33 - QUY CỦ VÀ NGHI THỨC XUẤT GIA
GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 33 - QUY CỦ VÀ NGHI THỨC XUẤT GIA
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1997
1- CÁCH TÁC Ý PHÁ ÂM THANH - PHẦN 2
[Phần 1 ở Giáo án 32]
(00:00) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài giảng hồi sáng. Và Thầy cũng tiếp tục để trả lời cái câu hỏi của thầy Thiện Thuận hỏi về cái câu ám thị hồi sáng:
“Bạch Thầy! Cho con xin hỏi thêm về cách phá âm thanh.
Nếu ám thị bằng câu trạch pháp như trên thì con phải ám thị, ra lệnh lúc ngồi thiền khi còn ở hơi thở 5 giây, hay là 10 giây hoặc là 20 giây, hay là ám thị cùng một lúc với ra lệnh các hành ngưng và hơi thở ngưng? Xin Thầy chỉ thêm. Và khi xả ra bằng câu nào?”
Đó thì quý thầy lưu ý cái chỗ này, để Thầy chỉ cho cách thức mà ám thị.
Khi mà vào ở trong cái trạng thái mà mình đã ra lệnh cái hơi thở, nó đã không có thấy hơi thở nữa - tức là mình thấy nó đã ngưng đó - thì lúc bấy giờ đó mà mình còn nghe âm thanh thì bây giờ mình mới dùng cái câu ám thị mà hồi sáng Thầy đã cho, mình gọi nó, rồi mình ra lệnh bảo nó ngưng. Và cứ làm như vậy, mà cứ hễ còn nghe âm thanh là cứ ra lệnh mãi, còn hết nghe thì thôi, mà còn nghe thì ra lệnh.
Còn nếu mà muốn dùng cái câu này mà bám vào tụ điểm thì bắt đầu từ 5 giây - tức là chúng ta thở hơi thở 5 giây - rồi chúng ta ám thị cho âm thanh từ ở bắt đầu cho nó hết.
Mà khi nó hết nghe âm thanh ở 5 giây thì lúc bấy giờ đến 10 giây, 20 giây thì nó không còn nghe nữa. Còn nếu mà nó còn nghe nữa tức là nó chưa bám chặt cái tụ điểm, vì vậy mà chúng ta hãy trở về cái tụ điểm mà gọi cái nhĩ thức bám cho chặt vào trong cái tụ điểm, đừng có nghe âm thanh ra ngoài.
Còn nếu mà nó đã ở trong 5 giây - một hơi thở 5 giây mà nó có nghe âm thanh thì ngay đó ở 5 giây mà chúng ta luyện tập, chớ đừng nên 10 giây, 20 giây.
Còn nếu mà đang lúc mà chúng ta ở 10 giây, 20 giây mà gọi “Hơi thở ngưng!” - và thấy nó ngưng, nó không còn thở nữa, “Các hành ngưng!” - nó ngưng, thì ở đó mà còn nghe âm thanh thì chúng ta dùng cái câu ám thị này mà chúng ta ám thị cho nó không có nghe.
Và khi mà nó không nghe rồi, thì bắt đầu chúng ta muốn ra trở ra thử coi nó có nghe không thì chúng ta ra lệnh: “Cái nhĩ thức phải ra khỏi cái tụ điểm! Nghe lại coi có nghe âm thanh bên ngoài không!”.
Mà bắt đầu chúng ta ra lệnh chúng ta nghe, nó nghe ra ngoài được, thì đó là chúng ta đã điều khiển cái ra và cái vô được, tức là xuất và nhập định được. Qua cái âm thanh, dựa vào cái âm thanh mà chúng ta đã điều khiển nhập định và xuất định.
Đó thì như vậy là quý thầy đã rõ thấy một cái câu ám thị đó, mà chúng ta chỉ kêu nó bám chặt vào tụ điểm để không nghe âm thanh thì đó là vô, là nhập. Còn nếu khi mà chúng ta cũng từ ở chỗ tụ điểm đó mà chúng ta bảo: “Cái nhĩ thức hãy trở ra nghe âm thanh!” - mà nó trở ra nó nghe âm thanh thì tức là cũng cái câu ám thị đó mà chúng ta gọi nó trở ra và gọi nó trở vô.
(03:16) Đó thì như vậy là chúng ta dùng một câu mà có thể sử dụng được hai cái ra và vô, chớ khỏi cần phải là nhiều. Bởi vì chúng ta gọi đúng tên nó là nhĩ thức là nó rồi, bởi vì nhĩ thức nó mới có bám cái thanh trần, chớ còn có cái khác thì nó không bám được cái thanh trần. Đây là chúng ta lấy một cái chỗ mà chúng ta tu tập.
Như hồi sáng Thầy đã nói một chú Sa Di dạy một vị Trưởng lão tu cách thức kiểu chú bé mà đi bắt dế: Một con dế này nó có làm sáu cái hang ngách, cho nên chú chỉ chừa có cái hang ngách của cái ý thức mà thôi, còn sáu cái lỗ kia thì chú bít lại hết, cho nên con dế chú đổ nước, con dế nó phải lên ngay cái lỗ ý thức thôi chớ nó không có đi chỗ nào được.
Do vì vậy đó mà chú dạy cái vị thầy đó là bây giờ phải bít cái lỗ nào trước và bít cái lỗ nào sau, và lần lượt bít tất cả các lỗ, chừa có một cái lỗ mà thôi, và cuối cùng thì nó là nhập định.
Như vậy là chúng ta thấy rằng mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của chúng ta là sáu cái lỗ của một con dế. Con dế đó dụ cho cái ý thức của chúng ta, cái thức của chúng ta mà, nó xuyên qua sáu cái lỗ nó làm việc.
Do vì vậy đó bắt đầu chúng ta phải bít cái lỗ nào trước, bít cái lỗ nào sau. Nhất là cái lỗ mà cái nhĩ thức, cái lỗ tai, cái nhĩ căn, cái đó khó nhất. Và cái kế đó là cái thân thức, cái hang đó cũng khó đó, bởi vì nó xúc chạm nó làm chúng ta đau, có cái thọ lạc hay hoặc thọ khổ.
Do những cái hang đó là cái hang độc đáo lắm, vì vậy mà chúng ta khi mà tu tập thì chúng ta chuẩn bị, nhất là chúng ta phải chuẩn bị cái âm thanh. Coi chớ âm thanh nó khó lắm.
Còn cái thọ mà chúng ta chuẩn bị để đánh với thọ, chúng ta cứ tăng dần, tăng dần lên thì chúng ta sẽ - cái thời gian ngồi dài quá để mà đánh thọ thì nó phải tăng lên thì cái thọ nó mới lui, mà không tăng lên thì cái thọ nó không lui.
Mà hễ tăng lên thì cái thọ lui, thì cái thân chúng ta ngồi lâu, mà ngồi lâu thì nó sanh ra vô minh, nó vô ký, hôn trầm, nó lặn vào trong các cái trạng thái vô ký. Cho nên vì vậy mà chúng ta mất tỉnh giác, mà hễ mất tỉnh giác thì chúng ta rơi vào 18 cái loại tưởng. Và 18 cái loại tưởng thì rất là nguy hiểm cho nên nó chẳng đưa chúng ta đi đến chỗ nào được.
Vì vậy mà chúng ta không cần ngồi nhiều, mà chỉ cần cái thời gian ngắn mà chúng ta phá được âm thanh. Mà phá được âm thanh thì cái thọ phá rất dễ, chớ còn không khéo không phá được âm thanh thì cái âm thanh nó câu hữu với cái thọ, nó làm cho cái ý của chúng ta chạy ra cái thân thức, nó làm chúng ta có cảm giác đau đớn. Đó thì, cho nên chúng ta không thể ngồi lâu được.
Vì vậy mà biết được cái chỗ này và cái cách thức của một chú Sa Di mà dạy để bít sáu cái căn của chúng ta, thì chúng ta biết rằng cái điều kiện cần thiết là chúng ta tu tập dùng pháp hướng là cái lỗ ngách thứ nhất của con dế là cái lỗ tai của chúng ta, cho nên chúng ta phải bịt cái lỗ trước.
(06:17) Và khi mà bước vào con đường thiền định thì chúng ta phải thấy cái lỗ tai là rất cần, cái nhĩ thức rất cần thiết phải bịt nó, rồi kế đó thì thân thức chúng ta mới bịt, rồi tất cả các cái khác thì dễ lắm không khó nữa. Nghĩa là cần bít được cái lỗ tai thì tất cả những cái khác đều chúng ta bít hết các lỗ được.
Vậy mà trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đó, Phật dạy đó, một cái khăn sáu cái gút mà chúng ta mở ra một cái gút thì mở ra hết. Mà bây giờ chúng ta vào cái gút của cái nhĩ căn mà chúng ta bít nó được thì chúng ta sẽ bít tất cả các lỗ khác dễ, tức là mở cái gút này thì tất cả năm cái gút kia đều mở hết.
Đó là những cái điều kiện mà chúng ta biết được cái đó là cái quan trọng, bởi vì âm thanh rất là khó chớ không phải dễ, mà phá được âm thanh thì phá được tất cả.
Vì vậy mà trong kinh đó nó lấy rằng “phản văn văn tự tánh” - nghe lại cái tánh nghe của mình để làm, nhưng mà vì nó luận ở trên cái sự siêu xuất quá cho nên nó không có cách thức.
Vì vậy mà ngay từ khi mà tu cái Thánh phòng hộ sáu căn thì chúng ta cũng phòng hộ mắt, tai , mũi, miệng, thân, ý của mình, thì mắt với tai là cái vấn đề rất quan trọng, nó tiếp xúc với trần rất là rõ ràng. Vì mắt thì tiếp với sắc, mà tai thì tiếp với âm thanh, cho nên do những cái đó là chúng ta phải phòng hộ hơn là tất cả các cái căn khác.
Quý thầy lưu ý trong mỗi cái phần mà tới chừng mà dạy về cái giới hành thì Thầy sẽ chỉ cái nào quan trọng, trong khi mà chúng ta tu cái Thánh phòng hộ sáu căn thì phòng hộ cái nào trước, cái nào sau, đó là cái giới hành, và tu tập những cái gì để cho chúng ta làm chủ được từng bước một của cái nấy, nó rõ ràng và cụ thể.
Đó thì qua cái lời của thầy Thiện Thuận hỏi thì Thầy trả lời, thì thầy nhớ kỹ. Như vậy chúng ta lấy từ cái hơi thở 5 giây mà chúng ta hướng tâm cho cái tâm bám trụ, cái nhĩ thức bám trụ cho chặt ở tụ điểm, và đồng thời hướng tâm cho nó quay trở vô, nó không có bung ra ngoài thì âm thanh nó sẽ phá từ nơi đó.
Và khi mà chúng ta kéo dài tới 10 giây cho đến 20 giây thì chúng ta hướng tâm: ”Hơi thở ngưng nghỉ!” - thì lúc bấy giờ cái âm thanh cũng không còn nghe nữa, thì như vậy là chúng ta đang ở trong cái trạng thái của Tứ Thiền mà không có một trạng thái gì ngoài ra một trạng thái thanh tịnh.
Đó đến đây Thầy xin chấm dứt trả lời cái này, và chúng ta tiếp tục qua cái bài học buổi sáng.
2- THÀNH PHẦN CỦA SA DI
(08:36) Bây giờ chúng ta trở về cái bài học buổi sáng.
Lý do người mà quá trẻ tuổi như các chú Sa Di đó, dưới 7 tuổi thì không làm sao chịu nổi cái cuộc sống xuất gia, bởi vì chúng ta thấy cuộc sống xuất gia nó không phải sống theo ở ngoài thế tục rồi, nó có cái lối sống khác của nó, cho nên cái người mà còn nhỏ quá không thể sống được.
Thành phần của Sa Di có chia ra làm hai loại và ba đẳng vị của nó.
Nghĩa là cái giới mà thọ giới Sa Di xong rồi thì nó chia làm hai loại và ba đẳng vị:
Từ 7 tuổi đến 13 tuổi gọi là Khu ô Sa Di;
Cái tên của nó gọi là Khu ô Sa Di, nghĩa là Sa Di đuổi quạ đuổi chim đó chớ không có làm gì được hết. Từ 7 tuổi đến 13 tuổi đó là Sa Di khu ô, nó có cái tên là Sa Di khu ô.
14 đến 19 tuổi gọi là Ứng pháp Sa Di;
Nghĩa là bắt đầu từ cái tuổi 14 đến 19 tuổi, thì bắt đầu đây nó mới là thực hiện cái pháp Sa Di mới đúng.
Chớ còn cái 7 tuổi đến 13 tuổi thì nó chưa thực hiện cái pháp Sa Di được, cho nên nó còn có những cái lỗi lầm có rất nhiều ở trong cái pháp Sa Di, cho nên do đó thì nó gọi là Khu ô Sa Di chớ không thể nào mà gọi là Ứng pháp Sa Di được.
Còn từ 14 tuổi đến 19 tuổi thì nó sống đúng pháp Sa Di cho nên gọi là Ứng pháp Sa Di.
(10:04) Từ 20 tuổi đến 70 tuổi gọi là Danh tự Sa Di.
Nghĩa là từ 20 tuổi mà đến 70 tuổi mà thọ Sa Di thì gọi là Danh tự Sa Di.
Còn hai chủng loại là:
Cạo tóc, nhuộm áo nhưng chưa thọ Sa Di Thập Giới gọi là Hình đồng Sa Di;
Nghĩa là cái hình dáng thì nó giống Sa Di chớ nó chưa phải là Sa Di gì hết.
Nghĩa là như quý thầy mà mới có làm cái lễ cạo tóc thôi, thế phát đó, thì chưa có thọ giới Sa Di, chưa gì hết đó, thì coi như đương nhiên mình chưa có vào cái lộ trình của người tu sĩ, mà mình còn ở trong cái lộ trình của cư sĩ nhưng mà mình cạo đầu thôi chớ không có gì, thì cái Sa Di đó gọi là Hình đồng Sa Di.
Đã thọ Sa Di Thập Giới gọi là Pháp đồng Sa Di.
Nếu mà từ 20 tuổi mà đến 70 tuổi mà thọ Thập Giới Sa Di rồi thì gọi là Pháp đồng Sa Di. Bây giờ nó có pháp rồi, nó cũng như là cái Ứng pháp Sa Di đó, nó lấy cái pháp, nó đã thực hiện cái giới pháp được rồi.
Còn cái người mà 20 tuổi đến 70 tuổi, mà cái tên của nó đó, mình mới chỉ cạo tóc thôi đó, chưa có thọ Sa Di, thì nó là Danh tự Sa Di. Cái tên gọi là danh tự, danh tự là cái tên thôi, cái tên Sa Di chứ nó chưa có nghĩa lý gì hết.
Cho nên nó còn có cái tên gọi là Hình đồng Sa Di, cái hình nó thì giống Sa Di, nhưng mà nó chưa có phải là Sa Di. Nhưng mà sau khi đó thọ Thập Giới Sa Di thì mới gọi là Pháp đồng Sa Di, bây giờ nó mới đúng là Sa Di đó.
Cho nên chúng ta thấy Sa Di nó có nhiều cái thành phần ở trong đó chớ không phải mà nó chỉ có thấy người nào cạo tóc là cũng là Sa Di hết đâu, không phải đâu. Nó có rất nhiều cấp độ, nó có nhiều thành phần.
