Skip directly to content

01 - BA GIAI ĐOẠN TU TẬP CỦA ĐẠO PHẬT

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 01 – BA GIAI ĐOẠN TU TẬP CỦA ĐẠO PHẬT

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- GIAI ĐOẠN ĐẦU TIÊN: TỪ BỎ NHỮNG NGHỀ NGHIỆP ÁC

(00:02) Bây giờ bắt đầu chúng ta sẽ học, nhưng mà trước khi học cái giáo án này thì chúng ta niệm hồng danh Đức Phật, vì đây là con đường của Đức Phật đã vạch ra cho chúng ta đi.

Vậy xin quý thầy chắp tay lên đồng niệm “Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật”:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Bây giờ Thầy đọc sơ lược cái Giáo Án Tu Tập của đạo Phật:

Một người có đủ duyên được đọc kinh sách của đạo Phật, thấy được chân lý của đạo rất thực tế và cụ thể, hướng dẫn con người tu tập thoát khỏi kiếp sống trầm luân, khổ đau bằng sức tự lực của chính mình, nhất là làm chủ được sự sống, chết theo ý muốn và còn chấm dứt được sự tái sanh luân hồi; vì thế, khi bắt đầu đến với đạo Phật để trở thành người đệ tử của Phật chân chính, quý vị phải từ bỏ sáu nghề nghiệp sanh sống.

Bây giờ Thầy sẽ giảng cái đoạn này cho quý thầy thấy rằng: Khi một người mà chưa biết Phật Pháp gì hết, thì có đủ một cái duyên nào đó, thì vị này được đọc một cuốn kinh Phật, như Thầy thường nghe các Phật tử có nói:

“Con từ hồi nào tới giờ chẳng biết Phật Pháp gì hết. Một hôm, con được một người bạn trao cho cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm. Rồi con đọc cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm, con thấy đạo Phật sao mà hay quá tuyệt, cho nên từ đó con hướng tâm đến đạo Phật, rồi con được đi nghe thuyết giảng hoặc là mua thêm những loại kinh sách cần thiết, con tham cứu và nghiên cứu, từ đó con rất thích thú đạo Phật!”

(02:38) Đó là những người có cái duyên may được đọc một cuốn kinh như kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa, như toàn bộ giáo lý A Hàm hoặc là kinh Nikaya, thì tất cả những người mà có duyên được đọc được kinh sách của Phật, thì người ta có cái tâm hướng đến đạo Phật. Nếu những người mà chưa có duyên được đọc kinh sách Phật thì họ chưa hiểu đạo Phật như thế nào.

Vì vậy mà giáo đầu vào cái sơ lược của giáo án này thì Thầy đã ghi nhận: Khi mà có đủ cái duyên thì chúng ta mới đến được với đạo Phật, mà không có đủ duyên thì chúng ta không có đọc kinh sách Phật cho nên chúng ta không có biết đạo Phật như thế nào.

Vì thế khi mà có đọc kinh sách Phật, thì thứ nhất là người mà muốn đi vào cái con đường chân chánh của đạo Phật thì người ta phải nghĩ đến cái đời người nó khổ, và làm sao mà thoát khỏi được cái cảnh khổ đó đó, mà bằng cái sức tự lực của mình. Nghĩa là thoát khỏi cái cảnh khổ của con người mà bằng cái sức tự lực của mình, chứ không phải là bằng cái tha lực của người khác.

Cho nên nhiều khi chúng ta đọc những kinh sách, nhưng mà có những loại kinh sách đọc đến chúng ta thấy phải nhờ cậy đến một cái tha lực để mà hỗ trợ cho chúng ta trên con đường mà để đến được sự cái giải thoát. Trái lại thì khi mà nghiên cứu, đọc nhiều kinh sách của Phật thì chúng ta thấy, hầu hết đạo Phật là đạo tự lực cứu chính mình chứ không phải là tha lực.

Một phần nhỏ, có những cái bản kinh nhỏ thì nói về tha lực thôi, nhưng chúng ta không nói đến, bởi vì, cái tha lực nó trợ giúp cho cái người mới tu, còn cái người mà tu lâu thì nó phải tự lực. Cho nên dù sao thì kinh sách tha lực nó rất ít ở trong cái kinh sách tự lực.

Vì vậy hôm nay khi mà chúng ta đến với đạo Phật thì Đức Phật dạy chúng ta, cái đầu tiên của chúng ta đó là phải bỏ sáu cái nghề nghiệp mà chúng ta đang sanh sống. Nghĩa là chúng ta bỏ tức là chúng ta đổi cái nghề, chúng ta làm cái nghề khác, không có nên làm sáu cái nghề này.

Vậy thì sáu cái nghề này là nghề gì mà Đức Phật phải nói: Khi mà đến với đạo Phật thì không nên hành những cái nghề này?

Có bản kinh thì Đức Phật nói có năm cái nghề không nên làm, nhưng mà Thầy thấy, sáu cái nghề này thì nó tạm đủ. Có chỗ thì Đức Phật có nói có cái nghề bán thuốc độc, thì không nên bán thuốc độc, nhưng Thầy thấy chỗ mà, có những cái bài kinh mà nói như vậy Thầy thấy cái vấn đề người tu theo đạo Phật thì chắc chắn là không ai bán thuốc độc!

(05:32) Cho nên Thầy chọn lấy sáu cái nghề, nó phù hợp với cái tâm từ bi của đạo Phật. Thì sáu cái nghề đó, Thầy sẽ đọc cho quý vị nghe:

1. Không làm nghề săn bắn

Nghĩa là cái người mà muốn đến với đạo Phật thì không được làm cái nghề săn bắn, như đi vào rừng săn bắn nai, hươu, khỉ hay hoặc chồn, cheo, hay chim chóc…​ thì không được làm cái nghề đó. Nghĩa là không có làm cái nghề săn bắn thú vật và chim muông.

2. Không được làm nghề chài lưới

Tức là không được làm cái nghề bắt cá, dù là đi câu, dù là đặt rọ, hay hoặc là chài lưới ở ngoài sông, ngoài biển, thì cái nghề đó, coi như là phải đổi cái nghề khác, không được làm cái nghề đó.

3. Không được làm nghề buôn thịt sống

Có một cái chỗ Phật nói có năm cái nghề, thì Đức Phật nói không được làm, không được buôn bán thịt chứ không nói thịt sống. Nhưng mà có chỗ thì nói thịt sống, có chỗ thì nói thịt chín, thì tất cả những chỗ này theo Thầy nghĩ rằng, có khi Đức Phật nói năm cái nghề mà nói không bán thịt thì trong đó có thịt sống và thịt chín, còn ở đây muốn ghi cho rõ ràng.

Thì vì bán thịt sống nó khác mà bán thịt chín nó khác, bởi vì thịt chín họ nấu thành thực phẩm, mà thịt sống thì nó còn để nguyên. Cho nên, khi một người mà đến với đạo Phật thì phải đổi cái nghề buôn bán thịt sống này. Rồi:

4. Không được làm nghề buôn bán thịt chín

Tức là nấu thành phở, cháo lòng, hủ tíu đó, đó là những cái thịt chín.

5. Không được làm nghề buôn bán rượu.

Không được làm nghề buôn bán rượu, vì bán rượu làm cho người ta nghiện ngập, say sưa, rồi người ta không còn cái trí thông minh cho nên họ có thể chửi mắng hàng xóm hay hoặc là làng xóm, hay hoặc là chửi vợ, mắng con, hay hoặc là tạo những cái cảnh bệnh tật, say sưa nằm ngoài đường, ngủ sương, ngủ tuyết. Do vì vậy đó mà Đức Phật cấm không có làm cái nghề bán rượu, vì mình bán rượu là đem đến cho chỗ say sưa cho người khác.

6. Không được làm nghề buôn bán người

Tức là mãi nô, bán nô lệ đó.

Thì trong cái thời Đức Phật chắc chắn là cái nghề này chắc có chứ không phải không, cho nên Đức Phật cũng có cấm mình không bán. Nhưng chúng ta thấy, cái nghề buôn bán người nó có nhiều mặt, thí dụ như người ta thấy, những người đi bán thân để mà nuôi sống hàng ngày, thì cũng là bán người đó.

Tất cả những cái nghề nghiệp đó như vậy thì theo Thầy nghĩ rằng, khi mà đến với đạo Phật thì chúng ta phải thanh tịnh thân tâm của mình chứ không nên làm những cái nghề đó mà buôn bán thân người như vậy, bán nô lệ, rồi bán cái chuyện mãi dâm đó, không nên làm những cái nghề đó.

Cho nên tất cả những cái nghề đó thì chúng ta đổi qua những cái nghề khác mà làm, vì vậy nó có cái thanh tịnh, trong sạch hơn.

2- VÌ BIẾN MÃN TÂM TỪ BI MÀ KHÔNG ĂN THỊT CHÚNG SANH

(08:42) Thì cái phần sáu cái nghề này, thì trong cái giáo án Thầy có ghi chú thêm cái phần này để cho chúng ta thấy rõ cái chỗ bán thịt chín để chúng ta thấy chỗ mà Đức Phật, trong cái bài kinh Jivaka thì Đức Phật có nói đến cái đoạn này mà Thầy thấy rất là sâu sắc.

