3. 1 PHẦN I: LY DỤC
Các con tu tập phần thứ nhất trước, đó là phần ly dục. Phần này các con phải lập 3 hạnh:
1. Ăn
2. Ngủ
3. Độc cư
Vậy ly dục là gì? Ly dục là lìa xa, rời xa, tránh xa lòng ham muốn của mình. Muốn lìa xa thì các con phải tìm xem đối tượng của lòng ham muốn là cái gì. Trong đời sống hàng ngày của con người có năm đối tượng dục lạc khiến cho tâm các con sanh ra ham muốn. Một là ăn, hai là ngủ, ba là sắc dục, bốn là danh, năm là lợi. Muốn xa lìa năm thứ dục lạc này, Thầy lấy ba hạnh để các con tu tập ly dục. Hạnh thứ nhất: ăn, hạnh thứ 2: ngủ, hạnh thứ 3: độc cư. Muốn tu tập lập được ba hạnh này thì các con đã xa lìa tâm ham muốn mà còn gọi là tâm ly dục. Muốn lập được ba hạnh này các con phải hiểu rõ nó, cái hại và cái lợi của ăn, ngủ, độc cư như thế nào?
3.1.1 Hạnh ăn
Bây giờ Thầy triển khai về hạnh ăn để các con thấu rõ. Hạnh ăn uống là một phương tiện để tu tập ly dục về ăn uống. Người đời thường nói “ham ăn, hốt uống” là để chỉ những hạng người xấu, cố thực, tham ăn, tham uống. Chúng ta là những tu sĩ tu của đạo giải thoát mà không giải thoát được cái ăn thì còn giải thoát được cái gì? Vậy, chúng ta phải tập ăn uống ngày một bữa để nuôi sống thân mà thôi. Không được ăn uống lặt vặt, không được ăn uống phi thời, không được chạy theo dục lạc của ăn uống. Phải luôn luôn cố gắng khắc phục.
Theo Đạo Phật không có dạy người ta tuyệt thực hay tiết thực. Xưa đức Phật tu khổ hạnh tối đa là tiết thực, ăn quá ít nên cơ thể suy mòn, tinh thần không sáng suốt. Do chỗ tu sai này không tìm được đạo giải thoát, nên đức Phật xả bỏ khổ hạnh tối đa, tức là bỏ hạnh tiết thực, chỉ còn giữ lại ăn uống đủ sống để cơ thể khỏe mạnh tu tập. Khi xả khổ hạnh tối đa, đức Phật trở về đời sống ăn ngày một bữa bình thường, vẫn khỏe mạnh cho đến 80 tuổi Ngài mới chết.
Chúng ta bây giờ cũng vậy, từ ngày các con đến Tu viện, ăn uống ngày một bữa mà vẫn khỏe mạnh. Thường trong giờ lao động đều có sự lao động nhưng cơ thể vẫn bình thường.
Các con nên xét kỹ về dục ăn uống, rất là quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Các con có nhìn thấy chăng, vì ăn uống mà người ta xâu xé lẫn nhau, giết hại nhau, chà đạp lên nhau mà chẳng có chút lòng xót thương yêu nhau, sánh loài vật cũng như vậy.
Vì ăn uống mà người ta nghèo đói, khổ sở, nợ nần; vì ăn uống mà người ta sanh ra trộm cắp đủ điều, gian lận, mánh khóe; vì ăn uống mà sản nghiệp tiêu tan; vì ăn uống mà cốt nhục tương tàn; vì ăn uống mà phải nhọc nhằn dầm sương, dãi nắng; vì ăn uống mà phải chạy xuôi, chạy ngược, buôn tảo, bán tần.
Bây giờ các con đã biết rõ sự dục về ăn uống là sự khổ biết là dường nào đối với đời người! Vậy từ đây về sau, các con thường đem nghị lực dũng mãnh chống lại sự tham ăn thích uống của mình, miễn sao ngày một bữa, có gì ăn nấy, chỉ đủ sống mà thôi, ngon dở, nguội lạnh không màng. Chỉ cần giải quyết được nghiệp đói của thân là đủ lắm rồi, là đủ để được thân yên ổn, thanh tịnh, tu tập thiền định, giải quyết luân hồi sanh tử. Đừng nay đòi món ăn này, mai đòi món ăn khác, ai cho gì ăn nấy, ngon cũng ăn, dở cũng ăn, không khen, không chê, không ham, không thích, chỉ ăn đủ no lòng mà thôi. Đừng có sanh tâm lý luận “Ăn thiếu chất bổ”. Đó là cái lý luận chạy theo ăn uống.
