IX. CHƯƠNG ĐÌNH CHỈ GIỚI BỔN PĀTIMOKKHA (PĀTIMOKKHAṬṬHAPANAKKHANDHAKAṂ)
[447] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Pubbārāma (Đông Phương tự), ở tòa nhà dài của người mẹ của Migāra [1](Lộc Mẫu giảng đường). Vào lúc bấy giờ, nhằm ngàyUposatha (Bố Tát) vào ngày mười lăm, đức Thế Tôn đang ngồi giữa hội chúng tỳ khưu. Khi ấy trong lúc đêm khuya canh một đã tàn, đại đức Ānanda đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, đêm đã khuya canh một đã tàn, hội chúng tỳ khưu ngồi đã lâu. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn tuyên đọc giới bổn Pātimokkha cho các tỳ khưu.
Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn đã im lặng.
Đến lần thứ nhì, trong lúc đêm khuya canh giữa đã tàn, đại đức Ānanda đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay lên hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, đêm đã khuya, canh giữa đã tàn, hội chúng tỳ khưu ngồi đã lâu. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn tuyên đọc giới bổn Pātimokkha cho các tỳ khưu.
Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã im lặng.
Đến lần thứ ba, trong lúc đêm khuya canh cuối đã tàn, bình minh đã rạng, đêm lộ nét hân hoan (nandimukhiyā rattiyā), đại đức Ānanda đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, chắp tay lên hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, đêm đã khuya canh cuối đã tàn, bình minh đã rạng, đêm lộ nét hân hoan, hội chúng tỳ khưu ngồi đã lâu. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn tuyên đọc giới bổn Pātimokkha cho các tỳ khưu.
- Này Ānanda, hội chúng không thanh tịnh.
[448] Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đã khởi ý điều này: “Liên quan đến nhân vật nào khiến đức Thế Tôn đã nói như vầy: ‘Này Ānanda, hội chúng không thanh tịnh’?” Sau đó, đại đức Mahāmoggallāna đã chăm chú dùng tâm quán xét tâm của toàn thể hội chúng tỳ khưu. Và đại đức Mahāmoggallāna đã thấy được nhân vật ấy là kẻ ác giới, ác pháp, sở hành bất tịnh và đáng nghi ngờ, có hành động che giấu, phi sa-môn, giả mạo sa-môn, phi Phạm hạnh, giả mạo Phạm hạnh, nội tâm thối nát, đầy phiền não, có bản chất dơ bẩn đang ngồi giữa hội chúng tỳ khưu, sau khi thấy được đã đi đến gần nhân vật ấy, sau khi đến gần đã nói với nhân vật ấy điều này:
- Này ông bạn, hãy đứng dậy. Ngươi đã bị đức Thế Tôn nhìn thấy rồi. Ngươi không được cộng trú với các tỳ khưu.
Mặc dầu được nói như vậy, nhân vật ấy đã im lặng.
Đến lần thứ nhì, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với nhân vật ấy điều này:
- Này ông bạn, hãy đứng dậy. Ngươi đã bị đức Thế Tôn nhìn thấy rồi. Ngươi không được cộng trú với các tỳ khưu.
Đến lần thứ nhì, nhân vật ấy đã im lặng.
Đến lần thứ ba, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với nhân vật ấy điều này:
- Này ông bạn, hãy đứng dậy. Ngươi đã bị đức Thế Tôn nhìn thấy rồi. Ngươi không được cộng trú với các tỳ khưu.
Đến lần thứ ba, nhân vật ấy đã im lặng.
Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đã nắm lấy nhân vật ấy ở cánh tay đẩy ra bên ngoài cánh cửa của cổng ra vào, gài chốt cửa lại, rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, nhân vật ấy đã bị con đẩy ra ngoài rồi; hội chúng được thanh tịnh. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn tuyên đọc giới bổn Pātimokkha cho các tỳ khưu.
- Này Moggallāna, thật kỳ lạ thay! Này Moggallāna thật khác thường thay! Gã rồ dại ấy lại chờ cho đến lúc bị nắm lấy cánh tay.
[449] Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, đây là tám pháp kỳ diệu phi thường trong biển cả, sau khi xem xét kỷ lưỡng những pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả. Tám điều ấy là gì?
Này các tỳ khưu, biển cả sâu xuống dần dần, có độ dốc xuống dần dần, có sự lõm xuống dần dần, không có vực sâu một cách đột ngột. Này các tỳ khưu, sự việc biển cả sâu xuống dần dần, có độ dốc xuống dần dần, có sự lõm xuống dần dần, không có vực sâu một cách đột ngột, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ nhất trong biển cả, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả.
[450] Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, biển cả có bản chất ổn định, không tràn qua khỏi bờ. Này các tỳ khưu, sự việc biển cả có bản chất ổn định, không tràn qua khỏi bờ, này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ hai trong biển cả, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả.
[451] Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, biển cả không sống chung với xác chết, nghĩa là khi ở trong biển cả có xác chết, nó tức thời đưa xác chết ấy vào bờ và hất lên trên đất liền. Này các tỳ khưu, sự việc biển cả không sống chung với xác chết, nghĩa là khi ở trong biển cả có xác chết, nó tức thời đưa xác chết ấy vào bờ và hất lên trên đất liền, này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ ba trong biển cả, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả.
[452] Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, các con sông lớn như là Gaṅgā, Yamunā, Aciravatī, Sarabhū, Mahī khi đã ra đến biển cả thì từ bỏ các tên họ trước đây và hòa chung lại gọi là “Biển cả.” Này các tỳ khưu, sự việc các con sông lớn như là Gaṅgā, Yamunā, Aciravatī, Sarabhū, Mahī khi đã ra đến biển cả thì từ bỏ các tên họ trước đây và hòa chung lại gọi là “Biển cả,” này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ tư trong biển cả, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả.
[453] Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, có các giòng nước ở trái đất đổ vào biển cả và các trận mưa từ không trung rơi xuống, nhưng không vì điều ấy mà biển cả được xem là vơi đi hoặc tràn đầy. Này các tỳ khưu, sự việc có các giòng nước ở trái đất đổ vào biển cả và các trận mưa từ không trung rơi xuống nhưng không vì điều ấy mà biển cả được xem là vơi đi hoặc tràn đầy, này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ năm trong biển cả, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả.
[454] Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, biển cả có một vị là vị của muối. Này các tỳ khưu, sự việc biển cả chỉ có một vị là vị của muối, này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ sáu trong biển cả, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả.