Trong kinh Đức Phật dạy:

Khi thọ dụng thực phẩm động vật phải không thấy, không nghe, không nghi…​”

Nghĩa là Đức Phật nói: Khi một tu sĩ - một người mà ăn thịt động vật, thì cái thịt động vật đó phải “không thấy, không nghe và không nghi”.

“…​ mà tâm còn phải dùng lòng từ bi biến mãn khắp mười phương đối với tất cả chúng sanh.”

Nghĩa là lúc bấy giờ ăn một cái thực phẩm nào đó thì tâm của chúng ta phải có cái sự thương yêu đối với chúng sanh khắp cùng trong mười phương.

Thì quý thầy nghĩ, khi mà chúng ta ăn một cái miếng ăn, cái miếng ăn của chúng ta nếu mà có một cái sự đau khổ trong đó thì có cái từ bi ở đâu mà biến mãn khắp mười phương được?

Cho nên cái ý này rất là tuyệt vời, ở trong cái ăn chay mà trên cái sự ăn chay nữa! Ăn chay, ăn trong cái miếng ăn của chúng ta nó phải có cái tâm từ bi.

Vậy thì, trong cái món ăn, cái thực phẩm của chúng ta ăn nó không có thịt động vật ở trong đó, nó toàn là hoa quả, trái cây hay hoặc là những cái món ăn mà không có sự đau khổ trong đó, nhưng chúng ta vẫn phải biến mãn cái tâm từ bi của chúng ta đối với tất cả những người mà làm ra cái của cải đó, chớ không riêng gì cái thực phẩm của động vật.

(10:24) Đó thì, hôm nay giải thích cái chỗ này chúng ta mới thấy cái ý nghĩa của đạo Phật rất là tuyệt vời. Khi chúng ta ăn miếng ăn là chúng ta đã nghĩ đến cái công lao của người đàn na thí chủ trước tiên, mặc dù là món ăn đó là món ăn chay, không có sự giết hại chúng sanh.

Còn cái món ăn đó mà có sự giết hại chúng sanh thì nó nằm ở trong ba cái điều kiện mà Phật đã đặt: “không thấy, không nghe và không nghi”.

Cho nên, bắt đầu mà đi vào trong con đường của đạo Phật thì chúng ta thấy, không được làm sáu cái nghề, thì chúng ta thấy quả là chúng ta muốn đến với đạo Phật là chúng ta phải từ giã những cái nghề mà gọi là không phải là Chánh Nghiệp, nó thuộc về tà nghiệp cho nên nó có sự đau khổ ở trong đó, nó có sự chết chóc, nó có sự giết hại.

Mà cái giới luật của Phật thì quý thầy thấy, cái giới thứ nhất là không sát sanh, không giết hại chúng sanh, không vui theo với người mà giết hại.

Cho nên ở đây, chúng ta phải thực hiện cái tâm từ bi mà Đức Phật đã ghi nhận ở trong cái chỗ này. Vì vậy khi mà muốn đến với đạo Phật thì chúng ta phải đến với, thực hiện với lòng từ bi của mình, là từ giã không làm sáu cái nghề mà Thầy đã kể ở trên.

3- BỎ NGHỀ ÁC ĐỂ TRÁNH TÀ NGHIỆP, TÀ MẠNG

(11:36) Đây là giai đoạn thứ nhất ở trong bước đường tu tập.

Nghĩa là cái người muốn tu tập theo đạo Phật, muốn hướng đến với đạo Phật, thì chúng ta phải từ giã sáu cái nghề, phải đổi sáu cái nghề đó, không còn hành sáu cái nghề đó nữa. Thì như vậy là chúng ta phải có một sự suy tư rất kỹ.

Nhiều khi chúng ta làm cái nghề đó mà chúng ta không thấy rằng trong cái nghề đó tạo nên cái sự đau khổ, rồi nuôi cái thân của chúng ta, như ở trong Bát Chánh Đạo thì như quý thầy đã thấy, nuôi cái Chánh Mạng của chúng ta bằng những cái đau khổ.

Mặc dù là chúng ta ăn chay, chúng ta không ăn thịt chúng sanh, ăn thịt động vật, nhưng chúng ta làm cái nghề nó không tốt, chúng ta vẫn nuôi cái thân mạng của mình nó chưa phải là chân chánh đâu, không phải là Chánh Mạng đâu.

Cũng như bây giờ, chúng ta làm cái nghề ăn trộm đi, chúng ta lấy của của người ta, rồi chúng ta mới bán cái của đó đi, chúng ta lấy tiền đi, rồi chúng ta mới đem về mua gạo, mua thóc, mua thực phẩm rồi chúng ta sống. Thì như vậy là chúng ta lấy từ cái chỗ tham lam, trộm cắp đó đó, mà đem lại bằng cái thực phẩm để mà nuôi thân mình thì như vậy mình có nuôi Chánh Mạng mình không? Đó là tà mạng chứ không phải Chánh Mạng!

Vì thế mà khi đến với đạo Phật thì chúng ta phải nuôi thân mình bằng những cái nghề chân chính, bằng cái hành động chân chính chứ không phải bằng cái hành động không chân chính được.

Đó là cái giai đoạn thứ nhất của bước đường tu tập theo đạo Phật. Nó chưa phải là cái người xuất gia, mà đây là cái người cư sĩ muốn đến với đạo Phật, muốn hiểu với đạo Phật bằng một cái tự lực cứu mình như ở trên mà Thầy đã nói, thì bây giờ chúng ta phải chuyển những cái nghề nghiệp cho lương thiện, cái nghề cho chân chánh - Chánh Nghiệp, chớ không nên ở trong những cái tà nghiệp, ở trong cái nghề nghiệp mà có sự đau khổ, có sự chết chóc ở trong đó, thì đạo Phật không chấp nhận cho những người đó trở thành những người đệ tử của mình.

(14:00) Mặc dù Đức Phật không nói ra điều này, nhưng những người mà còn hành cái nghề đó mà không có thực hiện được, thì dù có đi theo con đường của Phật, đi tu đến cái mức thiền định nào đi nữa, thì vẫn xem cái người này vẫn là tu theo cái đường lối thiền của ngoại đạo, của tà đạo, của tôn giáo của ngoại đạo chứ không phải là của chính đạo Phật.

Vì cái cơ bản bắt đầu nó phải thực hiện từ cái tâm từ bi, mà sáu cái nghề này chúng ta thấy, từ cái chiếc áo cư sĩ phải hành nghề mà sống, thế mà chúng ta hành nghề không lương thiện!

Không lương thiện ở đây có nghĩa là hành nghề giết hại làm đau khổ chúng sanh, đem đến những tai họa cho chúng sanh.

Thí dụ như cái nghề bán rượu là cái nghề có thể đem lại cái tai họa, cái sự đau khổ cho người khác. Khi một người say rượu, họ không có từ một cái gì mà họ không làm. Cho nên cái nghề này không được làm, và sáu cái nghề này, chúng ta thấy rõ ràng là cái người theo đạo Phật thì không nên làm.

Đó là cái giai đoạn thứ nhất, mà chúng ta muốn bước chân vào đạo Phật thì chúng ta phải từ giã những cái nghề này.

Bởi vì cái giáo án của Phật nó phải đi từ chỗ mà chúng ta làm được. Cũng như bây giờ chúng ta đang làm cái nghề chài lưới, mà chúng ta thấy rằng mình muốn hướng đến con đường của đạo Phật thì mình phải thay đổi cái nghề đi bắt cá này đi, bằng cách là chúng ta đổi cái nghề đó ra cái nghề thợ mộc. Được không? Được!

Còn bây giờ cái người đó họ đang buôn bán thịt nè, thì bây giờ họ đổi cái nghề đó, họ đi buôn bán hoa quả được không? Được! Họ buôn bán hàng vải được, có sao đâu?

Đức Phật đâu có cấm họ làm cái nghề để mà họ sống, nhưng mà cái nghề nó không có phải là cái nghề đau khổ, cái nghề tạo nên những cái sự đau khổ cho chúng sanh. Mà cái sự đau khổ cho chúng sanh tức là mình tạo nên cái nghiệp ác, do đó thì mình cũng phải thọ lấy những cái đau khổ đó.

Cho nên vừa tránh đau khổ cho chúng sanh mà cũng vừa tránh sự đau khổ cho chính bản thân của mình, vì vậy ngay từ cái bước đầu, cái phương pháp tu tập đầu tiên tức là cái phương pháp đổi nghề.

Các thầy có thấy cái chuyện đó dễ làm không? Đâu có khó làm! Mình thấy cái nghề nghiệp đó không làm được thì mình chuyển qua cái nghề khác, thì cái chuyện đó quá dễ rồi, đâu có gì mà phải khó!

4- TU TẬP THỰC TẾ NGAY TRONG CÔNG VIỆC HẰNG NGÀY

(16:19) Cho nên đạo Phật nó thực tế và cụ thể. Chớ không phải chúng ta chỉ vô chùa rồi tụng kinh, niệm Phật, rồi hằng ngày ngồi thiền, niệm chú đó là tu đâu, chính chúng ta đổi nghề là chúng ta đã tu rồi đó! Cái hành động đó là hành động tu.