3- QUY CỦ ĐỘ NGƯỜI XUẤT GIA
3.1- ĐIỀU KIỆN ĐỘ SA DI XUẤT GIA
(12:00) Người độ Sa Di xuất gia tuy không có quyền có giai cấp, nhưng có sự hạn chế trên tư cách.
Nghĩa là cái người mà độ cho cái người Sa Di xuất gia đó thì không phải là lấy cái sự độ đó là cái quyền của mình, mà nó cũng không có giai cấp lớn hay nhỏ nữa, nhưng nó có sự hạn chế trên cái tư cách của cái người đó có độ được Sa Di hay là không.
Ví dụ như bây giờ một vị Hòa thượng mà cái tư cách nó không đúng thì cũng không độ được cái vị Sa Di nữa, chớ chưa nói chi nữa là một cái người Đại đức, một cái người hàng giáo phẩm thấp hơn bậc Hòa thượng mà cái giới luật, cái tư cách của họ không có đúng là cái người tu sĩ của đạo Phật thì họ cũng không được độ Sa Di nữa.
Nghĩa là cái người có đủ cái tư cách mới độ cái chú Sa Di, còn cái người mà không đủ tư cách là không có được độ Sa Di.
Tại sao vậy? Tại vì mình không có đủ cái tư cách của một vị tu sĩ, giới luật mình không có nghiêm túc, mình độ cái chú Sa Di đó thì mình làm cho cái mầm non, cái nhân tài của Phật giáo nó sẽ bị hư hoại đi, cũng như cái mầm non nó bị thúi đi, nó làm cho thúi đi.
Chẳng hạn mình phá giới, mình độ người ta cũng tu thì nó sẽ phá giới, tức là cái mầm non đó nó sẽ bị tiêu đi. Đó là như vậy, thì cho nên đó là cái vấn đề rất quan trọng.
Nhưng mà không phải là cái người đó họ có quyền, hay hoặc là cái giai cấp mà như thế nào đó bắt buộc người ta phải thọ giới Sa Di hay hoặc thế này kia phải có cái giai cấp: Bây giờ tui phải giai cấp là vua chúa thì tui mới độ Sa Di được, hay hoặc là cái giai cấp của tui, hay hoặc là tui có quyền, quan quyền tui mới độ Sa Di. Không phải, ở trong đạo Phật thì không phải. Cái người mà độ cái chú Sa Di là phải cái người có cái tư cách, cái đạo đức của một vị tu sĩ.
Tức là cái người đó phải có giới hạnh nghiêm chỉnh, thì dù là cái người đó Thầy nói họ mới có thọ Tỳ Kheo thôi, mới có thọ Tỳ Kheo bữa nay ngày mai thôi mà cái tư cách họ - họ giữ gìn cái giới hạnh của họ đúng cái tư cách của một vị thầy.
Nghĩa là bây giờ họ thọ cụ túc giới, mà Thập Giới Sa Di họ rất là nghiêm chỉnh, họ không có vi phạm. Nghĩa là cái người mà thọ Tỳ Kheo thì tức là họ giữ gìn giới hạnh Sa Di họ rất là nghiêm chỉnh rồi, bây giờ bước đầu họ vô họ thọ giới cụ túc giới rồi, thì cái người đó ngay liền đó là họ độ cái chú Sa Di được rồi.
Còn bây giờ cái vị đó họ đã sống liên tục ở trong cái đạo mà họ đã thọ giới cụ túc nay là 20 năm hay là 40 năm hay là 60 năm rồi, tuổi đạo họ có tới 60 năm rồi, mà cái giới hạnh Sa Di họ chẳng ra gì thì họ cũng chưa có đủ cái tư cách mà độ Sa Di nữa.
Bởi vì phải hiểu Sa Di là cái mầm non của Phật giáo, cái nhân tài của Phật giáo sau này, cái Tăng đoàn, cái giáo đoàn của Phật nó còn hay mất là do mấy cái chú Sa Di này.
Phải hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy cái tư cách của một vị độ người Sa Di là cái người bắt đầu vào cái lộ trình thứ hai của lộ trình tu sĩ đó, thì phải là cái người có đủ tư cách như vậy nó mới được. Nghĩa là nói chung là cái người đó phải đủ Thập Giới Sa Di, nghĩa là giữ tròn nghiêm chỉnh Thập Giới Sa Di.
Thì ở đây nó cho cái tư cách đó phải nằm ở trong cái chỗ nào? Đây Thầy - ở trong cái giới luật của Phật nó cho cái vị Tỳ Kheo đó:
(15:20) Phải có đủ 10 năm học giới luật…
Nghĩa là sau khi thọ Tỳ Kheo rồi 10 năm thì mới có độ Sa Di được, đó là cái thứ nhất. Nghĩa là trải qua một thời gian, cái vị Tỳ Kheo đó phải 10 năm học giới luật, học 250 giới đó, hay hoặc là Tỳ Kheo Ni cũng phải vậy, 348 giới.
… mới được độ người. Nếu chẳng biết Ngũ Pháp thì suốt đời cũng chẳng được độ người.
Ở trong giới luật thì nó còn nói thêm: Nếu 10 năm học giới luật thông suốt rồi mà chẳng biết Ngũ Pháp thì cũng không được độ người nữa.
Vậy thì Ngũ Pháp là gì? Ở đây nó sẽ nêu lên năm cái pháp mà cái người mà độ cái chú Sa Di thì phải biết rõ năm pháp.
1. Phải thông hiểu sự lợi ích rộng lớn của giới luật Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni;
Như vậy là cái người này phải 10 năm học giới rồi thì đúng rồi.
2. Giải quyết được nghi vấn và tội khinh, tội trọng đáng phạm của đệ tử;
Nghĩa là mình phải giải quyết được những cái nghi vấn về cái tội trọng, tội nặng, tội nhẹ của các đệ tử của mình thì mình mới có thể nhận Sa Di, nhận đệ tử.
3. Đệ tử ở phương xa, đủ sức khiến cho đệ tử quay về;
Nghĩa là đệ tử của mình đi đâu xa đó, mình gọi là phải về, thì như vậy đó là mình mới có độ Sa Di mới được. Còn nếu mình gọi nó không về thì mình không có độ nó được.
4. Phá được kiến chấp tà ác của đệ tử và răn dạy đừng làm điều ác;
Nghĩa là đệ tử mà nó có những cái tà kiến, tà ác ở trong đầu của nó, nó đã nhiễm những cái kiến giải của những người khác, nó không có chịu… (Mất tiếng)
Nghĩa là một vị thầy đó phải đủ cái sức mà phá được cái kiến chấp của đệ tử của mình thì mới nhận, mới độ Sa Di. Còn nếu mà phá không được kiến chấp của họ, thì không có nên độ Sa Di.
Bởi vì mình răn dạy mà nó mang cái kiến chấp của nó đầy ắp ở trong cái đầu của nó, nó đâu có nghe lời mình dạy. Mình dạy giới luật, nó cứ nghe những cái lời dạy của những cái tà giáo ngoại đạo nó đem nó phá giới, phá luật, mà mình dạy nó không được thì thôi mình khép chân đi, mình đầu hàng đi, đừng có nhận đệ tử nữa, đừng có nhận thọ giới Sa Di cho ai hết.
Bởi vì mình dạy nó không được thì tốt hơn là mình đừng có nhận. Bởi vì mình phá không nổi cái kiến chấp, tà chấp của nó thì mình đóng cửa đi, đừng có nhận người nào nữa hết.
(18:07) Do vì vậy đó mà quý thầy thấy trong 17 năm trời mà Thầy phá những cái kiến chấp của họ. Ở trong đầu của họ, họ mang đầy những cái kiến chấp của Thiền Tông, cái kiến chấp của Đại Thừa.
Thầy biết rằng họ không đi tới đâu, nhưng mà bảo họ quay về giới luật thì họ nói Thầy ép xác khổ hạnh bằng cách này bằng cách khác, không có thể tu hành được. Thầy dạy cái ăn cái ngủ không, không có dạy tu tập cái gì cả hết, mà chính cái chỗ đó là phá cái kiến chấp của họ, để họ (khỏi) lầm lạc, nhưng mà cuối cùng thì họ chẳng nghe.
Vì vậy mình thấy mình không có đủ cái khả năng phá cái kiến chấp họ, cho nên mình không có nhận họ nữa. Do vì vậy đó mà ở trong năm cái điều này, Thầy thấy nó rất là chí lý. Mình không có đủ khả năng phá kiến chấp, tà chấp của họ thì thôi, đừng có nhận họ làm đệ tử, họ muốn tu sao đó được họ tu.
5. Nếu đệ tử bệnh, chăm sóc như cha nuôi con.
Nghĩa là cái điều kiện thứ năm: Cái người mà biết thương đệ tử của mình như là một người cha thương con thì mình nên độ cái chú Sa Di cho theo tu học với mình. Còn nếu mình không thương nó thì thôi mình cũng đừng có nên độ. Mình độ rồi mình bỏ nó khi đau ốm, nó không có cha có mẹ săn sóc nó, ai săn sóc? Chỉ có thầy mà thôi.
Đó thì như vậy đó, mình thấy cái bổn phận của mình. Năm cái điều kiện này - ngoài những cái giới luật mà căn bản đủ cái tư cách làm thầy nó còn phải có những cái điều kiện mà mình phải đủ cái sức của mình, đủ cái khả năng, đủ cái oai đức của mình để mình lôi những cái đệ tử mà có những cái tà kiến, kiến chấp trở lại.
Điều đó là một điều rất khó, năm cái điều này coi vậy chớ nó không đơn giản, mà ở trong cái chỗ giới luật mà nó đưa ra như thế này, thật khó cho một vị làm thầy chớ không phải dễ.
Cho nên đừng thấy người ta ai cũng xin vô mà thọ Sa Di, coi chừng mình thọ Sa Di Thập Giới rồi hoàn toàn nó tan nát giới luật của Phật hết, nó không có thực hiện được.
(20:01) Nếu không thấy năm điều này, độ người sẽ đắc tội…
Đắc tội gì đây?
… Đột Kiết La.
Nghĩa là mình không thấy năm điều này, mình độ người ta thì mình sẽ đắc vào cái tội Đột Kiết La.
Muốn độ Sa Di phải đủ năm điều theo giới kinh dạy:
Theo ở trong kinh giới dạy thì nó có năm cái điều mình mới có độ được chú Sa Di.
1. Phải thông suốt 4 bộ A Hàm;
Nghĩa là thứ nhất là vị thầy đó phải - theo giới kinh thì nó dạy là mình phải thông suốt 4 bộ A Hàm, mình phải thông suốt 4 bộ kinh đó.
2. Phải biết giới;
Tức là mình phải thuộc giới bổn đó.
Ba đó, mình:
3. Phải biết kinh;
Tức là tất cả những kinh như kinh A Hàm đó, hay hoặc là kinh Nguyên Thủy, hay hoặc là kinh Đại Thừa, kinh gì mình cũng phải biết, biết hết.
4. Phải có huệ;
Tức là phải có trí tuệ.
5. Phải có đức.
Đó. Đó thì ở trong cái kinh giới Phật dạy một người mà muốn độ Sa Di tu theo mình thì thứ nhất mình phải thông suốt 4 cái bộ A Hàm, kế đó là giới luật, rồi tất cả những kinh khác mình phải thông, rồi mình phải có trí tuệ và phải có đức hạnh, thì những cái điều đó là cái điều cần thiết cho một vị mà làm thầy độ cái chú Sa Di.
Mà lại còn có năm điều nữa:
Nghĩa là muốn độ một chú Sa Di thì vị thầy phải có năm cái điều nữa chớ không phải bây nhiêu đó đủ, nhưng mà tạm đủ cho năm điều đó để cho thấy một vị thầy có đủ những cái năm điều đó là có thể độ được rồi, nhưng lại còn có thêm thì càng tốt chớ không sao hết. Vì vậy mà lại có năm điều nữa.
Thứ nhất là:
1. Phải thọ trì giới;
Nghĩa là cái vị thầy đó giới luật phải nghiêm chỉnh đó, gọi là thọ trì giới.
2. Phải không phạm giới;
Nghĩa là cái vị thầy đó luôn luôn là không có phạm giới, chớ còn phạm giới là không được rồi.
Ba, vị thầy đó:
3. Phải nhẫn nhục;
Phải có cái đức nhẫn nhục.
4. Phải hiểu suốt được kinh;
Nghĩa là hiểu thấu suốt được tất cả các kinh.
5. Phải tự giữ tất cả.
Năm là phải giữ gìn tất cả. Đó thì giữ gìn tất cả gì? Tất cả những cái oai nghi, tế hạnh của mình phải là nghiêm chỉnh đừng có để sơ suất, để cho cái người học trò mình, mình dạy nó cái oai nghi như vậy mà rồi mình làm sai cái oai nghi đó thì nó sẽ cười mình, nó sẽ không có đủ cái niềm tin ở mình, mình hướng dẫn rất khó.
Cho nên phải giữ gìn rất là cẩn thận. Khi mình nhận học trò thì từ chút, từ chút mình phải cẩn thận, chớ để không thì nó sẽ hư đời nó, tội nghiệp.
3.2- ĐIỀU KIỆN ĐỘ TỲ KHEO THỌ CỤ TÚC GIỚI
(22:52) Phật dạy phải có 10 pháp thành tựu mới độ được người xuất gia thọ cụ túc giới:
Bây giờ tới cái người mà thọ cụ túc giới, thì cái vị thầy đó phải có đủ 10 pháp mới có thể độ người xuất gia thọ cụ túc.
Thứ nhất thì cái vị thầy đó phải:
1. Trì giới;
Nghĩa là giới luật phải là nghiêm túc rồi đó.
Thứ hai là phải:
2. Học rộng A Tỳ Đàm luận;
Tức là phải thông suốt A Tỳ Đàm luận. Nghĩa là cái người làm thầy cho người xuất gia thọ cụ túc phải rộng rãi hơn Sa Di nữa cà, nghĩa là phải hiểu về các luật như A Tỳ Đàm luật.
Ba, phải:
3. Học rộng Tỳ Ni luật;
Tất cả các bộ luật Tỳ Ni phải thông suốt hết, nó không có cái bộ nào mà không thông. Bởi vì nó thông suốt rồi nó mới thấy được cái đúng cái sai, còn nếu không thông suốt thì mình không có thấy cái đúng cái sai, rồi mình chấp vào cái bộ luật nào đó, rồi mình bắt người ta phải học khô khan trong cái bộ luật đó.
Thí dụ như hiện thời thì người ta chấp vào cái Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Như Thích đó, người ta bắt tất cả thầy Tỳ Kheo cũng như là mọi vị Tỳ Kheo Ni đều phải chấp vào cái bộ luật đó, còn tất cả các bộ luật khác thì người ta thấy nó không quan trọng bằng cái bộ luật như vậy. Đó thì cái đó là cái khô khan quá.
(24:07) Ba là phải:
3. Học rộng Tỳ Ni luật;
4. Học Giới;
5. Học Định;
6. Học Tuệ;
Bắt đầu đây, ở đây chỗ này Giới - Định - Tuệ đó, là người ta nghĩ đây là Giới học - Định học - Tuệ học, nhưng mà không phải, giới bổn nó khác mà Giới học - Định học - Tuệ học nó là giới kinh.