[455] Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, biển cả có nhiều vật quý, vô số vật quý. Ở đó, các vật quý ấy như là ngọc trai, ngọc ma-ni, ngọc bích, xà cừ, đá quý, san hô, bạc, vàng, ngọc ru-by, ngọc mắt mèo. Này các tỳ khưu, sự việc biển cả có nhiều vật quý, vô số vật quý; ở đó, các vật quý ấy như là ngọc trai, ngọc ma-ni, ngọc bích, xà cừ, đá quý, san hô, bạc, vàng, ngọc ru-by, ngọc mắt mèo, này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ bảy trong biển cả, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả.
[456] Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, biển cả là nơi cư trú của các chúng sanh to lớn. Ở đó, các chúng sanh ấy là cá ông (timi), cá voi (timiṅgalo), cá ông voi (timitimiṅgalo), cá ông khổng lồ, các A-tu-la, các loài rồng (nāga), các Cán-thát-bà (gandhabba). Trong biển cả còn có những sinh vật lớn đến trăm do tuần, những sinh vật lớn đến hai trăm do tuần, những sinh vật lớn đến ba trăm do tuần, những sinh vật lớn đến bốn trăm do tuần, những sinh vật lớn đến năm trăm do tuần. Này các tỳ khưu, sự việc biển cả là nơi cư trú của các chúng sanh to lớn; ở đó, các chúng sanh ấy là cá ông, cá voi, cá ông voi, cá ông khổng lồ, các A-tu-la, các loài rồng, các Cán-thát-bà. Trong biển cả còn có những sinh vật lớn đến trăm do tuần, …(như trên)…, những sinh vật lớn đến năm trăm do tuần, này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ tám trong biển cả, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả.
[457] Này các tỳ khưu, tương tợ như thế trong Pháp và Luật này có tám pháp kỳ diệu phi thường, sau khi xem xét kỷ lưỡng những pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này. Tám điều ấy là gì?
Này các tỳ khưu, giống như biển cả sâu xuống dần dần, có độ dốc xuống dần dần, có sự lõm xuống dần dần, không có vực sâu một cách đột ngột, này các tỳ khưu, tương tợ như thế trong Pháp và Luật này có sự học tập theo thứ lớp, có sự thực hành theo thứ lớp, có sự tiến bộ theo thứ lớp, không có sự chứng ngộ đột ngột nào khác. Này các tỳ khưu, sự việc trong Pháp và Luật này có sự học tập theo thứ lớp, có sự thực hành theo thứ lớp, có sự tiến bộ theo thứ lớp, không có sự chứng ngộ đột ngột nào khác, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ nhất trong Pháp và Luật này, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này.
[458] Này các tỳ khưu, giống như biển cả có bản chất ổn định, không tràn qua khỏi bờ, này các tỳ khưu, tương tợ như thế điều học nào đã được ta quy định cho các đệ tử, các đệ tử của ta không vượt qua điều học ấy dù là nguyên nhân mạng sống. Này các tỳ khưu, sự việc điều học nào đã được ta quy định cho các đệ tử, các đệ tử của ta không vượt qua điều học ấy dù là nguyên nhân mạng sống, này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ hai trong Pháp và Luật này, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này.
[459] Này các tỳ khưu, giống như biển cả không sống chung với xác chết nghĩa là khi ở trong biển cả có xác chết, nó tức thời đưa xác chết ấy vào bờ và hất lên trên đất liền, này các tỳ khưu, tương tợ như thế nhân vật nào là kẻ ác giới, ác pháp, sở hành bất tịnh và đáng nghi ngờ, có hành động che giấu, phi sa-môn, giả mạo sa-môn, phi Phạm hạnh, giả mạo Phạm hạnh, nội tâm thối nát, đầy phiền não, có bản chất dơ bẩn, hội chúng không sống chung với kẻ ấy mà tức thời tụ hội lại loại trừ kẻ ấy ra; cho dù kẻ ấy ngồi giữa hội chúng tỳ khưu nhưng kẻ ấy vẫn bị tách ly khỏi hội chúng và hội chúng vẫn được tách ly với kẻ ấy. Này các tỳ khưu, sự việc nhân vật nào là kẻ ác giới, ác pháp, sở hành bất tịnh và đáng nghi ngờ, có hành động che giấu, phi sa-môn, giả mạo sa-môn, phi Phạm hạnh, giả mạo Phạm hạnh, nội tâm thối nát, đầy phiền não, có bản chất dơ bẩn, hội chúng không sống chung với nhân vật ấy mà tức thời tụ hội lại loại trừ kẻ ấy ra; cho dù kẻ ấy ngồi giữa hội chúng tỳ khưu nhưng kẻ ấy vẫn bị tách ly khỏi hội chúng và hội chúng vẫn được tách ly với kẻ ấy, này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ ba trong Pháp và Luật này, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này.
[460] Này các tỳ khưu, giống như các con sông lớn như là Gaṅgā, Yamunā, Aciravatī, Sarabhū, Mahī khi đã ra đến biển cả thì từ bỏ các tên họ trước đây và hòa chung lại gọi là “Biển cả,” này các tỳ khưu, tương tợ như thế bốn loại giai cấp này là Khattiya (Sát-đế-lỵ), Brāhmaṇa (Bà-la-môn), Vessa (Vệ-xá), và Sudda (Thủ-đà-la), khi họ đã rời nhà xuất gia sống không nhà trong Pháp và Luật được tuyên thuyết bởi đức Như Lai thì từ bỏ các tên họ trước đây và hòa chung lại gọi là “Các sa-môn Thích tử.” Này các tỳ khưu, sự việc bốn loại giai cấp này là Khattiya (Sát-đế-lỵ), Brāhmaṇa (Bà-la-môn), Vessa (Vệ-xá), và Sudda (Thủ-đà-la), khi họ đã rời nhà xuất gia sống không nhà trong Pháp và Luật được tuyên thuyết bởi đức Như Lai thì từ bỏ các tên họ trước đây và hòa chung lại gọi là “Các sa-môn Thích tử,” này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ tư trong Pháp và Luật này, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này.
[461] Này các tỳ khưu, giống như các giòng nước ở trái đất đổ vào biển cả và các trận mưa từ không trung rơi xuống, nhưng không vì điều ấy mà biển cả được xem là vơi đi hoặc tràn đầy, này các tỳ khưu, tương tợ như thế cho dù nhiều vị tỳ khưu Vô Dư Niết Bàn trong cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót, nhưng không vì điều ấy mà cảnh giới Niết Bàn được xem là vơi đi hoặc tràn đầy. Này các tỳ khưu, sự việc cho dù nhiều vị tỳ khưu Vô Dư Niết Bàn trong cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót, nhưng không vì điều ấy mà cảnh giới Niết Bàn được xem là vơi đi hoặc tràn đầy, này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ năm trong Pháp và Luật này, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này.
