏe mạnh và sống đến 80 tuổi Ngài mới chết. Chúng ta bây giờ cũng vậy, từ ngày các con đến tu viện, ăn mỗi ngày một bữa mà vẫn khỏe mạnh. Thường trong giờ lao động vẫn có sự lao động nhưng cơ thể vẫn khoẻ mạnh bình thường. Các con nên xét kỹ DỤC ĂN UỐNG rất là quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Các con có nhìn thấy chăng, vì ăn uống mà người ta xâu xé lẫn nhau, giết hại nhau, chà đạp lên nhau mà chẳng có chút lòng thương yêu nhau; so sánh với loài vật cũng như vậy.

(19:04) Vì ăn uống mà người ta nghèo đói, khổ sở, nợ nần; vì ăn uống mà người ta sanh ra trộm cắp, đủ điều gian lận, mánh khoé; vì ăn uống mà sản nghiệp tiêu tan; vì ăn uống mà cốt nhục tương tàn; vì ăn uống mà phải nhọc nhằn dầm sương dãi nắng; vì ăn uống mà phải chạy xuôi chạy ngược, buôn tảo bán tần.

Bây giờ các con biết rõ, sự dục về ăn uống là khổ biết dường nào đối với đời người. Vậy từ đây về sau, các con phải dùng nghị lực dũng mãnh chống lại sự tham ăn thích uống của mình. Miễn sao ngày một bữa, có gì ăn nấy, chỉ đủ sống mà thôi, ngon dở, nguội lạnh không màng. Chỉ cần giải quyết nghiệp đói của thân là đủ lắm rồi, là đủ để được thân yên ổn, thanh tịnh, tu tập Thiền định. Đừng nghĩ rằng nay đòi ăn thứ này, mai đòi ăn thứ kia. Ai cho gì ăn nấy; ngon cũng ăn, dở cũng ăn; không khen, không chê; không ham, không thích; chỉ đủ no lòng mà thôi. Đừng sanh tâm lý luận: “Ăn như vậy thiếu chất bổ”; đó là cái lý luận chạy theo ăn uống.

Các con phải hiểu thân là một do các duyên hợp lại mà thành, nên không có bản ngã thường hằng trong đó. Vậy mà muôn đời người ta lầm chấp cho cái khối duyên hợp này là cái ngã chân thật của mình. Lại có một số người cho rằng trong cái khối này có cái “Bản thể Chân thật” của mình trong đó. Chính từ chỗ lầm chấp đó nên luôn luôn lo bảo vệ và giữ gìn không cho ai chạm đến. Vì thế mà đời người do đó sanh ra muôn ngàn thứ đau khổ, phiền lụy và luôn luôn tranh đấu.

(21:19) Các con hôm cũng vậy, trải qua hơn một năm tu học, vẫn còn chấp ngã, cứng chặt khư khư chưa chịu lìa bỏ, bằng chứng các con hay lý luận tranh cãi, và đồng thời sanh ra nhiều các duyên mới, tạo cảnh bất an, tâm chưa hết thích ăn thích ngủ. Ngày nào các duyên tan rã thì ô hô!.. Cái gì còn của các con, hay chỉ còn là một khối nghiệp lực nhân quả, thiện ác khi còn sống, các con đã tích lũy. Từ cái chấp ngã này, do sự chấp ngã, các con đã tạo thành một khối nợ nần, khổ đau, triền miên, muôn kiếp không bao giờ tàn phai. Sự tiếp diễn khối nợ nần này, mãi mãi luân hồi muôn đời muôn kiếp để trả vay, vay trả từ kiếp này, đến kiếp khác.

Các con có biết chăng! Trong cuộc đời này không có một sự việc gì xảy ra ngẫu nhiên cả. Đều phải do một nguyên nhân, một lý do. Chứ không như một số nhà Nho ngày xưa cũng như bây giờ, có một số người đã bài bác lý nhân quả, cho mọi sự việc trên đời này xảy ra đều là ngẫu nhiên. Họ còn đem ví dụ giống như những chiếc lá vàng ở trên cây kia , chỉ vô tình cơn gió ngẫu nhiên, cũng đưa đẩy những chiếc là vàng này, cái rơi xuống đất, cái rơi xuống bùn, cái xuôi dòng nước; đời sống nghèo đói, giàu sang của con người cũng như vậy.

(23:38) Các con có biết không! Cơn gió không phải ngẫu nhiên mà có được, mà phải do các duyên như Mặt Trời nung đốt không khí; không khí bị cháy, trống đi một khoảng, các không khí chỗ khác ập vào chỗ trống không đó, tạo thành cơn gió, bão. Sự nghèo đói và giàu sang của chúng ta không thể do ngẫu nhiên mà có được. Hỏa hoạn, thủy tai, giặc giã cướp mất sự giàu sang, để lại sự nghèo đói cho muôn người. Đây là những cận duyên trong hiện kiếp, còn những duyên sâu xa trong quá khứ kiếp khác nữa. Chúng ta hãy lần theo dấu chân nhân quả mà truy tìm các duyên, các con sẽ thấy duyên nhân quả khởi trùng trùng, dẫn dắt khối nợ nần nhân quả của kiếp người tiếp diễn luân hồi, sanh tử và đau khổ mãi mãi muôn đời.

Đức Phật đã tóm lược qua một bài thuyết giảng Mười Hai Nhân Duyên để chỉ kiếp của một con người từ bắt đầu sanh ra đến tan rã chẳng có gì, chỉ là VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ NGÃ mà thôi. Ngài đã xác định, không có một vật gì còn tồn tại trong đó, ở thế giới này cũng như ở thế giới khác. Có dịp Thầy sẽ giảng 12 Nhân Duyên mà Đạo Phật đã chỉ cho kiếp con người, số phận con người để các con hiểu. Phật đã đi trước, đã thấy rõ như vậy, Thầy đi sau cũng thấy rõ như vậy, rồi đây các con cũng thấy rõ như vậy.

(25:53) Cuộc đời con người chẳng qua chỉ là một khối Vô Minh nhân quả trả vay, vay trả triền miên, cùng với các duyên tan hợp, thân bằng quyến thuộc, cha mẹ anh em ruột thịt, vợ chồng, con cái cũng chỉ là nợ nần nhân quả muôn đời muôn kiếp, có gì phải thương nhớ, có gì phải tiếc mong, phải không hỡi các con? Bỏ xuống đi, hãy bỏ xuống đi! Đời chẳng có gì.

Quyết một đời tu tập không lui

Giữ thân tâm thanh thản, an vui

Nhập Thiền định, xa lìa nhân quả

Đạo quả viên thành, độ chúng vui

Thầy xin đọc lại chỗ này,

Quyết một đời tu tập không lui

Giữ thân tâm thanh thản, an vui

Nhập Thiền định, xa lìa nhân quả

Đạo quả viên thành, độ chúng vui

Bây giờ các con đã thấu rõ được hạnh ăn uống là đối tượng ly dục diệt ngã. Từ nay về sau, các con cố gắng khắc phục nó để một ngày ăn một bữa, đủ sống mà thôi. Nhưng các con phải nhớ không nên ăn quá ít, hoặc ăn quá nhiều. Ăn ít là tiết thực; điều này tai hại đến sự tu tập của các con, vì sức khỏe yếu kém. Ăn nhiều là dư thừa, sanh dục, ham ngủ, mê muội, cũng hại đến sự tu tập và sức khoẻ các con. Ăn ngày một bữa, nhưng tuỳ ở cơ thể của mình ăn nhiều hay ăn ít mà sử dụng đúng ăn uống, để cơ thể được khoẻ mạnh, để tu hành cho tốt, đó là một điều sáng suốt và linh động.

(28:40) Các con nên nhớ ăn đúng cách là tu; tu đúng cách là làm chủ cái ăn. Đừng thấy mọi người ăn ít, vì cơ thể của họ mà chúng ta vội bắt chước ăn ít theo họ, là điều đó là tu sai. Các con phải nhớ kỹ điều này, không nên bắt chước ai mà tuỳ ở cơ thể của mình, mà làm chủ được cái ăn uống của mình, đó là tu hạnh ăn.

4.2- HẠNH NGỦ

(29:16) Bây giờ Thầy giảng trạch về hạnh ngủ. Ngủ cũng là một đối tượng để chúng ta tu tập lập hạnh ngủ ly dục, mê muội. Ngủ là một nghiệp dục nặng của thân. Nếu thân không ngủ sẽ sanh ra bệnh, rồi chết; cũng như ăn vậy. Ngủ là một nghiệp lực thói quen muôn đời. Nó sanh ra vô minh, lười biếng, khiến cho thân tâm ta uể oải, bần thần, mỏi mệt, rã rượi. Do đó người ta không còn siêng năng, tinh tấn làm việc cũng như học hành và tu tập. Do đó người ta thích ở không mà ăn cho nên mới sanh ra tâm gian tham viển lạnh, trộm cướp. Do đó người ta đần độn, ngu si, không thông minh nên không bao giờ làm việc lớn, thường sống trong cảnh nghèo đói.

Ngủ là một dục lạc trong năm thứ dục lạc của thế gian, khiến người ta rất thích thú ham mê. Khi không ngủ là họ quá sợ, nhưng khi ngủ nhiều thì lại ám độn, mê muội. Người tu hành cần phải khắc phục nó, chiến đấu trường kỳ với nó. Vì nó là một bước cản đạo, không cho nó tiến sâu vào thiền định, không cho chúng ta tỉnh táo để phán xét mọi việc đúng sai, thiện ác trên bước đường ly dục, ly bất thiện pháp.

  • (30:40) Chính nó không cho chúng ta tỉnh giác, nên tâm thường ở trong tà niệm, sanh ra nhiều duyên làm đau khổ cho mình, cho người.

  • Chính nó khiến cho chúng ta thiếu ý tứ, thường hay làm càn, làm bậy, thiếu suy tư, cho nên dễ thất bại trong mọi công việc.

  • Chính nó khiến cho ta thiếu cẩn thận nên thường mắc phải lỗi lầm. Chính nó khiến cho tâm ta mù mờ, không thanh thản, vì thế sanh ra loạn tưởng, trạo hối.

  • Chính nó khiến tâm ta mất bình tĩnh, thiếu sáng suốt, vì thế dễ sinh hờn giận, đau khổ, nghi nan, phiền toái. Chính nó khiến cho tâm ta thu nhiếp hơi thở lờ mờ không rõ.

  • Chính nó khiến cho tâm ta rơi vào năm loại vô ký:
    1. Vô ký hôn trầm;
    2. Vô ký thùy miên;
    3. Vô ký mộng tưởng;
    4. Vô ký hôn tịch;
    5. Vô ký ngoan không.

  • Chính nó lặng đi, khiến ta tọa thiền mất tự chủ, thân nhúc nhích rung động, làm cho cơ thể bất an, khó nhập chánh định, rơi vào tà định.

Những điều Thầy đã nêu trên đây để các con thấu rõ những tai hại của nó đối với sự tu tập biết là dường nào! Đã biết rõ nó, các con phải cố gắng tu tập:

  1. Đi kinh hành nhiều;

  2. Vừa đi kinh hành, vừa hướng tâm theo bước chân đi;

  3. Thường xuyên nhắc tâm tỉnh giác;

  4. Thường xuyên nhắc tâm chớ ham ngủ;

  5. Phải nghiên cứu một điều gì để động não

  6. Phải làm một việc gì để động thân;

  7. Không được ngồi hoặc nằm;

  8. Chạy bộ, hoặc đi tắm;

  9. Phải tập thể dục, tập vài thế dưỡng sinh, hoặc đi một đường võ;

  10. Cử tạ, đào đất.

(33:30) Các con nhớ kỹ! Nó là một thứ dục lạc rất khó trị. Thế nên luôn luôn lúc nào cũng đề cao cảnh giác, chiến đấu với nó bằng tất cả nghị lực dũng cảm của mình. Nếu các con không chiến đấu hết sức, nó sẽ thành thói quen lười biếng; chứng đó các con sẽ thất bại ê chề trong cuộc đời tu hành. Là một điều rất khó vô cùng, vậy nên lưu ý nhớ kỹ lời dạy của Thầy phải cố gắng tu tập hết sức để tập luyện cho được hạnh ngủ.

Xa lìa được, ăn ngủ nghiêm chỉnh là xa lìa được năm thứ dục lạc. Sự tu tập này cũng phải khéo léo và linh động, tuỳ theo sức của mình tu tập tiến dần lên, không được ép chế ngủ. Ngủ phải đúng giờ khắc. Ngủ phải có tập luyện hướng tâm ngủ. Không được muốn ngủ hồi nào là đi ngủ, muốn tu hồi nào là tu. Ngủ đúng cách là tu tập đúng, tu tập đúng cách là làm chủ ngủ. Hành động làm chủ ngủ là tu; hành động tu là làm chủ ngủ, các con nhớ kỹ phải thuộc câu này.