Cũng như mấy ngày hôm nay, quý thầy đến đây, quý thầy thấy nè: chúng ta từ đến cái giờ ăn của chúng ta đó, mà chúng ta đứng tuần tự để rồi chúng ta chào nhau, rồi tuần tự chúng ta đi lần lượt, mỗi người đều đến cái xô cơm để mà khất thực từng bát cơm của chúng ta để đến giờ chúng ta ăn cơm.

Trong cái thời gian đó có thể ba mươi phút hoặc một giờ, nhưng chúng ta sẽ thấy rằng, chúng ta tu hành được những gì? Chúng ta sẽ tu được hạnh nhẫn nhục.

Nếu một người mà ở ngoài đời, họ bước lên mâm cơm là họ lo họ ăn rồi chứ họ đâu có nghĩ rằng họ đứng như vậy được! Còn chúng ta thì vẫn thản nhiên trước những cái sự, trong khi chúng ta ăn ngày có một bữa mà giờ đó chúng ta vẫn thản nhiên đứng một cách rất là tự tại. Chúng ta lần lượt chứ không tranh giành nhau.

Thì ở ngoài đời, khi mà một số người đông đảo như vậy, thì trước cái ăn, trước cái mặc của họ, họ giành giật, họ chen lấn nhau. Như bây giờ chúng ta đi lên xe chúng ta cũng vẫn chen lấn với nhau bằng cách này, bằng cách khác.

Cho nên chúng ta tu tập, ngay từ những cái điều kiện mà chúng ta tập như vậy đó là chúng ta đã tu tập theo đạo Phật rồi đó.

Qua những cái hành động ở đây mà chúng ta tu tập, chúng ta thấy rất rõ, vừa tập được nhẫn nhục, vừa tập được cái sự tuần tự của cái hành động của chúng ta, trước cái giờ ăn của chúng ta mà chúng ta không có gì vội vàng. Còn không, tâm của chúng ta lúc nào cũng có cái sự vội vàng đó.

Ra bến xe mà thấy cái xe đến thì chúng ta ào ào giành nhau mà chạy lên. Không lẽ cái xe đó nó bỏ chúng ta sao mà chúng ta lật đật vậy? Tuần tự mà chúng ta đến chớ. Nó rước chúng ta thì nó có ăn tiền chớ nó đâu phải cho chúng ta, thế mà tại sao chúng ta lại lật đật lên trước, chen với nhau! Như vậy là chúng ta chưa có cái kiên nhẫn của một người tu tập.

Cho nên ở đây, chúng ta từng tập luyện như vậy, gọi là trên cái bước đường tu tập của chúng ta để làm cho chúng ta có những cái sức kiên nhẫn của nó.

Thì cái việc làm đầu tiên của cái giáo án này, cái bài học đầu tiên để tu tập thì chúng ta phải nhớ rõ ràng là chúng ta thay đổi cái nghề nghiệp, làm cho cái nghề nghiệp chúng ta nó được trong sạch, được thanh tịnh, không có đau khổ, không có chết chóc trong đó. Đó là cái bước đường tu tập đầu tiên.

5- MUỐN CÓ NIỀM TIN THÌ TU TẬP PHẢI CÓ KẾT QUẢ

(18:26) Khi đã thay đổi nghề nghiệp ác bằng những nghề nghiệp lương thiện, quý vị phải đặt trọn niềm tin ở Đức Phật, ở pháp của Đức Phật, ở chư Thánh Tăng đệ tử của Đức Phật và ở giới luật của Đức Phật.

Nghĩa là đến cái giai đoạn thứ hai này, nếu mà chúng ta không tin đạo Phật, không tin Phật thì làm sao mà chúng ta thay đổi cái nghề nghiệp? Do đó chúng ta đã có tin. Nhưng niềm tin đó nó chưa sâu, vì vậy, chúng ta phải tin ở Phật như thế nào? Ở pháp của Phật như thế nào? Ở chư Thánh Tăng như thế nào? Và ở giới luật của Phật như thế nào?

Muốn niềm tin đó được bền bỉ và lâu dài thì kết quả giải thoát ở thân, tâm phải được thành tựu cụ thể trong mỗi bước tu tập, mỗi pháp môn tu tập.

Nghĩa là, cái bước đầu tiên mà chúng ta đổi nghề nghiệp thì chúng ta thấy được tâm hồn chúng ta giải thoát chỗ nào? Nếu thấy được giải thoát thì chúng ta mới có tin ở Phật được, mới có tin ở pháp của Phật, mới có tin ở các vị đệ tử Phật, mới có tin ở giới luật của Phật được.

Bởi vì khi đổi nghề nghiệp thì bàn tay chúng ta không còn vấy máu nữa. Khi đổi nghề nghiệp chúng ta không còn thấy sự lăn lộn đau khổ của chúng sanh nữa. Và khi đổi nghề nghiệp chúng ta không thấy có những người say rượu ở ngoài đường chửi vợ, mắng con hoặc là chửi làng, chửi xóm.

Khi đổi nghề nghiệp thì chúng ta thấy tâm của chúng ta thanh thản và từ đó chúng ta biết thương yêu mọi người hơn, biết thương yêu chúng sanh hơn.

Do cái chỗ mà chúng ta thấy cái giai đoạn đầu tiên mà chúng ta tu tập đổi nghề nghiệp, chúng ta đã thấy được cái tâm hồn của chúng ta sau một thời gian thay nghề, đổi nghiệp, thì chúng ta vẫn thấy cái cuộc sống mình vẫn bình thường, không đến đỗi mà sa sút, và đồng thời còn có thể thấy càng ngày càng phát triển hơn nữa.

Không phải như hồi còn đi chài lưới, đi bắt cá, nhiều khi, khi còn làm cái nghề chài lưới ở ngoài sông, ngoài biển, thì trong gia đình khi thấy trận bão hay mưa gió là lo lắng cho người thân của mình đang làm những cái nghề không biết chết nay, chết mai!

(21:29) Do cái sự đau khổ, do cái sự lo lắng của người thân của mình đó, cho nên chúng ta xét thấy, từ cái ngày đổi nghề, gia đình không còn khổ đau nữa. Mỗi lần đi biển mà thấy trời chuyển mưa, giông bão thì người trong gia đình: “Kể như người thân của mình mất mạng ở dưới biển!” Đó là cái nỗi khổ tâm nhất của những người mà làm nghề giết hại chúng sanh.

Vì cái sự tu tập của cái giai đoạn đầu tiên, mà cái người mà chịu nghiệm xét thấy, thì khi mà đổi nghề, chúng ta thấy nó có những cái điều kiện may mắn đến cho chúng ta nhiều hơn, vì đó là thiện pháp.

Còn khi sống ở trong những cái nghề như vậy, ác pháp như vậy, thì cái người đó có nhiều cái sự kiện xảy ra cho gia đình của họ mà họ không để ý. Nhưng mà khi bước đến đạo Phật mà đổi nghề, thì họ thấy có những cái gì thanh thản hơn, có những cái gì giải thoát hơn trong cái đời sống của họ, cả gia đình họ chớ không phải riêng bản thân của họ.

Cho nên ngay từ cái bắt đầu mà thay đổi nghề nghiệp, người ta vẫn tìm thấy được một cái sự giải thoát ở trong đó. Đó như vậy thì quý thầy thấy: Bước vào đạo Phật thì chúng ta thấy có một sự giải thoát thật sự, chớ không phải chờ năm năm, mười năm, hai chục năm tôi mới thấy được cái sự giải thoát đó!

Cho nên vì có cái kết quả đó làm cho người ta tin tưởng ở đạo Phật. Nếu không có kết quả thì chắc chắn là không bao giờ mà ai tin tưởng.

Chẳng hạn là như quý thầy bây giờ ngồi thiền, mà suốt cả năm năm, mười năm mà cứ ngồi đó, hết vọng tưởng rồi mà ngồi đó từ một giờ đến hai giờ cho đến bốn, năm giờ, mà không thấy tiến tới nữa thì quý thầy có thối tâm không?

Quý thầy chỉ an ủi mình: "Chắc có lẽ là mình tu chưa có đúng thôi, mình hãy ráng nữa, ráng nữa!" Mười năm nhìn lại, ráng quá mười năm nhìn lại cũng chưa thấy tới đâu hết!

Rồi mình lại ráng nữa, hai chục năm nhìn lại: “Sao mỗi lần có ai động tới tâm là có vẻ tham, sân, si, phiền não vậy? Tu hoài mà sao không hết?” Ngồi thiền thì bảy, tám tiếng đồng hồ thì ngồi được, nhưng mà hơn nữa thì không được, không thể nào mà ngồi một ngày hai ngày được, tại sao vậy?

Tâm thì có lúc hết vọng tưởng, có lúc thì không hết vọng tưởng, tại sao nó lu bù vậy?

Cho nên vì cái không kết quả đó làm cho tâm chúng ta thối chuyển, hoặc là chúng ta dậm chân tại chỗ. Nhưng chúng ta đã lỡ tu, bây giờ bỏ thì cũng tiếc mà lấy thì cũng không được, tới thì cũng khó mà lui thì cũng khó, làm cho một người tu sĩ lưỡng nan ở trên bước đường tu tập.