[462] Này các tỳ khưu, giống như biển cả có một vị là vị của muối, này các tỳ khưu, tương tợ như thế Pháp và Luật này có một vị là vị của giải thoát. Này các tỳ khưu, sự việc Pháp và Luật này có một vị là vị của giải thoát, này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ sáu trong Pháp và Luật này, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này.
[463] Này các tỳ khưu, giống như biển cả có nhiều vật quý, vô số vật quý; ở đó, các vật quý ấy như là ngọc trai, ngọc ma-ni, ngọc bích, xà cừ, đá quý, san hô, bạc, vàng, ngọc ru-by, ngọc mắt mèo, này các tỳ khưu, tương tợ như thế Pháp và Luật này có nhiều vật quý, vô số vật quý; ở đây, các vật quý ấy như là Bốn Niệm Xứ, Bốn Chánh Cần, Bốn Như Ý Túc, Năm Quyền, Năm Lực, Bảy Pháp đưa đến Giác Ngộ, Thánh Đạo Tám Ngành. Này các tỳ khưu, sự việc Pháp và Luật này có nhiều vật quý, vô số vật quý; ở đây, các vật quý ấy như là Bốn Niệm Xứ, …(như trên)…, Thánh Đạo Tám Ngành, này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ bảy trong Pháp và Luật này, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này.
[464] Này các tỳ khưu, giống như biển cả là nơi cư trú của các chúng sanh to lớn; ở đó, các chúng sanh ấy là cá ông, ...(như trên)..., các A-tu-la, các loài rồng, các Càn-thát-bà. Trong biển cả còn có những sinh vật lớn đến trăm do tuần, những sinh vật lớn đến hai trăm do tuần, những sinh vật lớn đến ba trăm do tuần, những sinh vật lớn đến bốn trăm do tuần, những sinh vật lớn đến năm trăm do tuần. Này các tỳ khưu, tương tợ như thế Pháp và Luật này là nơi cư trú của các chúng sanh vĩ đại; ở đây, các chúng sanh ấy là vị Nhập Lưu, vị đang thực hành để chứng ngộ quả vị Nhập Lưu, vị Nhất Lai, vị đang thực hành để chứng ngộ quả vị Nhất Lai, vị Bất Lai, vị đang thực hành để chứng ngộ quả vị Bất Lai, vị A-la-hán, vị đang thực hành để chứng ngộ quả vị A-la-hán. Này các tỳ khưu, sự việc Pháp và Luật này là nơi cư trú của các chúng sanh vĩ đại; ở đây, các chúng sanh ấy là vị Nhập Lưu, …(như trên)…, vị A-la-hán, vị đang thực hành để chứng ngộ quả vị A-la-hán, này các tỳ khưu, đây cũng là pháp kỳ diệu phi thường thứ tám trong Pháp và Luật này, sau khi xem xét kỷ lưỡng pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này.
Này các tỳ khưu đây là tám pháp kỳ diệu phi thường trong Pháp và Luật này, sau khi xem xét kỷ lưỡng những pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này.
[465] Sau đó, khi đã hiểu ra sự việc ấy, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:
Nước mưa bị văng lại
ở vật đã che đậy.
Nước mưa không văng lại
ở vật được mở ra.
Do đó, hãy mở ra
vật đã được che đậy,
như vậy, ở vật ấy
nước mưa không văng lại.
[466]Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, kể từ hôm nay ta sẽ không tiến hành lễUposatha nào khác, ta sẽ không tuyên đọc giới bổn nữa. Chính các ngươi, kể từ hôm nay các ngươi có thể tiến hành lễUposatha, các ngươi có thể tụng đọc giới bổn Pātimokkha. Này các tỳ khưu, sự việc này không hợp lý không có cơ sở là việc đức Như Lai có thể tiến hành lễUposatha, có thể tuyên đọc giới bổn Pātimokkha ở hội chúng không thanh tịnh. Này các tỳ khưu, vị phạm tội không nên nghe giới bổn Pātimokkha; vị nào nghe thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các tỳ khưu, vị nào phạm tội mà lắng nghe giới bổn Pātimokkha, ta cho phép đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy. Và này các tỳ khưu, nên đình chỉ như vầy: Vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, nên nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) là vị phạm tội, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.” Giới bổn Pātimokkha đã được đình chỉ.
[467] Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư chính là những vị phạm tội mà vẫn nghe giới bổn Pātimokkha (nghĩ rằng): “Không ai biết chúng ta đâu!” Các tỳ khưu trưởng lão biết được tâm của người khác nên báo cho các tỳ khưu rằng:
- Này các đại đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tên (như vầy) và tên (như vầy) chính là những vị phạm tội mà vẫn nghe giới bổn Pātimokkha (nghĩ rằng): “Không ai biết chúng ta đâu!”
Các tỳ khưu nhóm Lục Sư đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu trưởng lão biết được tâm của người khác nên báo cho các tỳ khưu rằng: ‘Này các đại đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tên (như vầy) và tên (như vầy) chính là những vị phạm tội mà vẫn nghe giới bổn Pātimokkha (nghĩ rằng): ‘Không ai biết chúng ta đâu!’ ” Các vị ấy (nghĩ rằng): “Trước hết, các tỳ khưu trong sạch sẽ đình chỉ giới bổn Pātimokkha của chúng ta” nên ra tay trước đình chỉ giới bổn Pātimokkha của các tỳ khưu trong sạch không phạm tội khi không có cơ sở, không có nguyên nhân. Các tỳ khưu ít ham muốn, …(như trên)…, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư lại đình chỉ giới bổn Pātimokkha của các tỳ khưu trong sạch không có phạm tội khi không có cơ sở, không có nguyên nhân?
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu nhóm Lục Sư đình chỉ giới bổn Pātimokkha của các tỳ khưu trong sạch không có phạm tội khi không có cơ sở, không có nguyên nhân, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, không nên đình chỉ giới bổn Pātimokkha của các tỳ khưu trong sạch không có phạm tội khi không có cơ sở, không có nguyên nhân; vị nào đình chỉ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[468] Này các tỳ khưu, một sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, một sự đúng Pháp; hai sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, hai sự đúng Pháp; ba sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, ba sự đúng Pháp; bốn sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, bốn sự đúng Pháp; năm sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, năm sự đúng Pháp; sáu sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, sáu sự đúng Pháp; bảy sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, bảy sự đúng Pháp; tám sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, tám sự đúng Pháp; chín sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, chín sự đúng Pháp; mười sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, mười sự đúng Pháp.