4.3- HẠNH ĐỘC CƯ

(35:00) Thầy giảng trạch về hạnh độc cư, các con hãy lắng nghe cho kỹ. Đây là một hạnh khó tu tập nhất trong ba hạnh. Nghe thì như dễ dàng lắm, mà hành thì khó vô cùng. Hạnh độc cư là một phương tiện tu tập để bảo vệ, phòng hộ, giữ gìn, hộ trì, ngăn ngừa, che chở thân tâm được an ổn, tránh các ngoại duyên bên ngoài, khiến cho tâm cảnh an vui, tu tập dễ dàng. Độc cư còn giúp cho tâm các con có dịp tuôn tràn bao nhiêu ký ức, những kỷ niệm. Độc cư cũng là dịp giúp cho các con nhận ra được dục lạc ham ngủ, ham vui là tai hại trên đường tu tập. Độc cư là đối tượng để các con dùng mọi phương tiện tu tập thu nhiếp thân tâm thành khối nội lực.

(36:16) Người không sống trong hạnh độc cư được là người thường bị phân tâm. Người phân tâm là người không có sức tỉnh thức cao, không có sức tập trung mạnh, chỉ có ức chế tâm bằng tưởng pháp. Người thích quay ra ngoài thường rất sợ cô đơn, tâm thường bị phân tán theo các duyên. Tâm chúng ta có, vốn từ nhân quả mà ra, nên thường bị các duyên nhân quả chi phối. Vì thế tâm lúc nào cũng bị phân chia ta nát, nó không hợp nhất lại được. Chỉ một vài giây hợp lại là bị phân ra liền bởi các duyên trong ba thời gian: quá khứ, hiện tại, vị lai. Từ ngày này suốt ngày nọ, từ năm này đến năm khác, cho đến ngày tàn tạ xuống lòng đất, tâm chúng ta đều bị phân tán liên tục. Mục đích của người tu thiền là gom tâm lại, dù bất cứ thứ thiền nào, chỉ trừ loại thiền do các nhà học giả sản xuất ra.

Bởi thế, người tu thiền mà không sống trong rừng núi thanh vắng ĐỘC CƯ, thì không làm sao nhập định được.

  1. Vì tâm bị phân tán;

  2. Vì tâm không thành khối;

  3. Vì tâm không có nội lực;

Muốn cho tâm thành khối, có nội lực dũng mãnh, để đóng mở sáu căn và tiến vào giai đoạn II của Thiền định là DIỆT, thì phải sống độc cư một trăm phần trăm.

(38:12) Muốn tu tập sống hạnh sống ĐỘC CƯ, các con phải sống tu tập ba giai đoạn:

  • Giai đoạn thứ nhất, sống tập ít nói chuyện.

  • Giai đoạn thứ hai, tập sống riêng, làm việc riêng một mình;

  • Giai đoạn thứ ba, tập sống riêng không làm việc.

Ở đây Thầy sẽ giảng trạch phần thứ nhất của hạnh độc cư, là TẬP SỐNG ÍT NÓI CHUYỆN, để các con hiểu rõ, tu tập không sai lệch. Khi nào các con tu tập xong phần thứ nhất, Thầy sẽ giảng trạch phần thứ hai, tức là tập sống riêng, làm việc riêng một mình. Khi nào tu tập phần thứ hai xong, Thầy sẽ giảng trạch phần thứ ba, tu tập sống riêng không làm việc. Nếu giảng trạch ngay bây giờ luôn cả ba phần, các con sẽ bị rối rắm, không biết cách thức tu, cách thức nào tu tập cho đúng.

Ở giai đoạn một, sống độc cư là tập ít nói chuyện. Muốn tập ít nói chuyện con phải biết lựa chọn cái gì cần thiết mới nói, mới thưa hỏi; không cần thiết thì không được hỏi, không được nói. Chỉ duy nhất chỉ thưa hỏi về chuyện tu tập, và phải thưa hỏi riêng để được lắng nghe kỹ, còn thưa hỏi chung trong tập thể thì rất là khó lắng tâm theo sự hướng dẫn của thiện tri thức. Thưa hỏi về sự tu tập là mục đích để hiểu cho rõ, để thực hành cho đúng, còn ngoài ra tất cả những chuyện khác đều phải cẩn thận khi muốn nói ra

  1. (40:20) Tránh nói chuyện tào lao, nhảm nhí;

  2. Tránh kết tình nghĩa, kết bạn thân;

  3. Tránh nghe chuyện người khác, vì chuyện người khác khiến cho ta phải nói ra;

  4. Tránh gặp nhau, vì gặp nhau dễ sanh nói chuyện. Nhưng gặp nhau thì không nói chuyện là tốt nhất;

  5. Không nên đem sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm về tu hành của mình dạy người khác khi mình tu chưa xong.

  6. Thấy bạn mình tu sai, không được đến dạy bảo, nên phải báo cho Thiện hữu tri thức biết để sửa lại, không được đến dạy bảo, vì đến dạy bảo làm động mình, động người và thành quen thuộc với nhau, nên không giữ hạnh độc cư được…​;

  7. Thấy bạn đồng tu buồn khổ, không được đến an ủi, chia sẻ; chỉ cần báo Thiện hữu tri thức đến giúp đỡ;

  8. Tránh đổ lỗi người khác, vì đổ lỗi người khác là tạo duyên bất an trong tâm, thường xảy ra duyên cãi cọ, tranh tụng;

  9. Tránh đi đến thất của người khác, vì đến thất người khác là làm động mình, và làm động tâm người;

  10. Làm lao động chung, tránh nói chuyện cười đùa;

  11. Khi giúp bạn đồng tu đang bệnh, tránh nói chuyện ngoài vấn đề bệnh; tốt hơn hết là hỏi bệnh để dùng phương tiện trị liệu;

  12. Khi làm chung một việc gì, cần phải làm theo ý muốn của người khác để tránh duyên cãi cọ, đổ thừa;

  13. Thường tập sống thơ thẩn một mình Luôn giữ tâm thanh thản, an lạc và hướng tâm đến thanh thản, an lạc;

  14. Luôn giữ tâm vô sự, và hướng tâm đến thanh thản;

  15. Thường giữ tâm vô sự và hướng tâm đến vô sự;

  16. Thường tránh xa các duyên để giữ tâm không bị phân tán;

  17. Không nên đem tâm sự của mình nói cùng ai ngoài thiện hữu tri thức của mình;

  18. Thấy việc làm nặng nhọc cùng nhau chia sẻ làm nhưng không nói chuyện;

  19. Thấy ai làm chưa xong cùng làm phụ nhưng không nói chuyện.

  20. Thường sống im lặng trong và ngoài tâm và hướng tâm đến sự im lặng.

(43:10) Hai mươi điều trên đây để giữ tâm im lặng. Điều tốt nhất là tránh xa, tránh xảy ra các duyên, tránh tạo các duyên mới. Càng tránh duyên bao nhiêu thì tâm càng ít phân chia ra bấy nhiêu. Càng cố tránh duyên tâm càng dễ hợp nhất thành khối. Càng cố tránh duyên tâm càng dễ hợp nhất thành khối. Càng cố tránh duyên thì hoàn cảnh mới thanh tịnh, yên vui tu hành. Càng tiếp duyên càng động khiến cho hoàn cảnh bất an khó tu hành. Càng tiếp duyên tâm thường bị phân chia, khó thành nội lực, tu tập sẽ dậm chân tại chỗ không tiến bố.

Các con nên biết, độc cư ở giai đoạn I là TỊNH KHẨU. Tịnh khẩu nghĩa là nói lời thanh tịnh, không nói lời bất tịnh. Nói lời thanh tịnh là nói lời thiện, nói lời thiện là nói lời làm vui lòng mình và vui lòng người. Nói lời bất tịnh là nói lời ác, nói lời ác là nói lời làm đau khổ mình và đau khổ người. Tịnh khẩu không phải là á khẩu. Tịnh khẩu là nói lời lành không nói lời giữ như Thầy đã giảng ở trên; á khẩu là câm, không nói được. Khi nghe giảng đến đây các con đã hiểu độc cư ở giai đoạn thứ nhất là tịnh khẩu, không phải á khẩu. Ở giai đoạn tu tập này phải hiểu cho thật rõ, nếu chưa hiểu phải hỏi lại cô Út Diệu Quang cho thật kỹ. Không khéo các con tu hành trở thành hình thức, ít nói mà thành nói rất nhiều, nghĩa là chuyện gì các con cũng nói; khi tâm bung ra, phân tán nói thôi không hết, như nước vỡ bờ.

(45:12) Hạnh Độc Cư khó lắm; nó là bí quyết thành công của Thiền định, nó có ba nhiệm vụ:

  • Nhiệm vụ thứ nhất, bảo vệ tâm tránh các duyên;

  • Nhiệm vụ thứ hai, gom tâm hợp nhất thành khối;

  • Nhiệm vụ thứ ba, làm cho tâm tuôn trào ra hết.

Sáu năm trời tu khổ hạnh của đức Phật Thích Ca là sáu năm tu LY DỤC, nhờ đó, đức Phật tránh được các duyên, thu nhiếp được thân tâm thành khối nội lực. Khi tâm đã thành khối có nội lực, đức Phật đã xả bỏ khổ hạnh tối đa, chỉ giữ lại khổ hạnh bình thường như năm anh em Kiều Trần Như, chỉ có hơn họ là dùng thêm sữa do cô bé chăn dê cúng dường. Bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề, đức Phật dùng nội lực nơi tâm đã có sẵn, đem ra chiến đấu ly bất thiện pháp. Lúc bấy giờ, đức Phật gọi là hàng phục Ma Vương diệt tầm tứ, đóng mở sáu căn, nhập Nhị Thiền và xả bỏ thân tâm nhập Tứ Thiền hướng đến Tam Minh, thành tựu giải thoát.

Tóm lại, ly dục là lìa xa ý muốn của mình. Khi mình còn làm theo ý muốn của mình tức là chưa lìa xa. Bởi nghe nói ly dục thì rất dễ dàng, mà lìa xa ý muốn của mình rất là khó khăn. Bậc Thánh như Đức Khổng Phu Tử đến 70 tuổi ông mới dám tuyên bố: “Ta đến tuổi này, mới làm theo ý muốn của mọi người”. Nghĩa là đến 70 tuổi, Ông mới ly dục được tâm Ông. Theo Thầy nghĩ, muốn ly dục ít ra phải ba năm rèn luyện. Còn nếu tu lơ mơ thì 30 năm cũng chưa chắc đã làm được. Cái ý muốn của mình là cái gì? - Là BẢN NGÃ. Bản ngã không ly thì làm sao có Niết bàn? VÔ NGÃ là Niết Bàn.

(47:32) Đi tu cũng như đi học. Ở đời người ta học tập đến nơi đến chốn mới có lợi ích cho mình, cho người, cho xã hội. Người học mà không đến nơi đến chốn thì chẳng có ích lợi gì cho mình, còn làm cho xã hội phải gánh nặng thêm. Đi tu cũng vậy, tu không đến nơi, đến chốn sẽ làm bại hoại tôn giáo. Người tu đến nơi đến chốn, làm sáng tỏ Phật pháp qua gương hạnh sống của mình, khiến cho mọi người quy ngưỡng và tôn kính Phật pháp. Chúng ta đã quyết chọn con đường tu là phải tu cho đến nơi đến chốn không thể tu lừng chừng. Người tu lừng chừng không ích cho mình, cho người, mà còn có hại người, hại tôn giáo. Các con đến đây là mục đích quyết tâm tu chứ không phải đì tìm cái sống. Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình”. Đã tu là quyết tâm bỏ; bỏ để được giải thoát, bỏ để được thảnh thơi, an vui một đời. Mà bỏ cái gì? - Bỏ ý muốn.

Đến đây Thầy xin được nhắc lại, giai đoạn thứ nhất của Thiền Định là giải đoạn Ly như Thầy đã dạy ở giai đoạn này, chia ra làm hai phần tu tập.