Còn đạo Phật, đến thì ngay đó có sự giải thoát liền, chiêm nghiệm liền được sự giải thoát đó, thì cho nên cái bước đầu tiên mà chúng ta đã tu tập đó, chúng ta thấy rõ ràng là chúng ta có sự giải thoát.

Nếu một người đổi nghề nghiệp, và khi một năm mà thay đổi nghề nghiệp người đó thấy cả gia đình có hạnh phúc, có an vui hơn trong khi còn làm những nghề nghiệp ác. Thầy tin rằng, trong cái luật nhân quả sẽ chứng nghiệm được điều này rất rõ ràng. Dù người đó vô tình, nhưng cái luật nhân quả vẫn đem đến cái phước báu cho những người vô tình đó!

6- MUỐN THÀNH TỰU LÒNG TIN PHẢI SO SÁNH GIỮA ĐỜI VÀ ĐẠO

(25:15) Muốn thành tựu được lòng tin tịnh tín sâu sắc ấy, quý vị phải suy nghĩ và so đo giữa cuộc đời và đạo.

Đây, đến đây là cái chỗ mà chúng ta phải so sánh giữa cái cuộc sống của đời và cái cuộc sống của đạo.

Bởi vì trong đạo có cuộc sống của đạo chứ không phải nói rằng chúng ta có pháp môn tu không đâu, mà cái sống của đạo nó khác cái sống của đời. Cho nên chúng ta đem những cái hành động sống của quý thầy, của những bậc tu hành so sánh với cái cuộc sống của đời thử coi, để lên trên cái bàn cân thử coi bên nào khổ mà bên nào thoát khổ?

Chúng ta so sánh như vậy, chúng ta mới có một cái tâm quyết tâm đi vào con đường của đạo được. Còn nếu không so sánh mà chúng ta bồng bột, nông nổi vào đạo, coi chừng chúng ta sẽ vấp ngã giữa đường, mà đạo thì chẳng ra đạo, mà đời thì chẳng ra đời đó!

Chúng ta đem so sánh, chúng ta thấy như thế nào?

Chúng ta bây giờ so sánh cái đời sống của mình đang ở trong gia đình thì mình thấy như thế nào đây?

Đời sống trong gia đình đầy rẫy những triền phược, đường đời thì đầy những bụi bặm ô trược và biết bao dây mơ, rễ má trói buộc; biết bao nhiêu vật chất và duyên sự lôi cuốn, cám dỗ; biết bao những chông gai, hố thẳm của ác pháp đang chờ đón.

Đó là chúng ta so sánh, rồi chúng ta suy nghiệm có phải vậy không?

Một khi chúng ta mới lớn lên chưa lập gia đình nè, chúng ta còn vui chơi, ăn học thôi chớ không có lo nghĩ gì hết, cha mẹ làm thì hằng ngày cho con ăn học chớ còn mình không có nghĩ lo phải làm cơm ăn áo mặc gì hết. Áo rách thì ba cho con may áo, còn đói thì mẹ cho con ăn cơm, cứ vậy thôi chứ chưa biết nghĩ lo gì hết. Ăn với chơi, với đi học thôi chớ không biết gì hết.

Nhưng đến khi mà lớn lên một chút thì ham muốn cái này cái kia, thì bắt đầu đi tìm cái nghề nghiệp làm hay hoặc là xin tiền cha mẹ sắm cái này cái kia, nhưng mà cũng chưa biết khổ đâu. Trong đó có những cái khổ là đi đánh lộn, đánh lạo rồi uống rượu say sưa với bè bạn, hay hoặc là chạy xe rồi bị xe đụng gãy chân, gãy tay, thì lúc bấy giờ mới thấy được cái khổ, nhưng mà cái khổ của tuổi trẻ chưa phải thấy khổ đâu!

Cho đến khi mà lập gia đình, chừng đó mới thấy được cái khổ của nó. Rồi sanh ra một vài đứa con mới thấy cái khổ của nó. Rồi tất cả những cái lo toan khi mà cha mẹ chết rồi, không còn giúp đỡ cho tiền bạc hay hoặc là cái cuộc sống, thì tự mình phải lo lấy cuộc sống của mình, thì bao nhiêu cái cuộc sống ở trên vai của mình, mình gánh nặng đó, thì mình mới thấy cuộc đời quá khổ!

(27:12) Rồi vợ con đâu phải là luôn luôn lúc nào nó cũng ngọt ngào với mình đâu? Nó cũng phải có những cái tư tưởng của nó, nó cũng phải có cái lối sống của nó, cho nên cái lối sống của mình với cái lối sống nó đâu có phải hợp nhau được, cho nên cả hai người là có những cái khác biệt nhau.

Từ cái khác biệt đó, ở trong nhà nó hay có những sự lục đục, rầy rà hay hoặc là trái ý nhau, nó làm cho mình chướng ngại đủ mọi điều, chớ đâu có phải mà sung sướng được!

Cho nên so sánh mới thấy được những cái sự triền phược, trói buộc đó, những cái dây mơ rễ má đó.

Chẳng hạn bây giờ có hai vợ chồng, rồi bây giờ lỡ có một người chết thì thử hỏi có khổ đau không? Khổ đau! Rồi hai người ngồi lại trong một mâm cơm ăn, nói chuyện đâu ở ngoài không à, mà rồi rốt cuộc rồi lại gây lộn nhau thì thử hỏi trong lúc đó có vui sướng gì không? Đâu có vui sướng gì!

Rồi bây giờ làm không tiền, không bạc mà ham muốn cái này cái kia thì vợ chồng rầy rà nhau, cãi cọ nhau, người thì này, kẻ thì khác, thì quý thầy nghĩ coi cuộc đời có khổ không? Rất khổ, đủ mọi điều khổ!

Thế mà người ta đâu có thấy được cái khổ đó, mà người ta chỉ thấy cái lạc của nó mà thôi. Người ta thấy đôi vợ chồng ngồi ở trên xe hơi, hoặc là xe Honda, người ta thấy như vậy là hạnh phúc, nhưng trong cái hình dáng đó, cái khổ đau của họ ai biết được trong tâm lòng của họ?

Một người nghèo nói: "Tôi nghèo, không có cơm ăn, không có áo mặc, tôi khổ!", nhưng cái người giàu họ nói: "Tôi có tiền bạc mà tôi còn khổ hơn nữa! Tối tôi ngủ không yên, sợ trộm, sợ cướp!" - Thì đó là cái cuộc đời đã dẫy đầy những cái sự đau khổ, mọi thứ.

Ở gần nhau, con gà con vịt qua lại, con chó con heo qua lại mọi cách đã là gây gổ với nhau, đã làm khổ với nhau rồi. Rồi con cái chơi giỡn nhau thì cũng là đủ mọi cách sinh chuyện nhau, làm cho cái đời sống bất an, luôn luôn là bất an. Cho nên cái đời sống ở ngoài đời quý thầy thấy rất là bất an, không có lúc nào mà gọi là an ổn.

Do cái sự so sánh đó chúng ta mới nhìn lại cái đời sống của người xuất gia như thế nào?

(30:15) Ở trong giáo án ghi lại:

Ngược lại, đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không, không có một vật gì trói buộc, không có một đối tượng vật chất, một hoàn cảnh nào cám dỗ được họ.

Bởi vậy, thật khó cho một người sống ở trong gia đình có thể sống theo Phạm hạnh, hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc!

Đó là cái sự so sánh để chúng ta thấy: Một cái đời sống của người xuất gia và một cái đời sống của một người ở ngoài thế gian.

Hai cái đời sống này, một cái đời sống giải thoát hoàn toàn, chúng ta không còn một vật dụng gì hết cho nên chúng ta ngủ rất yên, không sợ trộm cắp. Và cũng không sợ hư hao, bởi vì có gì đâu mà hư hao? Nhà không có mà gia đình cũng không có cho nên đâu sợ vợ đói, con đói! Cho nên chúng ta thanh thản, an vui, hoàn toàn hạnh phúc, tâm hồn chúng ta trắng bạch như vỏ ốc, không có còn bị hoen ố một chút gì trong những cái ác pháp.

Đó là cái phần so sánh để chúng ta bước chân vào một cái giai đoạn tu tập thứ hai.

8- GIAI ĐOẠN THỨ HAI: CHUYỂN SANG CUỘC SỐNG TU HÀNH

(31:26) Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ nhà cửa, của cải, tài sản, sự nghiệp, sống không gia đình!

Suy nghĩ như vậy, sau một thời gian quý vị quyết tâm đoạn dứt, từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn; thật sự cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa và xuất gia từ bỏ nhà cửa, của cải, tài sản, sự nghiệp, sống không gia đình.

Đây là giai đoạn thứ hai trên đường tu tập.

Nghĩa là, khi chúng ta so sánh rồi chúng ta mới thật sự cạo đầu, thật sự đắp áo cà sa, chỉ nhận ba y một bát, đây là giai đoạn thứ hai.

