Skip directly to content

ĐIỀU SAṄGHĀDISESA (TĂNG TÀNG) THỨ TƯ

[416] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi là vị thường tới lui với các gia đình và đi đến nhiều gia đình ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà góa chồng nọ đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Udāyi đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến tư gia của người đàn bà ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người đàn bà ấy đã đi đến gặp đại đức Udāyi, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Udāyi rồi ngồi xuống ở một bên. Đại đức Udāyi đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người đàn bà ấy đang ngồi ở một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Udāyi chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, người đàn bà ấy đã nói với đại đức Udāyi điều này:

- Thưa ngài, xin ngài cứ nói ra nhu cầu. Chúng tôi có khả năng để dâng đến ngài đại đức vật dụng tức là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh.

- Này em gái, những thứ ấy tức là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh thì chúng tôi đạt được không khó. Vậy hãy dâng cho chúng tôi điều mà chúng tôi khó đạt được.

- Thưa ngài, điều gì vậy?

- Việc đôi lứa.

- Thưa ngài, ngài cần điều ấy?

- Này em gái, ta cần điều ấy,

- Thưa ngài, hãy đi đến. Rồi đã đi vào phòng trong, cởi bỏ y phục, và nằm ngửa ra trên chiếc giường nhỏ.

Sau đó, đại đức Udāyi đã đi đến gặp người đàn bà ấy, sau khi đến (đã nói rằng):

- Ai mà sờ vào vật hạ tiện hôi thối này? Rồi đã nhổ bãi nước miếng và bỏ đi.

Khi ấy, người đàn bà ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Các vị sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa, nói láo. Chính các vị này làm ra vẻ là có sự thực hành Pháp, có thực hành sự an tịnh, có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp! Các vị này không có sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đã bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã không còn, Phạm hạnh của các vị này đã không còn! Vì sao sa-môn Udāyi sau khi đích thân cầu xin tôi việc đôi lứa (lại nói rằng): “Ai mà sờ vào vật hạ tiện hôi thối này?” rồi nhổ bãi nước miếng và bỏ đi? Tôi có điều gì xấu? Tôi có mùi hôi gì? Tôi thua kém với ai, vì điều gì?

Các người đàn bà khác cũng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Các vị sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn, giới hạnh xấu xa, nói láo. Chính các vị này làm ra vẻ là có sự thực hành Pháp, có thực hành sự an tịnh, có Phạm hạnh, nói lời chân thật, có giới hạnh, có thiện pháp! Các vị này không có sa-môn hạnh, các vị này không có Phạm hạnh! Sa-môn hạnh của các vị này đã bị hư hỏng, Phạm hạnh của các vị này đã bị hư hỏng! Sa-môn hạnh của các vị này đâu rồi? Phạm hạnh của các vị này đâu rồi? Sa-môn hạnh của các vị này đã không còn, Phạm hạnh của các vị này đã không còn! Vì sao Sa-môn Udāyi sau khi đích thân cầu xin cô ấy việc đôi lứa (lại nói rằng): “Ai mà sờ vào vật hạ tiện hôi thối này?” rồi nhổ bãi nước miếng và bỏ đi? Cô ấy có điều gì xấu? Cô ấy có mùi hôi gì? Cô ấy thua kém với ai, vì điều gì?

Các tỳ khưu đã nghe được những người đàn bà ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao đại đức Udāyi lại ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nữ?

Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi đại đức Udāyi rằng:

- Này Udāyi, nghe nói ngươi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nữ, có đúng không vậy?

- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nữ vậy? Này kẻ rồ dại, không phải ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, ...(như trên)... đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu nào bị khởi dục, do tâm bị thay đổi, rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nữ rằng: Này em gái, đây là việc đứng đầu trong các sự hầu hạ là việc người nữ nên hầu hạ đến người có giới, có thiện pháp, có Phạm hạnh như là ta bằng việc ấylà việc có tính chất đôi lứa, thì tội saṅghādisesa (tăng tàng).

[417] Vị nào: là bất cứ vị nào ...(như trên)...

Tỳ khưu: ...(như trên)... Vị này là “vị tỳ khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.

Bị khởi dục nghĩa là có dục vọng, có sự khao khát, có tâm say đắm.

Bị thay đổi: tâm có dục vọng là (tâm) bị thay đổi, tâm giận hờn là (tâm) bị thay đổi, tâm mê muội là (tâm) bị thay đổi. Tâm có dục vọng là (tâm) “bị thay đổi” được đề cập trong ý nghĩa này.

Người nữ nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có hiểu biết, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là dâm dật và không dâm dật.

Trong sự hiện diện của người nữ: xung quanh người nữ, không xa người nữ.

Tình dục cho bản thân: là tình dục của chính bản thân, có nguyên nhân của bản thân, có ý định cho bản thân, là sự phục vụ cho bản thân.

Đây là việc đứng đầu: điều này là tột đỉnh, điều này là hạng nhất, điều này là dẫn đầu, điều này là tối thượng, điều này là quý báu nhất.

Người nữ: là người nữ dòng vua chúa, hoặc là người nữ bà-la-môn, hoặc là người nữ thương buôn, hoặc là người nữ nô lệ.