Các con phải hiểu thân là một khối do các duyên hợp lại mà thành, nên không có bản ngã thường hằng trong đó. Vậy mà muôn đời người ta lầm chấp cho cái khối duyên hợp này là cái ngã chân thật của mình. Lại có một số người cho rằng trong cái khối này có cái “bản thể chân thật" của mình trong đó. Chính vì chỗ lầm chấp đó nên luôn luôn lo bảo vệ và giữ gìn không cho ai chạm đến. Vì thế đời người sinh ra muôn ngàn thứ đau khổ, phiền lụy và luôn luôn tranh đấu.
Các con hôm nay cũng vậy, trải qua hơn một năm tu học, vẫn còn chấp ngã cứng chặt khư khư, chưa chịu lìa bỏ. Bằng chứng các con hay lí luận tranh cải và đồng thời sanh ra nhiều các duyên mới tạo cảnh bất an, tâm chưa hết thích ăn thích ngủ. Ngày nào đó, các duyên tan rã thì ô hô! Cái gì còn của các con? Hay chỉ còn là một khối nghiệp lực nhân quả, thiện ác khi còn sống các con đã tích lũy từ cái chấp ngã này. Do sự chấp ngã, các con đã tạo thành một khối nợ nần, khổ đau triền miên muôn kiếp, không bao giờ tàn phai. Sự tiếp diễn khối nợ nần này mãi mãi luân hồi muôn đời, muôn kiếp để trả vay, vay trả từ kiếp này đến kiếp khác. Sự tiếp diễn luân hồi này mãi mãi muôn đời muôn kiếp để trả vay vay trả, không bao giờ tàn phai.
Các con có biết chăng, trong cuộc đời này không có một sự việc gì xảy ra ngẫu nhiên cả. Tất cả đều có nguyên nhân, đều có lý do. Đó là nhân quả, chứ không phải như các nhà Nho ngày xưa và một số người ngày nay bài bác lý nhân quả, cho rằng tất cả mọi sự việc trên đời này xảy ra đều là ngẫu nhiên. Họ còn đem ví dụ là giống như chiếc lá vàng ở trên cây kia chỉ vô tình cơn gió ngẫu nhiên cũng đưa đẩy, những chiếc lá vàng này cái rơi xuống đất, cái rơi xuống bùn, cái xuôi dòng nước. Đời sống nghèo đói, giàu sang của con người cũng như vậy.
Các con có biết không? Cơn gió không phải là ngẫu nhiên mà có được, mà phải do các duyên như mặt trời nung đốt không khí. Không khí bị cháy, trống đi một khoảng, các không khí chỗ khác ập vào chỗ chỗ trống đó, tạo thành cơn gió bão. Sự nghèo đói và giàu sang của chúng ta không thể do ngẫu nhiên mà có được. Hoả hoạn, thuỷ tai, giặc giã cướp mất sự giàu sang, để lại sự nghèo đói cho muôn người. Đây là những cận duyên trong hiện kiếp. Còn những duyên sâu xa trong quá khứ kiếp khác nữa. Chúng ta hãy lần theo dấu chân nhân quả mà truy tìm các duyên thì các con sẽ thấy duyên nhân quả khởi trùng trùng dẫn dắt khối nợ nần nhân quả của kiếp người tiếp diễn luân hồi sanh tử và đau khổ mãi mãi muôn đời.