Giai đoạn này nghe thì nó dễ nhưng nó khó vô cùng. Nếu một người có gia đình như các cư sĩ trong cái hoàn cảnh trước mặt Thầy đây, bây giờ bỏ gia đình mà đi làm cái chuyện này có dễ không? Chúng ta muốn đó, nhưng vợ con có muốn không? Đó là cái khó. Rồi chúng ta có bỏ được cái bổn phận của chúng ta đã sanh con còn nhỏ dại, chúng ta bỏ được không? Điều đó quá khó, không phải dễ đâu!

Một người làm được một cái điều này, như một bầy cá trong một cái lưới, chỉ có một con cá nào mà giỏi nhất là vọt ra khỏi lưới. Sự thật ra khó mà có thể vọt ra khỏi lưới! Thầy thấy hầu như một trăm, một vạn cái lưới cá của người chài lưới họ kéo lên, ít có con cá nào nhảy ra khỏi lưới của họ!

Cho nên khi mà chúng ta bị những cái lưới của gia đình, của đời sống, của vật chất bao vây rồi, Thầy thấy khó mà có thể giãy ra được. Mà giãy ra được thì muôn ngàn con cá nó mới chỉ được có một con cá mà thôi!

Đây, ở đây Thầy xét lại, Thầy thấy Minh Tông là một người có vợ, có con, con cái còn đi học, còn nhỏ chứ chưa phải lớn lao, có mẹ già đang bệnh đau, nhưng rất mạnh dạn trong một cái giai đoạn quyết tâm tu hành, từ đó vượt ra khỏi cái mảnh lưới này để mà thực hiện con đường giải thoát cứu mình và có thể cứu người. Một người cư sĩ như Minh Tông không phải ai cũng làm được hết!

Cho nên ở đây hầu hết là quý vị có theo Thầy, những người cư sĩ có theo Thầy đi nữa chẳng qua chỉ để nghe mà vui chơi, chứ sự thật đi tìm sự giải thoát thật sự là phải cạo bỏ râu tóc xuất gia, cái đời sống thay đổi hoàn toàn, cắt đứt những dây mơ, rễ má tình cảm của chúng ta đối với gia đình, thì lúc bấy giờ chúng ta mới thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật, mới làm chủ được cái sự sống chết, mới tịnh chỉ được các hành trong thân của chúng ta chớ không phải đơn giản.

(34:14) Các thầy cứ nghĩ rằng, các hành đang hoạt động trong thân chúng ta: Tim đập nè, gan, phèo, phổi nè, thần kinh của chúng ta đang hoạt động như thế này nè, hơi thở chúng ta đang ra vô tự động nè, mà thật sự chúng ta muốn điều khiển làm sao cho ngưng được không phải là một cái chuyện dễ!

Nếu tâm của quý vị chưa thanh tịnh, còn thương, còn ghét, còn giận, còn hờn, còn ham vật chất, không cắt bỏ được cái đời sống của thế gian, thì chắc chắn quý thầy không làm được cái chuyện vĩ đại này được! Chắc chắn như vậy, không thể nào hơn được.

Cho nên cái giáo lý của Đức Phật, cái giáo án mà Đức Phật đã vạch cho chúng ta thấy một con đường đi rất rõ ràng.

Cho nên bắt đầu chúng ta thay đổi nghề nghiệp, chúng ta đã thấy có sự giải thoát. Nếu từ đó, chúng ta đi vào con đường thiện, lấy nhân quả làm cái nòng cốt cho con đường tu tập của người cư sĩ mà thực hiện trong các nghề nghiệp thanh tịnh, tốt đẹp này, thiện nghiệp này, và tuần tự đó chúng ta lập những hạnh bố thí, cúng dường, hoặc là tập những hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mỗi đối tượng, mỗi hoàn cảnh, thì chắc chắn là quý vị sống trong gia đình của quý vị vẫn hạnh phúc, vẫn an vui, vẫn đem lại một hạnh phúc hẳn hòi, rõ ràng.

Còn tiến tới để mà so sánh giữa đạo và đời để bắt đầu chuyển mình qua một cuộc sống mới, thì chắc chắn quý vị khó mà đi đến cái giai đoạn thứ hai này. Đây là cái giai đoạn so sánh để chúng ta trở thành một người tu sĩ, chớ không phải còn là người cư sĩ.

Nếu quý vị không thực hiện được đời sống của một tu sĩ thì chắc chắn con đường thiền định của đạo Phật đã vạch ra cho quý vị đi thì quý vị khó mà thực hiện được. Đó là cái sự xác định thật sự của Thầy.

Cho nên tuần tự, khi mà so sánh như vậy rồi thì quý vị nghe trong cái giáo án này Đức Phật đã dạy:

Suy nghĩ như vậy, sau một thời gian quý vị mới quyết tâm đoạn dứt, bắt đầu mới từ bỏ tài sản nhỏ. Nghĩa là mình lần lượt mình phải sắp xếp đó, mà Đức Phật gọi là từ bỏ cái tài sản nhỏ đó.

Rồi lần lượt mới từ bỏ tài sản lớn. Nghĩa là lần lượt mình sắp xếp đâu đó, này kia nọ cho vén khéo rồi mới cạo bỏ râu tóc được đó.

Rồi lần lượt mới từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ. Nghĩa là cắt đứt những cái tình cảm của chúng ta đối với những người bạn bè này kia xa xa đó, gọi là nhỏ đó.

Rồi bắt đầu tuần tự mới cắt đứt những bà con quyến thuộc lớn, tức là những người như cha mẹ rồi vợ con, lần lượt phải cắt đứt những cái đó luôn, đó là Đức Phật gọi là bà con quyến thuộc lớn.

Còn bà con quyến thuộc nhỏ là anh em, chú bác này kia, xa xa gần gần, dòng họ, đó là bà con quyến thuộc nhỏ đó. Còn bà con quyến thuộc lớn là cha mẹ sanh mình ra, vợ con của mình, đó là bà con quyến thuộc lớn đó, lần lượt phải bỏ tuần tự.

Còn tài sản nhỏ, tài sản lớn, thì quý vị phải hiểu rằng: Tài sản nhỏ là những của cải, tiền bạc rất nhiều, đó là những cái tài sản nhỏ. Còn tài sản lớn đó là những cái cuối cùng mà quý vị quét sạch ra đó, mà quý vị còn ba y một bát đó, đó là những cái dính mắc nhất cho đời sống của quý vị, đó là cái ăn chứ không phải là cái gì khác hết!

(37:51) Bởi vì vốn chúng ta có tài sản lớn, tài sản nhỏ cũng đều là phục vụ cho cái cuộc sống của chúng ta mà thôi. Cho nên từ đó, đến cái tài sản lớn nhất là cái tài sản mà hàng ngày chúng ta có một cái bữa ăn ngon lành, có cái bữa ăn tốt đẹp đó, đó là cái mà chúng ta khó có thể bỏ lắm!

Cho nên đến khi mà thành một người tu sĩ thì cái ăn người ta nhìn thấy nó không còn có, đối với cái ăn người ta không còn có ham thích nữa, cho nên người ta bỏ sạch những cái tài sản lớn tài sản nhỏ đó.

Khi mà sắp xếp được, khi mà giải quyết được mọi cái thì lúc bấy giờ chúng ta mới đi qua được một cái giai đoạn thứ hai của cái giáo án, của cái phương án tu tập này.

Quý vị thấy hiện giờ, nghe Thầy thuyết giảng tới đây, quý vị thấy mình có thực hiện được không? Nghĩa là quý vị có bỏ được, có cắt đứt được cái điều này không?

Cho nên cái giai đoạn này, mà trong Thập Nhị Nhân Duyên, mười hai duyên đó, thì Đức Phật có giảng nhị duyên cho chúng ta trong mười hai duyên này: “Sanh đã tận thì Phạm hạnh mới xong.”

Sanh tức là có cái duyên Sanh thì mới có cái duyên Ưu Bi, mới Sầu Khổ, mới Bệnh Chết. Nếu không có Sanh thì nó sẽ không có Ưu Bi, Sầu Khổ. Cho nên khi mà chúng ta đoạn cái duyên Sanh thì cái Ưu Bi, Sầu Khổ, Bệnh Chết nó không có.

Cho nên trong Thập Nhị Nhân Duyên thì hai cái duyên cuối cùng này, mà Đức Phật (dạy) ngay từ bắt đầu người tu là phải đoạn dứt cái duyên Sanh.

(39:48) Ở đây chúng ta phải ghép cho đúng cái duyên Sanh. Sanh ở đây tức là Sanh Y: Y là nương tựa, Sanh là sanh sống chớ không phải là sanh đẻ, không phải là đản sanh như người ta giải thích. Người mà giải thích như vậy là không hiểu.

Chữ Sanh ở đây là Sanh Y, là nhà cửa, của cải, tài sản, anh em ruột thịt, dòng họ. Cho nên khi mà cái người xuất gia mà tu thì "Sanh đã tận", nghĩa là đoạn tận, đoạn dứt nó đi, thì cái Phạm hạnh, thì cái con đường tu của đạo Phật nó mới đạt được.