Ba cái này Giới - Định - Tuệ nó là ba cái giới kinh, mà họ tưởng đây là ba cái pháp môn vô lậu, ba cái này nó ngoài ra cái giới, nhưng mà sự thật ra nó không phải. Như Thầy đã giảng dạy đó thì nó có giới hạnh, rồi giới đức và giới tuệ, thì nó ứng vào trong ba cái học Giới - Định - Tuệ, thì nó hiểu đó là thuộc về loại giới kinh rồi.
Còn cái giới bổn nó chỉ bổ túc cho cái giới học mà thôi, tức là cái oai nghi tế hạnh đó thôi, tức là giới hạnh thôi, chớ nó không có nghĩa gì khác hơn hết. Vậy mà người ta hiểu cái giới nó khác với cái giới kinh, cho nên nó là cái lầm lạc của cái người sau này.
7. Có thể xuất tội và khiến cho người xuất tội;
Thứ 7 này, mình có thể - cái người thầy đó có thể xuất tội cái người đó, và có thể cho cái người đó họ sám hối cái tội họ, hoặc là mình phạt họ bằng cách này bằng cách khác, đều là mình có cái khả năng cho họ, kết họ cái tội hoặc là xả cái tội họ, đều có cái khả năng làm được cái đó thì mới có thể là mới làm thầy họ.
Bởi vì Tỳ Kheo khó lắm chớ không phải dễ, nó đủ cái sự hiểu biết, mà mình không có biết xuất tội và cái phạm tội cho nó rõ ràng thì mình khó mà khiến nó được lắm.
8. Có thể săn sóc bệnh và sai người săn sóc bệnh;
Nghĩa là cái phần thứ 8 này tự thân mình chăm sóc cho Tỳ Kheo, mà cũng là có thể sai Tỳ Kheo khác chăm sóc những người khác mà họ không dám cãi lại mình, thì như vậy mình mới đứng ra mình thọ cụ túc cho họ được.
9. Đệ tử gặp nạn có thể sai người đưa đi, hoặc là giải cứu nạn cho họ;
Nghĩa là đệ tử của mình mà khi có gặp nạn, mình thấy mình có đủ khả năng mà cứu vớt họ, hoặc là đưa họ đi cho thoát nạn thì mình mới có thọ cụ túc giới.
10. Đủ 10 tuổi hạ.
Nghĩa là phải có 10 cái tuổi hạ, tức là 10 cái tuổi đạo đó. Nghĩa là mỗi năm họ phải có ba tháng an cư kiết hạ, mà đủ 10 năm như vậy thì họ mới có đủ cái tư cách mà thọ cái cụ túc giới cho cái người mới vào thọ Tỳ Kheo.
Tóm lại, một thầy Tỳ Kheo độ người tu phải đủ hai điều kiện:
1. Tỳ Kheo giới lạp phải đủ 10 năm;
2. Thông hiểu hai bộ Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni.
Đó là hai cái phần mà chắc chắn là cái người mà muốn cho người khác thọ cụ túc thì phải đủ hai cái điều kiện này.
(27:20) Tỳ Kheo cũng chỉ có thể độ Sa Di, không được độ Sa Di Ni.
Nghĩa là cái vị Tỳ Kheo thì độ Sa Di mà thôi, chớ không được độ Sa Di Ni.
Vì chính là ngày xưa Đức Phật cũng không có độ Sa Di Ni.
Khi mà các thầy đọc lại kinh các thầy thấy rất rõ cái điều này. Ông Phật ổng là Phật rồi đó mà chính ổng không có đứng ra ổng thọ cái giới Tỳ Kheo Ni cho các vị Tỳ Kheo Ni, mà chính ổng đặt ra cái Pháp Kỉnh, rồi từ đó các vị ni - các vị nữ họ đối trước cái Bát Pháp Kỉnh, họ đảnh lễ các Pháp Kỉnh đó - tức là tám cái giới đó đó - là làm thầy của họ, để rồi từ đó họ thọ vào đó mà họ theo cái đường lối của đạo Phật mà họ tu.
Bởi vậy họ chấp nhận cái Bát Kỉnh Pháp dữ lắm, vì đó là cái bậc thầy mà có thể đứng ra mà quy y cho họ thọ giới đó, chớ không phải Đức Phật.
Vậy cho nên ở đây chúng ta mới thấy cái đặc biệt lạ lùng là đạo Phật - cái người nam không có đứng thọ cho cái vị nữ.
Cho nên Thầy có nhớ một lần thầy Như Hải có nói là có ông sư ở Bến Tre, ổng cũng tu tập, cũng có thiền định, cũng có những chút ít thần thông dữ lắm. Cho nên do đó sau đó thì có một cái người phụ nữ là con của một cái ông tòa đại sứ nào đó ở trên Thái Lan hay Miên gì xuống đây nè, rồi cái cô này lại mến phục cái tài đức của ông thầy này lắm, cho nên cứ xin ổng thọ quy y cho cô ta.
Nhưng mà khi thọ quy y rồi thì cô này cổ nói cổ là đệ tử của ông ta, rồi cổ cứ cổ hầu hạ ông ta hoài, làm cho ông ta không có thể nào thoát khỏi bàn tay của cổ. Cuối cùng thì ông thầy này bị lọt vào cái vòng bàn tay của cô ta. Cuối cùng thì ông hạ sơn chớ không còn ở trong vị trí tu hành được nữa.
Đó thì, ghê gớm lắm! Chúng ta phải nói rằng Đức Phật rất là hay là cái chỗ mà nhận biết được cái chỗ này, cho nên ngay cả Đức Phật cũng không có đứng ra mà để làm thầy độ bên cái giới nữ.
Tỳ Kheo cũng chỉ có thể độ Sa Di chớ không được thế độ cho Sa Di Ni. Chính Đức Phật cũng chưa từng đích thân độ người nữ xuất gia. Phật từng đích thân độ nhiều Tỳ Kheo và cũng độ hai người Sa Di là Nan Đà và Gia Xá nhưng chưa từng đích thân độ một nữ chúng.
Nghĩa là cái chúng Tỳ Kheo, cái chúng tu tập đó, thì Đức Phật không có đứng ra mà độ.
Luận Tát Bà Đa, quyển 2.
(30:06) Trong cái bộ luận này, nó đem nêu ra những cái câu chuyện này, thế nhưng chúng ta không có thấy ở trong kinh giới có nói vấn đề này.
Nhưng mà theo những cái bản kinh giới thì Thầy thấy những hàng cư sĩ và cũng là những nữ cư sĩ, cũng như là những cái người nữ mà đến nghe pháp rồi xin Phật xuất gia, thì các vị đó theo Thầy thấy trong kinh giới thì rất rõ là các vị đó cũng chỉ nói lên ba lần xin quy y Phật, quy y Pháp để con trở thành cư sĩ hay là Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, có vậy thôi, rồi đương nhiên là Đức Phật chấp nhận đã là thành Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di.
Thì như vậy tức là Đức Phật đã thọ chớ gì, đã đứng ra nhận cái người nữ đó để làm đệ tử cư sĩ của mình chứ gì? Là như vậy đã nhận rồi chớ còn gì?
Mà người ta thọ Tam Bảo mà Đức Phật cũng nghe người ta xưng lên ba lần, nói như vậy để xin người ta quy y Phật - Pháp - Tăng, thì xin với Đức Phật, thì như vậy Đức Phật đã chấp nhận họ, thì như vậy đâu phải là không độ họ.
Rồi có một nữ cư sĩ họ đến, họ khi nghe pháp xong họ xin Đức Phật độ cho họ xuất gia. Thì lúc bấy giờ nó có cái giáo đoàn ni, thì lúc bấy giờ người đó cũng cũng đứng lên xin Đức Phật như vậy ba lần, Đức Phật chấp nhận, cho nên mới gởi về bên giáo hội ni do cái người ở bên ni người ta lãnh cái chúng ni, chớ đâu có cho ở bên nây được.
Do đó thì nó cũng đâu có gì đâu? Nhưng mà ở trong kinh thì nó lại nói như vậy. Thì Thầy thấy ra cái điều đó Thầy cũng đặt cái câu hỏi: Không biết có hay chăng?
Nhưng mà trong kinh nó rõ ràng là có những cái điều kiện, mà những cái bài kinh chúng ta thấy rất rõ là Đức Phật có nhận đệ tử nữ chớ đâu phải không có nhận, đâu có không nhận họ xuất gia hay hoặc là cư sĩ đâu, có nhận chớ không phải không. Nhưng mà ở đây thì kinh giới này không biết nó kiếm cái bộ kinh nào đâu nó nói ra đây, Thầy cũng chưa biết.
(32:05) Cho nên những cái điều này chúng ta còn đặt những câu hỏi, và chúng ta sẽ tìm tất cả những bộ kinh giới, từ ở đâu mà lưu xuất ra những cái đoạn kinh này.
Cho nên đọc hết trong kinh từ A Hàm cho đến kinh Nguyên Thủy thì Thầy cũng không thấy cái chỗ này. Thường thường là Thầy thấy rất là có, Phật có nhận người nữ trở thành đệ tử cư sĩ của mình cũng nhiều, và cũng là nhận cho họ xuất gia, Người nữ cũng xuất gia rồi đưa cho họ về cái giáo đoàn ni của họ, chớ không được ở trong cái giáo đoàn tăng.
Tỳ Kheo Ni phải đủ 12 năm giới lạp trở lên mới được độ người xuất gia.
Nghĩa là Tỳ Kheo Tăng thì có 10 năm à, còn Tỳ Kheo Ni thì phải 12 năm mới có độ được.
Ở đây Thầy nhắc lại:
Ni chúng đầu tiên do Bát Kỉnh Pháp mà xuất gia, về sau ni chúng thế độ ni chúng.
Nghĩa là về sau thì ni chúng độ ni chúng, còn khi mà đầu tiên nó chưa có ni thì ni chúng lấy cái Bát Kỉnh Pháp mà xuất gia chớ không phải xuất gia với Phật. Đó là cái cách thức mà ở trong cái giới bổn nó nêu lên những cái câu nói đó.
Chớ còn thật sự Thầy đọc ở trong giới kinh, trong những cái bài kinh của Phật ở trong kinh Nguyên Thủy cũng như là kinh A Hàm, thì Thầy thấy Phật có độ cư sĩ, mà cũng có độ nữ cư sĩ, cũng có độ nữ cư sĩ xuất gia tu hành chớ không phải không.
Cho nên khi mà chúng ta đọc những Thánh Ni đó chúng ta thấy rất rõ. Khi có người thì được Đức Phật trực tiếp độ họ đó, rồi cho họ cái pháp, cho họ cái bài kệ, họ nghe bài kệ cái họ lấy cái bài kệ họ làm cái pháp hướng, từ đó họ tu họ chứng quả A La Hán, chớ đâu phải là qua một ai đâu?
Đó Thầy thấy rất rõ. Khi mà ngộ được cái lý nghe Phật giảng rồi thì ngay đó người ta xin Phật xuất gia, thì Phật chấp nhận cho họ xuất gia tức là họ Tam Quy rồi chớ gì? Khi mà thọ rồi thì Đức Phật đưa cho họ qua bên ni giới, họ ở bên đó.
Mà trong cái thời Đức Phật nó rất đơn giản. Khi mà chấp nhận họ rồi thì coi như là họ thọ cụ túc rồi, chớ không còn cái Sa Di hay hoặc cái này cái kia nọ tùm lum như mình ở trong cái giới bổn bây giờ, nó nhiều cái đẳng cấp.
Qua những cái đẳng cấp này, chúng ta thấy ở trong giới bổn thì dường như là nó chịu ảnh hưởng của pháp luật của thế gian, của phong kiến ngày xưa mà nó đặt ra quá nhiều, quá rườm rà những cái pháp Yết Ma, nó giống như cái kiểu cách cái bộ lễ của vua chúa đó, nó phải làm cái lễ này, lễ kia, lễ nọ.
Hình như là các ngài đều là những cái người mà nghiên cứu về cái lễ nghi của vua chúa, của phong kiến, rồi họ rút tỉa ra họ viết thành cái bộ các pháp Yết Ma, cho nên nó quá phiền phức.
3.3- VẤN ĐỀ THẾ ĐỘ XUẤT GIA CHO NHIỀU SA DI MỘT LƯỢT
(34:51) Theo quy định trong giới bổn thì không cho đồng thời thế độ hai người Sa Di xuất gia một lượt.
Nghĩa là, hai người Sa Di mà xuất gia một lượt vầy, Thầy bữa nay làm cái lễ cho hai người mà độ hai người Sa Di một lượt, thì trong giới bổn nó không cho phép. Độ một người thôi chớ không cho hai người.
Vì nó nói như thế này nè: Mình cho hai người Sa Di xuất gia một lượt thì bắt đầu nó vô ở chùa mình. Rồi hai cái thằng nhỏ này nó ở chung nhau nó giỡn dữ lắm, rồi nó đánh lộn nữa, rồi nhiều khi nó làm đủ cái trò của nó, nó còn quen cái thói thế tục mà, cho nên mình cho một thằng thôi.
Thằng này mình kèm cho được rồi năm sau mình cho thằng nữa, thì cái thằng này nó giữ được cái hạnh nó rồi, thì thằng sau vô nó kèm thằng nọ thì nó đỡ mình. Mà cho hai thằng thọ một lượt thì vô đây nó làm những cái trò coi như là - mình không có kèm dạy nó được đâu. Hai thằng quỷ này không phải chuyện dễ. Bởi vì nó con nít mà, nó mới 7, 8 tuổi, rồi mười mấy tuổi đó, thì nguy hiểm, nó không dễ đâu.
Cho nên cái người lớn mà mình độ nó dễ hơn là con nít. Nhưng mà cái người mà có duyên với con nít thì cũng độ được. Thầy thấy ở ngoài Long Thành có thầy An Lạc Hạnh đó, thầy nuôi chúng toàn là con nít không à, như cái trại mồ côi vậy. Chốp chốp vậy nó cả mười mấy chú vậy đó mà ông thầy đó ổng nuôi được, ổng răn tụi nó sợ, còn có người thì con nít không sợ.
Ở đây thì nó nêu:
Có hai lý do:
1. Đồng thời không nên nuôi hai Sa Di.
2. Đệ tử Sa Di nhiều, sức dạy dỗ không đủ.
Nghĩa là Sa Di mà nhiều quá, cái sức dạy dỗ mình không đủ, rồi cái giới luật nó dễ bị phạm.
Trong giới luật cũng có khai lệ: Nếu vị thầy trí tuệ cao sâu, phước lực thù thắng có đủ khả năng dạy dỗ, nuôi thì không ngại gì nuôi hai Sa Di trở nên.
Nghĩa là mình có đủ cái đức độ thì mình không ngại gì mình nuôi hai Sa Di hay là năm, mười Sa Di cũng được chớ không phải hạn chế.
Nhưng buổi làm lễ một lần hai chú thì không được.
Nghĩa là làm lễ mà thọ cho hai người một lượt thì không được. Nhưng bây giờ thì chúng ta gồm cho nó dễ, để bữa nay cũng làm cái lễ thọ một chú, ngày mai thì làm cái lễ một chú, cực gần chết đâu phải sung sướng gì.