Đức Phật đã tóm lược qua một bài thuyết giảng Mười Hai Nhân Duyên để chỉ kiếp của một con người từ bắt đầu sanh ra đến tan rã chẳng có gì, chỉ là vô thường - khổ - vô ngã mà thôi. Ngài đã xác định không có một vật gì còn tồn tại trong đó, ở thế giới này cũng như ở thế giới khác. Có dịp Thầy sẽ giảng 12 Nhân Duyên mà đạo Phật đã chỉ cho kiếp con người, số phận của con người để các con hiểu. Phật đã đi trước, đã thấy rõ như vậy, Thầy đi sau cũng thấy rõ như vậy, rồi đây các con cũng thấy rõ như vậy. Cuộc đời con người chẳng có gì, chỉ là một khối Vô Minh nhân quả vay nợ đau khổ triền miên cùng với các duyên tan hợp. Thân bằng quyến thuộc, cha mẹ, anh em ruột thịt, vợ chồng con cái cũng chỉ là nợ nần nhân quả muôn đời muôn kiếp. Có gì phải thương nhớ, có gì phải tiếc mong phải không hỡi các con. Bỏ xuống đi, hãy bỏ xuống đi! Đời chẳng có gì.
“Quyết một đời tu tập không lui,
Giữ tâm thanh thản an vui.
Nhập Thiền Định xa lìa nhân quả,
Đạo quả viên thành, độ chúng vui”.
Thầy xin đọc lại chỗ này:
“Quyết một đời tu tập không lui,
Giữ thân tâm thanh thản an vui.
Nhập Thiền Định xa lìa nhân quả,
Đạo quả viên thành, độ chúng vui”.
Bây giờ các con đã thấu rõ được hạnh ăn uống là đối tượng ly dục, diệt ngã. Từ đây về sau, các con phải cố gắng khắc phục nó để một ngày ăn một bữa đủ sống mà thôi, nhưng các con phải nhớ không nên ăn ít quá mà cũng không nên nhiều quá. Ăn ít là tiết thực, điều này tai hại đến sự tu tập của các con vì sức khoẻ yếu kém. Ăn nhiều là thừa dư, sanh dục, ham ngủ, mê muội... cũng đều tại hại đến sự tu tập và sức khỏe của các con. Ăn ngày một bữa, nhưng tùy ở cơ thể của mình, ăn nhiều hay ăn ít mà sử dụng cho đúng cách ăn uống để cơ thể được khỏe mạnh, để tu hành cho tốt. Đó là một điều sáng suốt và linh động.
Các con nên nhớ: Ăn đúng cách là tu. Tu đúng cách là làm chủ cái ăn. Đừng thấy mọi người ăn ít vì cơ thể của họ mà chúng ta vội bắt chước ăn ít theo họ, điều đó là tu sai. Các con phải nhớ kỹ điều này, không nên bắt chước ai, mà tùy ở cơ thể của mình mà làm chủ được cái ăn uống của mình đó là tu hạnh ăn.
3.1.2 Hạnh ngủ
Bây giờ Thầy giảng trạch về hạnh ngủ. Ngủ cũng là một đối tượng để chúng ta tu tập lập hạnh ngủ ly dục, mê muội. Ngủ là một nghiệp dục nặng của thân. Nếu thân không ngủ sẽ sanh ra bệnh tật rồi chết, cũng giống như ăn vậy. Ngủ là một nghiệp lực thói quen muôn đời, nó sanh ra vô minh, lười biếng, khiến cho thân tâm ta uể oải, bần thần, mỏi mệt, dã dượi. Do đó, người ta không còn siêng năng tinh tấn, làm việc, cũng như học hành và tu tập. Do đó, người ta thích ở không mà ăn, cho nên mới sanh ra tánh tâm gian tham, biển lận, trộm cướp. Do đó, người ta đần độn, ngu si, không thông minh nên không bao giờ làm việc lớn được, thường sống trong cảnh nghèo đói.
Ngủ là một dục lạc trong năm thứ dục lạc của thế gian, khiến người ta rất thích thú ham mê. Khi không ngủ là họ quá sợ, nhưng khi ngủ nhiều thì lại ám độn, mê muội. Người tu hành cần phải khắc phục nó, chiến đấu trường kỳ với nó. Vì nó là một bước cản đạo, không cho chúng ta tiến sâu vào thiền định, không cho chúng ta tỉnh táo để phán xét mọi việc đúng sai, thiện ác trên bước đường ly dục, ly bất thiện pháp. Chính nó không cho chúng ta tỉnh giác, nên tâm thường ở trong tà niệm, sanh ra nhiều duyên đau khổ cho mình cho người. Chính nó khiến cho chúng ta thiếu ý tứ, thường hay làm càn, làm thiếu suy tư, cho nên dễ thất bại trong mọi công việc. Chính nó khiến cho ta thiếu cẩn thận, nên thường mắc phải lỗi lầm. Chính nó khiến cho tâm ta mù mờ, không thanh thản vì thế sanh ra loạn tưởng, trạo hối. Chính nó khiến tâm ta mất bình tĩnh, sáng suốt, vì thế dễ sanh hờn giận, nghi nan, đau khổ, phiền toái. Chính nó khiến cho tâm ta thu nhiếp hơi thở lờ mờ, không rõ. Chính nó khiến cho tâm ta rơi vào năm loại vô ký:
1. Vô ký hôn trầm.
2. Vô ký thùy miên.
3. Vô ký mộng tưởng.
4. Vô ký hôn tịch.
5. Vô ký ngoan không.
Chính nó lặng đi, khiến cho thân ta tọa thiền mất tự chủ, thân nhúc nhích rung động, làm cho cơ thể bất an khó nhập chánh định, rơi vào tà định.
Những điều Thầy đã nêu trên đây để các con thấu rõ sự tai hại của nó đối với sự tu tập biết là dường nào! Đã biết rõ nó, các con phải cố gắng tu tập:
1. Đi kinh hành nhiều.
2. Vừa đi kinh hành, vừa hướng tâm theo bước chân.
3. Thường xuyên nhắc tâm tỉnh giác.
4. Thường xuyên nhắc tâm chớ ham ngủ.
5. Phải nghiên cứu một điều gì để động não.
6. Phải làm một việc gì cho động thân.
7. Không được ngồi, hoặc nằm.
8. Chạy bộ, hoặc đi tắm.
9. Phải tập thể dục một vài thế dưỡng sinh, hoặc đi một đường võ.
10. Cử tạ, đào đất.
10. Cử tạ, đào đất.
Các con nhớ kỹ: Nó là một thứ dục lạc rất khó trị. Nên luôn luôn lúc nào cũng đề cao cảnh giác, chiến đấu với nó bằng mọi cách, bằng cả nghị lực dũng cảm của mình. Nếu các con không chiến đấu hết sức, nó sẽ thành thói quen lười biếng, chừng đó, các con sẽ thất bại ê chề trong cuộc đời tu hành. (..?) là một điều rất khó vô cùng, vậy nên lưu ý và nhớ kỹ lời dạy của Thầy, phải cố gắng tu tập hết sức để tập luyện cho được hạnh ngủ. (...?) Xa lìa được ăn ngủ nghiêm chỉnh là xa lìa được năm thứ dục lạc. Sự tu tập này cũng phải khéo léo và linh động. Tùy theo sức của mình, tu tập tiến dần lên, không được ép chế không ngủ, ngủ phải đúng giờ khắc, ngủ phải tập luyện hướng tâm ngủ, không được muốn ngủ hồi nào là đi ngủ, muốn tu hồi nào là tu. Ngủ đúng cách là tu tập, tu đúng cách là làm chủ ngủ. Hành động ngủ là tu, hành động tu là ngủ. Các con nhớ kĩ, phải thuộc câu này.
3.1.3 Hạnh độc cư
Thầy giảng trạch về hạnh độc cư. Các con hãy lắng nghe cho kĩ, vì nó là một hạnh rất khó tu nhất trong ba hạnh. Nghe thì như dễ dáng lắm, mà hành thì khó vô cùng. Hạnh độc cư là một phương tiện tu tập để bảo vệ, phòng hộ, giữ gìn, hộ trì, ngăn ngừa, che chở thân tâm được yên ổn, tránh được các ngoại duyên bên ngoài, khiến cho tâm và cảnh an ổn, yên vui tu tập dễ dàng hơn. Độc cư còn giúp cho tâm các con có dịp tuôn tràn bao nhiêu những ký ức, những kỷ niệm. Độc cư cũng là dịp giúp cho các con nhận thấy được dục lạc ham ngủ, ham vui là tai hại trên đường tu tập. Độc cư là đối tượng để các con dùng mọi phương tiện tu tập thu nhiếp thân tâm thành khối nội lực.
