Trưởng Lão Thích Thông Lạc
Đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc, Viện trưởng Tu Viện Chơn Như, thế danh là Lê Ngọc An, sinh ngày sinh ngày 4/8 năm Mậu Thìn, nhằm ngày 17/9 dương lịch năm 1928, tại quê ngoại: 18 Thôn Vườn Trầu, Xã Tân Thới Nhì, Quận Hóc Môn, Tỉnh Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Ngài là người con thứ tư trong một gia đình đông anh em. Tuy vậy, giấy căn cước của Ngài lại ghi sinh năm 1935.
Cha Ngài là Lê Văn Huấn, pháp danh Thích Thiện Thành, trụ trì đời thứ tư của chùa Am, một thầy thuốc Đông y, xuất thân trong gia đình Nho học, quê quán tại Trảng Bàng, Tây Ninh. Mẹ Ngài là Nguyễn Thị Nhung, giáo viên Tiểu học sơ cấp, xuất thân trong gia đình Nho học, con của một Ông Cả, Xã Tân Thới Nhì, Quận Hóc Môn, Tỉnh Gia Định. Lúc nhỏ, Ngài đã thích theo cha học hỏi tu hành, nên được cha đặt cho pháp danh Thích Từ Ân.
Năm 1936, vừa tròn 8 tuổi, Ngài được cha mẹ cho xuất gia theo Hòa thượng Thích Huệ Tánh tại Chùa Phước Lưu, Thị trấn Trảng Bàng, Tây Ninh, với pháp danh là THÍCH THÔNG LẠC. Thời gian đầu, Ngài được H.T Huệ Tánh, H.T Long An, H.T Thiện Tài, H.T Thiện Hòa trực tiếp chỉ dạy kinh điển và Hán học. Hoà thượng Thích Thiện Hòa còn gửi Ngài vào Trường Cao đẳng Phật học viện Huệ Nghiêm và Đại học Vạn Hạnh. Thời gian sau, Ngài được các vị Hòa thượng giới thiệu đi dạy trong các trường Bồ Đề. Lúc bấy giờ, Ngài đang học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn, và tiếp tục hướng tới du học để làm tiến sỹ Phật Học ở nước ngoài.
Năm 1970, trong thời gian vừa đi học, vừa dạy học ở các trường tại Thành phố Sài Gòn, đang chuẩn bị du học, thì được tin cha bệnh nặng, Ngài trở về Trảng Bàng chăm sóc và nuôi dưỡng cha. Ba tháng sau, cha Ngài qua phần. Nhìn thấy cảnh bệnh tật và sự ra đi đau đớn của người cha, Ngài suy nghĩ: “Cuộc đời này chẳng có gì cả, chỉ toàn là đau khổ. Vậy chạy theo danh lợi để làm gì?…”. Với lòng thương cha vô hạn, mong muốn sẽ cứu độ được cha nếu mình chứng đạo, Ngài quyết định từ bỏ đi du học, dốc hết sức lực vào việc tu tập.
Thời gian này, làn sóng Thiền Tông tràn đến như một luồng gió mới. Ngài rời bỏ danh lợi thế gian, theo Hòa thượng Thích Thanh Từ tu tập Thiền Tông, là một trong mười đệ tử đầu tiên của hòa thượng. Trong ba tháng an cư 1970, Ngài được hòa thượng Thích Thanh Từ giảng dạy pháp môn Tri Vọng. Với sự tin tưởng tuyệt đối vào sư phụ, ngài công phu nhiệt tâm không ngơi nghỉ. Có lần hòa thượng nói "Trong hội chúng có người đại tinh tấn". Ai cũng ngầm hiểu đó là Ngài.
Rời khỏi Chơn Không, Ngài lên đỉnh Ma Thiên Lãnh, thuộc Hòn Sơn, Kiên Giang, tu tập trong hang đá. Những người thợ rừng thỉnh thoảng mang cơm gạo cúng dường Ngài. Ngài cảm thấy không tiện nên tập ăn lá cây rừng, uống nước suối để sống. Sau chín tháng sống ở đây, cách xa người đời, lòng nhớ mẹ khôn nguôi, Ngài quyết định trở về quê nhà với mẹ, với em.