Mà nếu chúng ta không đoạn tận, còn thương, còn ghét, ngồi đây tu mà nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ cha, nhớ mẹ, thì chắc chắn là cái người đó không bao giờ đi đến cái con đường của đạo Phật!

Quý vị có hai bàn tay, một bàn tay đời và một bàn tay đạo. Tay nào của quý vị cũng muốn nắm hết thì quý vị không có thể nào mà nắm gọn hết được cái con đường tu của quý vị đâu. Quý vị phải bỏ cái tay đời của quý vị đi, rồi dùng cái tay đời đó quý vị mới ôm chặt được cái tay đạo thì quý vị mới thực hiện được.

Cho nên cái đạo Phật chỉ dạy chúng ta rất rõ ràng, xác định cho chúng ta rất rõ ràng: Một người mà còn nắm hai tay là không thể nào thực hiện con đường của đạo giải thoát, chỉ tu tập trong thiện pháp mà thôi chớ không thể nào đi đến sâu sắc được.

Cho nên nhìn chung chúng ta thấy, hầu hết một số tu sĩ của chúng ta hiện giờ mà đi đến sâu của đạo Phật, để thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật là cái Định Vô Lậu, thì không ai mà vô lậu được.

Và cái định mà để làm chủ được thân tâm, sự sống chết như định Hiện Tại An Lạc Trú, thì chưa ai nhập định được một tháng, hai tháng, một năm, hai năm, ba năm không ăn, không uống được. Và cái định làm chủ được sự sống chết, muốn chết hồi nào, muốn sống hồi nào, thì chưa có một người nào làm được.

Do cái chỗ chúng ta tu hành mà còn bắt hai tay, đời không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm!

Vì vậy mà cái giai đoạn thứ hai của cái giáo án này chúng ta mới thấy Đức Phật vạch rất rõ, suy nghĩ rất rõ, chớ không phải nói đơn thuần, nói sơ sơ mà thực hiện được.

Cho nên nhiều người cư sĩ vẫn ham tu theo Phật, vẫn ngồi thiền, vẫn nỗ lực tu mà không dám bỏ vợ con, không dám cắt lìa cái tài sản, không dám bỏ một đồng bạc của mình ra nữa, luôn lúc nào cũng phải lo làm, lo tiền, lo bạc hết, thì thử hỏi họ tu tập như vậy họ tới chỗ nào?

Hay là ngồi cho có hình thức? Ngày nào, đêm nào cũng thức chong lên mà ngồi thiền, mà thiền đó nó đi về đâu? Tâm thì không rời đồng bạc, tâm thì không rời vợ, rời con thì thử hỏi làm sao họ đạt được gì?

Đó là, thấy cái giáo án của Đức Phật chưa? Đầu tiên là phải rời nghề nghiệp để đi vào con đường thiện pháp, sống cho đúng cái sống của người cư sĩ, chứ chưa phải là người tu sĩ. Thật sự đây mới là cái người cư sĩ mà thôi. Đến cái giai đoạn thứ hai, so sánh để chúng ta bước qua một cái giai đoạn thứ hai này, nó rất là ngặt nghèo, phải đoạn dứt cho được.

Mà đoạn dứt được thì Ưu Bi, Sầu Khổ, Sanh Tử nó mới chấm dứt, bởi vì duyên Sanh đoạn thì Ưu Bi, Sầu Khổ và Bệnh Tử nó mới đoạn. Đó là nhị duyên, chúng ta thấy rất rõ ràng.

Bởi vậy, khi mà giải thích về, giảng về cái giáo án này, thì quý thầy suy nghĩ cho kỹ: mình còn bắt hai tay hay là không? Nếu mà còn bắt hai tay thì hãy chặt cái tay kia đi, đừng có nắm nó nữa! Hãy xả cái đời xuống đi! Chọn lấy đạo là đạo mà đời là đời!

(43:32) Chết là chết trong đạo, chết là chết trên bồ đoàn chớ không thể chết ở dưới cái tình cảm của gia đình, của vợ, của con, mà hãy chết ở trên đạo! Cho nên chúng ta thà chết trên đạo chớ không thể nào chết ở trong gia đình của chúng ta, chết trong tình cảm của con người.

Cho nên chúng ta bỏ hết, bỏ hết, dẹp hết mới có thể đi vào con đường của đạo Phật được. Xả hết, từ bỏ, viễn ly, xa lìa tất cả những gì gọi là cuộc sống của thế gian.

Chúng ta chấp nhận đời sống của chúng ta chỉ có một nghề chân chính đó là nghề đi xin. Chúng ta không còn làm ra đồng bạc, không có đi ra cày ruộng, không có đi trồng rau, trồng cải để mà ăn. Đói thì chúng ta xin, ai có cho chúng ta cái gì ăn cái nấy, mà không cho thì chúng ta chịu đói chớ không bao giờ mà chúng ta hành một cái nghề gì.

Vì hành động sống của Đức Phật ngày xưa, quý thầy có thấy Đức Phật đi ra trồng rau không? Giờ này Đức Phật đi xin về rồi ăn thôi chứ rồi không có bao giờ mà làm cái gì hết!

Ở trong một khu rừng không trồng một cái cây mà có trái ăn nữa. Thầy chưa từng nghe Đức Phật trồng cây xoài để có trái xoài. Thầy cũng chưa từng nghe trồng một cây thơm có trái thơm mà ăn. Mà tất cả đệ tử của Đức Phật trong thời Đức Phật, Thầy cũng chưa từng.

Nhưng Thầy có nghe rằng, khi đến chỗ nào đó thì ông Xá Lợi Phất dọn dẹp rất là sạch sẽ để chư tăng đến. Và khi rời khỏi cái khu vực mà đang ở thì ông Xá Lợi Phất dọn dẹp rất sạch sẽ, rồi để lại một cái khu rất là vệ sinh sạch sẽ chứ không cái bừa bãi.

Thầy chỉ nghe trong kinh nói như vậy, chứ Thầy không nghe nói rằng để lại một cái vườn xoài, để lại một cái vườn rau, để lại một cái sở ruộng, ở đó không bao giờ có cái điều đó!

Cho nên chúng ta tu hành theo đạo Phật, chúng ta phải lấy cái nghề đi xin ăn. Tất cả những áo quần mà chúng ta đang mặc, y áo mà chúng ta đang mặc, cái nào mà còn vá được chúng ta hãy tiết kiệm vá tận cùng mà mặc, không được phí bỏ. Mặc dù thời đại của chúng ta…​ (Mất tiếng).

(45:47) Nãy giờ Thầy đã giảng về cái phần thứ hai là cái giai đoạn để cắt, đoạn dứt cái đời sống thế gian để chuyển qua cái đời sống xuất gia tu tập.

Quý vị hãy suy nghĩ cho kỹ. Nếu đến với đạo Phật không phải đến với hình thức của bộ áo, đến với hình thức ngày ngồi thiền, hay niệm Phật, hay tụng kinh, (mà) thực tế của sự tìm con đường giải thoát chớ không phải đến cầu an, cũng không phải đi tìm cái cuộc sống cho nó đầy đủ vật chất hơn nữa.

Đến với đạo Phật thì quý thầy, quý vị phải suy nghĩ rất kỹ là chúng ta phải thực hiện được sự làm chủ sự sống chết và chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Cái mục đích đó là mục đích của đạo Phật để đem con người thoát khỏi sự đau khổ của chính bản thân họ.

Đến với đạo Phật thì quý vị phải suy tư cái giai đoạn thứ hai này rất là kỹ lưỡng. Đời là mình phải làm sao cho xứng đáng đời, lợi ích cho mọi người, lợi ích cho mình, mà đạo thì hoàn toàn phải đoạn lìa đời, không được ngồi đây mà còn lo đời!

Cho nên đối với Phật tử chỉ là những cái duyên để mà chúng ta độ họ tu hành mà thôi, chớ đừng có đem họ mà trở thành những sự trói buộc của chúng ta! Nhiều khi chúng ta làm một vị trụ trì ở một ngôi chùa nào đó, hầu hết chúng ta không bị gia đình trói buộc mà bị Phật tử trói buộc.

Họ cúng dường chúng ta cái này, cái nọ, cái kia, họ muốn sai chúng ta làm cái gì chúng ta cũng phải vâng lời làm hết. Đó là chúng ta đã lìa khỏi cái cuộc sống của đời, mà chúng ta bị đời sai trong cái việc đạo của chúng ta.

Cho nên chúng ta phải lìa khỏi những cái sai lệch này để mà chúng ta thực hiện cho được sự giải thoát chính bản thân của chúng ta, chúng ta cứu chúng ta cho được.

(47:18) Vả lại, cái giai đoạn này chúng ta còn phải suy nghĩ, cái tâm đời chúng ta còn mang theo ở trong cái tâm đạo chớ chưa phải sạch, do đó cái bản ngã chúng ta rất còn. Khi chúng ta mới hiểu được một chút nào đó, chúng ta vội đem ra giảng dạy cho người khác, điều đó là cái tâm đời của chúng ta đó, cái tâm danh của chúng ta!

Cho nên quý vị cũng nhớ rằng: Khi đoạn dứt cái đời là đoạn dứt cái tâm danh của mình, cái tâm lợi.