  1. Ly dục

  2. Ly bất thiện pháp

Phần thứ nhất ở giai đoạn này Thầy đã giảng trạch xong, nghĩa là muốn ly dục chúng ta dùng ba hạnh ăn, ngủ, độc cư để tu tập. Như các con đã hiểu rõ ăn ngủ độc cư là đối tượng để tu tập khắc phục cho bằng được tâm ly dục. Nếu các con đã sống đúng ba hạnh thì các con đã ly được dục. Nếu chưa sống được ba hạnh thì các con hãy cố gắng tiếp tục tu tập hơn để hoàn thành được phần thứ nhất - Ly dục. Phần Ly Dục này ai cũng biết đức Phật Thích Ca Mâu Ni phải 6 năm khổ hạnh như Thầy đã dạy ở trên.

(49:28) Đến phần thứ hai là LY BẤT THIỆN PHÁP, Thầy giảng trạch cho các con để hiểu rõ cách thức tu tập đúng. Tóm lại buổi nói chuyện hôm nay các con nên nhớ, chúng ta là những tu sĩ của đạo tu hạnh giải thoát thì thời gian nào, ngày nào, tháng nào, năm nào toàn là mùa xuân; Mùa Xuân Vĩnh Cửu trong tâm hồn của chúng ta; mùa xuân không có nhân quả; mùa xuân không có diễn biến luân hồi. Vì thế chúng ta không có chúc thọ, không có mừng tuổi, mừng xuân thế gian. Hãy sống bình thường. Hãy giữ tâm bình thường trước mọi diễn biến thay đổi của không gian và thời gian, bằng một tâm hồn thanh thản. Bây giờ các con ăn cơm kẻo muộn, ngày mai Thầy sẽ giảng tiếp phần thứ hai LY BẤT THIỆN PHÁP. Nhưng trước khi ăn cơm các con hãy lắng nghe bài hồi hướng.

5- PHẦN II: LY BẤT THIỆN PHÁP

(50:30) Bây giờ Thầy giảng trạch phần thứ hai trong giai đoạn một của thiền định. Các con hãy lắng nghe cho kỹ, chỗ nào chưa thông suốt thì ghi chép lại rồi thưa hỏi cô Diệu Quang, để khi bắt đầu tu tập là phải tu tập cho đúng cách. Không được tu hành sai như năm rồi.

Phần thứ hai trong giai đoạn I của thiền đinh là ly bất thiện pháp.

  • Ly là gì? Ly nghĩa là lìa xa, rời xa.

  • Bất thiện pháp là gì? Bất thiện pháp là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, những thói quen, tật xấu, những điều suy nghĩ, những lời nói, những hạnh động của thân và làm mọi việc đem đến cho mình khổ, người khác khổ. Bất thiện pháp còn gọi là pháp ác, pháp hung giữ, pháp khổ đau.

(52:20)Vậy muốn lìa xa pháp ác thì các con phải rèn luyện, tu tập mình bằng BA ĐỨC:

  1. Nhẫn Nhục

  2. Tùy Thuận

  3. Bằng Lòng.

Các con nên lưu ý ba đức tính giải thoát này là để lìa xa các pháp ác, rất là khó tu:

  1. Nếu không biết rõ, tu tập cho đúng cách thì sẽ hoài công, vô ích;

  2. Nếu không đủ nghị lực, bền chí, gan dạ, kiên trì, thì cũng bỏ cuộc giữa đường tu hành.

  3. Nếu không cầu xin pháp chỉ thẳng, đập thẳng mạnh mẽ của Thiện hữu tri thức, thì cũng khó lập được Ba Đức này vững vàng.

Thầy thường nhắc nhở với các con “Nhẫn một việc khó nhẫn, làm một việc khó làm”. Đó là nhắc các con ly dục, ly bất thiện pháp để vào thiền định là một việc tu tập rất khó khăn vô cùng. Cũng như Thầy đã từng dạy "Đường đi khó là vì chưa biết đường". Các con bây giờ cũng vậy, khi chưa biết cách tu giải thoát, mà cứ tu theo kiến giải, tưởng của các nhà học giả thì đó là đường đi khó (vì chưa biết đường). Cố đi mà đường đi chẳng thu ngắn lại, cũng mờ mịt vì đi loanh quanh, lòng vòng, mà chẳng có lối ra. Khi đã biết đường, thì dù đường đi có khó đến đâu nhưng vẫn đến đích. Cũng như bây giờ, các con đã biết rõ cách tu, thì sự tu tập có khó đến đâu các con cũng sẽ thành tựu.

Vì mỗi bước đi của các con là quãng đường sẽ thu ngắn lại.

(54:52) Trước khi bắt tay vào việc tu tập cụ thể ở phần II-Ly Ác Pháp, thì các con phải tu tập dứt điểm ở phần I là Ly Dục. Nghĩa là các con phải hoàn thành tâm mình Ly Dục hoàn toàn, nghĩa là diệt ngã. Vì thế bây giờ Thầy sẽ giảng trạch rõ người Ly Dục dứt điểm, không dứt điểm, để các con hiểu tu tập cho đúng cách.

Nếu một người chưa LY DỤC hoàn toàn mà vội LY ÁC PHÁP thì đó chỉ là một hành động điên rồ; tu tập nén tâm, chịu đựng, an phận. Nếu người đang sống trong cảnh dục lạc thế gian, tâm chưa ly dục mà theo học hỏi những thiện pháp trong kinh sách, thì chỉ mới gieo chủng tử ly dục, ly ác pháp của đạo giải thoát mà thôi. Chứ không phải sự học hỏi, sự hiểu biết đó là ly dục, ly bất thiện pháp được.

Nếu một người còn đang sống trong cảnh dục lạc thế gian, tâm chưa ly dục mà thường theo học hỏi những điều thiện pháp trong kinh sách để tích lũy sự hiểu biết các pháp giải thoát của Đạo Phật, thì người này chỉ nuôi lớn lớn bản ngã ác pháp, chứ không ly dục, ly ác pháp được.

Nếu một người còn sống trong cảnh dục lạc thế giản, tâm chưa ly dục, mà thường học hỏi những thiện pháp trong kinh sách để làm kiến giải riêng của mình, rồi dùng đó để tu quán xả ly ác pháp và tâm ham muốn của mình, thì không bao giờ ly dục, ly ác pháp được, mà đó chỉ là lối tu tập đè nén tâm mình, hoặc tránh né hay trốn chạy tâm ham muốn và ác pháp mà thôi.

(57:23) Nếu một người còn đang sống trong dục lạc thế gian mà tu Thiền định thì chẳng bao giờ có nhập được định cả; nếu có nhập được thì cũng chỉ rơi vào tà thiền, tà định mà thôi. Bởi vậy nếu một người tâm còn sống trong dục lạc mà tu đức Nhẫn Nhục, thì chẳng Nhẫn Nhục được gì, mà ngược lại, đó là lối tu tập nén tâm, làm cho thêm đau khổ.

Nếu một người dùng hình thức bề ngoài để ly dục, mà trong tâm không ly dục, vội tu đức Nhẫn Nhục, cũng chẳng tu Nhẫn Nhục được gì, trái lại, còn làm thêm tâm hồn còn thêm đau khổ. Như các con đã từng nói “bằng máu và nước mắt”. Đó là sự tu sai, do nén tâm chịu đựng mà thấy sự khổ đau như vậy.

Thầy nhắc lại cho các con hiểu, ly dục là lìa xa cái tâm ham muốn, chứ không phải ly vật dụng. Một người sống ở rừng núi không có vật dụng gì, như loài khỉ, vượn, người này ly vật dụng, chứ không ly tâm dục. Loài vật cũng vậy, ly vật dụng, chứ không phải ly tâm dục của nó.

  • Người nghèo khó không có vật tùy thân, không phải người này là ly dục.

  • Người có đầy đủ vật chất trên thế gian này nhưng không dính mắc vào những vật chất ấy, người ấy ly dục!

  • Người ăn thực phẩm dở mà không đòi thực phẩm ngon, không thích ngon, không chê dở, đó là người ly dục.

  • (59:37) Người ăn thực phẩm ngon mà không đòi ăn thực phẩm dở, đó là người ly dục.

  • Người ăn thực phẩm dở mà đòi ăn thực phẩm ngon là người không ly dục. Ngược lại cũng vậy.

  • Người không thèm thực phẩm này, thực phẩm khác là người ly dục.

  • Người còn thèm ăn cái này, cái khác là người chưa ly dục.

  • Ở cảnh động mà không đòi ở cảnh tịnh, là người ly dục.

  • Ở cảnh động mà đòi ở cảnh tịnh, là người chưa ly dục.

  • Người mặc áo đạo, xuất gia tu hành mà tâm còn ham muốn cảnh thế gian, là người chưa ly dục.

  • Người xuất gia tu hành, mà tâm còn làm những việc cầu danh ở thế gian là người chưa ly dục.

  • Ở trong cảnh động, cảnh chướng tai gai mắt mà không bị động, không gai mắt, không chướng tai, là người ly dục.

  • Người nào luôn giữ tâm thanh thản là người ly dục.

  • Người không giữa được tâm thanh thản, tâm hay sanh chuyện này, chuyện kia là người chưa ly dục.

  • Người thấy người có áo mới mà đòi hỏi áo mới, là người chưa ly dục.

  • Người thấy người khác có áo mới mà không đòi hỏi áo mới, là người sống an phận thủ thường, chưa phải là người ly dục.

  • Người thấy người khác có áo mới, mình cũng có áo mới mà không ham thích, là người ly dục.

  • Người đứng núi này trông núi nọ là người chưa ly dục.

  • Người sống trong cảnh tu hành này mà đòi hỏi cảnh tu hành khác, là người chưa ly dục.

  • Người sống trong hoàn cảnh này mà đòi hoàn cảnh khác, cũng là người chưa ly dục.

  • Sống trong hoàn cảnh này mà vui với hoàn cảnh này, là người ly dục.

(01:02:00) Còn biết bao nhiêu điều so sánh ly dục và không ly dục. Ở đây, Thầy chỉ nêu một vài vấn đề cụ thể để các con hiểu rõ, trong khi tu tập ly dục cho đúng cách.

6- TRẢ LỜI TU SINH VỀ LY DỤC LY ÁC PHÁP

(01:02:14) Khi giảng đến đây Thầy đã nhận được một số nhật ký, thời khóa tu tập của các con trong đó có nhiều câu hỏi về cách thức tu tập LY dục ly ác pháp, Thầy xin trả lời từng người một.

Cô Liên Pháp hỏi: Con thở 4 giây một hơi dài như vậy có dài lắm không và có trở ngại cho việc thiền định của con không?

Trả lời: Một hơi thở 4 giây không dài lắm và không có gì trở ngại cho thiền định. Tuỳ ở sự ổn định hơi thở đó, không bị rối loạn cơ thể thì đó là hơi thở rất tốt.

Trả lời: Câu thứ hai về hạnh độc cư, hạnh độc cư rất khó tu tập vì vậy Thầy đã chia thành ba giai đoạn tu tập, con hãy nghe lời giảng trong băng theo đó mà tu.

Trả lời: Câu hỏi thứ ba về việc xả tâm: Xả tâm tức là ly dục ly bất thiện pháp, Thầy đang giảng trạch ở trong băng hãy nghe lại kỹ để tu tập cho đúng. Về việc xả tâm ly dục ly ác pháp đòi hỏi ở trí thông minh rất nhiều, nên cần phải động não suy tư để tự triển khai trí thông minh tạo thế ly dục ly ác pháp nhanh chóng và dễ dàng. Những điều con đã trình bày trong tập nhật ký thời khóa cách thức tự triển khai trí tuệ xả tâm của con, điều này cô Diệu Quang đã từng chỉ thẳng, giải thẳng các con để tự khai triển trí tuệ này để buông xả ly dục ly ác pháp.

(01:03:55)Tự Hạnh hỏi:

Câu một về hơi thở: Quan sự trình bày về hơi thở, con đã tu tập tốt có chất lượng cao, hãy cố gắng tiếp tục tu tập rèn luyện hơi thở theo sự hướng dẫn của cô Diệu Quang. Có gì trục trặc cần phải thưa hỏi liền, để điều chỉnh cho kịp, tu hành đúng không mất thời gian.

Câu hai về việc xả tâm: Về phần xả tâm con phải nghe lời dạy của Thầy trong băng để biết cách tu cho rõ ràng.