Kinh giới gì mà bày đặt thiệt là vất vả quá! Gộp cho nó năm, mười đứa vậy cho nó làm cái lễ một lần cho nó mau, cho gọn, còn cứ bữa nay làm một đứa, bữa kia làm lễ một đứa, nó rất là vất vả.
3.4- BẬC THẦY LÝ TƯỞNG: VỪA CÓ PHÁP VỪA CÓ CƠM ĂN
(37:26) Giới kinh có dạy có bốn bậc thầy:
1. Có pháp lại có cơm ăn.
Ở đây, nó dựa vào ở trong cái giới kinh mà nó nói ra cái này, mà như hồi sáng Thầy nói để chọn cái chỗ ông thầy mà ở đó, đó là nó dựa vào chỗ này nó cũng viết ra cái chỗ này nè, là cái bài kinh gọi là Khu Rừng đó, thì nó dựa vào chỗ này mà viết ra.
Có bốn bậc thầy:
1. Có pháp lại có cơm ăn;
2. Có pháp mà không có cơm ăn;
3. Có cơm mà không có pháp;
4. Có pháp mà không có cơm.
Vị thầy lý tưởng nhất là vị thầy thứ nhất.
Nghĩa là có pháp mà có cơm. Cho nên chúng ta chọn cái vị thầy có pháp mà có cơm đó. Nó không nói cái chỗ mà ở đó có cơm ăn, rồi có pháp tu như thế nào thì nó không nói. Nhưng mà nó lấy, chọn bốn cái vị thầy đó mà nó chỉ cho chúng ta là cái chỗ có pháp có cơm, còn tất cả những kia thì nó không xài.
Nhưng mà ở trong cái kinh mà Đức Phật dạy đó là có pháp mà không có cơm thì cũng không được lìa ông thầy đó, như hồi sáng Thầy đã dạy rồi mà. Đó. Còn cái chỗ đó đó mà có pháp có cơm thì chúng ta ở suốt đời.
Đó. Còn ở đây ba vị thầy sau thì không nên ở, dù có pháp mà không có cơm thì cũng nên đi, dù có cơm mà không có pháp thì cũng nên đi, có pháp mà cũng không có cơm thì cũng không có ở. Nghĩa là có pháp mà không có cơm thì cũng không có ở, chỉ có vị thầy là có pháp lại có cơm thì ở.
Chẳng được ly khai vị thầy thứ hai: có pháp mà không có cơm áo.
Ở đây nó cũng dựa vào kinh ấy nó cũng nói: Một vị thầy thứ hai là có pháp mà không có cơm cũng không được ly khai.
Còn hai vị thầy kia thì chẳng nên theo mà tu hành.
Nó dựa vào giới kinh thì nói đó là đúng á, Thầy thấy đúng.
3.5- THẦY KHÔNG DẠY ĐỆ TỬ ĐÚNG PHÁP LÀ CÓ TỘI LỚN
(39:22) Thật ra người chỉ biết thu đồ chúng xuất gia mà tự mình lại không thể dạy đồ chúng, dạy đệ tử xuất gia đúng như pháp, ấy là người có lỗi rất lớn.
Nghĩa là mình thu đồ chúng xuất gia mà mình không có dạy đồ chúng theo đúng như pháp xuất gia thì là mình có tội rất lớn.
Nghĩa là thay vì pháp xuất gia thì chúng ta thấy rất rõ chớ gì, Thập Giới Sa Di rất rõ chớ gì: Ăn ngày một bữa nè, không cất giữ tiền bạc nè, không có nằm giường cao rộng lớn nè, không có xem ca hát, không có ca hát nè, mà bây giờ để đệ tử mình ca hát, xem ca hát nè, rồi đá banh đá bóng nè, rồi giữ tiền giữ bạc nè, rồi ăn uống phi thời nè, thì thử hỏi ông thầy như vậy đó là có tội lớn không? Có tội rất lớn! Ở đây trong cái giới bổn nó cũng nói rất đúng nè.
Thật ra người chỉ biết thu đồ chúng xuất gia mà lại tự mình lại không thể dạy dỗ đệ tử xuất gia đúng như pháp, ấy là người có tội rất lớn.
Đó thì nó kết cái tội rất lớn là bây giờ chúng ta nhìn thấy có nhiều người thu đồ chúng rất nhiều, nhưng mà cái giới luật Sa Di có đúng không? Bởi vì mình thu đồ chúng tức là mình phải thọ giới Sa Di cho người ta chớ gì, mà giờ Sa Di có đúng không?
Rồi ông thầy cũng giống như đồ chúng, đồ chúng cũng giống như ông thầy. Ông thầy cũng xem tivi thì học trò cũng xem tivi, ông thầy ca hát học trò cũng xem ca hát, rồi ông thầy ăn phi thời thì học trò cũng ăn phi thời, ông thầy cất giữ tiền bạc thì học trò cũng cất giữ tiền bạc, ông thầy có xe cup thì học trò cũng có xe honda.
Ông thầy có gì nó cũng có nấy hết, thành ra thầy trò giống nhau, giới luật thì bỏ qua một bên, thì như vậy là thầy trò đều là có tội, rất có tội rất lớn.
Dù kẻ đồ tể tuy làm nghề ác nhưng không phá hoại chánh pháp Như Lai thì không nhất định đọa ba đường ác.
Ở đây trong cái giới bổn, cái người mà viết kinh này, viết kinh giới họ cho chúng ta thấy: Dù một kẻ đồ tể hàng ngày nó giết heo, giết bò, giết trâu mà nó đem bán thịt ngoài chợ đó, làm một cái nghề nghiệp rất là ác, nhưng nó không có phá hoại chánh pháp đâu. Nó không bằng một cái ông thầy mà nhận đồ chúng xuất gia mà để cho chúng phạm 10 cái giới của Sa Di như vậy đó, thì nó không có đọa vào ba đường ác bằng ông thầy đó sẽ bị đọa ba đường ác đó.
Làm thầy mà không răn dạy đệ tử, làm phá hoại Phật pháp, nhất định sẽ đọa vào địa ngục.
Đó thì đây là cái giới luật nó đã nhất định như vậy. Nhưng mà Thầy thấy nói thì nói chớ không phải như vậy đâu. Đồ tể nó giết hại thì phải nó đọa địa ngục chớ nó làm gì nó tránh được cái nhân quả nó khỏi đọa địa ngục đâu. Chúng ta phải hiểu những cái điều kiện.
Còn cái ông thầy mà dạy đệ tử như vậy đó là phá hoại Phật pháp, thì như vậy là ông thầy đó chỉ mang nợ của đàn na thí chủ nhiều đời nhiều kiếp, và đồng thời làm cho Phật pháp suy vi, suy đồi, thì ông thầy đó cũng phải chịu gánh cái tội lỗi đó chớ không phải là không có gánh chịu.
(42:23) Mặc dù bây giờ cái phước ông có, ông làm Hòa thượng, ông làm thầy này thầy kia, nhưng mà cuối cùng thì ông phải thọ lãnh cái điều kiện mà cái đám học trò và ông có phạm giới, làm cho Phật pháp nó mất đi cái sự tin tưởng của người khác, làm cho người ta không thể nương vào Phật pháp mà người ta được giải thoát để cứu người ta ra khỏi cảnh khổ của nhân quả, thì ông thầy cũng phải lãnh đủ những cái tội lỗi chớ không thể nào tránh khỏi.
Mà ở đây so sánh cái người đồ tể với ông thầy thì Thầy thấy nó cũng hơi thái quá. Vì cái người đồ tể họ không biết nhưng mà họ vẫn làm ác thì họ phải chịu cái quả khổ. Dù một người không biết, nhưng mà làm cái điều đó thì nhân quả cũng phải đến với họ.
Còn cái người biết mà làm sai thì nó cũng - cái nhân quả thì nó công bằng lắm! Anh biết mà anh làm sai thì cũng vậy, cũng phạt anh vậy thôi. Chớ không phải là pháp luật, anh biết pháp luật mà anh làm sai thì tui phạt anh nặng, không phải. Anh biết anh làm sai tui cũng phạt vậy, bởi vì cái tội ác anh cũng y như cái người không biết.
Cho nên thí dụ như mình biết mà mình cố gắng mình giữ mình không đạp kiến, còn người ta không biết thì người ta đạp kiến, thì vô tình người ta đạp kiến nhưng mà con kiến chết thì người ta phải có cái sự đau khổ của con kiến, thì cái nhân quả đó họ cũng phải trả, cái tai nạn gì đến với họ, xe đụng này kia nó cũng không chạy khỏi.
Còn chúng ta bây giờ có biết mà chúng ta cố gắng chúng ta tránh thì chúng ta không có làm cái điều ác, còn nếu mà chúng ta biết rồi chúng ta cũng nhắm con mắt chúng ta đi, đạp kiến gãy giò, gãy cẳng, thì chúng ta cũng phải trả như cái người kia thôi, chớ cũng không phải là cái nhân quả nó bắt chúng ta phải trả nặng hơn: Anh biết mà anh làm đó anh phải nặng hơn! Không phải đâu, không phải vậy.
Cái nhân quả nó rất công bằng ở chỗ đó, dù biết hay không biết thì chúng ta vẫn có cái sự đau khổ của chúng sanh do cái thân của chúng ta làm, thì chúng ta phải chịu lấy cái quả khổ bằng với nhau chớ không hơn.
(44:03) Bởi vì vô minh, mà bây giờ mình minh rồi mà mình lại còn làm thì mình cũng chịu cái tội cũng như người vô minh chớ cũng không có hơn gì hết. Chớ không phải là mình biết rồi nó nặng hơn, không phải, nó không có nặng hơn đâu.
Nghĩa là cái người biết rồi mà còn đạp gãy giò, cẳng kiến thì hai lần xe đụng, còn cái người mà không biết có một lần xe đụng, thì cái chuyện đó không có đâu. Bởi vì mình làm một lần, con kiến gãy chân đau nó, thì mình cũng phải trả một lần, mình cũng bị xe đụng gãy chân một lần chớ không phải hai lần được.
Cái nhân quả nó công bằng như vậy đó. Dù là mình biết, tức là mình minh rồi mà mình có làm cái sự đau khổ thì mình cũng trả một lần, mà cái người mà người ta không biết, người ta vô tình, người ta không biết gì hết, người ta đi người ta cũng làm cái sự đau khổ đó, thì cái sự đau khổ của người biết mà làm đau khổ thì hai cái đau khổ bằng nhau chớ không khác.
Một con kiến gãy chân thì nó đau cũng bằng con kiến kia gãy chân chớ không phải người không biết mà làm nó đau hơn, hay hoặc là người biết đã làm nó đau hơn, cái mức độ đau thì nó cũng ngang nhau, cho nên cái trả nó cũng như vậy thôi.
Ở đây nó phải luận cho nó công bằng, nó hợp lý, chớ không có thế nào mà ngoài cái công bằng đó mà được. Bởi vì luật nhân quả nó rất công bằng.
Vậy mà người xuất gia ngày nay có được bao nhiêu vị thầy thông hiểu giới kinh và giới bổn?
Nhìn vào cái giới xuất gia của chúng ta ngày nay thì chúng ta thấy: Cái người mà hiểu giới kinh với giới bổn có nhiều được hay không?
Họ có nhiều người chuyên môn về giới, mà toàn là giới bổn, còn có nhiều người thì học kinh mà không biết đó là giới kinh, mà chỉ nói là kinh thôi chớ còn không biết đó là giới kinh. Thì cái người mà hiểu cả giới bổn và giới kinh thì theo Thầy thiết nghĩ hiện bây giờ rất hiếm, không có nữa chớ đừng nói rất hiếm!
Thành ra khi họ giảng kinh là họ giảng kinh chớ họ không biết đó là họ giảng giới, còn trái lại một cái người mà giảng giới thì họ biết họ giảng giới chớ không biết giảng kinh, cho nên hai cái này nó trở thành ra hai cái pháp môn mà họ không thấy. Do vì cái chỗ mà không thấy đó, nó có những cái sự lầm lạc của Phật pháp rất lớn.
Như muốn hợp với quy định, cơ hồ không ai dám độ người thế tục xuất gia nữa.
Nghĩa là bây giờ đó, nếu mà mình lấy cái chỗ mà hiện bây giờ mình thấy cái hiện tượng xã hội mình bây giờ đó, thì chắc chắn nếu mà đứng ở trong giới kinh và giới bổn mà mình xuất gia cho họ, thì mình thấy họ không có thể nào mà họ tu tập nổi thì mình không có dám độ ai hết.
Nghĩa là họ không tu tập nổi thì họ phạm giới, mà họ phạm giới thì mình cũng có tội trong đó, cho nên không có dám xuất gia cho ai hết.
4- NGHI THỨC XUẤT GIA
4.1- NGHI THỨC PHẢI CÓ GIÁ TRỊ PHÁP HÀNH
(46:38) Sa Di cần phải xuất gia…
Nghĩa là cái người Sa Di đó cần phải xuất gia, tức là cần phải đi cái lộ trình tu tập chớ không phải là Sa Di hình đồng rồi mình cũng ở lừng chừng lừng chừng cái cư sĩ đó không thì không được.
… sau khi xuất gia và thọ Thập Giới, nếu chưa phải một Pháp đồng Sa Di thì được gọi là Hình đồng Sa Di.
Nếu bây giờ đó mình chưa có cái pháp, tức là mình chưa có thọ Thập Giới Sa Di, mình chưa có cái pháp tu của mình, chưa có pháp giữ đức hạnh của mình, thì lúc bấy giờ mình chỉ được gọi là Hình đồng Sa Di mà thôi, cái hình tướng Sa Di mà thôi.
Xuất gia có nghi thức xuất gia, các chùa tự thâu nhận người xuất gia nhưng rất ít khi cử hành nghi thức xuất gia.
Nghĩa là có khi mình thu nhận người ta, nhưng mà tổ chức cái nghi lễ xuất gia thì cũng rất ít, chờ khi nào mà có giáo hội đồ cho phép rồi mới mở ra giáo đàn cho thọ giới Sa Di rồi hoặc là cho thọ giới Tỳ Kheo thì mới dám, còn không có cho thì không có dám.
Bởi vì khi mà mở cái giới đàn như vậy là phải xin phép, mà không xin phép thì nhà nước không cho thì không có thể mở được cái giới đàn, dù là thọ Sa Di cũng phải có mở cái giới đàn.
Nhưng ngày xưa thì chúng ta rất dễ, chúng ta mời mười vị thầy - tam sư thất chứng lại, bảy cái vị chứng và ba ông thầy lại, rồi chúng ta tổ chức cái giới đàn cho thọ.
(48:04) Như thọ Sa Di thì chúng ta đơn giản là ba vị thầy, hai vị thầy đủ rồi. Còn thọ Tỳ Kheo thì mười vị, thì chúng ta mời các vị Trưởng lão đến rồi chúng ta chia ra làm mỗi người phận sự theo pháp Yết Ma chúng ta tổ chức giới đàn.
Trong khi chúng ta ba đứa đệ tử, hay là bốn đứa đệ tử, hay là hai đứa đệ tử chúng ta cũng tổ (chức) cái giới đàn, cái giới đàn đó gọi là giới đàn Phương trượng. Còn cái giới đàn mà sinh lớn mà ầm ì tổ chức cỡ một trăm, hai trăm người thọ giới, thì cái giới đàn đó tổ chức nó phải có tiền bạc rất nhiều.