Như là ta: là người dòng vua chúa, hoặc là bà-la-môn, hoặc là thương buôn, hoặc là nô lệ.

Người có giới: (người) có sự tránh xa việc sát sanh, có sự tránh xa việc trộm cắp, có sự tránh xa việc nói dối.

Có Phạm hạnh: có sự tránh xa việc đôi lứa.

Có thiện pháp nghĩa là với giới ấy và với Phạm hạnh ấy là (người) có thiện pháp.

Bằng việc ấy: bằng việc đôi lứa.

Nên hầu hạ: nên làm cho thích thú.

Có tính chất đôi lứa: là có liên quan đến việc hành dâm.

Tội saṅghādisesa (tăng tàng): ...(như trên)... vì thế được gọi là “tội saṅghādisesa.”

[418] Là người nữ và biết là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nữ ấy thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).

Là người nữ và có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nữ ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Là người vô căn và biết là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người vô căn ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội).

Là người vô căn và có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người vô căn ấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Là người nam và biết là người nam, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của người nam ấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Là loài thú và biết là loài thú, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của loài thú ấy thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

[419] Hai người nữ và biết hai người nữ là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người nữ ấy thì phạm hai tội saṅghādisesa (tăng tàng).

Hai người nữ và có sự hoài nghi là hai người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người nữ ấy thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).

Hai người vô căn và biết hai người vô căn là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người vô căn ấy thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội).

Hai người vô căn và có sự hoài nghi là hai người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người vô căn ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).

Hai người nam và biết hai người nam là người nam, ...(như trên)...

Hai con thú và biết hai con thú là loài thú, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai con thú ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).

Người nữ và người vô căn, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).

Người nữ và người vô căn, có sự hoài nghi về cả hai, ...(như trên)... thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác). ...(như trên)... (lầm) tưởng là người vô căn, ...(như trên)... thì phạm hai tội thullaccaya (trọng tội). ...(như trên)... (lầm) tưởng là người nam, ...(như trên)... (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).

Người nữ và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).

Người nữ và người nam, có sự hoài nghi về cả hai, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).

Người nữ và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng) và tội dukkaṭa (tác ác).

Người nữ và loài thú, có sự hoài nghi về cả hai, (lầm) tưởng là người vô căn, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).

Người vô căn và người nam, (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).

Người vô căn và người nam, có sự hoài nghi về cả hai, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).

Người vô căn và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm tội thullaccaya (trọng tội) và tội dukkaṭa (tác ác).

Người vô căn và loài thú, có sự hoài nghi về cả hai, (lầm) tưởng là người nam, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).

Người nam và loài thú, (lầm) tưởng cả hai là người nam, có sự hoài nghi, (lầm) tưởng là loài thú, (lầm) tưởng là người nữ, (lầm) tưởng là người vô căn, vị tỳ khưu bị khởi dục rồi ca ngợi sự hầu hạ tình dục cho bản thân trong sự hiện diện của hai người ấy thì phạm hai tội dukkaṭa (tác ác).

[420] Vị nói rằng: “Hãy hộ độ với vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

[421]

Cách nào bà hiếm muộn,
có được đức con trai?
được yêu quý, thương mến?
Tôi nên dâng vật gì?
Hộ độ bằng thứ gì?
Cách nào được sanh thiên?

[422] Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà không sanh sản nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:

- Thưa ngài, làm sao tôi có thể sanh con?

- Này em gái, hãy dâng vật thí hạng nhất.

- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?

- Là việc đôi lứa.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)... Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).

Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà còn sanh sản nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:

- Thưa ngài, làm sao tôi có thể có được con trai?

- Này em gái, hãy dâng vật thí hạng nhất.

- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?

- Là việc đôi lứa.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...

- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).

Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:

- Thưa ngài, làm sao tôi có thể được chồng yêu quý?

- Này em gái, hãy dâng vật thí hạng nhất.

- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?

- Là việc đôi lứa.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...

- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).

Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:

- Thưa ngài, làm sao tôi có thể được may mắn?

- Này em gái, hãy dâng vật thí hạng nhất.

- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?

- Là việc đôi lứa.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...

- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).

Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:

- Thưa ngài, tôi sẽ dâng ngài đại đức vật gì?

- Này em gái, hãy dâng vật thí hạng nhất.

- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?

- Là việc đôi lứa.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...

- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).

Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:

- Thưa ngài, tôi hộ độ ngài đại đức bằng vật gì?

- Này em gái, bằng vật thí hạng nhất.

- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?

- Là việc đôi lứa.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc. ...(như trên)...

- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).

Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà nọ đã nói với vị tỳ khưu thường tới lui với gia đình điều này:

- Thưa ngài, làm sao tôi có thể sanh về cõi trời?

- Này em gái, hãy dâng vật thí hạng nhất.

- Thưa ngài, cái gì là vật thí hạng nhất?

- Là việc đôi lứa.

Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Phải chăng ta đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng)?” Vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội saṅghādisesa (tăng tàng).

Dứt điều saṅghādisesa (tăng tàng) thứ tư.

*******