Câu ba về khai triển trí tuệ: Các thức trình bày lý luận của con để tự xả tâm đó là điều tự triển khai trí tuệ ly dục ly ác pháp. Điều này rất cần thiết và quan trọng, ở giai đoạn Ly, Ly dục ly bất thiện pháp. Như Thầy đã giảng, muốn xả tâm ly dục ly ác pháp phải có nhiều phương cách tu tập rèn luyện, toàn bộ giáo điển của Đạo Phật đều dạy tu tập ở giai đoạn này hơn 90%, còn lại là thiền định và trí tuệ. Vì thế Thầy mới dạy các con lập ba đức ba hạnh như: Ăn, ngủ, độc cư; Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng. Tu tập ba đức ba hạnh này chưa đủ, các con còn phải tu tập pháp hướng tâm, pháp tỉnh giác, pháp ý tứ, pháp cẩn thận, pháp kỹ lưỡng, pháp thanh thản, pháp trụ tâm, pháp gom tâm, và còn tập luyện ổn định đề mục thiền hơi thở để có một nội lực dũng mãnh, hầu đến giai đoạn diệt và xả tu tập được dễ dàng hơn. Các pháp này được Thầy giảng rộng để các con hiểu rõ để tu tập cho đúng. Hãy cố gắng tu tập đều đều, cô Diệu Quang đang tuyển chọn, nếu thấy được là đưa các con lên lớp thứ hai của thiền định.

(01:06:32) Từ Nguyện hỏi:

Câu 1: Hoàn cảnh xảy đến, tâm con đang giao động, con tu tập lui lại theo lời cô Diệu Quang dạy. Tu tập căn bản là điều cần thiết, tu tập đúng, tập chậm, tập kỹ là có kết quả tốt trên đường rèn luyện thân tâm. Tập nhiều, tập nhanh, tập không kỹ lưỡng là không có kết quả, uổng công tu tập vô ích. Có hoàn cảnh nghịch xảy ra mới biết được sự tu tập của mình. Nhưng đừng lấy đó làm buồn, làm hối tiếc, mà phải lấy đó rút tỉa kinh nghiệm ưu khuyết để tu tập tốt hơn. Người ta bảo, thất bại là mẹ thành công, hãy nghe lời dạy trong băng của Thầy để thiết lập một đường lối tu tập cho đúng cách, chỗ nào chưa thông, chưa hiểu thì hỏi lại cô Út Diệu Quang.

Diễm Thuý hỏi:

Câu 1: Giữ được trạng thái tâm rất vắng lặng, không bị một niệm xen vào khi đang thở, đó là trạng thái tùy tức.

Câu 2: Tâm bị động chỉ vài ba hôm sau thì con mới nhiếp tâm tốt lại, lúc đó con cảm thấy tâm con im lặng phăng phắc, thưa Thầy như vậy nó có rơi vào định tưởng không?

Đó là một trạng thái tâm phục hồi sau khi bị động, không phải định tưởng.

Câu 3: Về xả tâm, tâm chưa làm chủ được tức là tâm chưa xả. Vậy nên nghe theo lời giảng trong băng của Thầy để thiết lập.

(01:08:40) Câu 1: Về xả tâm, hãy nghe lời dạy trong băng của Thầy để biết cách tu tập cho đúng, cái nào tu trước, cái nào tu sau, cái nào tu chính, cái nào tu phụ để xả tâm ly dục ly bất thiện pháp.

Câu 2: Về hoàn cảnh xảy ra, mọi hoàn cảnh xảy ra trên bước đường tu tập là để thử thách và trắc nghiệm lại tu tập của mình. Con phải lấy đó rút tỉa kinh nghiệm ưu khuyết tu tập tốt hơn, đừng lấy đó hối tiếc mà phải lấy đà tiến thủ tu tập. Trước khi thành công đều phải có thất bại. Sau khi nghe băng phải vạch đường lối tu tập rõ ràng, cái trước, cái sau, cái phụ, cái chính.

Câu 3: Tất cả hành vi thân khẩu ý của mình đều phải ý tứ thân hành niệm thì tâm mới thanh tịnh được, thưa Thầy như vậy có đúng không?

Đây mới là ý hành niệm thanh tịnh của tâm, còn tu tập có nhiều điều tập luyện tâm mới được thanh tịnh. Phải nghe lại lời dạy trong băng của Thầy.

Câu 4: Im lặng mãi là nén tâm chứ tâm không thanh tịnh, thưa Thầy có phải vậy không?

Im lặng mãi là á khẩu, là câm, hình thức đó là nén tâm, cần phải tránh xa. Muốn tâm thanh tịnh phải tu tập nhiều phương cách trong đó tập ít nói.

Câu 5: Phân tích hiểu thấu suốt, quán sắc bén. Thưa Thầy đó có phải là pháp tu xả tâm không?

Phân tích hiểu thấu suốt, quán sắc bén là pháp môn tự khai triển trí tuệ buông xả ly dục ly bất thiện pháp mà cô Út Diệu Quang đã từng chỉ thẳng đập mạnh để cho các con tự khai triển nó.

(01:10:55) Câu 6: Điều quan trọng trong sự tu tập xả tâm diệt ngã là tịnh khẩu, pháp tu tịnh khẩu tập ít nói. Khi nói phải cẩn thận trong lời nói, không được nói cười đùa, không được nói tếu, không được châm chọc, không được nói mỉa mai, không được nói móc lò, nói phải suy nghĩ kỹ rồi mới nói. Lời nói rất quan trọng, nếu không suy nghĩ kỹ lời nói ra sẽ làm mất giá trị đạo đức của chính người nói, nên con phải cẩn ngôn, lời nói ra càng nuôi dưỡng thêm bản ngã to lớn hơn, nên cẩn thận ý tứ, tư duy lời nói để diệt ngã xả tâm.

Đào hỏi: Sau thời gian tu tập con được cô Út Diệu Quang chỉ thẳng, đập mạnh, phá vỡ màng vô minh, đen tối, ngã chấp. Hôm nay con có tiến bộ rất nhiều trong sự giữ gìn không đi đây đó, trong sự không khoe khoang, trong sự không xảo trá, luôn chân thật, không giận giữ, không phiền não đau khổ, mọi mặt này đều có tiền bộ.

Vậy từ nay con hãy cố gắng hơn, tu tập cẩn thận, kỹ lưỡng hơn, để trở thành người chân thật, khiêm hạ, ôn tồn, nhã nhặn…​.Đầy đủ đạo hạnh của người tu sỹ, con hãy nghe kỹ lời dạy trong băng để thiết lập đường lối tu hành trước sau rõ ràng. Về phần tu tập hơi thở, con đã nhiếp tâm tốt, nên thưa hỏi cô Diệu Quang để được kiểm tra kỹ rồi mới tiến lên, giữ thân tâm bất động. Cô Diệu Quang đang chọn người tu tốt về đức hạnh cũng như về hơi thở để đưa lên lớp thiền định thứ hai, tập luyện đóng mở sáu căn, con hãy cố gắng và giữ gìn tu tập xả tâm, diệt ngã, lập đức lập hạnh cho rốt ráo để được tuyển chọn lên tu ở lớp cao hơn. Đừng có nên tự mãn ở sự tu tập của mình, vì đường tu tập còn xa, sự ly dục ly ác pháp còn nhiều, chưa phải bấy nhiêu đó đã hết được, phải cố gắng và cố gắng hơn.

(01:13:58)Từ Đức: Phần thưa hỏi về bệnh tật của con Thầy sẽ trực tiếp trả lời.

Minh Cảnh: Cô Út thương con như một bà mẹ, biết rõ bản ngã to lớn theo sự công phu tu tập thiền định của con. Vì trong tu viện bên nữ con là người đã tu tập thiền định lâu, ngồi lâu, nhiếp tâm nhiều năm tháng nên có vững vàng hơn mọi người và do những điều tu tập này mà con cứ ngỡ rằng mình tu đúng, nên bản ngã của con to lớn.

Và cũng vì thế mà lòng tự đắc của con càng cao. Và con không bao giờ chịu nghe lời cô Út Diệu Quang sửa sai, cứ dựa vào Thầy cho cô Út Diệu Quang chẳng biết gì về pháp tu. Nhưng con phải biết một người mà Thầy đề nghị đứng ra để dẫn dắt các con tu tập là phải có đủ bản lãnh chứ nếu không chắc Thầy không giới thiệu cho các con.

Cô Út Diệu Quang rất biết tâm niệm con nhưng không nản chí, cố tìm mọi kẽ hở của con để đập phá. Cái ngã chấp vô mình đen tối muôn đời mà con chẳng biết thường lý luật che đậy, diệt ngã, xả tâm càng đập phá thì tâm con càng bị nén rồi dùng hạnh không nói của hạnh độc cư mà Thầy đã dạy để nén tâm hơn nữa thay vì xả tâm.

Chỉ vì con chưa nhận rõ đường lối tu tập của Phật, của Thầy ở giai đoạn đầu. Con chỉ chấp ở giai đoạn thứ hai và thứ ba là Định và trí tuệ vô lậu. Nên sự hiểu lầm này con đã nuôi lớn ngã của mình, tu tập nhiều lý luận, nên cuối cùng qua phần oai nghi tế hạnh, con là người không được trọn vẹn đầy đủ.

(01:16:50) Con nên biết toàn bộ giáo lý của đức Phật hơn 90% đều dạy cách xả tâm ly dục ly bất thiện pháp, chứ không phải tu điên tu khùng như con, chỉ biết ngồi thiền nhiếp tâm ở giai đoạn diệt và giai đoạn trí tuệ vô sư, vô lậu.

Phật xả tâm không nén tâm, vì thế Phật đã sống sáu năm khổ hạnh ly dục ly bất thiện pháp. Con hãy xét lại kỹ từ ngày tu theo Phật con thường sống theo ý muốn của mình, từ cái ăn, cái mặc, cái ở, cái ngủ đều theo ý muốn của con. Vì vậy càng nuôi lớn hình thức bên ngoài con ly vật dụng nhưng nội tâm bên trong con không ly ý muốn của mình, ý muốn là tâm dục của con.

Hãy nghe lời dạy của Thầy trong băng mà thiết lập một đường lối tu tập có đầu có đuôi, có dễ có khó, chứ không phải tu lộn xộn như thế này được nữa. Đừng có nhắm vào thiền định mà không có định gì được cả, mà nhắm vào đức hạnh, giới luật của Phật để xả tâm để ly ác pháp, tu tập phải biết cách, tu cái gì, làm cái gì, xả cái gì, ứng phó cái gì, đương đầu cái gì, ly như thế nào, diệt như thế nào, xả như thế nào?

Những bức thư con đã trình bày trong tập nhật ký thời khoá về sự ly dục ly bất thiện pháp và về hơi thở, cách thức tu tập chưa cụ thể, còn lộn xộn, đầu đuôi chưa phân minh, cũng vì thế mỗi lần bị động hay bị trắc nghiệm thì tâm con bất an. Thường nén tâm chịu đựng hoặc ôm hơi thở chịu đựng, hoặc dùng ý niệm thiện Phật pháp và nhờ thời gian làm giảm đi sự bất an đó.

Vì thế con cần phải thiết lập một đường lối cách thức tu tập phải rõ ràng để đương đầu với mọi việc mọi sự đều được hóa giải ngay. Không thể để nén tâm tức nước vỡ bờ như đã xảy ra trong những lần trắc nghiệm tuyển thi trước.

(01:19:41) Mỗi lần Thầy nhắc cô Diệu Quang, hãy xem cô Cảnh nhiếp tâm tốt mà tuyển thi, chọn cô tu tập lớp trên. Nhưng mỗi lần tuyển thi thì con đều bị rớt. Cuối cùng con cứ tưởng mình là xả tâm diệt ngã, nhưng hoàn toàn tâm ngã còn chắc khư khư.

Bây giờ con không nên quan tâm về việc toạ thiền mà phải nỗ lực tu tập ly dục ly bất thiện pháp, cốt tủy thiền định. Hay nói nền tảng thiền định của Đạo Phật là ở chỗ ly dục ly bất thiện pháp.

Nếu không hiểu, nên thưa hỏi kỹ lại cô Diệu Quang để tu tập xây dựng một con người đạo đức chân thật giải thoát trong Đạo Phật. Đừng thưa hỏi lòng vòng mà phải thưa hỏi đúng cách. Thưa hỏi lòng vòng là chỉ đem những kiến giải, tưởng giải trong kinh sách ra hỏi thì không đúng.

Thưa hỏi ngay chỗ tu của mình, chỗ làm sai của mình, chỗ không đúng của mình thì được giảng dạy ngay. Còn hỏi lòng vòng không đúng cách thì không được giảng dạy.

Huệ Ân hỏi: Thưa Thầy và cô Út, diệt ngã có phải là khi nghe bài học thử thách với ai con tưởng đó là của mình nên lấy đó quán xét lỗi mình và vui vẻ nhận lỗi để sửa. Như vậy có phải là xả tâm diệt ngã không?

(01:21:43) Đúng vậy, đó là lấy lỗi người sửa lỗi mình, hoặc ngừa lỗi mình để tiến tu diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp. Còn trực tiếp ngay lỗi mình cũng phải tự quán xét nhận ra lỗi lầm, nhận ra điều sai quấy để sửa mình, diệt ngã, xả tâm.