Còn cái tổ chức giới đàn Phương trượng rất dễ, không có khó. Chúng ta có ba đứa học trò, mà giờ chúng ta mời một số quý thầy đến đây, bữa đó nấu một bữa cơm chay đãi quý thầy, rồi chúng ta họp nhau làm một cái giới đàn để mà cho mấy chú này thọ cụ túc.
Thì lúc bấy giờ chúng ta cũng là đàn tràng rất là nghiêm chỉnh, y áo đồ này kia chúng ta hẳn hòi, y bát chúng ta hẳn hòi để trao cho chúng, và cật vấn chúng bằng những cái sự thông hiểu của giới luật chúng đã học như thế nào, sau đó trắc nghiệm chúng đã được đủ cái tư cách làm một vị tu sĩ thì chúng ta chấp nhận cho chú đó thọ cái giới cụ túc, hay hoặc là thọ Sa Di.
Thì như vậy chúng ta thấy các cái pháp Yết Ma nó đơn giản như vậy, nó dễ dàng. Và đồng thời chỉ chuyên lo mà tu hành mà thôi, không có làm giấy tờ gì hết, không có chứng điệp gì hết.
Cho nên mấy chú này dù là có thọ đi nữa cũng không có giấy tờ. Bởi vì mình tu mà, mình cần gì giấy tờ, chỉ cho mình biết là bây giờ thọ như vậy thôi. Rồi sau khi thọ như vậy đó, thì cái người này 20 năm - từ bắt đầu thọ Tỳ Kheo cho đến 20 năm sau, 20 năm ở trong cái - mỗi năm đều là có một cái tuổi đạo, tức là mỗi năm đều là an cư kiết hạ, thì 20 năm liên tục như vậy đó, thì cái vị Tỳ Kheo này được gọi là Thượng tọa.
Còn bây giờ không có đâu, phải tấn phong cũng như là phong quan chức vua vậy mới được, mới tổ chức một cái lễ, hay hoặc là kỳ đại hội Phật giáo mới đưa tên họ vô rồi mới tấn phong. Chớ còn lơ mơ thì hai chục năm tuổi hạ đó chưa được là Thượng tọa đâu, chưa được đâu.
Nhưng mà trong Phật giáo thì chúng ta thấy rất rõ: Một vị mà vào tu chừng ba tháng, năm tháng thôi, miễn là cái vị đó mà chứng được cái đạo quả, giải thoát được, chứng quả A La Hán thì đương nhiên là vị đó là Thượng tọa rồi, chớ chưa phải là đợi hai chục năm đâu.
Còn bây giờ chúng ta phải hai chục năm cà, thì ngay đó là chúng ta 20 tuổi đạo đó, thì đương nhiên là từ cái ngày mà chúng ta thọ cụ túc tới 20 năm sau thì đương nhiên là chúng ta là Thượng tọa rồi. Đó. Và nếu mà bốn chục năm sau thì chúng ta là Hòa thượng rồi đó. Cho nên cứ kéo dài cái thời gian đó lên thì chúng ta thành sư cụ hết chớ không có gì hết.
Nhưng mà cái sư cụ của chúng ta nó có phải là ở trong cái giới đức, cái sự thanh tịnh của nó? Mà bốn chục năm mà làm Hòa thượng, ít ra là chúng ta phải chứng quả A La Hán. Còn đằng này chúng ta phá giới tùm lum ra thì sáu chục năm hay bốn chục năm như vậy, thử hỏi chúng ta chưa ly dục, ly bất thiện pháp làm sao mà chúng ta chứng quả A La Hán được?
(51:16) Cho nên cuối cùng thì giới luật nó trở thành nằm ở trong bổn giới luật mà con người thì con người của phàm phu, mà rồi tới cái dịp nào đó lại tấn phong, lại phong là Hòa thượng, rồi phong lại là Thượng tọa, có cái chức vị thế này thế khác, nhưng mà nhìn vào cái giới luật thì không có nghiêm chỉnh. Cho nên khi mà người ta nhìn vào giới luật thì người ta thấy được cái vị đó đáng là Thượng tọa hay là không đáng Thượng tọa mà người ta biết.
Bởi vì trong đạo Phật mới vô trong năm tháng à, tui theo Phật năm tháng à, mà tui chứng quả A La Hán thì coi như là vị Trưởng lão rồi đó, tức là Thượng tọa rồi đó. Bởi vì cái danh từ Trưởng lão của Phật ngày xưa gọi đó là Thượng tọa đó. Đó, thì như vậy chúng ta thấy nó không phải là tấn phong như là quan chức phong.
Còn bây giờ Phật giáo chúng ta nó ảnh hưởng của phong kiến, cho nên khi mà chúng ta muốn lên cái chức vụ Thượng tọa phải có một cái tổ chức, rồi phong giữa đám đông, tuyên bố cái vị đó, tên họ gì đó, “Thích” gì đó, nay được tấn phong là Thượng tọa, để làm cho người ta biết tên biết tuổi của mình.
Nhưng mà cuối cùng thì ông chui qua cục đá nó bể đầu ông chớ ông chui không nổi. Còn người ta tu hành mà người ta chứng quả A La Hán đó, thì người ta mới có 20 tuổi à, nó chưa có lớn tuổi chút nào, mà hôm qua chúng ta vào xin Phật xuất gia mà bữa nay chúng ta chứng rồi thì chúng ta đi ngang qua cục đá được, thì ông Phật ổng cho đó là Thượng tọa liền tức khắc.
Cho nên vì vậy đó, Ngài Ca Chiên Diên là một cái người hốt phân ở cái kinh thành Xá Vệ đó, cho nên ai cũng thấy Ngài là cái dạng cùng đinh tệ nhất ở trong cái xã hội, cái giai cấp tệ nhất ở trong xã hội.
Khi mà Đức Phật nhận ông ta vào tu, thì khi được nhận ông ta vào tu thì ông tu có mấy hôm à, có một tuần lễ à, ổng chứng quả A La Hán. Thì ông Phật (vua) nghe nhận ông Ca Chiên Diên là cái thằng hốt phân ở chợ ổng, ở kinh đô của ổng, thì ổng: “Hỡi ơi rồi! Trời ơi nhận cái ông này mà tui làm vua mà tui lạy ổng là chắc chết tui còn gì!”
Thì các thầy nghĩ như thế nào? Ông vua ổng nghĩ ổng thấy: Khổ quá! Trời ơi! Cái ông này từ lâu tới giờ ông quảy gánh ông đi, buổi sáng mà ổng đi - rạng đông xe cộ mà vô kinh thành buôn bán mà ổng còn quảy cái gánh này thì thiên hạ họ đâu có dám! Ổng phải nửa đêm ổng quảy gánh ổng đi hốt phân cà, rồi sáng ra ổng phải biệt cái mặt ổng chớ còn ổng ở đây thì thiên hạ đâu có dám. Cũng như mấy người mà hốt rác ở thành phố mình vậy đó.
Đó thì các con thấy, các thầy thấy. Khi đó đó, Đức Phật mới biết như vậy đó, thế nào là sáng hôm nay là nhà vua cũng đến hỏi Đức Phật: “Sao ông lại thu cái ông cùng đinh như vậy, rồi làm sao mà tui đến cái tịnh xá này được? Thấy ông nào tui cũng phải đảnh lễ hết chớ làm sao!”
Thì do đó Đức Phật đã biết cái ý đó cho nên cho ông Ca Chiên Diên… Bởi vì thu nếu mà cỡ một tháng, hai tháng, ba tháng thì ông ta tu chưa chứng như mình làm sao ông chui cục đá qua được, rồi chừng đó ăn nói làm sao với ông vua. Phải không? Cho nên cái ông này cũng là khôn lắm, ổng vô tu là ổng cũng biết hết mình ổng nỗ lực ổng thực hiện, cho nên ông chứng quả A La Hán.
Vì vậy mà Đức Phật sai ông ra gác cái cửa cổng buổi sáng này, thế nào nhà vua cũng đến cật vấn Đức Phật hết. Cho nên mới cho ổng ra ổng gác cái cửa tịnh xá. Nhà vua đến thì mới hỏi: “Có Đức Phật trong đó không?” Thì ổng nói: “Bạch đại vương, có Đức Phật ở trỏng, để xin Đại Vương chờ một chút thì tui vô trỏng bạch với Đức Thế Tôn!”
(54:32) Thì ổng không có đi vào cái cửa đâu, ông Phật đã dặn mà: “Ông phải chui qua cục đá ở chỗ cổng á!” Thì ông Ca Chiên Diên ổng nói với ông vua rồi ổng chui qua cục đá ổng đi vô trỏng, rồi cái ổng ra ổng đón ông vua vô.
Ông vua ổng vô rồi cái thì ổng đứng hầu bên Phật. Thì ông Phật nói về chuyện ông Ca Chiên Diên mà Đức Phật thu, thì Đức Phật mới chỉ: “Ông Ca Chiên Diên ổng đứng đây nè!” - “Trời đất ơi! Cái ông chui qua cục đá, thôi vậy tui đảnh lễ là phải rồi!”
Thấy không, các thầy thấy chưa? Trong cái chỗ độ người phải như vậy đó, thì các thầy thấy đó là bậc Trưởng lão liền tức khắc, chớ đâu cần gì phải mười năm, hai chục năm đâu.
Còn chúng ta tại vì mười năm, hai chục năm là trải cái qua quá trình để chúng ta tập luyện cái giới luật, mà tập luyện cái giới luật sống đúng cái giới luật đó là ly dục, ly bất thiện pháp thì tức là chúng ta xứng đáng là cái bậc Thượng tọa chớ gì.
Mà hai chục năm hạ lạp tu hành như vậy, mà tới chừng đó giới luật chúng ta còn phạm tùm lum hết: Tiền còn cất nè, ăn phi thời nè, còn xem ca hát nè, rồi còn xức dầu thơm nè, còn cạo râu tỉa râu nè, còn làm những cái điều y áo mà mặc nhăn thì không chịu nè, tất cả mọi cái, phải đeo chuỗi đồ nữa, thì quý thầy nghĩ sao?
Một cái ông thầy như vậy mà hai chục tuổi đạo rồi mà còn sửa sang như vậy, thì làm cái vẻ dáng đẹp đẽ như vậy thì thử hỏi còn cái gì là một vị Thượng tọa? Cho nên đâu có xứng đáng.
Mà bây giờ, đùng cái là tổ chức ra tấn phong là Thượng tọa, Hòa thượng, thì chỉ có cái cách thức tổ chức của vua chúa mà thôi chớ đâu còn gì hơn nữa, tức là phong kiến rồi.
Cho nên ở đây chúng ta thấy, xét lại trong kinh giới của Phật, chúng ta thấy về cái hàng giáo phẩm, cái chức giáo phẩm Thượng tọa ở trong cái đạo Phật nó đơn giản mà nó đúng cái cách của nó.
Miễn là cái người đó thực hiện được cái giới luật là cái vị đó xứng đáng là Thượng tọa, mà cái người mà chưa có thực hiện được giới luật, dù bây giờ ở trong đạo cho tới 80 tuổi đó thì người này cũng là cái chú Sa Di hình đồng mà thôi.
Bởi vì cái giới luật Sa Di mà ông ta thực hiện không được thì ông ta là chỉ Sa Di hình đồng thôi chớ làm sao hơn được! Nghĩa là cái chú đó là chưa có được Sa Di, phải nói rằng…
Cho nên hiện giờ chúng ta thấy cái giới luật của quý thầy hiện giờ đó quý thầy có giữ gìn được cái giới luật Sa Di chưa? Mà chưa thì quý thầy cũng chỉ là Sa Di hình đồng thôi. Bởi vì nhìn cái giới luật mà chúng ta biết mình là Sa Di hình đồng chớ không phải là một vị Tỳ Kheo đâu, hay hoặc là một vị Trưởng lão, Thượng tọa đâu.
(57:05) Nhưng mà bây giờ giáo hội mình tổ chức ra, đem tên quý vị đặt ra làm Thượng tọa đồ cái quý vị cũng khoái lắm. Nhưng mà nhìn lại cái giới Sa Di đó mình có giữ trọn không? Mà chưa giữ trọn thì mình xấu hổ lắm chớ! Ai mà nhận cái chức Thượng tọa gì kỳ vậy: Tiền tui còn cất nè, tui ăn phi thời một ngày ba bốn bữa nè, mà bây giờ mà biểu tui làm Thượng tọa thì tui làm Thượng tọa tui xấu hổ.
Vậy mà có người không xấu hổ chớ, họ còn dương dương cái mặt họ lên chớ! Họ đâu thấy rằng cái giới luật để chứng minh cho cái chỗ tu hành họ ly dục, ly bất thiện pháp, mà họ không thấy, mà họ còn tưởng là mình thiệt là Thượng tọa chớ! Nghĩa là khi mà phong chức cho họ là Thượng tọa, coi như họ đi ở trên trời chớ họ không có đi dưới đất đâu. Cái mặt họ vênh lên trên, họ nói ngon lắm rồi.
Nhưng mà cái giới luật của họ, thiệt ra thì họ dưới phàm phu, họ không bằng cái chú Sa Di Thập Giới rồi. Nghĩa là họ chỉ ngang với cái chú Sa Di hình đồng thôi chớ còn không gì hết, thế mà họ là Thượng tọa, Hòa thượng thì chúng ta thấy đau lòng cho Phật giáo, đau lòng rất đau lòng chớ!
Làm gì mà Phật giáo mà có những cái hạng người như vậy? Mới có Sa Di hình đồng mà bây giờ là Thượng tọa, Hòa thượng rồi, thì làm sao được? Một vị Hòa thượng dù chết thì chết chớ người ta cũng phải ăn một bữa chớ, sao lại ăn ba, bốn bữa như vậy?
Như vậy là nhìn chung là chúng ta thấy cái đau khổ của Phật giáo chúng ta, cái sa đọa của Phật giáo chúng ta hiện giờ.
Đạo Phật không chấp nhận nghi thức quá rườm rà, không có giá trị hành pháp tu tập.
Nghĩa là Đức Phật không có chấp nhận những cái nghi thức rườm rà tổ chức mà tấn phong thế này thế khác, không có cái giá trị của sự hành pháp. Nghĩa là rườm rà mà không có cái sự tu tập thì Đức Phật không chấp nhận.
Xét trong kinh giáo của Phật, Phật giáo ở thời kỳ đầu vốn không có một nghi thức tôn giáo nào cả.
Nghĩa là ở kỳ đầu đâu có cái nghi thức nào đâu, người nào muốn xin là tự xưng lên là đã nhận là đệ tử của mình rồi.
Nhưng về sau tăng chúng càng đông thì cần phải có nghi thức, nhưng rất đơn giản.
Nghĩa là trong cái thời Đức Phật, khi mà chúng tăng nó đông rồi thì bắt đầu nó cũng có những cái nghi thức, nhưng mà rất đơn giản chớ không phải là quá rắc rối như vậy, như bây giờ chúng ta nữa.
Nghi thức thế độ Sa Di thành hình sớm nhất cũng là từ việc La Hầu La xuất gia.