Lúc trở về, Ngài nói với mẹ: "Mẹ ráng nuôi con ngày một bữa, đời con chỉ biết có tu hành mà thôi”. Rồi Ngài khép cửa thất, ôm pháp môn Tri Vọng mà tu. Thời gian đó, tuy chiến sự diễn ra ác liệt. Ngài vẫn bền gan bền chí bám trụ trú xứ, quyết tâm tu hành. Ngài nhiệt tâm, tinh tấn như vậy suốt 10 năm trời.
Một hôm, Ngài bắt chân ngồi sát bàn Phật mà không biết, đến khi xả thiền, kéo chân ra đụng vào góc bàn Phật, Ngài ĐẠI NGỘ. Ngài thông suốt tất cả công án và kinh sách Đại Thừa. Việc tu tập Thiền Tông Tối Thượng Thừa đến đây là xong, Ngài đã chứng Thiền Tông.
Nhưng khi trở ra đời sống bình thường, không ở trong định, thì Ngài thấy tâm mình VẪN CÒN THAM, SÂN, SI, MẠN, NGHI và còn mạnh hơn lúc chưa tu tập. Tu xong rồi mà tâm vẫn còn phiền não, bệnh đau phải đi bác sĩ, phải uống thuốc, và không biết cách nào làm chủ sự sống chết. Tu hành chỉ có thông suốt tất cả những công án và kinh sách Ðại Thừa để làm gì?
Tu tiếp thì đã tân cùng con đường Thiền Tông rồi, đi tiếp sao đây? Trở lại đời thì quá muộn, 52 tuổi rồi. Đạo không đạt mà đời không xong. Ngài rất buồn nản, chỉ muốn chết đi cho xong. 10 năm tu tập trong thất rất là gian khổ, rốt cuộc đời tu hành của Ngài trở về số không.
Trong lúc tuyệt vọng, tình cờ lật cuốn kinh Nikaya, đọc bài "Đại Kinh Saccaka" do hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ Pali sang Việt ngữ, Ngài nghi ngờ mình đã tu lầm đường. Một niềm hy vọng lóe lên. Ngài bỏ thì giờ nghiên cứu Đại Tạng Kinh Nikaya đã được Hòa Thượng Minh Châu Việt dịch, Ngài hiểu rõ ràng lời Phật dạy, biết được tu như thế nào, tu pháp gì và sẽ chứng được cái gì. Mọi việc sáng như ban ngày, càng tu càng thích. Thế rồi chỉ sau 6 tháng, từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1980, Ngài lần lượt nhập được SƠ THIỀN, NHỊ THIỀN, TAM THIỀN, TỨ THIỀN và đêm cuối cùng Ngài hoàn tất TAM MINH, làm chủ sinh già bệnh chết (17-10-1980 tức 9-9 Âm lịch).
Ngài trở về Chân Không trình Hoà thượng Thích Thanh Từ kinh nghiệm chứng đắc của mình, nhưng không nói rõ đã tu theo Đại Tạng Kinh Nikaya, và xin được tịnh chỉ hơi thở (ngưng hẳn thở) nhập Niết Bàn (chết) để sách tấn các thiền sinh, giúp Hòa Thượng Thanh Từ CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO. Ngài sẽ di chúc lại con đường đưa tới chứng đắc TỨ THIỀN mới là CHÁNH ĐỊNH và chỉ có thể thực hiện được duy nhất bằng đường GIỚI LUẬT và 37 PHẨM TRỢ ĐẠO theo tạng kinh Nguyên Thủy Nikaya là đúng của Đạo Phật. Nhưng Hòa Thượng Thanh Từ sau khi ấn chứng Ngài chứng quả Thiền Tông, yêu cầu Ngài trụ thế, và duyệt lại kinh sách để cùng Hòa Thượng CHẤN HƯNG THIỀN TÔNG.