Mới bắt đầu tu tập ba đức ba hạnh, để diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly bất thiện pháp thì pháp quán về nhân quả là cần thiết. Vì càng quán về nhân quả, thì trí tuệ vô sư, tư tuệ của chúng ta sẽ phát triển hiểu rõ đường đi lối về của nhân quả.

Nếu không chịu mà cứ dựa vào những lời của Thầy dạy về nhân quả thì không rõ đường đi của nhân quả, không rõ diễn biến của nhân quả, không rõ các duyên nhân quả đang trùng trùng khởi xung quanh chúng ta.

Cho nên muốn tu tập ba đức ba hạnh để ly dục xả ngã, ly ác pháp thì phải khai triển trí tuệ nhân quả, phải suy xét thấu đáo nhân quả. Từ đó cái Thầy chưa dạy chúng ta đã thông suốt và thông suốt hơn những điều Thầy đã dạy vì vậy mới thấu rõ đường đi lối về của nhân quả.

An Tịnh:

Xét qua nhật ký tu tập của con buổi khuya là giờ tu kém nhất, thường bị hôn trầm thùy miên, do đó đến giờ này con phải tập siêng năng dậy sớm đúng giờ, phải động thân, phải đi kinh hành nhiều và luôn nhớ hướng tâm tỉnh giác. Phải dẫn tâm vào một đối tượng mà tâm thích như đọc kinh, nghiên cứu pháp tu hoặc tư duy các lỗi lầm, hoặc quán xét các đề mục tu hành, thì mới mong chiến thắng được sự thuỳ miên, hôn trầm của con.

(01:24:21) Diệu Hảo:

Đáp: Cần lấy tất cả lỗi lầm của các bạn đồng tu để quán xét, để tự triển khai trí tuệ xả tâm, diệt ngã ác, ly dục ly ác pháp. Lấy những lỗi lầm của bạn đồng tu để ngăn ngừa tâm mình không còn phạm phải những lỗi lầm, đó là ly dục, ly ác pháp.

Về tu tập hơi thở, con cần phải tập kỹ, tập hơi thở cho đúng. Tức là đầu tiên con tập nhiếp tâm cho được trong hơi thở, rồi sau đó phải tu tập an trú trong hơi thở cho được. Nhớ tu tập cho có chất lượng, không nên tập trung cao; không được tu lờ mờ, tu lấy lệ.

Phải luôn nhắc tâm, không được để tâm mê trong hơi thở. Phải tu cho thật là tu; tu cho có sức chủ động, điều khiển hơi thở và trụ tâm vững chắc. Không cần ngồi nhiều, chỉ một phút có chất lượng chủ động điều khiển tâm.

Diệu Hảo! Con phải nhớ kỹ điều này: Đừng thích ngồi nhiều mà tu sai con đường Thầy đã dạy. Tu ít mà chất lượng cao, tu nhiều mà lờ mờ thì phí thời gian vô ích. Tuổi con cũng quá già yếu, chết nay, chết mai, nên phải tu cho đúng, để thời gian tu ngắn lại và tu mau có kết quả.

Tú (Mỹ Linh):

Đáp: Mười hơi thở trong nửa phút thời công phu nào cũng tốt, đó là một sự tu tập có tiến bộ, trong hơi thở có tỉnh giác cao mới đạt được như vậy. Về phần xả tâm, thì con còn yếu lắm nên con cần phải hệ thống cách thức tu tập như Thầy đã dạy trong băng: Cái nào tu trước, cái nào tu sau, một ngày tu bao nhiêu thứ, tu cái gì, tập cái gì.

(01:26:26) Muốn tu tập ly dục, ly bất thiện pháp xả tâm, diệt ngã con phải luôn luôn dè dặt ý tứ từng lời nói. Trước khi nói phải tư duy rồi mới nói. Đối với người khác không được nói, cười đùa; không được nói mỉa mai, không được nói móc lò. Phải cẩn thận trong lời nói.

Phải tập suy nghĩ kỹ rồi mới nói. Lời nói rất quan trọng, nếu không suy tư kỹ, lỡ nói ra không lấy lại được và nó sẽ làm mất giá trị của con người. Nên phải cẩn ngôn, lời nói ra càng nuôi dưỡng bản ngã thêm to lớn. Nên cần phải ý tứ tư duy lời nói để ly ngã xả tâm, ly dục ly ác pháp.

Đây là phương pháp cách bảo vệ tâm qua khẩu nghiệp để xả tâm, ly dục ly ác pháp. Con cần thường xuyên tu tập giữ gìn khẩu nghiệp để diệt ngã ác, xả tâm rốt ráo.

Diệu Hồng

Đáp: Về phần diệt ngã xả tâm, con đã được cô Út Diệu Quang tuyển thi đập phá. Nhờ đó con đã ly được ác pháp, xả được ngã ác, nhưng chưa trọn vẹn đâu, còn phải cố gắng nhiều hơn nữa để xả cho thật rốt ráo.

Trong tập nhật ký thời khoá con đã trình, từ ngày được cô Út Diệu Quang đập vỡ màn vô minh, ngã chấp, con đã nhận ra ánh sáng giải thoát, niềm tin mãnh liệt. Nhưng từ đây về sau, con đều phải nhận tất cả mọi người là Thiện hữu tri thức, không phải chỉ có một cô Út Diệu Quang, mà tất cả đều là cô Út Diệu Quang. Có như thế, tâm con mới xả ngã ác và ly ác pháp rốt ráo.

Về hơi thở, con tu rất tốt, nhưng phải cẩn thận tỉnh giác từng hơi thở. Phải siêng năng hướng tâm, giữ gìn thân bất động, trụ tâm tại một điểm duy nhất. Từ bắt đầu tọa thiền cho đến xả thiền, phải tỉnh giác hoàn toàn trong hơi, không có gì trong hơi thở. Có gì chưa rõ về hơi thở hoặc tăng thêm, con nên thưa hỏi cô Diệu Quang để được chỉ dạy cặn kẽ về cách thức tu tập và muốn biết cách thức sống độc cư cũng nên thưa hỏi cô Diệu Quang, hoặc nghe lời dạy trong băng của Thầy.

Ghi chép kỹ, nhớ kỹ, thực hành đúng, không nên được tu sai cách độc cư. Như con đã biết, thời gian đối với con thật là quý báu, vì tuổi càng cao, sức càng yếu, đường tu tập của con càng xa, phải hỏi kỹ để tu tập cho đúng, thu ngắn được thời gian.

(01:29:37) Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, Thầy tóm lại, phàm là con người tất yếu phải có sự sai lầm, nhưng có sai lầm mà biết tu sửa là sẽ trở thành những bậc thánh nhân.

Đạo Phật là một tôn giáo không có chỗ để con người dựa lưng nương tựa, chỉ có con người biết tu sửa những lỗi lầm của mình mà giáo pháp của đức Phật đã vạch ra để chỉ dạy cho.

Nhờ có sự tu sửa đúng lời dạy của đức Phật thì chính mình đã tự cứu mình thoát cảnh khổ đau và hưởng được sự an vui, hạnh phúc. Một lần, hai lần, ba lần chưa sửa được thì hãy tiếp tục bền chí tu sửa mười lần, trăm lần, ngàn lần sẽ có kết quả tốt. Đừng lấy việc tu sửa một hai lần chưa được, mà bỏ cuộc, thì đó là người hèn kém, thiếu nghị lực, thiếu bền chí.

Trong cuộc đời của chúng ta đã có biết bao nhiêu người tu sửa được. Từ ngàn xưa đức Phật và các đệ tử của ngài, và hiện tại trong đời nay chúng ta cũng có người tu sửa được tất nhiên các con cũng tu sửa được, không có gì phải nản chí.

Bây giờ Thầy trở lại bài giảng LY BẤT THIỆN PHÁP, muốn tu tập ly bất thiện pháp thì các con phải dùng ba đức.

  1. Nhẫn Nhục

  2. Tuỳ Thuận

  3. Bằng Lòng

(01:31:36) Muốn tu tập đức Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng thì phải đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi sự việc mọi đối tượng, các con phải tu tập pháp hướng tâm còn gọi là pháp dẫn tâm.

Pháp hướng tâm như thế nào? Pháp hướng tâm là pháp dẫn tâm vào một lý chân chính giải thoát của đạo. Pháp chân chính giải thoát của đạo là gì, là chỉ thẳng vào mọi duyên, mọi hoàn cảnh, mỗi đối tượng mọi sự việc xảy ra đều hiểu biết rõ nó là vô thường, khổ, và không có thực thể bản ngã trong đó, chỉ do các duyên hợp mà thành, các duyên tan mà mất, không có một cái gì mà tồn tại.

Khi đã hiểu rõ như vậy, và thấy rõ như thật, thì dùng pháp hướng mà nhắc tâm như vậy, cái tâm từ đây về sau không được kiến chấp các duyên là thật, mà phải thấy nó vô thường, khổ, vô ngã, nên không còn phiền não, đau khổ trong tâm nữa.

Hai, các duyên tan hợp theo nhân quả diễn biến luân hồi nên không có thực thể bản ngã, toàn là vô thường, khổ, vô ngã. Vậy từ nay về sau cái tâm không được chấp các duyên là ngã mà hãy bỏ xuống đi, không còn được giận hờn, phiền não, đau khổ.

Ba, đời sống của con người là duyên tan hợp của nhân quả, cho nên không có bản ngã chân thật toàn là vô thường và đau khổ. Vậy từ đây cái tâm hãy bỏ xuống, không được chấp cái ta nữa, vì chấp cái ta là tạo thêm đau khổ và ác pháp trong tâm.

(01:33:46) Bốn, ai theo các duyên nhân quả tạo ác là phải thọ lấy cái khổ, ta không dại gì đem khổ vào thân. Từ đây cái tâm hãy bỏ xuống đi để được an vui thanh thản. Các con phải cố gắng động não triển khai những trí tuệ nhân quả, duyên tan hợp để thấu rõ lý vô thường, khổ, vô ngã của đạo thì chừng đó các con mới Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng được. Đây là pháp dẫn tâm lập đức Nhẫn Nhục và tam ấn của Phật theo duyên tam hợp diễn biến luân hồi của nhân quả.

Khi có một niệm khởi ra trong đầu, thì các con mau dẫn tâm vào lý giải thoát, giữ tâm thanh thản. Muốn dẫn tâm cho được thanh thản, các con phải nhắc tâm như thế này, khi có một niệm tào lao khởi lên:

Một, cái tâm phải thanh thản không được nghĩ ngợi tào lao vì nghĩ ngợi tào lao cái tâm bị phân chia ra tan nát, khó mà nhập thiền định được.

Hai, khi biết tâm mình thường dễ giận hờn, phiền não đau khổ, thì phải dẫn tâm như thế này "cái tâm phải thanh thản, không được giận hờn đau khổ phiền não nữa" vì đau khổ phiền não là các pháp ác.

Ba, khi có một niệm thương nhớ, lo sợ thì phải dẫn tâm như thế này, cái tâm phải thanh thản không được thương nhớ lo sợ vì các pháp là do duyên tam hợp, theo nhân quả nên không có gì là của mình, vậy hãy bỏ xuống, đừng thương nhớ lo sợ, vì thương nhớ lo sợ là ác pháp, là pháp làm đau khổ trong tâm hồn của mình.

Bốn, Khi tâm không có niệm khởi, đang ở trong trạng thái thanh thản, thì nên dẫn tâm như thế này "cái tâm phải thanh thản trong trạng thái thanh thản", vì có thanh thản tâm mới có nội lực, tâm có nội lực tâm mới nhập được thiền định.

Trên đây pháp hướng tâm thanh thản để giữ tâm thanh thản, muốn giữ tâm thanh thản thì phải nương vào hơi thở tùy tức, thỉnh thoảng lại nhắc tâm thanh thản một lần. Trên đây là giữ tâm thanh thản trong hơi thở, lúc nào, giờ nào, ngày nào hễ có rảnh là dẫn tâm vào thanh thản. Đó là tu pháp hỷ, mà cũng là chính cách thức dẫn tâm trong trạng thái thanh thản này là dẫn tâm tập lập Sơ Thiền để lập đức Nhẫn Nhục ly ác pháp.