Nghĩa là cái hình thức thọ Sa Di sớm nhất là cái việc mà cho La Hầu La xuất gia, là cái người Sa Di đầu tiên trong cái giáo đoàn của đạo Phật đó.
4.2- NỘI DUNG NGHI THỨC XUẤT GIA
(59:29) Sa Di xuất gia phải có hai thầy:
Ở đây thì ba thầy cũng được, mà hai thầy cũng được, ở đây thì lấy tối thiểu là hai thầy.
Phải có hai thầy: Một vị làm thầy thế độ là Hòa thượng…
Tức là Hòa thượng đường đầu đó.
… để truyền giới, còn một vị thầy nữa làm giáo thọ A Xà Lê.
Vì thế, người xuất gia trước phải lễ thọ thỉnh Hòa thượng…
Tức là thỉnh vị thầy của mình đó, làm Hòa thượng đường đầu để thọ giới Sa Di cho mình.
… và thỉnh một vị A Xà Lê để làm giáo thọ.
Để giúp cho Hòa thượng đường đầu đó làm cái buổi lễ cho nó được trang nghiêm và tốt đẹp.
Người xuất gia sau khi thỉnh hai vị thầy xong, ở trong đạo tràng phải thiết lập hai chỗ ngồi, mặc y phục tề chỉnh, hướng về cha mẹ lạy từ biệt mỗi người ba lạy, và quỳ xuống đọc kệ:
Nghĩa là cái người mà xin làm lễ xuất gia đó, thì trước tiên, khi mà thỉnh được hai vị thầy rồi đó, thì họ làm lễ ở tại cái đạo tràng đó họ thiết cái lễ đạo tràng, họ mặc y phục tề chỉnh, họ hướng về cái phía cha mẹ tức là nhà cha mẹ họ ở đó, họ lạy cha mẹ ba lạy.
Nếu mà cái người đó xuất gia khi mà họ chưa rời khỏi gia đình của họ đó, họ còn sống bên cha mẹ đó, thì cái ngày đó họ phải lạy cha mẹ rồi họ mới đi đến chùa mới làm lễ xuất gia. Nó như vậy là mới đúng cách.
(01:01:11) Rồi họ còn phải học một cái bài kệ, nhưng mà ở trong kinh giới nó dạy như thế này thì theo Thầy thấy nó cũng quá rườm rà đó, nó không đúng, mình chỉ lạy cha mẹ rồi đến đó rồi mình xin xuất gia là đủ. Bài kệ như thế này:
Trôi lăn trong ba cõi
Ân ái không thể thoát
Bỏ ân vào vô vi
Là chân thật báo ân.
Nghĩa là từ lâu mình trôi lăn ở trong ba cõi, do ân ái mà không thoát ra, bây giờ mình bỏ ân ái đó, mình vào trong cái cõi vô vi là chân thật báo ơn. Nghĩa là bây giờ mình báo ơn cho cha mẹ của mình là mình phải bỏ ân ái, mình trở về với cái đạo vô vi, đó là mình mới báo ơn cha mẹ của mình.
Đó là mình đọc cái bài kệ, khi mình lạy rồi mình đọc cái bài kệ đó, mình nói lên cái sự báo ơn của mình, không phải là mình ở gần bên cha mẹ là mình báo ơn, mà mình đi tu đó đó là mình mới chính là báo ơn. Đó là cái bài kệ cái ý nghĩa như vậy.
Sau khi nói kệ xong, cởi bỏ y phục thế tục.
Nghĩa là khi đọc cái bài kệ đó rồi, thì đây là trong cái điều hướng dẫn ở trong giới đàn tăng đó, người ta dạy cho mình trong các cái pháp Yết Ma, dạy cho mình là sau khi mình đọc kệ xong rồi thì mình cởi bỏ đồ thế tục, như quần áo của mình mặc ở thế tục đó, mình cởi bỏ, rồi mình mặc tăng phục vào, như tất cả các cái y áo của mình, của các vị thầy đang mặc, thì mình mặc vào.
Khi mặc vào rồi thì mình quỳ trước Hòa thượng, và chắp tay xin Hòa thượng giảng cho mình hiểu biết như thế nào về kinh, về cái thân bất tịnh, về cái sự vô thường, về cái sự vô ngã, sự khổ của con người. Đó, mình xin Hòa thượng để giảng cho mình hiểu.
(01:03:05) Kế đó thì A Xà Lê - khi mà giảng xong rồi thì cái vị A Xà Lê giáo thọ đó, mới rải nước lên trên đầu mình, thì cái vị đó mới đọc kệ. Đây Thầy đọc cho cái bài kệ để thấy luôn:
Hay thay đại trượng phu
Hiểu thế gian vô thường
Bỏ tục hướng Niết Bàn
Hy hữu khó nghĩ bàn.
Đó, cái vị thầy họ đọc cái bài kệ đó để cho khi mà nghe được cái thân vô thường… (Mất tiếng)
Cho nên cái vị A Xà Lê đó đọc cái bài kệ để nhắc nhở, để khen, để tán thán cái việc làm của chúng ta, việc làm của cái người mà xin xuất gia đó.
Người xuất gia lễ thập phương chư Phật ba lạy và nói kệ:
Quy y Đại Thế Tôn
Thường độ ba cõi khổ
Cùng nguyện các chúng sanh
Đều nhập vô vi lạc.
Đó là cái người mà đã được hai người này chấp nhận cho mình quy y rồi đó, sau khi đó mình lạy thập phương chư Phật rồi mình đọc bài kệ, thì vị A Xà Lê đó bắt đầu cạo tóc mình, đọc kệ rồi cạo tóc mình:
Hủy hình giữ chí tiết
Cắt ái từ mẹ cha
Bỏ nhà, tìm Thánh Đạo
Nguyện độ hết mọi người.
Đó là cái bài kệ của cái vị A Xà Lê đó đọc lên khi mà cắt tóc của mình, cạo đầu của mình đó, thì coi như là hủy hình làm cho hoại cái hình tốt đẹp của mình hồi nào tới giờ đó, để cho mình giữ được cái chí khí, cái chí tiết của mình.
Cắt ái từ mẹ cha
Bỏ nhà tìm Thánh Đạo
Nguyện độ hết mọi người.
Đó là cái vị A Xà Lê vừa cắt tóc vừa nhắc nhở cho mình qua cái câu kệ đó.
Vị A Xà Lê cạo tóc chỉ còn để lại ít cọng tóc ở trên đầu.
Nghĩa là cạo vậy chớ còn để chừng mấy cọng tóc loe hoe ở trên đầu, chớ còn chưa cạo hết. Để đó làm gì đây? Chúng ta thấy những cái nghi thức mà ở trong các pháp Yết Ma nó… Còn hầu hết là bây giờ Thầy thấy nó cạo trụi hết rồi, xong rồi nó xách cái ông thầy mới xuất gia đó vô cái làm lễ thôi, chớ nó không có cạo mà để mấy cọng tóc loe hoe đâu.
Còn cái này nó để cho còn có mấy cọng tóc loe hoe ở trên đỉnh đầu đó, thì đây là cái cách thức của trong các pháp Yết Ma để mà thọ, mà Thầy đọc ra đây để cho chúng ta biết cách thức để mà chúng ta thấy có đúng hay là sai, để mà chúng ta làm cho nó đúng cách.
Chỉ còn để lại một ít cọng tóc trên đầu thì cái vị Hòa thượng đường đầu đó, tức là cái vị mà truyền giới đó - thì có hai thầy mà, thầy giáo thọ và một vị Hòa thượng - thì vị Hòa thượng đó mới cầm cái dao cạo mấy cọng tóc đó đi. Rồi vị Hòa thượng mới nói:
“Hiện tại vì ông mà cạo mấy cọng tóc ở trên đỉnh đầu của ông (được không?)”
Tui vì ông mà tui cạo cái tóc ở trên đầu của ông để cho ông được giải thoát đó.
(01:06:00) Người xuất gia đáp: “Vâng ạ! Con xin Hòa thượng cạo cho!”
Đó, để mấy cọng tóc đó tượng trưng rằng ông hủy hết tất cả những cái thế tục ở trên cái đầu ông xuống đi, đừng có để ông mang cái đó nó nặng nề, nó không giải thoát cho ông.
Bây giờ, cái ông giáo thọ ổng cạo ổng để lại dành cho Hòa thượng đó đặng mấy cái câu đó để mà nói lên, làm cho cái ý nghĩa thâm sâu của cái người mà bữa đó mà xuất gia như vậy đó họ nhớ mãi muôn đời của họ, và đồng thời họ trả lời : “Vâng, xin Hòa thượng cạo cho!” Nghĩa là cạo sạch giùm con để cho con được nhẹ nhàng, con được giải thoát. Đó là những cái điều kiện làm cho người ta có cái sự thâm sâu ở vào trong cái thân tâm của cái người xuất gia.
Cạo tóc xong, truyền cà sa.
Tức là truyền cái y.
Người xuất gia đội y…
Cái người xuất gia đó mới có đội cái y, khi mà cạo tóc xong rồi thì Hòa thượng mới trao cái cà sa, thì cái người xuất gia này họ mới lấy cái y đó để ở trên cái đầu, rồi lại giao cho Hòa thượng lần nữa, giao qua giao lại như vậy ba lần.
Nghĩa là mỗi lần cái vị Hòa thượng đưa, thì cái vị xuất gia đó mới để lên trên đầu mình đội, đội rồi mới cầm cái y đó mới trao lại cho Hòa thượng. Rồi Hòa thượng mới trao lại cho mình nữa, mình nhận cái y đó mình đội lên trên đầu nữa, và mình trao lại cho Hòa thượng lần nữa. Rồi Hòa thượng trao ba lần như vậy đó, chứng tỏ rằng mình rất quý trọng cái y giải thoát này.
Vì cái y này nó đem lại cuộc đời của mình hoàn toàn là nó khác tục rồi, mình ly dục, ly bất thiện pháp rồi, mình không còn sống ở trong cái chỗ ham muốn, cái chỗ đắm mê của thế gian nữa, mình trong sạch rồi. Cho nên cái y này mặc vào là nó làm cho mình giải thoát, gọi là giải thoát y đó.
Cho nên ba lần truyền như vậy và ba lần nhận như vậy để cho nó có một cái sự thâm sâu của một cái chiếc áo giải thoát. Cái ý nghĩa nó như vậy đó.
Hòa Thượng - bắt đầu đó, khi ba lần như vậy rồi thì không phải cái người xuất gia đó tự mặc cái y vô đâu, mà cái vị Hòa thượng lại đắp cái y cho cái người đệ tử của mình.
Đó, nó có cái hình thức nó đầy đủ những cái ý nghĩa đó. Cho nên hôm nay Thầy giảng về giới luật, để mà thầy thấy cái nhiệm vụ cái vị thầy làm sao mà cho nhớ mãi, đó thầy nhớ lại trong những cái tình nghĩa thầy trò.
Bây giờ người học trò mình nó chưa có hiểu giới luật, mà mình mặc cái y này là cái y giới luật cho nó, tức là mặc cho nó vào, phủ trên mình nó một cái giới luật thanh tịnh, nó làm cho nó ly tất cả những cái đau khổ cuộc đời của nó. Cho nên vị Hòa thượng đó mới đem cái y đó mới đắp cho nó, rồi mới vắt cái y nó cho xong, rồi bắt lên tay nó như thế nào để đúng cách là một vị tu sĩ hẳn hòi, rồi bắt đầu nó mới đảnh lễ Hòa thượng để mà tỏ ơn, để mà nhận cái y cà sa đó.
Cho nên khi mà cái vị Hòa thượng mặc y vào cho người xuất gia rồi thì vị Hòa thượng mới nói cái câu kệ:
Lớn thay! Áo giải thoát
Y vô tướng phước điền
Mặc vào sống giới hạnh
Rộng độ các quần sanh.
(01:09:12) Nghĩa là mặc cái y này vào thì phải sống cho đúng cái giới hạnh, nó đừng có phạm cái giới hạnh. Nghĩa là thấy cái y của mình rồi thì hoàn toàn là phải giữ gìn không có cho nó phạm giới. Thế mà người ta mặc cái áo, cái y, mà bây giờ người ta không có thấy cái điều đó.
Chắc có lẽ hồi mà quy y, mà đã là thành một tu sĩ, một Sa Di, chắc ông thầy, ông Hòa thượng ổng không có mặc y đâu, bởi vì đông quá, ổng làm sao ổng mặc hết? Nghĩa là phát, phát cho mỗi đứa đó rồi cứ đem ra đó mà mặc, đứa nào mặc không được!
Cái y chớ đâu phải dễ mặc? Có biết mặc rồi nó mới mặc được chớ không phải xỏ tầm bậy tầm bạ, cũng như lấy cái vải mà quấn vậy chớ có làm biết cái thứ gì! Cho nên phải có học trước.
Vì vậy mà hầu hết là Thầy thấy mấy cái chú mà muốn xuất gia đồ đó, đêm mà sáng ra mà thọ Thập Giới, thọ để mà trao y bát, đêm đó mấy chú đó thôi tập vấn thôi lia lịa hết.
Chớ không vấn rồi làm sao biết vấn? Như Thầy bây giờ vắt vầy, quý thầy Thầy đưa cái không biết vấn làm sao nữa, chắc có lẽ là quấn như cái bánh tét chớ đâu có làm gì khác hơn, phải không? Cho nên phải có một cách thức mà có thể làm mới đúng, chớ còn không biết cách thức thì không thể đúng được.
Cho nên ở đây cái bài kệ Thầy thấy cũng có làm cho cái ý nghĩa của cái sự xuất gia chúng ta nó có những cái ý nhớ thâm sâu trong tâm hồn của chúng ta:
Lớn thay! Áo giải thoát
Y vô tướng phước điền
Mặc vào sống giới hạnh
Rộng độ các quần sanh.
Người mặc áo cà sa xong, phải đi ba vòng đàn tự nói kệ:
Nghĩa là khi mặc cái áo cà sa, ông thầy - ông Hòa thượng ổng đắp cho cái áo cà sa mình rồi ổng nói kệ rồi, thì bắt đầu mình đứng dậy mình đi, bắt đầu mình đi, mình đi ba vòng của giới đàn và vừa đi thì vừa đọc kệ:
Nếu được gặp Đức Phật
Người nào không vui mừng?
Phước nguyện gặp đúng lúc
Con nay được pháp lợi.
Đó là cái người mà xuất gia rồi đó, khi đó đi ba vòng, đọc kệ ba lần như vậy.
Người xuất gia lễ tạ thầy xong rồi lui về.
Nghĩa là lúc bấy giờ đó, khi mà như vậy xong rồi đi ba vòng đọc kệ rồi, mới là lạy lễ tạ thầy, hai vị thầy đó, rồi mình mới lui về thất của mình. Từ đó thì coi như mình là ở luôn ở trong chùa chớ không có về gia đình nữa, ông thầy dạy sao thì mình tu tập như vậy, và giới luật thì luôn luôn lúc nào mình cũng hẳn hòi để mình giữ gìn sống cái giới luật.
Cho nên đọc ở trên: “Mặc vào sống giới hạnh”, thiệt là đúng, chúng ta mặc cái y này, mặc cái bộ đồ này mà giới hạnh chúng ta chẳng ra gì thì chúng ta xấu hổ lắm.