Người không sống trong hạnh độc cư được là người thường bị phân tâm. Người phân tâm là người không có sức tỉnh thức cao, không có sức tập trung mạnh, chỉ có ức chế tâm bằng tưởng pháp. Người thích vuibên ngoài là người rất sợ cô đơn, tâm thường bị phân tán theo các duyên. Tâm chúng ta có vốn từ nhân quả mà ra, nên thường bị các duyên nhân quả chi phối. Vì thế lúc nào tâm cũng bị phân chia tan nát, nó không hợp nhất lại được. Chỉ một vài giây hợp lại là bị phân ra liền bởi các duyên trong ba thời gian quá khứ - vị lai và hiện tại. Từ ngày này suốt ngày nọ, từ năm này đến năm khác cho đến ngày tàn tạ xuống lòng đất, tâm chúng ta đều bị phân tán liên tục. Mục đích của người tu thiền là gom tâm lại, dù bất cứ thứ thiền nào, chỉ trừ loại thiền quán mà các nhà học giả sản xuất ra. Bởi thế người tu thiền mà không sống trong rừng núi thanh vắng, độc cư thì không làm sao nhập định được. Tại sao vậy? Đó là vì bốn lý do sau đây:
1. Vì Tâm bị phân tán.
2. Vì Tâm không thành khối.
3. Vì Tâm không có nội lực.
4. Vì Tâm không tỉnh thức.
Muốn cho tâm thành khối, có đủ nội lực dũng mãnh, để đóng mở sáu căn, để tu tập giai đoạn thứ II của Thiền định là DIỆT thì phải sống Độc cư một trăm phần trăm.
Muốn tu tập sống hạnh độc cư các con phải tu tập ba giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất: Sống tập ít nói chuyện.
- Giai đoạn thứ hai: Tập sống riêng, làm việc riêng một mình.
- Giai đoạn thứ ba: Tập sống riêng, không làm việc.
Ở đây Thầy sẽ giảng trạch phần thứ nhất của hạnh độc cư là tập sống ít nói chuyện để các con hiểu rõ, tu tập không sai lệch. Khi nào các con tu tập xong phần thứ nhất, Thầy sẽ giảng trạch phần thứ hai, tức là tập sống riêng, làm việc riêng một mình. Khi nào tu tập phần thứ hai xong, Thầy sẽ giảng trạch phần thứ ba: tu tập sống riêng, không làm việc. Nếu giảng trạch ngay bây giờ luôn cả ba phần thì các con sẽ bị rối rắm, không biết cách thức tu, cách thức nào tu tập cho đúng.
Ở giai đoạn một sống độc cư là tập ít nói chuyện. Muốn tập ít nói chuyện các con phải biết, phải lựa chọn chuyện gì cần thiết thì mới nói, mới thưa hỏi, không cần thiết thì không được hỏi, không được nói. Chỉ duy nhất là thưa hỏi về chuyện tu tập, và phải thưa hỏi riêng để được lắng nghe kỹ, còn thưa hỏi chung trong tập thể thì rất là khó lắng tâm theo sự hướng dẫn của thiện tri thức. Thưa hỏi về sự tu tập là mục đích để hiểu cho rõ, để thực hành cho đúng. Còn ngoài ra tất cả những chuyện khác phải cẩn thận khi muốn nói ra.
1. Tránh nói chuyện tào lao, nhảm nhí.
2. Tránh kết tình, kết bạn thân.
3. Tránh nghe chuyện của người khác, vì chuyện người khác khiến phải nói ra.
4. Tránh gặp nhau, vì gặp nhau dễ sanh nói chuyện. Nhưng gặp nhau thì không nói chuyện là tốt nhất.
5. Không được đem sự hiểu biết tu hành của mình dạy người khác khi mình tu chưa xong.
6. Thấy bạn bè tu sai, nên báo cho thiện tri thức biết để sửa lại, không được đến dạy bảo vì đến dạy bảo làm động mình, động người và thành quen thuộc với nhau nên không thể giữ trọn vẹn hạnh độc cư được.