(01:36:52) Tâm có thanh thản thì tâm mới có bình tĩnh sáng suốt, tâm có bình tĩnh sáng suốt thì tâm mới Nhẫn Nhục được, tâm có Nhẫn Nhục được thì tâm có Tùy Thuận. Tâm có Tùy Thuận được thì tâm mới có Bằng Lòng. Tâm có Bằng Lòng được thì tâm mới xả được. Tâm có xả được thì tâm mới ly được ác pháp. Tâm có ly được ác pháp thì tâm mới có an vui hạnh phúc. Tâm có an vui hạnh phúc là tâm nhập Sơ Thiền. Trên đây là pháp hướng dẫn tâm thanh thản để ly các ác pháp, nhập Sơ Thiền, lập đức Nhẫn Nhục.

7- ĐỨC NHẪN NHỤC

(01:37:40) Bây giờ Thầy dạy các con tu tập pháp ý tứ ly ác pháp, lập đức Nhẫn Nhục.

Bắt đầu các con nên tu tập ý tứ, Ý Hành Niệm. Khi tâm khởi một niệm, các con phải quan sát niệm đó, phân tích, tìm nguyên nhân và mục đích của nó; nó đến với các con là có sự việc gì trong tâm. Khi thấu rõ các pháp ác thì nó đều tan biến. Đây gọi là tu tập Ý TỨ Ý HÀNH NIỆM LY ÁC PHÁP, lập đức Nhẫn Nhục.

Khi các con muốn nói ra một lời nào đó, các con phải khởi ra một ý niệm trước; khi ý niệm khởi xong, các con quan sát ý niệm đó, tìm nguyên nhân, mục đích của nó; khi đã thấu rõ ý niệm đó, các con mới nói ra lời. Đây là tu tập Ý TỨ KHẨU HÀNH NIỆM, để LY BẤT THIỆN PHÁP, lập đức Nhẫn Nhục.

Khi thân các con muốn làm một điều gì, thì các con phải khởi ra ý niệm của việc làm đó, rồi cũng tìm nguyên nhân, mục đích của nó; khi đã tìm xong, biết nó là thiện pháp thì bắt đầu thân mới bắt đầu làm việc. Đó là tu tập Ý TỨ THÂN HÀNH NIỆM để LY CÁC ÁC PHÁP, để lập đức Nhẫn Nhục.

(01:39:27) Khi thân làm việc gì phải ý tứ, cẩn thận, kỹ lưỡng trong việc làm đó; không làm bừa bãi, không làm dối trá. Đây là tu tập cẩn thận Ý TỨ KỸ LƯỠNG THÂN HÀNH NIỆM để LY BẤT THIỆN PHÁP, thực hiện đức Nhẫn Nhục.

Khi tu tập ý tứ Ý Hành Niệm, Khẩu Hành Niệm, và Thân Hành Niệm thì dùng Tư Tuệ quán sát ý niệm, lời nói, việc làm; biết rõ đúng sai, thiện ác, có lỗi hay không lỗi, phạm giới hay không phạm giới, diệt ngã hay nuôi ngã, xả tâm hay dính mắc, v.v…​ đây là tu tập triển khai Tư Tuệ trong Ý Hành Niệm, Khẩu Hành Niệm, Thân Hành Niệm để ly dục, ly ác pháp; để tu luyện tập đức Nhẫn Nhục.

Tóm lại, đức Nhẫn Nhục giúp cho con trở thành người hiền hòa, bình tĩnh và sáng suốt, ôn tồn, nhã nhặn và từ ái. Nó giúp cho con người từ phàm phu trở thành bậc Thánh nhân. Đức Nhẫn Nhục giúp các con xa lìa các ác pháp trong và ngoài tâm, diệt sạch bản ngã, tiêu trừ tánh hung ác, nham hiểm, tị hiềm, ganh ghét. Đức Nhẫn Nhục còn mang đến cho các con một niềm an vui, an lạc hạnh phúc đời đời, không còn biết sợ hãi, oán thù ai hết.

Đức Nhẫn Nhục còn mang đến cho các con những lời nói hiền hòa, những hành động nhẹ nhàng, êm ái; những ánh mắt dịu hiền, đầy lòng thương yêu đối với mọi người. Đức Nhẫn Nhục đi đến đâu thì chuyện lớn thành chuyện nhỏ, chuyện nhỏ mất tiêu và thường mang đến nguồn an vui ở đó. Đức Nhẫn Nhục đi đến đâu thì an lạc đi đến đó cho mọi người.

Đến đây Thầy xin dừng lại, hôm nào có dịp Thầy sẽ giảng tiếp để các con tu tập đức Tùy Thuận.

8- ĐỨC TÙY THUẬN

(01:42:04) Bây giờ Thầy giảng trạch đức Tùy Thuận để các con hiểu rõ hơn. Đức Tùy Thuận là một phương tiện ly bất thiện pháp, xả ngã rốt ráo. Nếu một người còn chấp một chút ác ngã cũng không tu tập đức Tùy Thuận đúng cách được. Ở đời, người ta ai cũng muốn làm Thầy thiên hạ, chỉ huy thiên hạ, luôn luôn thấy mình hay, giỏi hơn thiên hạ; nên ít ai Tùy Thuận ai được. Bởi Tùy Thuận là một đức hạnh cao quý để xây dựng, rèn luyện con người trở thành người khiêm hạ, luôn luôn biết làm cho người khác vui lòng.

Nó cũng xây dựng, rèn luyện cho con người trở thành người ý tứ trong công việc làm, không để cho thất bại. Nó cũng xây dựng, rèn luyện con người thành người biết tôn trọng ý kiến của người khác. Nó cũng xây dựng, rèn luyện con người thành người biết học hỏi cái hay và biết cái dở của người khác. Nó cũng xây dựng, rèn luyện con người trở thành người sáng suốt và bình tĩnh trước mọi ý kiến của người khác.

Điều quan trọng nhất trong sự tu tập đức Tùy Thuận là xây dựng, rèn luyện con người để trở thành người đầy đủ nghị lực, gan dạ chấp nhận mọi ý kiến của người khác, để trở thành người nhỏ nhất, mà cũng là người lớn nhất.

Vậy, đức Tùy Thuận là gì? Tùy là dựa theo, làm theo; thuận là hòa thuận, không chống trái nhau; Tùy Thuận là dựa theo, làm theo hòa hợp ý kiến, việc làm của người khác, mà không chống trái nhau. Ở đời, vì thiếu đức Tùy Thuận lẫn nhau, ai cũng cố chấp ngã, chấp kiến nên mới sanh ra biết bao sự chống trái nhau, tạo nên cảnh nghịch ý trái lòng, do đó gây ra biết bao ác pháp, khiến cho mình khổ, người khổ. Vì thế, chúng ta là những tu sĩ của Đạo Phật, phải cố gắng tu tập và rèn luyện đức Tùy Thuận.

(01:44:37) Muốn rèn luyện tu tập đức Tùy Thuận, để ly ác pháp và diệt bản ngã ác, thì các con phải luôn luôn thực hiện:

  1. Làm theo ý kiến người khác, bất cứ người nào, ở giới nào, giai cấp nào, già hay trẻ, bé hay lớn, nam hay nữ, sang hay hèn, hay vua quan trong xã hội; đó là tu tập đức Tùy Thuận ly ác pháp, xả ngã.

  2. Không làm theo ý của mình, dù ý kiến của mình có đúng một trăm phần trăm; đó là tu tập đức Tùy Thuận ly ác pháp, xả ngã.

  3. Làm theo ý muốn của Thiện hữu tri thức mà không làm theo ý muốn mọi người thì đó không phải là Tùy Thuận, ly ác pháp; đó là tu tâm sợ hãi. Ở đây chúng ta phải hiểu làm theo ý của Thiện hữu tri thức mà không làm theo ý của mọi người khác là tu tập tâm sợ hãi. Làm theo ý của thiện hữu tri thức và cũng làm theo ý muốn mọi người mới là tu tập đức Tùy Thuận ly ác pháp, xả ngã.

  4. Trước khi muốn làm một việc gì đều thưa hỏi ý kiến của Thiện hữu tri thức và của mọi người khác. Không được tự ý làm, vì có tự ý là có hành động theo bản ngã, nuôi dưỡng bản ngã và các ác pháp; như thế thì không thể nào tu tập đức Tùy Thuận được.

  5. Khi thưa hỏi xong, phải làm đúng ý của mọi người; đó là tu tập đức Tùy Thuận ly ác pháp, diệt ngã ác.

  6. Khi thưa hỏi xong để tu tập đức Tùy Thuận nhưng khi làm có sơ sót, bị la rầy, liền tức khắc chuyển sự tu tập Tùy Thuận qua tu tập Nhẫn Nhục, để ly ác pháp. Có như vậy mới gọi là tu tập đức Tùy Thuận trong đức Nhẫn Nhục.

  7. (01:47:16) Luôn luôn phải tôn kính mọi ý kiến của mọi người, vì có tôn kính ý kiến của người khác ta mới Tùy Thuận được ý kiến người khác, mà không làm theo ý kiến của mình. Gọi là là ly dục, ly bất thiện pháp.

  8. Điều quan trọng và cần thiết cho sự tu tập này là phải luôn luôn tỏ lòng tôn kính mọi ý kiến, việc làm của người khác, đó là những ý kiến và việc làm đúng, còn những ý kiến và việc làm sai của họ thì chúng ta Tùy Thuận nhưng không để bị lôi cuốn. Tùy thuận là để ly ác pháp nhưng không để lôi cuốn trong ác pháp. Bởi vậy tu tập đức Tùy Thuận rất khó, Tùy Thuận mà không bị lôi cuốn là một việc làm khó khăn vô cùng, không phải việc dễ làm, chỉ có sống độc cư tránh các duyên và bảo vệ tâm, giữ gìn sáu căn mới giữ gìn sáu căn mới ly dục ly ác pháp dễ dàng mà thôi.

Đức Tùy Thuận có hai chiều, Tùy Thuận người mà còn Tùy Thuận ở mình nữa. Như Thầy ở dạy Tùy Thuận là tôn kính mọi ý kiến, mọi việc làm của người khác, còn Tùy Thuận ở mình mà tôn kính như vậy thì không khéo mình lại nuôi tâm ham muốn, chạy theo dục, nuôi ác pháp, nuôi ngã mình.

Tùy Thuận mình là tùy ở sức lực, ở khả năng, không nên làm quá sức vượt khả năng của mình, không khéo Tùy Thuận mình để trở thành lười biếng, không khéo Tùy Thuận mình trở thành nuôi dục, nuôi ngã. Điều quan trọng này các con lưu ý.

Khi giảng đến đây các con đã hiểu rõ đức Tùy Thuận là ly ác pháp, diệt ngã, mục đích của nó không phải ở ý kiến và việc làm, mà chính là để được tâm hồn giải thoát, an vui, thanh thản, mà cũng là bước đầu ngăn chặn và chấm dứt các duyên nhân quả, không cho tiếp diễn theo nghiệp lực của nó.

9- ĐỨC BẰNG LÒNG

(01:50:00) Bây giờ Thầy dạy các con tu tập đức Bằng Lòng. Đức Bằng Lòng tu tập rất khó. Nếu tu được đức Tùy Thuận, đức Nhẫn Nhục mà tâm chưa bao giờ Bằng Lòng thì chẳng được an ổn, yên vui. Tâm các con chưa được an ổn yên vui thì tâm còn trong ác pháp, trong tâm dục.

  1. Muốn tu tập đức Bằng Lòng thì phải lập hạnh tôn kính, kính trọng mọi người. Xưa, Thường Bất Khinh Bồ Tát lập hạnh kính trọng mọi người, ông gặp ai lớn hay nhỏ, giàu sang hay nghèo đói, vua chúa hay nhân dân, Ông đều cúi đầu đảnh lễ tôn kính như đức Phật. Nhờ tu hạnh tôn kính, nên tâm hồn Ông lúc nào cũng ly được ác pháp, đời sống ông thanh thản an vui trong đức Bằng Lòng, vì có Bằng Lòng mọi duyên, mọi đối tượng, mọi hoàn cảnh, mọi việc làm đều xa lìa các ác pháp, được giải thoát thành Phật.

  2. Muốn tu tập đức Bằng Lòng thì phải có Chánh kiến; muốn có Chánh kiến thì tâm phải ly dục, ly bất thiện pháp. Nhưng bây giờ, tâm các con chưa ly dục, ly bất thiện pháp, còn đang tu tập đức Bằng Lòng để ly ác pháp thì tâm các con làm sao có chánh kiến được? Không có Chánh kiến thì làm sao phán xét mọi người, mọi việc đúng sai? Không có Chánh kiến thì không thể nào hiểu mình, hiểu người bằng Chánh kiến được?Vì vậy muốn tu tập đức Bằng Lòng chỉ có con đường duy nhất là phải can đảm, dũng mãnh nhìn nhận tất cả ý tưởng, lời nói, việc làm của người khác là đúng, là tốt, là thiện. Nhờ đó thế các con sẽ thực hiện đức Bằng Lòng dễ dàng.