Thầy khuyên quý thầy cứ nhìn cái áo của mình là cái áo giải thoát, cái áo phước điền. Cái áo giải thoát mà mình không giải thoát thì còn ai giải thoát được cho mình? Cái áo nhắc nhở cái hình tướng giải thoát bằng cái giới hạnh, thế mà mình không sống đúng giới hạnh thì quá uổng cái đời tu của mình rồi.
5- THỌ GIỚI THEO ĐÚNG THỨ TỰ THÌ GIỚI LUẬT MỚI TRỌN VẸN
(01:11:59) Thứ lớp của sự thọ giới.
Bây giờ kế tiếp thì chúng ta cũng phải học đến cái sự thứ lớp của thọ giới.
Trước tiên phải thọ Tam Quy Ngũ Giới rồi sau đó mới Thập Giới.
Nhân vì thất chúng là tiệm thứ giới phải thọ theo thứ tự, chẳng được một phen tiến vào cửa Phật xuất gia liền thọ Thập Giới Sa Di. Ở trên tâm lý người thọ giới chuẩn bị không kịp.
Nghĩa là một cái mình vô cái mình thọ cụ túc giới rồi, thì trên cái tâm lý con người nó không có kịp chuẩn bị cho những cái giới trước, giới sau được.
Cho nên vì vậy theo cái thứ tự mình phải thọ Tam Quy, rồi Ngũ Giới, rồi Thập Giới tuần tự, thì nó như vậy thì nó mới có chuẩn bị cho cái sự học hỏi về giới luật, và mình mới sống đúng những cái giới hạnh. Còn mình đùng cái mình vô cái mình thọ Tỳ Kheo liền!
Cho nên có nhiều người họ vô cái họ thọ ngay liền, làm ngay liền à, là Tỳ Kheo liền à! Nghĩa là thọ cụ túc liền à, cho vô cái thọ Sa Di cái là thọ liền liền, trong vòng chừng một tháng là họ thọ luôn cả ba, bốn cái giới hết: Nào là thọ Tam Quy, rồi Ngũ Giới, rồi Thập Giới Sa Di, họ thọ luôn, tháng sau là ba tháng cái họ thọ cụ túc giới luôn.
Không biết là cái ông thầy này, không biết cái kiểu cách nào mà ổng sống đúng một lượt cả bao nhiêu giới không biết, Thầy không hiểu làm sao! Tam Quy Y, ba cái giới đầu tiên của Phật, không biết chúng ta có sống có đúng được không nữa, rồi đến Ngũ Giới đâu phải chuyện dễ, rồi đến Thập Giới quá khó.
(01:13:38) Thế mà đùng cái, có nhiều người có ba, bốn tháng sau cái Thượng tọa, Tỳ Kheo rồi, Thầy thấy quá nhanh, về cái lãnh trụ trì liền mà không có thấy ngày nào tu hết.
Tứ Phần Luật giới bổn Tùy Giảng Biệt Lục của đại sư Hoằng Nhất dạy: “Cạo tóc xong, trước thọ Ngũ Giới điều phục thân tâm…”
Nghĩa là trước phải thọ Ngũ Giới. Theo đại sư Hoàng Nhất thì ngài không có cho cái người thọ Sa Di mà ngay thọ Thập Giới liền, ngài cho thọ Ngũ Giới trước. Bởi vì tuy rằng hồi ở còn cư sĩ đã thọ Ngũ Giới rồi, nhưng bây giờ vô thì ngài chia ra làm hai phần: Cái phần thọ Ngũ Giới trước, và sau đó sáu tháng sau thì ngài mới cho thọ năm cái giới sau, cho nên nó mới thọ đủ Thập Giới.
Ngài còn chia ra cho nó từng bậc, để cho năm giới đó cho nó thuần thục ở trong sáu tháng. Nghĩa là vô đó bắt cái chú Sa Di đó hàng ngày phải tu tập là Tứ Vô Lượng Tâm rồi đó, đi phải không có được đạp chết trùng dế rồi đó, phải tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức trở lại, phải tu Tứ Chánh Cần, phải ngăn ngừa các pháp ác mà tăng trưởng các pháp thiện.
Thì suốt cái thời gian đó, thì đi cầu, đi tiểu, đi giải, hoặc là súc miệng, ăn cơm gì, chú này chắc chắn là cũng phải luôn luôn tỉnh thức hết, không có được mà mê mờ. Sáu tháng đó rồi sau mới cho thọ luôn năm giới sau nữa, thì nó mới đúng là Thập Giới.
Cho nên Thầy thấy là đại sư Hoằng Nhất này ổng cẩn thận lắm, mà cho như vậy Thầy rất đồng ý. Là vì dạy đệ tử của mình phải dạy từ từ, từ cấp bậc thấp rồi lần lượt nó ít nó tập dần, nó quen đi rồi tới nhiều thì nó sẽ trọn vẹn. Còn cho vô cái là nhiều quá, nó tập không hết, nó sống không kham, rồi từng đó nó phạm giới.
6- KHÔNG ĐẮC GIỚI THÌ THỌ GIỚI CŨNG NHƯ DIỄN TUỒNG
(01:15:33) Bất luận Ngũ Giới, Thập Giới, Tỳ Kheo Giới và Tỳ Kheo Ni Giới, toàn bộ đều ở trong đạo tràng giới. Ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam chỉ chiếu theo các bộ sách Truyền Giới Chánh Phạm.
Nghĩa là ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc thì người ta dựa theo cái bộ giới luật là cái Truyền Giới Chánh Phạm, của cái bộ giới luật đó mà người ta làm cái nghi thức tổ chức các cái lễ truyền giới.
Cho nên người ta chỉ có theo cái bộ giới luật truyền giới đó mà thôi, người ta không có cái gì khác hơn hết. Và đồng thời thì người ta cũng dùng những cái ở trong cái bộ luật - ở trong cái bộ Truyền Giới Chánh Phạm đó đó - là:
Các việc xướng, niệm, quỳ, lạy mấy mươi ngày giống như diễn kịch…
Nghĩa là cái bộ Truyền Giới Chánh Phạm đó nó làm như một cái tuồng kịch ở trên cái sân khấu. Vì vậy mà khi truyền giới cho các đệ tử của mình thì cũng như là bắt nó diễn kịch ở trên cái tuồng sân khấu như vậy đó, chớ nó không có khác gì hết.
Mà ở Việt Nam mình và ở Trung Quốc đều là lấy cái bộ Truyền Giới Chánh Phạm này mà nó làm những cái nghi thức các pháp Yết Ma, xướng niệm cái gì nó cũng làm sẵn ra hết, như là các diễn viên diễn kịch mà có cái bổn để mà nhắc tuồng vậy đó.
… y theo kịch bản làm một tuồng.
Nghĩa là không có làm hai tuồng được. Nghĩa là cái kịch bản của cái Truyền Giới Chánh Phạm này, khi nào quý thầy đọc cái đó thì giống như là Giới Đàn Tăng của Hoà thượng Thiện Hòa đã dịch, đã soạn ra vậy đó, nó giống y như cái bản kịch.
Đạo tràng truyền giới chỉ chú ý sự quỳ lạy xướng niệm chỉnh tề đẹp mắt của một số đông giới tử, mà không có xem giới tử có lãnh hội được ý nghĩa của sự thọ giới hay không? Có đắc giới hay không?
Đến như tư cách của giới sư có hợp với yêu cầu thống nhất ở trong luật hay không…
Nghĩa là cái cuốn Truyền Giới Chánh Phạm này nó không có cần thiết ở cái chỗ đó, mà nó chỉ cần thiết có như là một cái tuồng hát, bắt buộc cái vai trò đào kép nó phải như thế nào thế nào đó, thì nó ra phải đóng cái vai trò như vậy thôi đó, thì ở trong cái chỗ cái cuốn sách này, cái cuốn kinh giới này, thì nó lầm như vậy đó.
Thì chúng ta thấy rằng nó có đúng cái tính cách của đạo Phật không? Nó không có đúng cái tính cách. Họ chỉ vẽ ra một cái tuồng mà để truyền giới đó.
(01:18:20) Trên thực tế, Sa Di thọ Thập Giới rất đơn giản. Tại sao các thầy đặt ra những sách vở như vậy để thế độ người lại bỏ một quyền lợi, nghĩa vụ thiêng liêng của họ?
Nghĩa là mình đặt ra một cái tuồng như vậy để mình làm cho đẹp mắt cho người xem, đẹp mắt cho mọi người, mà mình quên rằng cái truyền giới cho một người đệ tử mình nó có một cái thiêng liêng ở trong đó, nó làm cho cái người đó suốt cuộc đời của họ nó giữ gìn giới hạnh rất nghiêm chỉnh.
Còn mình làm như vậy họ có giữ gìn giới không? Một diễn tuồng cho người ta xem chơi chớ đâu phải là có cái gì đâu.
Cho nên như vậy là những cuốn sách đó có còn đáng để cho chúng ta theo cái đó mà làm không, hay là đem đốt đi? Để sau này quý thầy có dịp mà nghiên cứu về những cuốn sách đó rồi quý thầy mới thấy được cái lời mà Thầy nói: Đáng đốt hay là đáng để?
Chúng ta đâu phải là những tu sĩ để mà soạn tuồng để diễn kịch cho người ta xem, mà chúng ta là những người phải thực hiện những cái tâm linh để giải thoát, chớ đâu phải là chúng ta là những người đến đây để làm tuồng cho họ coi?
Vì vậy mà những cái kinh sách đó iến người tu sĩ chúng ta bây giờ trở thành những ông thầy tụng niệm, ca hát. Nghe cái giọng cao, giọng thấp, nghe tiếng đẩu, tiếng trống, tiếng kèn, tiếng đờn của họ, nó ăn rợp rình làm cho cám dỗ những cái người mà ham thích ca hát. Thay vì người ta nghe ca hát nó quen quá rồi, gặp mấy ông thầy chùa này ca hát cái lạ lạ nữa, thành ra họ khoái chớ có gì?
Đó là những cái kinh sách như vậy thì chúng ta có đáng nêu để mà chúng ta giữ gìn cái sự tu tập của chúng ta để giải thoát không, hay là gợi cho chúng ta những cái làm trò cho người ta coi, làm hát cho người ta xem?
Đó thì quý thầy thấy, có những vị mà đi đám ma rồi xướng minh sanh đó, cất cái giọng theo Thầy nói y là như cái ông hát bội, cái ông đào kép gì hát bội mà hát cái tuồng Lưu Kim Đính Giải Giá Thọ Châu, nó cao cái giọng lên quá độ mà Thầy nói không có thể tưởng tượng được!
Thì như vậy là một ông thầy chùa mà làm như là một cái đào kép hát thì còn ra gì mà thể thống! Vậy mà người ta thích lắm, mọi người đều thích lắm. “Trời, cái đám ma của tui mà có ông thầy đó mà xướng một cái thì thiên hạ rớt nước mắt hết!”
7- CƯ SĨ CŨNG CẦN CẦN ĐỌC VÀ HỌC TẬP TOÀN BỘ KINH GIỚI
(01:20:38) Nhưng đối với cụ túc giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni cũng phải học tập và thủ trì nghiêm chỉnh. Trong các giới luật đều có cấm…
Nghĩa là từ cái Sa Di chỉ có 10 cái điều giới, nhưng cụ túc của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni thì cũng phải học hết mà giữ gìn nghiêm trì hết chớ không có cái giới nào mà bỏ hết. Nghĩa là phải học hết, học tập hết, nghiêm trì giữ gìn cho nghiêm chỉnh hết chớ không có bỏ cái giới nào hết.
Trong các giới luật đều có cấm: Tiểu chúng không được nghe thuyết giới cụ túc và Yết Ma của đại chúng.
Nghĩa là cấm không có cho cái chúng Sa Di, Sa Di nam cũng như Sa Di nữ không có được nghe cái giới cụ túc, cấm không cho chúng nghe. Mà cũng không có cho được nghe các pháp Yết Ma nữa. Nghĩa là không có cho được nghe các cái pháp Yết Ma phải làm vậy, vậy, như thế nào, thế nào, thì cấm không có cho nghe.
Cũng như cái bộ Truyền Giới Chánh Phạm này chắc chắn là cấm không có cho được người nào mà xem hết. Tức là không có được coi xem cái tuồng này trước, để người ta diễn mấy người mới giựt mình chứ còn cho xem rồi nó không có hay!
Đó thì cho nên đó là cái lối của các bậc tôn túc của chúng ta mà soạn những cái kinh giới, họ rất sợ người ta xem rồi mình diễn ra không có hay, để cho mình diễn cái thình lình họ thấy hay. Đó là cách thức mà có lẽ là mấy vị cũng là những cái tay đào kép hát cũng sành lắm đó mới có soạn ra được cái thứ này, chớ còn lơ mơ thì đâu có soạn được!
(01:22:21) Vì thế cho nên ở đây là chúng ta phải thấy rằng cái sự cấm đoán như vậy, khi mà chúng ta không biết, một vị tiểu chúng mà nó không biết cái giới cụ túc thì làm sao mà nó biết cái đó là nó khó hay là dễ? Nó biết, nó thấy khó thì nó thôi, nó xin về gia đình nó, nó làm cái người cư sĩ tốt đi, nó thấy khó quá.
Mà nó biết dễ, nó biết bây giờ mình phải giữ gìn cái đó để được giải thoát, thì nó biết có khó đi nữa mà được giải thoát, thì nó thấy rằng đúng, nó phải đi vào con đường này, thì vậy mà nó đã nghiên cứu sẵn, nó có chuẩn bị cho cái tinh thần nó sẵn sàng để nó chấp nhận được cái giới cụ túc. Cho nên đến khi mà thọ được giới cụ túc thì nó rất là mừng, nó được thọ là nó rất mừng, vì đó là coi như nó được pháp để nó sống, để ly dục, ly bất thiện pháp rồi.
Còn đằng này không cho nó biết, tới chừng đùng cái mà đem ra nói vậy, trời ơi! Như trên trời nó rớt xuống vậy: “Trời! Gặp ba cái giới này, chắc chết khô mình luôn rồi còn cái gì!” Cho nên nó làm sao nó dám thọ.
Vì vậy mà tới cuối cùng thì thọ để mà lên chức là Đại đức rồi hay hoặc là lên chức Thượng tọa, rồi lên chức Hòa thượng, nhưng mà giới nó phạm tùm lum ra hết cả đám hết, nó không có cái gì hết. Bởi vì nó đâu có chuẩn bị tinh thần, cho nên đến đó rồi thì nó cứ phạm, cứ phạm mặc phạm, chớ nó làm sao bây giờ?
Đó. Còn chúng ta phải cho những cái tiểu chúng này nó phải nghiên cứu về cái giới, nó hiểu, rồi mình mới hỏi nó: “Vậy con nghiên cứu những cái giới luật này, con biết những cái giới luật này, con có giữ nổi không?”
“Bạch Hoà thượng” hay: “Bạch Thầy! Con giữ nổi. Con quyết, con thấy cái giới này ly dục, ly bất thiện pháp rất là cụ thể, con quyết tâm con giải thoát! Xin Hòa thượng chọn cái ngày tháng nào cho - con tới tuổi rồi đó, Hòa thượng chọn ngày tháng nào cho con thọ cụ túc! Con rất ham nó nè, con rất thích tu nó nè, con muốn, con thích sống nó nè!” Đó là như vậy nó chuẩn bị tinh thần nó rồi.