7. Thấy bạn đồng tu buồn khổ, không được đến an ủi, chia sẻ. Chỉ cần báo thiện tri thức đến giúp đỡ.
8. Tránh đổ lỗi người khác, vì đổ lỗi người khác là tạo duyên bất an trong tâm, thường xảy ra duyên cải cọ, tranh luận.
9. Tránh đi đến thất của người khác vì đi đến thất của người khác làm động mình, và làm động tâm người.
10. Làm lao động chung, tránh nói chuyện cười đùa.
11. Khi giúp bạn đồng tu đang bệnh, tránh nói chuyện ngoài vấn đề thăm bệnh. Tốt hơn hết là chỉ hỏi thăm bệnh để dùng phương tiện trị liệu.
12. Khi làm việc chung một việc gì nên làm theo ý muốn của người khác để tránh duyên cãi cọ, đổ thừa.
13. Thường tập sống thơ thẩn một mình.
14. Luôn giữ tâm thanh thản và hướng tâm đến thanh thản.
15. Thường giữ tâm vô sự, và hướng tâm đến vô sự.
16. Thường tránh xa các duyên để giữ tâm không bị phân tán.
17.Không nên đem tâm sự của mình nói cùng ai, ngoài người Thiện hữu tri thức của mình.
18. Thấy việc làm nặng nhọc, cùng nhau chia sẻ làm, nhưng không nói chuyện.
19. Thấy ai làm chưa xong, cùng làm phụ, nhưng không nói chuyện.
20. Thường sống im lặng trong và ngoài tâm, và hướng tâm đến sự im lặng.
20 điều trên đây để giữ tâm im lặng. Điều tốt nhất là tránh xa, tránh xảy ra các duyên, tránh tạo các duyên mới. Càng tránh duyên bao nhiêu thì tâm càng ít phân chia ra bấy nhiêu. Càng cố tránh duyên tâm càng dễ hợp nhất thành khối; càng cố tránh duyên thì hoàn cảnh mới thanh tịnh yên vui tu hành. Càng tiếp duyên, càng động, khiến cho hoàn cảnh bất an, khó tu hành. Càng tiếp duyên, tâm càng bị phân chia khó thành nội lực, tu tập sẽ dẫm chân tại chỗ, không tiến bộ.
Các con nên biết độc cư ở giai đoạn I là tịnh khẩu. Tịnh khẩu nghĩa là nói lời thanh tịnh, không nói lời bất tịnh. Nói lời thanh tịnh là nói lời thiện, nói lời thiện là nói lời vui lòng mình, vui lòng người. Nói lời bất tịnh là nói lời ác. Nói lời ác là nói lời làm đau khổ mình và đau khổ người. Tịnh khẩu không phải là á khẩu, tịnh khẩu là nói lời lành, không nói lời dữ như Thầy đã giảng ở trên. Á khẩu là câm, không nói được.
Khi nghe được đến đây, các con đã nghe hiểu rõ độc cư ở giai đoạn thứ nhất là tịnh khẩu, không phải á khẩu. Ở giai đoạn tu tập này, phải hiểu cho thật rõ, nếu chưa hiểu phải hỏi lại cô Út Diệu Quang cho kỹ, không khéo các con tu hành trở thành hình thức, ít nói mà lại nói rất nhiều. Nghĩa là chuyện gì các con cũng nói, khi tâm bung ra, phân tán nói thôi không hết, như nước vỡ bờ.
Hạnh độc cư khó lắm. Nó là bí quyết thành công của thiền định. Nó có ba nhiệm vụ:
1. Bảo vệ tâm tránh các duyên.
2. Gom tâm hợp nhất thành khối.
3. Làm cho tâm tuôn tràn ra hết.
Sáu năm trời khổ hạnh của đức Phật Thích Ca là sáu năm tu tập ly dục của đức Phật. Nhờ đó đức Phật đã tránh được các duyên, thu nhiếp thân tâm thành khối nội lực. Khi tâm đã thành khối có nội lực, đức Phật đã xả bỏ khổ hạnh tối đa, chỉ giữ lại khổ hạnh bình thường như năm anh em ông Kiều Trần Như, chỉ có hơn họ là dùng thêm sữa do cô bé chăn dê cúng dường. 49 ngày dưới cội bồ đề, đức Phật dùng nội lực nơi tâm đã có sẵn, đem ra chiến đấu ly bất thiện pháp. Lúc bấy giờ đức Phật gọi là hàng phục Ma Vương, diệt tầm tứ, đóng mở sáu căn, nhập Nhị thiền, và xả bỏ thân tâm nhập Tứ thiền, hướng đến Tam minh thành tựu đạo giải thoát.