Cho nên do vì vậy, khi nào mà chúng ta tu hành thành đạt, giải thoát, làm chủ thật sự, biết rõ rằng mình đã giải thoát hoàn toàn, tâm không còn lậu hoặc, thiền định làm chủ được sống chết lúc nào là chúng ta tự tại trong lúc đó, bây giờ chúng ta mới có đủ khả năng mà đi ra dạy đạo, dạy cho người tu hành.

Mà nhiều khi chúng ta còn ẩn bóng, chúng ta còn không muốn dạy ai nữa, vì đâu phải dạy người ta tu hành là dễ!

Còn quý thầy, quý vị, vừa học được năm ba chữ, hiểu được một vài khía cạnh nho nhỏ, vội đem ra trong khi mình chưa thực hành được gì hết! Mình giảng cho người này hiểu, người kia hiểu, tỏ ra đó là cái hành động danh của mình, tỏ ra đó là cái bản ngã của mình chớ chưa phải là sự thực tu, thực chứng giải thoát cho chính mình.

Cho nên chúng ta phải hiểu, khi bước qua cái giai đoạn đạo thì coi chừng đời nó xen vào đó mà nó mượn đạo để cầu danh, cầu lợi ở trong đó.

Hầu hết một số quý thầy đã bị vấp ngã trên cái giai đoạn này. Chúng ta cứ ngỡ rằng đó là đạo nhưng mà sự thật đó là đời chớ chứ không phải đạo, qua cái danh hiệu đạo.

(49:03) Đó là giai đoạn thứ hai mà quý vị cần phải suy nghĩ và xét cho kỹ, rồi từ đó chúng ta buông hết, không còn để ở trong tâm của chúng ta một cái gì dính mắc nữa.

Xưa Đức Thế Tôn, Ngài từ giã ngai vàng, của báu, vợ đẹp, con xinh đi vào trong rừng núi mà tu tập sáu năm khổ hạnh. Quý thầy có thấy Ngài cắt đứt toàn bộ, không còn một cái tài sản nhỏ, tài sản lớn nào hết?

Còn chúng ta có nhiều người nghĩ như thế này: "Bây giờ mình làm cho có một ít tiền rồi mình để dành, rồi chừng đó đó mình cứ mỗi tháng mình bỏ ra một chỉ, mình ngồi mình tu khỏe re!"

Như ông Phật chắc chắn là, nghĩ như vậy chắc chắn là ổng không bao giờ khổ hạnh hết! Ngày ăn có bảy hạt mè, sống thì, rờ da bụng thì đụng xương sống, rờ xương sống thì đụng da bụng, tiết thực đến cái mức độ, khổ hạnh đến cái mức độ mà đi không nổi, đứng không nổi chỉ còn nằm không!

Tu tập như vậy người ta mới thấy được, người ta mới lìa được những cái dục lạc của thế gian. Bởi vì những cái dục lạc của thế gian quá đầy đủ, quá nhiều, và thời đại của chúng ta nó còn nhiều vật để mà cám dỗ chúng ta.

Cho nên chúng ta là một người tu hành, chúng ta phải sáng suốt, phải nhận định ở cái giai đoạn thứ hai này là cái giai đoạn đoạn trừ cái tâm đời của chúng ta, cái tâm danh của chúng ta, cái tâm lợi của chúng ta phải đoạn dứt.

Không phải đoạn dứt những cái danh lợi của đời không, mà đoạn dứt những cái danh lợi mà chúng ta mang cái tên là đạo, nó cũng còn mang cái hình thức đời của nó đó.

Vì vậy khi mà quyết tâm tu hành rồi thì hãy sáng suốt suy nghĩ cho rõ. Phỏng chừng như quý vị bây giờ chết đi thì vợ con của quý vị ai lo đây? Tại sao quý vị không bỏ được để mà quý vị đi vào thẳng con đường đạo? Khi quý vị đi thẳng vào con đường đạo thì vợ con phải tự sống như quý vị đã chết!

Có cắt đứt được như vậy thì đó là cái giai đoạn thứ hai của quý vị mới thực hiện được con đường của đạo.

Nếu giai đoạn thứ hai mà quý vị chưa thực hiện được thì quý vị nên về tập lại cái cuộc sống giai đoạn thứ nhất, thực hiện nhân quả, làm đầy đủ bổn phận của một con người cư sĩ: Đối với vợ con, cha mẹ phải hiếu hạnh, vợ con phải có sự trung thành với nhau, chớ đừng có làm những cái điều tồi tệ để gây sự đau khổ cho gia đình; làm hết bổn phận, phải nuôi con cái lớn khôn, có đầy đủ nghề nghiệp, thì như vậy là cũng xứng đáng là đệ tử cư sĩ của đạo Phật rồi.

Cho nên Thầy chưa nói đến giai đoạn thứ ba là vì giai đoạn thứ ba nó còn nhiều cái khó khăn, không phải dễ.

9- GIAI ĐOẠN THỨ BA: SỐNG ĐÚNG GIỚI LUẬT VÀ TU TẬP ĐÚNG PHÁP

9.1- SIÊNG NĂNG HỌC TẬP, GIỮ GÌN GIỚI LUẬT VÀ OAI NGHI TẾ HẠNH

(52:03) Bây giờ Thầy sẽ tiếp tục ở giai đoạn thứ ba.

Khi đã quyết tâm cắt ái, xuất gia như vậy.

Cắt ái là đoạn lìa đó, những cái thương, ghét của chúng ta đối với gia đình, đối với tài sản đó.

Quý vị phải siêng năng học tập giới luật.

Nghĩa là bây giờ cạo tóc rồi đó, thì tất cả những cái giới luật của Phật là phải học trước chớ không được học kinh. Quý vị nhớ kỹ! Học kinh quý vị không thấy được cái Phạm hạnh của quý vị, không thấy được những cái oai nghi tế hạnh của quý vị đâu, cho nên quý vị phải học luật.

Cho nên khi mà xuất gia, ở trong kinh luật cũng dạy: Phải năm năm học luật, rồi sau năm năm đó mới học thiền. Quý vị hiểu điều đó!

Không có giới luật nào mà quý vị không thuộc. Quý vị phải thường hằng cố gắng, sống đúng giới luật, không cho phạm phải một lỗi nhỏ, sống đúng nếp sống oai nghi tế hạnh của người tu sĩ đạo Phật.

Nghĩa là bắt đầu vào cái giai đoạn thứ ba thì quý vị phải đoạn dứt cái tâm đời của quý vị, cái cuộc sống đời của quý vị, mà quý vị phải siêng năng học tập giới luật, thuộc tất cả những cái hành động, cái oai nghi tế hạnh trong giới luật. Quý vị phải cố gắng giữ gìn không có cho phạm những cái lỗi nhỏ ở trong giới luật.

Muốn sống đúng nếp sống của người tu sĩ đạo Phật, quý vị phải tu tập bốn pháp hạnh đầu tiên.

Đây, nếu mà muốn sống đúng cái nếp sống của người tu sĩ đạo Phật thì quý vị phải tu bốn cái pháp hạnh đầu tiên:

Đó là Tứ Bất Hoại Tịnh.

(54:01) Quý vị phải tu tập bốn cái pháp này.

Khi thực hiện tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh, quý vị phải tu tập từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh; từ bỏ trượng, gậy, kiếm, đao; bỏ những loại vũ khí giết hại chúng sanh.

Đó là cái giai đoạn tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh. Nhưng mà muốn tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh thì quý vị phải tu tập những cái giới đầu tiên của quý vị, tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh. Đó là cái giới đầu tiên của quý vị.

Nhưng ở đây chúng ta, ở đoạn trên là chúng ta đã học những cái giới đó rồi, thì bây giờ ở đoạn dưới mà tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì chúng ta sẽ, bắt đầu chúng ta phải từ bỏ sát sanh, tránh xa sự sát sanh, thì cái này sẽ được Thầy giảng dạy: Từ bỏ sát sanh như thế nào, mà tránh xa sát sanh như thế nào. Nhưng trước khi giảng dạy cái này thì Thầy sẽ giảng dạy Tứ Bất Hoại Tịnh.

Hôm nay thì đã hết giờ, ngày thứ năm tới, chúng ta sẽ tiếp tục cái giáo án này.

(55:47) Trước khi học tu Tứ Bất Hoại Tịnh, Thầy sẽ giảng cho quý vị oai nghi tế hạnh của người xuất gia theo lộ trình thứ hai của đạo Phật:

Sau khi quý vị đã xuất gia, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa. Đây là một lối sống đối với người thế gian thì được xem là rất mới mẻ và còn lạ lùng, sống không giống lối sống của mọi người trên thế gian này.

Mà muốn sống được như vậy thì người xuất gia phải sống chế ngự thân mình, chế ngự lời nói của mình, chế ngự ý nghĩ của mình; luôn luôn phải bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, thuốc thang, sàng tọa; vui theo nếp sống trong sự an tịnh; thường sống cô đơn, trầm lặng, sống một mình, không bạn bè thân thuộc, không Phật tử thân thương; sống với mục đích chủ động, thân tâm bất động trước mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc và mọi nhân duyên đều chủ động.