(01:52:22) Như Thường Bất Khinh Bồ Tát, dù là người hung ác, ngu khờ, đê hèn nhất trong xã hội, Ông vẫn kính trọng, tôn kính đức Phật; đó là hạnh Bằng lòng, để thực hiện sự giải thoát trong tâm của mình. Khi thực hiện hạnh Bằng Lòng, là các con ly được ác pháp trong, ngoài tâm. Ly được ác pháp trong, ngoài tâm thì bây giờ các con mới có Chánh kiến. Thầy đã dạy, chỉ có tâm LY DỤC, LY BẤT THIỆN PHÁP mới hiểu được mình và người bằng CHÁNH KIẾN.

Tóm lại muốn tu tập ba đức ba hạnh ăn ngủ độc cư Nhẫn Nhục, Tùy Thuận, Bằng Lòng để ly dục ly bất thiện pháp.

Điều cần thiết và quan trọng nhất, là phải TRIỂN KHAI TRÍ TUỆ VÔ SƯ ly dục, ly bất thiện pháp.

10- BA LOẠI TRÍ TUỆ CỦA ĐẠO PHẬT

(01:53:23) Theo Đạo Phật có ba loại TRÍ TUỆ: Một là Văn Tuệ, hai là Tư Tuệ, ba Tu Tuệ.

1. VĂN TUỆ LÀ GÌ? Văn tuệ là trí tuệ hiểu biết bằng cách tích lũy những kiến giải, tưởng giải của cổ nhân trong kinh sách, hoặc nghe thuyết giảng, hoặc học thuộc lòng. Trí tuệ này là trí tuệ tránh né, trốn chạy các dục, các ác pháp. Trí tuệ này còn gọi là sở tri chướng; người càng học tập, nghe thuyết giảng và tích lũy nhiều thì kiến chấp, ngã chấp càng thêm sâu dày thường nuôi dưỡng bản ngã to lớn. Trí tuệ này rất nguy hại cho người tu theo đạo giải thoát của Đạo Phật. Xưa, ông A Nan vì có trí tuệ này nên sự tu hành rất chậm lụt.

2. (01:54:28) TƯ TUỆ LÀ GÌ: Tư là trí tuệ suy tư, nghĩ ngợi, tìm tòi, nghiên cứu khai triển sự hiểu biết của riêng mình, không vay mượn trong kinh sách; nó còn gọi là trí thông minh. Tư tuệ là trí tuệ thông minh của riêng mình để phát minh những điều chưa ai tìm được, để hóa giải tâm đau khổ, phiền não, sân hận, tị hiềm nhỏ nhen, ích kỷ, để được thực hiện ba đức, ba hạnh cho rốt ráo. Bởi vậy, tư tuệ là một trí tuệ thông minh rất cần thiết cho sự tu tập ở giai đoạn I, tu ly dục ly bất thiện pháp. Nếu các con không chịu triển khai trí tuệ thông minh này theo như lời cô Út đã chỉ dạy, thì các con khó mà thực hiện được ba đức, ba hạnh. Nếu không thực hiện được ba đức, ba hạnh thì làm sao ly dục, ly bất thiện pháp được? Đó là một trí tuệ thông minh, vô sư trí của mọi con người, nên phải động não, làm việc thì mới có thể triển khai được nó.

3. TU TUỆ LÀ GÌ: Là trí tuệ do tu tập thiền định sanh ra; trí tuệ này còn gọi là Trí Tuệ Vô Sư Tam Minh, gọi tắt là Trí Tuệ Vô Lậu. Trí tuệ này là là trí tuệ siêu đẳng, viên mãn, thành tựu được đạo giải thoát của đức Phật. Trí tuệ được khai mở khi thiền định viên mãn, vì thế trí tuệ này được xem là trí tuệ cuối cùng của Đạo Phật. Nó chứng minh rõ ràng sự làm chủ, chấm dứt sự khổ đau trong sanh tử luân hồi của chúng ta. Nó không giúp ích gì cho sự tu tập ly dục, ly bất thiện pháp; nó chỉ là một sự minh xác chân thật, kiểm nghiệm sự thành tựu tu tập của chúng ta mà thôi.

(01:56:48) Tóm lại của đoạn văn này thì ba thứ trí tuệ: Văn, Tư, Tu, chỉ có Tư Tuệ là trí tuệ cần thiết cho ta để tu tập ly dục, ly bất thiện pháp ở giai đoạn thiền thứ nhất. Nếu một người chưa ly dục, ly bất thiện pháp thì không nhập định được. Mà không nhập định được thì làm sao khai mở trí tuệ vô sư, vô lậu được? Do thế Minh Cảnh hiểu lầm cứ tu tập thiền định, rồi từ thiền định phát ra trí tuệ vô sư, từ trí tuệ vô sư, vô lậu sẽ diệt sạch bản ngã, không còn lậu hoặc nữa. Như Thầy đã daỵ ở trên ba trí tuệ chỉ có tư tuệ là quan trọng và ích lợi trong sự tu tập. Văn tuệ là sở tri chướng; Tu Tuệ để xác minh sự tu tập kết quả cho rõ ràng.

Nếu một người tu tập có ý tứ, cẩn thận từng lời nói, hành động, việc làm biết sống hòa hợp thương yêu và tha thứ cho nhau, không tị hiềm ganh ghét, không tranh đua hơn thiệt, không châm biếm mỉa mai, giữ gìn kỷ luật Tu Viện nghiêm túc, không vi phạm lỗi lầm, đó là người ly dục, ly bất thiện pháp. Sống như vậy là tạo hoàn cảnh yên tịnh, thanh nhàn để cùng nhau tu hành. Sống mà nay sanh chuyện này, mai tạo duyên này, khiến cho hoàn cảnh bất an, mất thanh tịnh, mình tu khó, mà người khác tu cũng khó.

Người nuôi lớn bản ngã là người thường thấy lỗi người khác không thấy lỗi mình, thấy cái sai của người khác không thấy cái sai của mình, người ấy không ly dục ly bất thiện pháp.

(01:59:01) Đến đây Thầy xin chấm dứt bài pháp hôm nay. Các con hãy ghi nhớ kỹ, cố gắng tu tập. “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Sự giải thoát đang chờ các con ở phía trước nếu các con tu tập đúng lời Thầy đã dạy.

Trong bài giảng vừa rồi, Thầy dạy các con phải tự hệ thống đường lối tu tập từ dễ đến khó, từ bắt đầu đến cuối cùng, từ sự tu phụ đến sự tu chính đâu đâu phải rõ ràng. Nhưng Thầy nghĩ rằng phải giúp các con chứ không thể để tự các con hệ thống hoàn chỉnh được, vì còn những điều chưa giảng dạy thì làm sao các con hệ thống được. Bây giờ, Thầy sẽ giúp và giản lược sơ đồ đường lối tu tập phần đầu mà các con đã được học và đã được tu tập. Còn những phần chi tiết thêm thắt vào các con phải chịu khó động não thiết lập phương án tu hành cho phù hợp với cơ thể và tinh thần các con, tức là tuỳ căn cơ của các con.

Những vị sáng lập ra các tôn giáo, Phật là người Thầy duy nhất không theo đuổi cái gì khác hoài, việc trở thành một con người trong sạch và giản dị, Phật không xem mình thần thánh và thượng đế, Phật chỉ nhìn mình là một con người như bao con người khác. Vì thế chúng ta chọn Đạo Phật là chọn sự thật của kiếp con người, dù con đường tu hành theo Đạo Phật có khó khăn muôn vàn đến đâu, chúng ta cũng quyết tâm đeo đuổi cho đến cùng.

Bởi tu theo Đạo Phật là phải có một công trình tu tập vĩ đại, phải biết tự răn mình, tự sửa lỗi mình để được trở thành một con người trong sạch và giản dị. Không phải sự tu hành này chỉ có đổi lấy bằng sức lực và tinh thần mà còn phải đổi bằng máu và nước mắt của chúng ta nữa. Tu tập theo Đạo Phật, nếu không tôi luyện mình trong lửa đỏ, thì sự tu hành cũng chỉ là hình thức suông mà thôi. ​

(02:02:12) Các con được về đây tu tập với Thầy và cô Út Diệu Quang. Nhất là phần cô Út Diệu Quang, chỉ thẳng đập mạnh, không nhân nhượng một ai; hễ thấy ai lui, ngã, chạy theo dục và sống trong ác pháp liền đập thẳng tay những nhát búa như trời sấm sét.

Chỉ mong sao các con xa lìa bản ngã, tâm ham muốn và ác pháp, để được một tâm hồn an vui, thanh thản, để đi vào Thiền định một cách vững chắc cũng.

Vì thế mà các con hôm nay mới nhận ra đường lối tu hành của Đạo Phật vô cùng khó khăn, vì học rồi áp dụng liền, áp dụng rồi học liền ngay trên cuộc sống, không có giờ phút nào không tu không học, “Tu bằng cách sống, sống bằng cách tu. Tu bằng học, học bằng sự sống. Sống bằng sự triển khai trí tuệ thông minh của mình”.

Thầy thì giảng trạch, an ủi, sách tấn, khích lệ, khuyên bảo…​ Cô Út Diệu Quang thì gởi lên chỉ thẳng chỗ sai, chỗ đúng, phạt dạ răn đe, la hét…​ Cho nên tu hành không dị như người ta nghĩ. Nếu các con để ý một chút thì thấy những gì Thầy và cô Diệu Quang chỉ dạy một cách thiết thực, cụ thể con đường giải thoát của Đạo Phật.

Các con càng suy ngẫm càng thấm thía cuộc đời do chính mình lầm lạc, tạo ra biết bao điều cay đắng, khổ đau cho mình. Càng suy ngẫm càng thấm thía cuộc đời, chừng đó mới biết được mình, hiểu được người rõ hơn.

(02:04:40) Khi các con đã quyết tâm tu hành, không sợ gian nan, khó khổ thì không những Thầy và cô Út Diệu Quang sẵn lòng giúp đỡ, chỉ dạy tận tình, mà còn đem hết lòng thương yêu, vì cảm thông đường tu hành khó khăn vô cùng, để cùng nhau cùng sống, để cùng nhau cùng xây dựng lại ngôi nhà Phật pháp mà chúng ta là những đứa con phải có bổn phận.

11- 42 GIAI ĐOẠN TU TẬP GIỚI - ĐỊNH - TUỆ

(02:05:14) Hệ thống con đường tu tập Giới - Định - Tuệ của đức Phật chia làm 42 giai đoạn tu tập. Trong mỗi giai đoạn tu tập có nhiều cách thức tập luyện, rèn luyện không đơn giản như lý luận và thuyết giảng suông trong các kinh sách.

  1. Phải luôn luôn cảnh giác, dẫn tâm vào đạo, đừng dẫn đạo vào tâm.

  2. Dẫn tâm vào đạo bằng cách sống lập ba đức, ba hạnh. Một ăn, hai là ngủ, ba là độc cư - đây là ba hạnh. Một Nhẫn Nhục, hai Tùy Thuận, ba Bằng Lòng - đây là ba đức.

  3. Ba đức, ba hạnh là phương tiện tu tập ly dục, ly bất thiện pháp.

  4. Chỉ có tâm ly dục, ly bất thiện pháp mới hiểu được mình, được người bằng Chánh kiến.

  5. Hiểu được mình, được người thì mới hiểu được Phật pháp chân chính.

  6. Hiểu được Phật pháp chân chính là tâm thường ở trong Chánh niệm.

  7. Tâm thường ở trong Chánh niệm là tâm Tĩnh giác.

  8. Tâm tĩnh giác là tâm sáng suốt và bình tĩnh.

  9. Tâm sáng suốt và bình tĩnh là tâm chủ động điều khiển nhân quả thân, khẩu, ý.

  10. Tâm chủ động điều khiển nhân quả thân, khẩu, ý là tâm không còn tham, sân, si.

  11. Tâm không còn tham, sân, si là tâm hết chướng ngại.

  12. Tâm hết chướng ngại là tâm giải thoát tâm.

  13. (02:07:25) Giải thoát tâm là tâm thanh thản.