Tóm lại, ly dục là lìa xa cái ý muốn của mình. Khi mình còn làm theo ý muốn của mình tức là chưa lìa xa. Bởi nghe nói ly dục thì rất dễ dàng, mà lìa xa ý muốn của mình rất là khó khăn. Bậc Thánh như Đức Khổng Phu Tử đến 70 tuổi Ông mới dám tuyên bố: “Ta đến tuổi này mới làm theo ý muốn của mọi người”. Nghĩa là đến 70 tuổi, Ông mới ly dục được tâm ông. Thầy nghĩ rằng muốn ly dục ít ra cũng phải ba năm rèn luyện. Còn nếu tu lơ mơ thì 30 năm cũng chưa chắc đã là làm được. Cái ý muốn của mình là cái gì? Làbản ngã. Bản ngã không ly thì làm sao có Niết bàn? Vô ngã là Niết bàn.
Đi tu cũng như đi học. Ở đời, người ta học tập đến nơi đến chốn mới có lợi ích cho mình, cho người, cho xã hội. Người học mà không đến nơi đến chốn chẳng lợi ích gì cho mình, còn làm cho xã hội phải gánh nặng thêm. Người đi tu cũng vậy, tu không đến nơi, đến chốn làm bại hoại tôn giáo. Người tu đến nơi đến chốn làm sáng tỏ Phật Pháp qua gương hạnh sống của mình, khiến cho mọi người quy ngưỡng tôn kính Phật Pháp. Chúng ta quyết chọn lấy con đường tu, là phải tu đến nơi đến chốn, không thể tu lừng chừng, vì tu lừng chừng không lợi ích cho mình, cho người mà còn có làm hại người, hại tôn giáo. Các con đến đây là mục đích quyết tâm tu, chứ không phải đi tìm cái sống. Phật đã dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình”. Đã tu thì phải quyết tâm buông bỏ, bỏ để được giải thoát, bỏ để được thảnh thơi, an vui một đời. Mà bỏ cái gì đây? Bỏ ý muốn.
Đến đây Thầy xin nhắc lại, giai đoạn thứ nhất của Thiền định là giai đoạn Ly. Như Thầy đã dạy ở giai đoạn này, chia ra làm hai phần tu tập:
1. Ly dục.
1. Ly dục.
2. Ly bất thiện pháp.
Phần thứ nhất ở giai đoạn này Thầy đã giảng trạch xong, nghĩa là muốn ly dục, chúng ta dùng ba hạnh ăn -ngủ - độc cư để tu tập. Như các con hiểu rõ, ăn - ngủ - độc cư là đối tượng để tu tập, khắc phục cho bằng được tâm ly dục. Nếu các con đã sống đúng ba hạnh thì các con đã ly được dục, nếu chưa sống được ba hạnh, thì các con hãy cố gắng tu tập hơn để hoàn thành được phần thứ nhất: ly dục.
Phần ly dục này, ai cũng biết đức Phật Thích Ca Mâu Ni phải 6 năm khổ hạnh như Thầy đã dạy ở trên.
Đến phần thứ hai là ly bất thiện pháp, Thầy sẽ giảng trạch cho các con để hiểu rõ cách thức tu tập như thế nào đúng.
Tóm lại, buổi nói chuyện hôm nay các con nên nhớ, chúng ta là những tu sĩ của đạo giải thoát thì thời gian nào, ngày nào, tháng nào, năm nào toàn là mùa Xuân, mùa Xuân vĩnh cửu trong tâm hồn của chúng ta, mùa Xuân không có nhân quả, mùa Xuân không có diễn biến luân hồi. Vì thế chúng ta không có chúc thọ, không có mừng tuổi mùa Xuân thế gian. Hãy sống bình thường, hãy giữ tâm bình thường trước mọi diễn biến thay đổi của không gian và thời gian bằng một tâm hồn thanh thản.
Bây giờ các con ăn cơm để muộn, ngày mai Thầy sẽ giảng phần thứ hai ly bất thiện pháp. Nhưng trước khi ăn cơm, các con hãy lắng nghe bài hồi hướng.