[469] Thế nào là một sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Đây là một sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp.
[470] Thế nào là một sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới có nguyên cớ. Đây là một sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
[471] Thế nào là hai sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm không có nguyên cớ. Đây là hai sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp.
[472] Thế nào là hai sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm có nguyên cớ. Đây là hai sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
[473] Thế nào là ba sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến không có nguyên cớ. Đây là ba sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp.
[474] Thế nào là ba sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến có nguyên cớ. Đây là ba sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
[475] Thế nào là bốn sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến không có nguyên cớ. Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về nuôi mạng không có nguyên cớ. Đây là bốn sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp.
[476] Thế nào là bốn sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về nuôi mạng có nguyên cớ. Đây là bốn sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
[477] Thế nào là năm sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pārājika (bất cộng trụ) không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội saṅghādisesa (tăng tàng) không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pācittiya (ưng đối trị) không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ) không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội dukkaṭa (tác ác) không có nguyên cớ. Đây là năm sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp.
[478] Thế nào là năm sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pārājika (bất cộng trụ) có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội saṅghādisesa (tăng tàng) có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pācittiya (ưng đối trị) có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ) có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội dukkaṭa (tác ác) có nguyên cớ. Đây là năm sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
[479] Thế nào là sáu sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới chưa được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới đã được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm chưa được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến chưa được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến đã được thực hiện không có nguyên cớ. Đây là sáu sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp.
[480] Thế nào là sáu sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới chưa được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới đã được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm chưa được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến chưa được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến đã được thực hiện có nguyên cớ. Đây là sáu sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
[481] Thế nào là bảy sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pārājika (bất cộng trụ) không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội saṅghādisesa (tăng tàng) không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội thullaccaya (trọng tội) không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pācittiya (ưng đối trị) không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ) không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội dukkaṭa (tác ác) không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội dubbhāsita (ác khẩu) không có nguyên cớ. Đây là bảy sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp.
[482] Thế nào là bảy sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pārājika (bất cộng trụ) có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội saṅghādisesa (tăng tàng) có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội thullaccaya (trọng tội) có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pācittiya (ưng đối trị) có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pāṭidesanīya (ưng phát lộ) có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội dukkaṭa (tác ác) có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội dubbhāsita (ác khẩu) có nguyên cớ. Đây là bảy sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
[483] Thế nào là tám sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới chưa được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới đã được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm chưa được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến chưa được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến đã được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về nuôi mạng chưa được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về nuôi mạng đã được thực hiện không có nguyên cớ. Đây là tám sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp.
[484] Thế nào là tám sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới chưa được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới đã được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm chưa được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến chưa được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến đã được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về nuôi mạng chưa được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về nuôi mạng đã được thực hiện có nguyên cớ. Đây là tám sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
[485] Thế nào là chín sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới chưa được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới đã được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới đã được thực hiện và chưa được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm chưa được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã được thực hiện và chưa được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến chưa được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến đã được thực hiện không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến đã được thực hiện và chưa được thực hiện không có nguyên cớ. Đây là chín sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp.
[486] Thế nào là chín sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới chưa được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới đã được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới đã được thực hiện và chưa được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm chưa được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã được thực hiện và chưa được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến chưa được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến đã được thực hiện có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến đã được thực hiện và chưa được thực hiện có nguyên cớ. Đây là chín sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
[487] Thế nào là mười sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị phạm tội pārājika (bất cộng trụ) không ngồi trong tập thể đó, sự thảo luận về việc phạm tội pārājika chưa được dứt điểm, vị đã xả bỏ sự học tập không ngồi trong tập thể đó, sự thảo luận về (trường hợp) xả bỏ sự học tập chưa được dứt điểm, vị phục tùng thỏa ước đúng Pháp (dhammikaṃ sāmaggiṃ upeti), vị không bác bỏ thỏa ước đúng Pháp (na dhammikaṃ sāmaggiṃ paccādiyati), sự thảo luận về việc bác bỏ thỏa ước đúng Pháp chưa được dứt điểm, vị không bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới, vị không bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm, vị không bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến. Đây là mười sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp.
[488] Thế nào là mười sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? Vị phạm tội pārājika (bất cộng trụ) ngồi trong tập thể đó, sự thảo luận về việc phạm tội pārājika đã được dứt điểm, vị đã xả bỏ sự học tập ngồi trong tập thể đó, sự thảo luận về (trường hợp) xả bỏ sự học tập đã được dứt điểm, vị không phục tùng thỏa ước đúng Pháp (dhammikaṃ sāmaggiṃ na upeti), vị bác bỏ thỏa ước đúng Pháp (dhammikaṃ sāmaggiṃ paccādiyati), sự thảo luận về việc bác bỏ thỏa ước đúng Pháp đã được dứt điểm, vị bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới, vị bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm, vị bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến. Đây là mười sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.
[489] Thế nào là vị phạm tội pārājika (bất cộng trụ) ngồi trong tập thể đó?
Này các tỳ khưu, ở đây sự phạm tội pārājika hiện hữu với những hình thức nào, với những đặc tính nào, với những dấu hiệu nào, vị tỳ khưu nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang phạm tội pārājika với những hình thức ấy, với những đặc tính ấy, với những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang phạm tội pārājika nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) đã phạm tội pārājika!” Cho dù vị tỳ khưu không thấy vị tỳ khưu (khác) đang phạm tội pārājika và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) đã phạm tội pārājika!” nhưng chính vị tỳ khưu (phạm tội) ấy đã nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, tôi đã phạm tội pārājika!” này các tỳ khưu, do được nghe điều ấy, do được thấy điều ấy, do nghi ngờ điều ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) đã phạm tội pārājika, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.”
Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.
[490] Khi giới bổn Pātimokkha của vị tỳ khưu đã bị đình chỉ, (nếu) tập thể giải tán do sự nguy hiểm nào đó trong mười sự nguy hiểm là sự nguy hiểm từ đức vua, sự nguy hiểm vì trộm cướp, sự nguy hiểm vì hỏa hoạn, sự nguy hiểm vì nước ngập, sự nguy hiểm vì loài người, sự nguy hiểm vì phi nhân, sự nguy hiểm vì thú dữ, sự nguy hiểm vì rắn, sự nguy hiểm vì mạng sống, sự nguy hiểm vì Phạm hạnh, này các tỳ khưu, tại trú xứ ấy hoặc trú xứ nào khác, vị tỳ khưu (nguyên cáo) nếu muốn thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự thảo luận về tội pārājika của nhân vật tên (như vầy) chưa được dứt điểm, sự việc ấy chưa được quyết định. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên quyết định sự việc này.”
Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được, thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, nên nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự thảo luận về tội pārājika của nhân vật tên (như vầy) chưa được dứt điểm, sự việc ấy chưa được quyết định. Tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.”
Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.
[491] Thế nào là vị đã xả bỏ sự học tập ngồi trong tập thể đó?
Này các tỳ khưu, ở đây sự học tập được vị tỳ khưu xả bỏ với những hình thức nào, với những đặc tính nào, với những dấu hiệu nào, vị tỳ khưu nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang xả bỏ sự học tập với những hình thức ấy, với những đặc tính ấy, với những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang xả bỏ sự học tập nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) đã xả bỏ sự học tập!” Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang xả bỏ sự học tập và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) đã xả bỏ sự học tập!” nhưng chính vị tỳ khưu (xả bỏ sự học tập) ấy đã nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, tôi đã xả bỏ sự học tập!” này các tỳ khưu, do được nghe điều ấy, do được thấy điều ấy, do nghi ngờ điều ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) đã xả bỏ sự học tập, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.”
Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.
[492] Khi giới bổn Pātimokkha của vị tỳ khưu đã bị đình chỉ, (nếu) tập thể giải tán do sự nguy hiểm nào đó trong mười sự nguy hiểm là sự nguy hiểm từ đức vua, ...(như trên)..., sự nguy hiểm vì Phạm hạnh, này các tỳ khưu, tại trú xứ ấy hoặc trú xứ nào khác, vị tỳ khưu (nguyên cáo) nếu muốn thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự thảo luận về việc xả bỏ sự học tập của nhân vật tên (như vầy) chưa được dứt điểm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên quyết định sự việc này.”
Nếu việc ấy đạt được như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đạt được, thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, nên nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự thảo luận về việc xả bỏ sự học tập của nhân vật tên (như vầy) chưa được dứt điểm, sự việc ấy chưa được quyết định. Tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.”
Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.
[493] Thế nào là vị không phục tùng thỏa ước đúng Pháp (dhammikaṃ sāmaggiṃ na upeti)?
Này các tỳ khưu, ở đây việc không phục tùng thỏa ước đúng Pháp hiện hữu với những hình thức nào, với những đặc tính nào, với những dấu hiệu nào, và vị tỳ khưu nhìn thấy vị tỳ khưu khác không phục tùng thỏa ước đúng Pháp với những hình thức ấy, với những đặc tính ấy, với những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) không phục tùng thỏa ước đúng Pháp nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) không phục tùng thỏa ước đúng Pháp!” Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) không phục tùng thỏa ước đúng Pháp và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) không phục tùng thỏa ước đúng Pháp!” nhưng chính vị tỳ khưu (không phục tùng) ấy đã nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, tôi không phục tùng thỏa ước đúng Pháp!” này các tỳ khưu, do được nghe điều ấy, do được thấy điều ấy, do nghi ngờ điều ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) không phục tùng thỏa ước đúng Pháp, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.”
Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.
[494]Thế nào là vị bác bỏ thỏa ước đúng Pháp (dhammikaṃ sāmaggiṃ paccādiyati)?
Này các tỳ khưu, ở đây việc bác bỏ thỏa ước đúng Pháp hiện hữư với những hình thức nào, với những đặc tính nào, với những dấu hiệu nào, vị tỳ khưu nhìn thấy vị tỳ khưu khác đang bác bỏ thỏa ước đúng Pháp với những hình thức ấy, với những đặc tính ấy, với những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang bác bỏ thỏa ước đúng Pháp nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bác bỏ thỏa ước đúng Pháp!” Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang bác bỏ thỏa ước đúng Pháp và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bác bỏ thỏa ước đúng Pháp!” nhưng chính vị tỳ khưu (bác bỏ thỏa ước) ấy đã nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, tôi bác bỏ thỏa ước đúng Pháp!” Này các tỳ khưu, do được nghe điều ấy, do được thấy điều ấy, do nghi ngờ điều ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) bác bỏ thỏa ước đúng Pháp, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.”
Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.
[495] Khi giới bổn Pātimokkha của vị tỳ khưu đã bị đình chỉ, (nếu) tập thể giải tán do sự nguy hiểm nào đó trong mười sự nguy hiểm là sự nguy hiểm từ đức vua, …(như trên)…, sự nguy hiểm vì Phạm hạnh. Này các tỳ khưu, tại trú xứ ấy hoặc trú xứ nào khác, vị tỳ khưu (nguyên cáo) nếu muốn thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự thảo luận về việc bác bỏ thỏa ước đúng Pháp của nhân vật tên (như vầy) chưa được dứt điểm, sự việc ấy chưa được quyết định. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên quyết định sự việc ấy.”
Nếu sự việc ấy có thể đạt được như vậy, sự việc ấy như thế là tốt đẹp. Nếu không thể đạt được, thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, nên nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự thảo luận về việc bác bỏ thỏa ước đúng Pháp của nhân vật tên (như vầy) chưa được dứt điểm, sự việc ấy chưa được quyết định. Tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.”
Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.
[496] Thế nào là vị bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới?
Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới do những hình thức nào, do những đặc tính nào, do những dấu hiệu nào, vị tỳ khưu biết được vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới bởi những hình thức ấy, bởi những đặc tính ấy, bởi những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không biết được vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới!” Cho dù vị tỳ khưu không biết được vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới!” nhưng chính vị tỳ khưu (can phạm) ấy đã nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, tôi bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới!” Này các tỳ khưu, do được nghe điều ấy, do được thấy điều ấy, do nghi ngờ điều ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, nên nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.”
Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.
[497] Thế nào là vị bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm?
Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm do những hình thức nào, do những đặc tính nào, do những dấu hiệu nào, vị tỳ khưu biết được vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm bởi những hình thức ấy, bởi những đặc tính ấy, bởi những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không biết được vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm!” Cho dù vị tỳ khưu không biết được vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm!” nhưng chính vị tỳ khưu (can phạm) ấy đã nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, tôi bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm!” Này các tỳ khưu, do được nghe điều ấy, do được thấy điều ấy, do nghi ngờ điều ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.”
Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.
[498] Thế nào là vị bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến?
Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến do những hình thức nào, do những đặc tính nào, do những dấu hiệu nào, vị tỳ khưu biết được vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến bởi những hình thức ấy, bởi những đặc tính ấy, bởi những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không biết được vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến!” Cho dù vị tỳ khưu không biết được vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến!” nhưng chính vị tỳ khưu (can phạm) ấy đã nói với vị tỳ khưu rằng: “Này đại đức, tôi bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến!” Này các tỳ khưu, do được nghe điều ấy, do được thấy điều ấy, do nghi ngờ điều ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngàyUposatha là ngày mười bốn hoặc mười lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.”
Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.
Dứt tụng phẩm thứ nhất.
[499]Khi ấy, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã nói với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, vị tỳ khưu có ý muốn áp dụng sự hành xử (attādānaṃ ādātukāmena bhikkhunā) nên áp dụng sự hành xử khi được hội đủ bao nhiêu điều kiện?
- Này Upāli, vị tỳ khưu có ý muốn áp dụng sự hành xử nên áp dụng sự hành xử khi hội đủ năm điều kiện:
Này Upāli, vị tỳ khưu có ý muốn áp dụng sự hành xử nên quán xét như sau: “Việc ta có ý muốn áp dụng sự hành xử này là đúng thời điểm để áp dụng sự hành xử này hay không đúng (thời điểm)?” Này Upāli, nếu vị tỳ khưu trong lúc quán xét biết rõ như vầy: “Sái thời điểm để áp dụng sự hành xử này, không phải đúng thời điểm.”Này Upāli, không nên áp dụng sự hành xử ấy.
Này Upāli, nếu vị tỳ khưu trong lúc quán xét biết rõ như vầy: “Đúng thời điểm để áp dụng sự hành xử này, không phải sái thời điểm;” này Upāli, vị tỳ khưu ấy nên quán xét thêm rằng: “Việc ta có ý muốn áp dụng sự hành xử này, nhưng sự hành xử này là hợp lý hay không (hợp lý)?” Này Upāli, nếu vị tỳ khưu trong lúc quán xét biết rõ như vầy: “Sự hành xử này là vô lý, không hợp lý;” này Upāli, không nên áp dụng sự hành xử ấy.
Này Upāli, nếu vị tỳ khưu trong lúc quán xét biết rõ như vầy: “Sự hành xử này là hợp lý, không phải không hợp lý;” này Upāli, vị tỳ khưu ấy nên quán xét thêm rằng: “Việc ta có ý muốn áp dụng sự hành xử này, nhưng sự hành xử này có đem lại sự lợi ích hay không (đem lại sự lợi ích)?” Này Upāli, nếu vị tỳ khưu trong lúc quán xét biết rõ như vầy: “Sự hành xử này đem lại sự vô ích, không đem lại sự lợi ích;” này Upāli, không nên áp dụng sự hành xử ấy.
Này Upāli, nếu vị tỳ khưu trong lúc quán xét biết rõ như vầy: “Sự hành xử này đem lại sự lợi ích, không phải đem lại sự vô ích;” này Upāli, vị tỳ khưu ấy nên quán xét thêm rằng: “Trong khi áp dụng sự hành xử này, ta sẽ đạt được các tỳ khưu cùng tri kiến cùng quan điểm ở trong nhóm theo đúng Pháp theo đúng Luật hay sẽ không (đạt được)?” Này Upāli, nếu vị tỳ khưu trong lúc quán xét biết rõ như vầy: “Trong khi áp dụng sự hành xử này, ta sẽ không đạt được các tỳ khưu cùng tri kiến cùng quan điểm ở trong nhóm theo đúng Pháp theo đúng Luật;” này Upāli, không nên áp dụng sự hành xử ấy.
Này Upāli, nếu vị tỳ khưu trong lúc quán xét biết rõ như vầy: “Trong khi áp dụng sự hành xử này, ta sẽ đạt được các tỳ khưu cùng tri kiến cùng quan điểm ở trong nhóm theo đúng Pháp, theo đúng Luật;” này Upāli, vị tỳ khưu ấy nên quán xét thêm rằng: “Khi sự hành xử này của ta được thừa nhận, do nguyên nhân ấy sẽ xảy ra sự tranh cãi, cãi cọ, xung đột, tranh luận cho hội chúng, (sẽ xảy ra) sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự phân loại trong hội chúng, sự đa dạng trong hội chúng hay sẽ không xảy ra?” Này Upāli, nếu vị tỳ khưu trong lúc quán xét biết rõ như vầy: “Khi sự hành xử này của ta được thừa nhận, do nguyên nhân ấy sẽ xảy ra sự tranh cãi, cãi cọ, xung đột, tranh luận cho hội chúng, (sẽ xảy ra) sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự phân loại trong hội chúng, sự đa dạng trong hội chúng;” này Upāli, không nên áp dụng sự hành xử ấy.
Này Upāli nếu vị tỳ khưu trong lúc quán xét biết rõ như vầy: “Khi sự hành xử này của ta được thừa nhận, do nguyên nhân ấy sẽ không xảy ra sự tranh cãi, cãi cọ, xung đột, tranh luận cho hội chúng, (sẽ không xảy ra) sự chia rẽ hội chúng, sự bất đồng trong hội chúng, sự phân loại trong hội chúng, sự đa dạng trong hội chúng;” này Upāli, nên áp dụng sự hành xử ấy.
Này Upāli, sự hành xử hội đủ năm điều kiện như thế được áp dụng sẽ không đem lại sự ân hận sau này.
[500]- Bạch ngài, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên quán xét bản thân (ajjhattaṃ) bao nhiêu pháp rồi mới nên khiển trách vị khác?
- Này Upāli, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên quán xét bản thân năm pháp rồi mới nên khiển trách vị khác.
Này Upāli, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên quán xét như vầy: “Ta có sở hành về thân trong sạch không? Ta có hội đủ sở hành về thân trong sạch, không sai sót, không lỗi lầm không? Pháp ấy được tìm thấy ở ta hay không (được tìm thấy)?” Này Upāli, nếu vị tỳ khưu không có sở hành về thân trong sạch, không hội đủ sở hành về thân trong sạch, không sai sót, không lỗi lầm, có những người nói với vị ấy rằng: “Này, đến lúc đại đức nên rèn luyện điều liên quan đến thân;” như thế là những người nói về vị ấy.