Còn bây giờ không có cho nó biết gì hết, đùng cái rồi cho nó thọ cụ túc, thọ cụ túc rồi nó mới học, thì chừng đó nó học nó ê mày, ê mặt nó. Chừng nó sống không nổi nó thì lúc bấy giờ - chính là lúc bấy giờ nó lại phá Phật pháp đó.
(01:24:13) Vì thế phần nhiều, cổ đức nhận định: Cấm đoán người chưa thọ cụ túc giới cũng không được duyệt đọc đại giới…
Nghĩa là cũng không cho người ta đọc những cái kinh đại giới nữa.
… bằng không thì thành tặc trụ chướng ngại.
Nếu mà cho những cái người đó mà đọc kinh giới thì họ sẽ thành tặc trụ chướng ngại - thành giặc ở trong chùa đó, thành giặc ở trong cái đạo đó. Họ cho là những người đó chưa có được thọ giới mà đọc những kinh giới, đại giới như vậy, họ sẽ thành giặc ở trong chùa.
Đó là những cái nhận xét sai của những người xưa mà đã viết ra những kinh giới mà cấm đoán người ta như vậy, chớ không phải Phật cấm, để rồi mỗi cái cũng đều đổ thừa ông Phật cấm hết à, chứ sự thật ông Phật không có cấm những cái đó.
Đã không được nghe, mà cũng không được đọc, thì do đâu mà học tập?
Nghĩa là mình đã không được nghe, không được học, không được đọc thì do đâu mình học tập giới luật? Cho nên vì vậy mà mình thọ giới rồi mình mới học tập thì nó quá muộn màng rồi.
Cho nên, vì cái sai của cái người xưa sợ mấy chú nhỏ này mà họ thấy mình làm lỗi đi, vì vậy đó nó cười mình đi, nó chê mình đi, tức là mình có phạm giới rất nhiều cho nên mình mới đặt ra cái này để không cho chúng biết.
Chớ mấy chú nhỏ này mà nó mới thọ Thập Giới, mà nó thấy mình không có thọ tới cụ túc mà nó đọc thấy, hiểu: “Ông thầy này, trời đất ơi! Ổng nói chớ ổng phạm tùm lum hết! Như vậy là đâu có tốt gì, mấy ông thầy này xấu quá!” Mấy ổng sợ mà mấy ổng cấm đoán dữ tợn.
Theo thiểu ý của tôi thì tất cả cư sĩ nam cũng như cư sĩ nữ và tiểu chúng đều đọc và học tập tất cả kinh giới.
Giới kinh cũng học nè, giới bổn cũng học, đọc thông suốt hết. Khi mình muốn chuẩn bị cho mình vào đạo Phật thì bây giờ đó, người cư sĩ cũng được đọc nè, người cư sĩ nữ, cư sĩ nam nè, rồi tiểu chúng, tất cả những người mà thọ Sa Di đó, đều là được đọc hết tất cả kinh giới. Kinh giới nên phổ biến rất rộng và in rất nhiều để cho tất cả mọi người đều đọc.
Để làm gì? Họ thông suốt được, cái ông thầy nào mà phạm giới là họ chỉ à, họ chỉ cho ổng mắc cỡ đi. Ổng mắc cỡ thì ổng tu không được thì ổng ra đời, mà ổng tu được thì ổng ở lại ổng là thành một bậc Thánh Tăng, thì vậy là còn ít mà tốt hơn là bây giờ cả đám mà phạm giới nhau thì đâu có tốt!
Cho nên, đem kinh giới ra in nhiều. Bây giờ kinh giới in rất ít, mà hầu như là người ta còn không thích đọc. Bởi vì đọc thì đọa địa ngục cho nên họ không dám đọc.
Họ có thông suốt giới luật, tu sĩ mới ít phạm, vả lại khi phạm thì bị họ chỉ trích nên sợ.
Do đó cái người ta đọc thông suốt, ai cũng thông suốt giới luật của nhà Phật hết rồi, cho nên cái ông thầy không dám phạm, vì vậy mà từ đó ông thầy nó ly dục ly bất thiện pháp được.
(01:27:10) Do vì vậy mà trong giới luật, nhất là cái giới kinh, Thầy nói thiệt ra nếu mà điều kiện mà có phương tiện mà có đủ cái kinh tế, Thầy cho in giới kinh này Thầy phổ biến, Thầy cho chớ Thầy không bán, cho mọi người ai cũng biết giới kinh hết.
Gặp mấy ông thầy mà lạng chạng, bậy bạ đó: “Tôi chịu đọa địa ngục, tôi chỉ mấy ông phạm giới, mấy ông làm như vậy không đúng Phật giáo đâu!” Riết rồi mấy ông thầy này mắc cỡ, riết rồi mấy ông giữ không được cái mấy ông ra đời hết, còn bao nhiêu ông thầy giữ được thì cái bắt đầu Phật giáo bắt đầu tốt, phải không?
Vậy là bắt đầu tự mấy ông cư sĩ đó họ xây dựng mấy ông thầy mình tốt lần lên, như vậy là chùa bây giờ bắt đầu tốt hết, không có cái gì mà còn xấu nữa.
Do nhờ như vậy mà bây giờ Thầy nói ước ao mình có tiền mới in mới phát ra được, còn mình không có tiền làm sao phát được? Cho nên cái duyên cũng còn khó khăn.
Do đó mà viết tất cả những kinh sách này ra cho dữ tợn đi, còn thiền đồ đó mình dẹp bớt đi, đọc ru ngủ họ chớ chẳng tu tới đâu đâu. Còn cái kinh giới này chứ giúp Phật giáo nè, rất tốt đẹp đó!
Khi phạm thì bị họ chỉ trích nên sợ, do đó ít phạm giới. Nhờ đó quen dần, quen dần rồi đắc giới, tâm thanh tịnh nhập Sơ Thiền.
Tức là họ ly dục, ly bất thiện pháp. Bởi vì nhờ giới cho nên lần lượt họ sẽ nhập được Sơ Thiền.
Còn tiểu chúng nhỏ cho đọc và học tập, thứ nhất là chuẩn bị cho tinh thần tiến tới thọ đại giới dễ dàng hơn.
Mình chuẩn bị cho tiểu chúng nó chuẩn bị cho cái tinh thần của nó, cho nên cái giới luật nó được dễ dàng hơn.
Cái thứ hai là chúng gần gũi các thầy, mà thấy các thầy phạm giới chúng chỉ liền.
Do thầy phạm giới thầy phải sửa chớ! Chúng vì gần đó, ổng ăn hai bữa hay ổng lén ăn cục đường: “Thầy vậy đó hả, được ha? Tui ăn có một cục mà thầy ăn hai cục thì đâu có được!” Đó, do đó mà mấy cái chú nhỏ này chỉ ông thầy, ông thầy ổng cũng hoảng sợ, do đó không có phạm.
Ổng không phạm thì thầy trò cũng không phạm. Ông thầy nói: “Mình làm bậy nó cười mình, thôi mình giữ gìn. Tao rình rình tao coi mày có hái trái cây chùa không, mày ăn là mày chết!” Do đó thì ông thầy coi chừng đệ tử. Do đệ tử cũng sợ ông thầy mà ông thầy cũng sợ đệ tử, từ đó thầy trò đều thanh tịnh giới hết. Cho nên từ cái chỗ đó mà nó tốt với nhau hết.
Vì vậy đó mình phải… Bởi vì nó có cái sự sống chung nhau, mà cái giới luật thì ông thầy cũng biết mà học trò cũng biết, cho nên lỡ mình phạm nó cười mình, mà mình phạm nó nói mình thì mình cũng xấu. Cho nên hai thầy trò cũng đều nhìn ngó nhau mà riết mà giữ gìn giới luật rất là thanh tịnh.
Do cái chỗ giới luật đó mà đưa đến cái chỗ tâm ly dục, ly bất thiện pháp ngày nào mà chúng ta không hay. Do đến cái mức độ cuối cùng thì thầy trò đều là chứng quả A La Hán hết.
Còn bưng bít như các tổ mà đã viết ở trong kinh sách của Đại Thừa, bịt miệng, bịt mắt thiên hạ thì thử hỏi có ai mà chỉ lỗi cho mình sửa?
Mà lỗi nhỏ không sửa thì lỗi lớn nó bắt đầu nó tăng trưởng lên hoài, do vì vậy mà tu sĩ mình càng ngày càng đi đến cái chỗ hư đốn, càng đi đến cái chỗ phá giới, nó làm cho Phật pháp suy đồi. Đó là cách thức mà chúng ta thấy rất rõ.
(01:30:11) Trong Tăng Kỳ Luật quy định Tỳ Kheo nếu nói tên thất tụ cho người chưa thọ cụ túc nghe, phạm tội Việt Tỳ Ni.
Nghĩa là trong Tăng Kỳ Luật - trong cái bộ kinh, bộ giới luật gọi tên là Tăng Kỳ Luật quy định: Tỳ Kheo mà nói cái thất tụ cho cái người mà chưa thọ cụ túc nghe thì cái vị Tỳ Kheo đó phạm tội Việt Tỳ Ni. Nghe trong cái bộ luật này mà nói vậy, mấy cái vị thầy Tỳ Kheo mà không có dám nói về thất tụ cho người khác nghe.
Cụ túc giới đối với Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni phân là ngũ thiên thất tụ, cũng là 7 loại tội hạnh của 5 thứ tội danh. Còn đối với Sa Di và Sa Di Ni chỉ có một thứ tội danh gọi là Đột Kiết La.
Nghĩa là, trong ngũ thiên thất tụ cũng là 7 cái loại tội của 5 cái thứ tội danh, nghĩa là ở trong những cái tội mà Thầy đã có nhắc sơ ở trong cái giai đoạn một mà nói về giới luật rồi đó, nó có những cái tội gì, tội gì đó thì Thầy có nhắc sơ, tới đây thì Thầy sẽ nói rõ ra.
Nhưng mà ở đây là cái phần Sa Di thì chúng ta thấy dù là cái Thập Giới Sa Di nó có những cái giới dâm, nhưng mà cái chú Sa Di mà có phạm vào cái giới dâm, hay hoặc là phạm vào cái giới sát hay giới vọng ngữ thì nó chưa phải là cái giới Ba La Di mà nó chỉ có phạm cái tội là Đột Kiết La mà thôi.
Chú Sa Di thì nó nhẹ lắm. Cái chú này mà có phạm thì chỉ là sám hối thôi chớ không có cái gì mà khó. Còn các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni mà phạm vào bốn cái giới kia đó, thì tức là bị đứt đầu, bị trục xuất ra khỏi cái giáo đoàn, cái Tăng đoàn.
Cho nên không có thể nào mà cái vị Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni mà xử theo cái tội của chú Sa Di được. Vì chú Sa Di còn trẻ, còn nhỏ, chú chưa có thọ cụ túc cho nên cái tội chú chỉ tội Đột Kiết La mà thôi.
Thường Tỳ Kheo mỗi nửa tháng nghe tụng giới một lần, cũng phải trải qua thời gian 5 năm mới có thể học tốt về giới luật Patimokkha, huống là Sa Di phải học.
Cho nên 5 năm như vậy đó, nghĩa là thọ cụ túc rồi 5 năm học giới thì mới có thông suốt được cái giới luật Patimokkha. Còn chú Sa Di chỉ có 10 giới của chú thôi, thì phải cho chú học nữa.
Cho nên vì vậy mà chú từ cái chỗ Sa Di chú một năm, hai năm hay là ba năm đó, mà chú đã học giới cụ túc xong rồi thì chú thọ giới chú rất nhẹ học, còn nếu mà đợi cho chừng thọ giới cụ túc rồi mà cho học thì chú phải 5 năm mà chưa chắc đã là chú thông suốt cái bộ giới Patimokkha. Cho nên đó là một cái rất khó.
Tiểu chúng tuy học đại giới, nhưng cũng phải học hết toàn bộ giới luật cụ túc.
Nghĩa là cái tiểu chúng học đại giới nhưng mà phải học hết toàn bộ giới luật, thì giới luật nó phải có giới kinh nè, giới bổn, chớ đâu phải là học có giới bổn không, mà còn phải học hết toàn bộ giới kinh.
(01:33:28) Mà cái tiểu chúng phải như vậy đó, thì chuẩn bị tinh thần cho cái tiểu chúng đó nó sang qua một cái đại giới rồi thì nó đầy đủ, nó không có còn bị dao động. Còn bây giờ mình không chuẩn bị cho nó, sau này nó đâu có biết gì đâu.
Cho nên khi mà nhận một chú Sa Di, như các thầy bây giờ đang còn mặc chiếc áo đó, đó là Sa Di hình đồng. Bởi vì Thầy chưa có nhắc cái Sa Di hình đồng, nghĩa là hoàn toàn mặc chiếc áo đời, chưa có cạo đầu, chưa gì hết, vẫn vô chùa học kinh, học giới. Cái đó là cái Sa Di hình đồng rất là tuyệt vời, mà cái tổ chức này người ta không chê cười.
Còn quý thầy mà cạo tóc mà các thầy đi ra ngồi quán ngồi tiệm mà ăn uống, lơ mơ là các thầy là phá giới làm - người ta đâu có biết mình Sa Di hình đồng, người ta tưởng là một vị thầy, rồi mình phá giới làm cho người ta phỉ báng Phật pháp thì cái tội của mình rất là nặng.
Còn các thầy mà bây giờ quý thầy ngồi đây, mặc dù quý thầy là tóc tai nó bùm xùm vậy đó, nhưng mà quý thầy là quý thầy hết, là Sa Di hết đó. Bởi vì quý thầy đang học giới nè, quý thầy đang thụ những cái pháp của Phật pháp để giải quyết cái tâm ly dục, ly ác pháp của mình ra nè, thì chính là quý thầy là Sa Di hình đồng.
Nghĩa là mặc đồ đời, hoàn toàn đồ đời, không có gì hết, không có cái hình thức mà nó như là cái chú Sa Di, nhưng mà nó là Sa Di chớ không phải là thường đâu. Cho nên phải hiểu biết cái này, để tới đây Thầy sẽ giảng cho thấy cái chỗ mà các thầy là những vị tu sĩ đang ở trong chùa chúng ta là những tu sĩ hoàn toàn.
Còn những người mà cạo tóc mà không giữ được, cái hình dáng thì của Sa Di đó mà lại phạm giới thì rất là tội, làm cho Phật pháp người ta khi bỉ, người ta chê. Người cư sĩ họ sáng lắm, họ biết lắm. Mình cắt đầu mình trọc, mình vô mình ngồi quán, hay hoặc là mình có oai nghi gì sơ suất là người ta khi bỉ Phật pháp lắm, người ta coi…
Cũng như quý thầy ở đây cạo tóc mà quý thầy làm sai, đi ra người ta cười, người ta nói cái Tu viện đó đó, có quý thầy tu ở đó coi bộ nó nghiện ngập say sưa này kia đồ, người ta chửi lắm, người ta nói nặng nhẹ lắm. Mà mình làm như vậy là người ta chê cái Tu viện mình tức là người ta chê Phật pháp, mà người ta chê Phật pháp thì cái lỗi đó ai? Tại vì mình!
HẾT BĂNG