  14. Tâm thanh thản là tâm ly dục, ly bất thiện pháp.

  15. Tâm ly dục, ly bất thiện pháp là tâm nhập nhập Sơ Thiền.

  16. Tâm nhập Sơ Thiền là tâm ly ý muốn và diệt Tầm ác.

  17. Tâm ly ý muốn và diệt Tầm ác là tâm thanh tịnh.

  18. Tâm thường thanh tịnh là tâm tùy tức.

  19. Tâm tùy tức là tâm diệt Tầm thiện.

  20. Tâm diệt Tầm thiện là tâm dừng được sáu thức.

  21. Tâm dừng được sáu thức là tâm diệt Tứ.

  22. Tâm diệt Tứ là tâm nhập Nhị Thiền

  23. Tâm nhập Nhị Thiền là tâm chủ động điều khiển sáu Thức.

  24. Tâm chủ động điều khiển sáu Thức là tâm đóng mở sáu Căn.

  25. Tâm đóng mở sáu Căn là tâm chủ động điều khiển Sắc ấm.

  26. Tâm chủ động điều khiển Sắc ấm là tâm điều khiển vượt qua sáu trạng thái Tưởng ấm: 1- sắc tưởng,2- thinh tưởng, 3- hương tưởng, 6-vị tưởng, 7-xúc tưởng, 8- pháp tưởng.

  27. Tâm điều khiển vượt qua sáu trạng thái Tưởng ấm là tâm xả Hỷ.

  28. Tâm xả Hỷ là tâm xả tưởng ấm hết chiêm bao.

  29. Tâm xả tưởng ấm là tâm nhập Tam Thiền.

  30. Tâm nhập Tam Thiền là tâm điều khiển xả Thọ ấm.

  31. Tâm điều khiển xả Thọ ấm là tâm có nội lực.

  32. Tâm có nội lực là tâm chủ động điều khiển Thọ ấm.

  33. Tâm chủ động điều khiển Thọ ấm là tâm có Định lực.

  34. Tâm có Định lực là tâm xả Thọ ấm.

  35. Tâm xả Thọ ấm là tâm điều khiển Thức ấm.

  36. Tâm chủ động điều khiển Thức ấm là tâm xả Hành ấm.

  37. Tâm xả Hành ấm là tâm nhập Tứ Thiền.

  38. Tâm nhập Tứ Thiền là tâm xả Thức ấm.

  39. (02:10:20) Tâm xả Thức ấm là tâm điều khiển chủng động hướng về Tam Minh.

  40. Tâm hướng về Tam Minh là tâm nhập trí tuệ vô lậu.

  41. Tâm nhập trí tuệ vô lậu là tâm nhập trí tuệ giải thoát.

  42. Tâm nhập trí tuệ giải thoát là tâm chấm dứt đau khổ sanh tử và luân hồi.

Đây là “Sơ Đồ 42 Giai Đoạn Tu Tập” để giải thoát đời người, chấm dứt đau khổ, sinh tử luân hồi. Thầy sẽ giảng trạch sự tu tập và rèn luyện của từng giai đoạn; giảng đến đâu, các con tu tập đến đó; tu được giai đoạn đó sẽ giảng giải giai đoạn khác.

Đến đây là Thầy đã giảng xong nội dung việc tu thiền giai đoạn thứ nhất. Khi nào các con tu xong, Thầy sẽ giảng giai đoạn thứ hai, thứ ba như Thầy đã hứa, còn bây giờ Thầy bổ túc thêm Sơ Đồ Đường Lối Tu Tập, để bổ sung cho giai đoạn tu thiền phần thứ nhất (ly dục, ly ác pháp).

12- DẪN TÂM VÀO ĐẠO ĐỪNG DẪN ĐẠO VÀO TÂM

Đây là giai đoạn thứ nhất, phải luôn luôn cảnh giác "dẫn tâm vào đạo, đừng dẫn đạo vào tâm". Câu này dạy người mới bắt đầu tu tập thiền định theo Đạo Phật phải đề phòng cảnh giác, cẩn thận, không được đụng pháp môn nào tu theo pháp môn ấy, mà phải dè dặt chọn lựa kỹ lưỡng pháp môn tu tập. Vì nếu đã lỡ tu tập pháp môn không đúng, sẽ trở thành thói quen và sửa lại tu tập lại rất là khó khăn, và còn nhiều khi không còn sửa lại được nữa.

Ví dụ, một người tu lạc thiền, nhiếp tâm ức chế không đúng cách, gây ra bệnh rối loạn thần kinh, điên khùng, không còn tỉnh táo, do đó không thể sửa lại được nữa, trở thành phế nhân tàn tật. Cũng như người học nhiều giáo lý đủ loại người này cũng không thể cứu chữa được, họ đã nuôi lớn bản ngã bằng trời. Đó là do huân tập sở tri chướng quá nhiều. Con đường tu tập giải thoát của họ qua những kiến thức này đã chấm dứt đời tu của họ. Nếu một người tu tập có thần thông bùa chú thì cũng khó sửa lại, vì bản ngã kiến chấp của họ chết cứng trong lớp vỏ này. Nếu một người tu lạc vào Thiền định Tưởng, có trạng thái khinh an, hỷ lạc, người này cũng khó sửa lại và cũng chết cứng trong lớp vỏ này.

(02:13:18) Bởi vậy ngay từ Giai đoạn I này, Thầy luôn luôn nhắc nhở các con phải luôn cảnh giác, nếu không cảnh giác tu hành sai thì sẽ thành thói quen lười biếng, mất hết nghị lực, khó tiến vào Định. Đó là những người mới tu mà không được sự hướng dẫn cặn kẽ, tu tập theo ý muốn của mình, rồi sinh tâm lười biếng làm tiêu hao nghị lực, và đồng thời thường bị lạc vào những trạng thái của định tưởng, khiến cho đời tu chẳng đi đến đâu. Tu hành phải biết giờ giấc nghiêm chỉnh, giờ nào việc ấy. Đó là :

  1. Giữ gìn tâm bất động, chuyên ròng một hơi thở, không được xen tạp niệm; Đó là phải luôn luôn cảnh giác.

  2. Khi tọa thiền, phải giữ thân bất động, không nhúc nhích, lắc qua lắc lại. Không được ngồi thẳng quá (ưỡn ngực), không được ngồi chùn quá (khòm lưng); Đó cũng phải là luôn luôn cảnh giác.

  3. Không được huân tập, học nhiều các pháp không đúng là Phật pháp;

  4. Không được học lối lý luận, hý luận của các pháp, mà phải học pháp chuyên ròng tập luyện làm chủ thân tâm;

  5. Không được học pháp ở đầu môi chót lưỡi, cật vấn thiên hạ, tranh chấp hơn thua để nuôi lớn bản ngã.

Các con phải luôn luôn đề cao cảnh giác những loại này, và luôn luôn các con hãy bắt chước Phật khi có một tà sư ngoại đạo cật vấn hỏi đúng đường lối tu tập thì Phật trả lời, hỏi không đúng đường lối tu tập giải thoát thì Phật không đáp, làm thinh hoặc trả lời: “Đó không phải là vấn đề của Ta, không phải là đường lối của Ta”. Đức Phật không để thì giờ hý luận, tranh đua với thiên hạ vô ích. Vậy từ đây về sau các con phải bắt chước Phật. Có ai hỏi đạo mà có lòng tha thiết cầu pháp tu tập, kính trọng thưa hỏi với một tâm thành thì các con hãy chỉ dạy.

(02:15:59) Còn những hạng người hiu hiu tự đắc, cật vấn, hỏi điều này thứ kia thì các con sáng suốt nên làm thinh, hoặc bảo: “Những điều quý vị hỏi không đúng cách thức tu tập ở đây, chúng tôi xin miễn nói, vì ở đây chỉ biết tu tập để được giải thoát khỏi sự đau khổ của kiếp người, chứ không có tranh luận hơn thua. Xin quý vị vui lòng”. Đó là phải luôn luôn cảnh giác những hạng người này. Khi thưa hỏi pháp tu, không được đòi hỏi giải thích, vì giải thích sẽ làm mất trí vô sư của các con. Người giải thích cho dễ hiểu là Giảng sư; người không giải thích là Thiền sư. Tùy ở người Thiện hữu tri thức, khi họ cần giải thích thì họ giải thích, không cần thì không giải thích. Thiện hữu phải biết linh động, khéo léo, lúc đóng, lúc mở; lúc đóng là để cho đệ tử khai triển trí tuệ; lúc mở là để khuyến khích, khích lệ, sách tấn cho đệ tử nỗ lực tu tập. Những điều này phải luôn luôn cảnh giác.

Tập ít nói, không nói chuyện tào lao, không đến nói chuyện người ngày người khác; luôn luôn giữ tâm thanh thản và hướng tâm đến thanh thản. Đó là phải luôn luôn cảnh giác. Thường sống thơ thẩn một mình và hướng tâm đến sống độc cư một mình; và luôn giữ tâm vô sự và hướng tâm đến vô sự. Đó là phải luôn luôn cảnh giác.

Thường giữ gìn ý tứ làm moi công việc cũng tiếp xúc với mọi người, nên dè dặt, cẩn thận từng lời nói, hành động, luôn phải giữ gìn, ôn tồn, nhã nhặn, êm dịu, từ ái. Những hành động này phải luôn luôn cảnh giác. Nhờ có luôn cảnh giác giữ gìn tâm tu tập như vậy thì đó gọi là dẫn tâm vào đạo. Nhờ có thường xuyên dẫn tâm vào đạo nên tâm ly dục, ly bất thiện pháp, tâm được giải thoát, an vui, thanh thản.

(02:18:43) Vậy từ nay, các con phải nỗ lực tu tập hàng ngày, thường xuyên không nên gián đoạn. Lúc nào, giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào đều phải cảnh giác giữ gìn tâm, dẫn tâm vào đạo. Có như vậy mới ly dục, ly ác pháp được. Như các con đã biết trong lần chuyển pháp luân lần đầu tiên, đức Phật đã thuyết Tứ Diệu Đế, nguyên nhân đau khổ của con người là tâm ÁI DỤC. Ái dục là gì? Ái dục lòng tham muốn, yêu thích, say đắm, đam mê. Vậy muốn xa lìa nó thì phải "luôn luôn dẫn tâm vào đạo, đừng dẫn đạo vào tâm".

Đừng dẫn đạo vào tâm như thế nào? - Dẫn đạo vào tâm là nghe nhiều, học nhiều kinh sách mà không có thực hành, hoặc có thực hành thì cũng chỉ là thực hành bằng hình thức, lấy lệ. Càng học nhiều, càng nghe nhiều bản ngã càng to lớn thì tâm tham danh, thích lợi càng nhiều, nên làm bít mất đường lối tu tập giải thoát của họ. Cho nên suốt đời của họ chẳng có sự giải thoát mà chỉ có sự đam mê. Bởi vậy Thầy dạy đừng dẫn đạo vào tâm là vậy.

(02:20:21) Cô Diệu Quang dạy không chịu giải thích cho các con, mà phải tự các con xả ngã, diệt tâm ham muốn của mình. Và cũng từ đó phải tự triển khai trí tuệ thông minh vô sư của tư tuệ. Phần nhiều đời nay người ta dẫn đạo vào tâm, chứ ít có ai biết cách dẫn tâm vào đạo. Trong kinh nguyên thủy, Phật dạy NHƯ LÝ TÁC Ý, đó là dẫn tâm vào đạo. Trong kinh Tiểu thừa, Phật dạy PHÁP HƯỚNG TÂM, tức là pháp dẫn tâm.

Xưa đức Phật còn tại thế, không có cho ghi chép kinh sách, chỉ vì sợ các đệ tử dẫn đạo vào tâm, nên đức Phật chỉ nói để cho tu tập, mà không cho ghi chép lại. Đến sau này, kết tập mới có kinh sách. Nhưng từ khi có sách thì người ta khó chứng đạo, chỉ vì họ dẫn đạo vào tâm quá nhiều, rồi phát triển những kiến giải, tưởng giải, viết rất nhiều kinh sách, làm lệch lạc con đường của Đạo Phật. Đạo Phật bây giờ là Đạo Phật triết lý, Đạo Phật mê tín, Đạo Phật khoa học, Đạo Phật siêu việt…​ không có một tôn giáo nào hơn Đạo Phật được! Theo Thầy thiết nghĩ Đạo Phật không có triết lý, không có mê tín, không có khoa học, không có siêu việt. Đạo Phật chỉ thuần là đạo của con người, như bao nhiêu con người khác trong thế gian này. Nhưng người đó phải biết sống một đời sống an vui, sống không làm khổ mình, khổ người, sống thanh thản trước mọi diễn biến của nhân quả, và luôn luôn lúc nào cũng làm chủ được nhân quả.

Khi nghe đến đây các con hãy cố gắng tu tập khắc phục tâm mình cho được, chừng nào khắc phục được Thầy sẽ giảng tiếp.

HẾT BĂNG