[501] Này Upāli, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên quán xét như vầy: “Ta có sở hành về khẩu trong sạch không? Ta có hội đủ sở hành về khẩu trong sạch, không sai sót, không lỗi lầm không? Pháp ấy được tìm thấy ở ta hay không (được tìm thấy)?” Này Upāli, nếu vị tỳ khưu không có sở hành về khẩu trong sạch, không hội đủ sở hành về khẩu trong sạch, không sai sót, không lỗi lầm, có những người nói với vị ấy rằng: “Này, đến lúc đại đức nên rèn luyện điều liên quan đến khẩu;” như thế là những người nói về vị ấy.
[502] Này Upāli, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên quán xét như vầy: “Tâm từ của ta tức là tâm không ác cảm đối với các vị đồng Phạm hạnh có hiện khởi không?Pháp ấy được tìm thấy ở ta hay không (được tìm thấy)?” Này Upāli, nếu tâm từ của vị tỳ khưu là tâm không ác cảm đối với các vị đồng Phạm hạnh không có hiện khởi, có những người nói với vị ấy rằng: “Này, đến lúc đại đức nên thể hiện tâm từ đến các vị đồng Phạm hạnh;” như thế là nhữngngười nói về vị ấy.
[503] Này Upāli, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên quán xét như vầy: “Ta có phải là vị nghe nhiều, là vị ghi nhớ được điều đã nghe, có sự tích lũy điều đã nghe không? Những Pháp nào có sự tốt đẹp ở phần đầu, tốt đẹp ở phần giữa, tốt đẹp ở phần cuối, tuyên thuyết về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ, có sự thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự,các Pháp có hình thức tương tợ như thế có được ta nghe nhiều, có được ghi nhớ, có được tích lũy bằng cách đọc lại, có được dụng tâm quán xét, có được thâm nhập bằng tri kiến không?Pháp ấy được tìm thấy ở ta hay không (được tìm thấy)?” Này Upāli, nếu vị tỳ khưu không phải là vị nghe nhiều, không phải là vị ghi nhớ được điều đã nghe, không có tích lũy điều đã nghe. Những Pháp nào có sự tốt đẹp ở phần đầu, tốt đẹp ở phần giữa, tốt đẹp ở phần cuối, tuyên thuyết về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ, có sự thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, các Pháp có hình thức tương tợ như thế không được vị ấy nghe nhiều, không được ghi nhớ, không được tích lũy bằng cách đọc lại, không được dụng tâm quán xét, không được thâm nhập bằng tri kiến, có những người nói với vị ấy rằng: “Này, đến lúc đại đức nên học tập kinh điển;” như thế là nhữngngười nói về vị ấy.
[504] Này Upāli, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên quán xét như vầy: “Hai bộ giới bổn Pātimokkha có được truyền lại đến ta một cách chi tiết, khéo được phân tích, khéo được áp dụng, khéo được xác định theo từng điều học hoặc từng từ ngữ không?Pháp ấy được tìm thấy ở ta hay không (được tìm thấy)?” Này Upāli, nếu hai bộ giới bổn Pātimokkha không được truyền lại đến vị tỳ khưu một cách chi tiết, không khéo được phân tích, không khéo được áp dụng, không khéo được xác định theo từng điều học hoặc từng từ ngữ, khi được hỏi như vầy: “Này đại đức, điều này đã được đức Thế Tôn nói ở đâu?” mà không đáp được, có những người nói với vị ấy rằng: “Này, đến lúc đại đức nên học tập về Luật;” như thế là nhữngngười nói về vị ấy.
Này Upāli, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên quán xét bản thân năm pháp này rồi mới nên khiển trách vị khác.
[505] - Bạch ngài, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên chuẩn bị bản thân (ajjhattaṃ upaṭṭhāpetvā) bao nhiêu pháp rồi mới nên khiển trách vị khác?
- Này Upāli, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên chuẩn bị bản thân năm pháp rồi mới nên khiển trách vị khác: “Ta sẽ nói hợp thời, không phải sái thời; ta sẽ nói với sự thật, không phải với sự sai trái; ta sẽ nói với sự mềm mỏng, không phải bằng cách thô lỗ; ta sẽ nói có liên hệ đến lợi ích, không phải không liên hệ đến lợi ích; ta sẽ nói với tâm từ, không phải với nội tâm có sân hận.”
Này Upāli, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên chuẩn bị bản thân năm pháp này rồi mới nên khiển trách vị khác.
[506]- Bạch ngài, sự ân hận sẽ được xảy đến cho vị tỳ khưu khiển trách không đúng Pháp với bao nhiêu hình thức?
- Này Upāli, sự ân hận sẽ được xảy đến cho vị tỳ khưu khiển trách không đúng Pháp với năm hình thức. (Ai đó có thể nói rằng): “Đại đức khiển trách sái thời, không hợp thời, thế là đủ để đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức khiển trách với sự sai trái, không phải với sự thật, thế là đủ để đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức khiển trách bằng cách thô lỗ, không phải với sự mềm mỏng, thế là đủ để đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức khiển trách không liên hệ đến lợi ích, không phải có liên hệ đến lợi ích, thế là đủ để đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức khiển trách với nội tâm có sân hận, không phải với tâm từ, thế là đủ để đưa đến sự ân hận cho ngài.”
Này Upāli, sự ân hận sẽ được xảy đến cho vị tỳ khưu khiển trách không đúng Pháp với năm hình thức này. Lý do của điều ấy là gì? Là vì không có vị tỳ khưu nào khác có thể nghĩ đến là nên khiển trách với việc sai trái như thế.
[507] - Bạch ngài, sự không có ân hận sẽ được xảy đến cho vị tỳ khưu bị khiển trách không đúng Pháp với bao nhiêu hình thức?
- Này Upāli, sự không có ân hận sẽ được xảy đến cho vị tỳ khưu bị khiển trách không đúng Pháp với năm hình thức. (Ai đó có thể nói rằng): “Đại đức bị khiển trách sái thời, không hợp thời, thế là đủ để không đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức bị khiển trách với sự sai trái, không phải với sự thật, thế là đủ để không đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức bị khiển trách bằng cách thô lỗ, không phải với sự mềm mỏng, thế là đủ để không đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức bị khiển trách không liên hệ đến lợi ích, không phải có liên hệ đến lợi ích, thế là đủ để không đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức bị khiển trách bởi nội tâm có sân hận, không phải bởi tâm từ, thế là đủ để không đưa đến sự ân hận cho ngài.”
Này Upāli, sự không có ân hận sẽ được xảy đến cho vị tỳ khưu bị khiển trách không đúng Pháp với năm hình thức này.
[508] - Bạch ngài, sự không có ân hận sẽ được xảy đến cho vị tỳ khưu khiển trách đúng Pháp với bao nhiêu hình thức?
- Này Upāli, sự không có ân hận sẽ được xảy đến cho vị tỳ khưu khiển trách đúng Pháp với năm hình thức. (Ai đó có thể nói rằng): “Đại đức khiển trách hợp thời, không sái thời, thế là đủ để không đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức khiển trách với sự thật, không phải với sự sai trái, thế là đủ để không đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức khiển trách với sự mềm mỏng, không phải bằng cách thô lỗ, thế là đủ để không đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức khiển trách có liên hệ đến lợi ích, không phải không liên hệ đến lợi ích, thế là đủ để không đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức khiển trách với tâm từ, không phải với nội tâm có sân hận, thế là đủ để không đưa đến sự ân hận cho ngài.”
Này Upāli, sự không có ân hận sẽ được xảy đến cho vị tỳ khưu khiển trách đúng Pháp với năm hình thức này. Lý do của điều ấy là gì? Là vì cũng có vị tỳ khưu khác sẽ nghĩ đến nên khiển trách với sự thật như thế.
[509] - Bạch ngài, sự có ân hận sẽ được xảy đến cho vị tỳ khưu bị khiển trách đúng Pháp với bao nhiêu hình thức?
- Này Upāli, sự có ân hận sẽ được xảy đến cho vị tỳ khưu bị khiển trách đúng Pháp với năm hình thức. (Ai đó có thể nói rằng): “Đại đức bị khiển trách hợp thời, không sái thời, thế là đủ để đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức bị khiển trách với sự thật, không phải với sự sai trái, thế là đủ để đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức bị khiển trách với sự mềm mỏng, không phải bằng cách thô lỗ, thế là đủ để đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức bị khiển trách có liên hệ đến lợi ích, không phải không liên hệ đến lợi ích, thế là đủ để đưa đến sự ân hận cho ngài. Đại đức bị khiển trách bởi từ tâm, không phải bởi nội tâm có sân hận, thế là đủ để đưa đến sự ân hận cho ngài.”
Này Upāli, sự có ân hận sẽ được xảy đến cho vị tỳ khưu bị khiển trách đúng Pháp với năm hình thức này.
[510] - Bạch ngài, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên tác ý nội tâm bao nhiêu pháp rồi mới nên khiển trách vị khác?
- Này Upāli, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên tác ý nội tâm năm pháp rồi mới nên khiển trách vị khác: lòng bi mẫn, sự tầm cầu lợi ích, lòng thương xót, sự thoát khỏi tội, sự tôn trọng Luật.
Này Upāli, vị tỳ khưu nguyên cáo có ý muốn khiển trách vị khác nên tác ý nội tâm năm pháp này rồi mới nên khiển trách vị khác.
[511] - Bạch ngài, vị tỳ khưu bị khiển trách nên an trú trong bao nhiêu pháp?
- Này Upāli, vị tỳ khưu bị khiển trách nên an trú trong hai pháp: chân thật và không nổi giận.
Dứt tụng phẩm thứ nhì.
Dứt Chương Đình Chỉ Giới Bổn Pātimokkha là chương thứ chín.
Trong chương này có ba mươi sự việc, hai tụng phẩm.
*******
Tóm lược chương này:
[512]
Trong ngày lễ Bố Tát,
cho đến lần thứ ba
ác tỳ khưu không ra
cũng đã bị kéo ra
bởi Moggallāna.
Diệu kỳ trong Pháp Phật:
điều học theo thứ lớp
ổn định, không vượt qua,
hội chúng chê xác thối,
các sông bỏ (tên gọi)
và trôi chảy, Niết Bàn
chỉ một vị giải thoát,
Pháp và Luật có nhiều
thú lớn, tám Thánh Nhân,
Ngài đã dùng ví dụ
biển cả để phô bày
tính chất của Giáo Pháp.
Giới bổn ngày Bố Tát,
“Không ai biết chúng ta!”
vì sửa chữa, chúng hủy
một, hai, ba, bốn, năm,
sáu, bảy, tám, chín, mười:
Giới, hạnh kiểm, tri kiến,
nuôi mạng là bốn phần,
bất cộng trụ, tăng tàng
ưng đối trị, phát lộ,
tác ác thuộc năm phần.
Hư hỏng giới, hạnh kiểm,
chưa làm và đã làm,
theo cách này sáu phần.
Bất cộng trụ, tăng tàng,
trọng tội, ưng đối trị,
ưng phát lộ, tác ác,
và lời nói sái quấy.
Hư hỏng giới, hạnh kiểm,
tri kiến, nuôi mạng sai.
tám điều làm, chưa làm.
Giới, hạnh kiểm, tri kiến,
chưa làm, và đã làm,
đã làm và chưa làm,
như vậy là chín cách
đã được đề cập đến,
theo phương pháp như thật.
Kẻ bị bất cộng trụ,
các chuyện còn chưa quyết,
vị hoàn tục giống y,
vị phục tùng, bác bỏ,
thảo luận sự bác bỏ.
Sự hư hỏng về giới
và hạnh kiểm, cũng vậy
sự hư hỏng tri kiến.
được thấy, nghe, nghi ngờ,
hãy biết rõ điều ấy,
cả thảy có mười cách.
Tỳ khưu thấy tỳ khưu,
vị khác nói điều ấy,
trong sạch, vị ấy khai
và đình chỉ giới bổn
Pātimokkha lại.
Giải tán vì nguy hiểm:
vua, cướp, lửa, và nước,
người, phi nhân, thú, rắn,
mạng sống và Phạm hạnh,
chỉ một điều của mười,
hoặc trong các điều khác.
Đúng Pháp và phi Pháp,
biết đường lối như vầy:
về thời gian, sự thật,
có liên hệ lợi ích,
ta sẽ đạt hoặc có,
thuộc thân, khẩu, từ tâm,
học nhiều, hai bộ phái,
đúng thời, theo sự thật,
lời mềm mỏng, lợi ích,
tâm từ, vị khiển trách
ân hận bởi phi Pháp
như thế sẽ xóa đi.
Với vị khi khiển trách
và vị bị khiển trách,
theo Pháp không ân hận,
vì bi mẫn, lợi ích,
thương xót, sự thoát tội,
vì tôn vinh (Giới Luật).
Hành động vị khiển trách
đấng Toàn Giác đã giảng,
còn vị bị khiển trách
chân thật, không sân hận.
[1] Tức là nữ cư sĩ Visākhā.
-ooOoo-