Đây là cái người mà muốn đi vào cái lộ trình thứ hai - xuất gia của đạo Phật, thì đương nhiên là phải có một cái lối sống, không phải sống như hồi còn ở thế gian được, mà phải dứt bỏ hết những cái sự của cải tài sản, cái lòng thương yêu, và dứt bỏ hết không còn có gì gọi là mang theo trong thân tâm của mình.

Nghĩa là bỏ sạch, thật sạch và còn phải sống một đời sống cô đơn, trầm lặng, sống không còn thân hữu, bạn bè; không còn thích vui chơi, nói chuyện; không còn thích ăn uống; không còn thích cái này, cái nọ, kia nữa.

Và cũng không còn sợ hãi phải có Phật tử thân thuộc để lo cho mình miếng ăn, áo mặc, mà chỉ cần phải sống với một mình. Trước hoàn cảnh nào, trước sự việc nào, trước đói khát, trước bệnh tật đều luôn luôn chế ngự, giữ gìn thân mình, ý mình, lời nói mình không để cho dao động trước mọi cái hoàn cảnh, mọi sự việc xảy ra.

(58:40) Bước qua lộ trình xuất gia, người tu sĩ phải dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ.

Vậy dứt bỏ những gì?

Muốn dứt bỏ, người tu sĩ phải sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha;

Nghĩa là cái người tu sĩ, cái người mà bước qua cái lộ trình của người tu sĩ theo đạo Phật thì phải lấy cái giới luật của Phật làm cái cuộc sống của mình. Cho nên, hằng ngày phải chế ngự tâm mình, phải chế ngự thân mình, phải chế ngự cái lời nói của mình phải đúng ở trong giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề hay hoặc là Patimokkha.

Luôn luôn phải đầy đủ oai nghi chánh hạnh; phải thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt.

Phải nhận ra được cái sự nguy hiểm khi mà chúng ta phạm phải những cái lỗi nhỏ nhặt ở trong cái giới bổn, ở trong những cái oai nghi mà thiếu sót làm chúng ta không xứng đáng là một cái vị tu sĩ, thì chúng ta nên cẩn thận và cảnh giác cho nó rõ ràng.

Vì có cẩn thận, ý tứ từng hành động thân, khẩu, ý của mình, do vì vậy mà mình mới giữ gìn cái giới hạnh, chế ngự cái thân, khẩu, ý của mình trọn vẹn ở trong cái giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề.

Còn nếu mà mình không có chế ngự, không có giữ gìn thân, khẩu, ý của mình thì những cái lỗi nhỏ, cái oai nghi tế hạnh nhỏ mình sẽ bị phạm, và bị phạm thì nó làm cho mình xấu hổ, làm cho mình luôn luôn có sự sợ hãi trong chúng tăng, trong những vị tu hành.

Bước qua lộ trình xuất gia, người tu sĩ phải dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ.

Muốn dứt bỏ, người tu sĩ phải biết sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề hay còn gọi là Patimokkha; luôn luôn phải sống đầy đủ oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ; phải thấy rõ sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt của giới bổn; phải luôn luôn thọ trì, học tập, trau dồi, tu tập trong giới học; thân nghiệp, ngữ nghiệp luôn luôn phải nhờ giới hạnh trau dồi, rèn luyện, tu tập, hằng ngày sinh hoạt trong cuộc sống luôn luôn được trong sạch là nhờ giữ gìn, trau dồi, tu tập giới hạnh trọn vẹn, đầy đủ.

Lúc nào người tu sĩ cũng luôn luôn phòng hộ sáu căn - giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình.

(1:01:31) Vì lúc bấy giờ mình biết: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình mới bước vào lộ trình xuất gia tu hành thì còn rất yếu, dễ bị dính mắc sáu trần, dễ bị say đắm, lôi cuốn sáu trần. Nhất là cái đời sống giới hạnh và giới đức của Phật làm cho cái cuộc sống mới mẻ và khắc khổ đối với con người mới vào tu, vì vậy mà sáu căn tiếp xúc sáu trần dễ sanh sự bất mãn, sự thối chí của người mới tu.

Cho nên phải cố gắng mà phòng hộ sáu căn: Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, đừng cho duyên sáu trần sẽ sanh ra sáu thức và sanh nhiều cái lý luận để đưa đi đến chỗ bỏ đạo, xa thầy và trở về cuộc sống thế tục.

Muốn được như vậy thì người tu sĩ phòng hộ sáu căn giống như một người lính gác cổng thành: luôn luôn phải tỉnh táo biết kẻ ra, người vào, kẻ nào tốt, người nào xấu, kẻ nào gian, kẻ nào thật; phải luôn luôn đề cao cảnh giác, ý tứ từng chút một. Đó là bổn phận và trách nhiệm của một người lính gác cổng thành.

Thì đối với người tu sĩ mới vào đạo Phật xuất gia, mới đi vào lộ trình của người tu theo đạo Phật cũng giống như người lính gác cổng thành vậy: Phải luôn luôn ý tứ và cảnh giác từng chút, vì đó là bổn phận của người tu sĩ khi muốn tìm cầu sự giải thoát thì phải cảnh giác tâm mình giống như người lính vậy. Lúc nào thiếu một sự cảnh giác thì bị các pháp trần xâm chiếm tâm, tức là xâm chiếm thành, những kẻ gian ác lừa bịp sẽ dối trá, sẽ gạt gẫm.

Đó là bổn phận và trách nhiệm của người tu sĩ, cần phải cảnh giác tâm mình giống như người lính vậy. Lúc nào thiếu cảnh giác là tâm bị xâm chiếm. Nhờ có sự cảnh giác, tâm mới được yên ổn; nhờ có sự cảnh giác, tâm mới được bảo vệ và giữ gìn, được an ổn, không bị dính mắc các trần, cũng như người lính đã giữ trật tự an ninh trong thành.

Đã cảnh giác canh phòng như vậy mà còn phải biết thiểu dục tri túc.

Tức là phải biết ít muốn mà biết đủ, chớ không phải nói rằng cảnh giác canh phòng như vậy là đủ, mà còn phải giữ gìn cái sự ít muốn, ít ham muốn, biết đủ của mình. Cái gì có thì mình sống cái nấy, không được đòi hỏi thêm nhiều hơn.

(01:04:11) Đó là bổn phận và trách nhiệm của người tu sĩ mới bước đầu vào đạo Phật là phải sống hiểu biết như vậy, không có đòi hỏi hơn.

Vì lúc bấy giờ, khi chưa bước chân vào đạo Phật là sống đầy đủ những vật chất, những sự ham muốn theo dục lạc thế gian. Nhưng khi đã bước chân vào đây rồi thì phải hiểu rằng, đời sống hôm nay không phải đời sống của ngày mai, đời sống hôm nay là đời sống đạo, không phải là đời sống của thế tục.

Vì vậy, tất cả những gì phải bỏ xuống là bỏ xuống sạch. Vì mục đích cao cả, vì mục đích lớn lao của cuộc sống đầy đau khổ và sanh tử luân hồi, muốn ra khỏi nó phải sống như thế này thì mới ra khỏi được!

Còn nếu muốn trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, sống đời sống đầy đau khổ và tiếp diễn sanh tử luân hồi thì cứ sống theo dục lạc thế gian như mọi người trên hành tinh này vậy, thì không bao giờ có ngày giải thoát được, thì không bao giờ có ngày chấm dứt được luân hồi! Vì chính tâm ham muốn dục lạc thế gian là tâm sanh tử luân hồi, không thể nào làm sao tránh khỏi.

Biết được vậy, hiểu được vậy thì người tu sĩ phải thấy trách nhiệm đầu tiên mình xuất gia theo đạo Phật là mục đích phải chấm dứt sanh tử luân hồi, làm chủ sự sống chết.

Người tu sĩ xuất gia cần phải biết dứt trừ như đã dạy ở trên. Tức là phải dứt trừ sát sanh, tránh xa sự sát sanh. Phải từ bỏ những vật dụng giết hại chúng sanh như gươm, đao, dao, mác, kiếm, cung, tên, trượng, gậy, kích, mâu, côn, chùy, thương, súng, đạn, bom, mìn, lựu đạn, chất nổ. Phải biết xấu hổ và sợ hãi khi lỡ tay làm đau khổ và đoản mạng chúng sanh.

Phải biết luôn luôn tu tập trau dồi lòng từ, thương xót tất cả chúng sanh, làm cho chúng sanh được an vui; nghĩ đến hạnh phúc của chúng sanh, của tất cả loài hữu tình, phải làm sao cho chúng được an lạc thảnh thơi.

Như vậy đó là giới hạnh của vị tu sĩ đầu tiên bước vào lộ trình xuất gia của đạo Phật.

Kế đến, người tu sĩ dứt bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong được những vật đã cho. Tự sống thiểu dục tri túc, biết đủ, ít muốn, trong sạch, thanh tịnh, không có trộm cướp, không có lấy của không cho dù cây kim sợi chỉ, những vật nhỏ nhất cũng không được lấy.

Như vậy, người tu sĩ phải hiểu đó là giới hạnh của người mới bắt đầu xuất gia trong giới luật của đạo Phật.

(01:07:40) Kế tiếp, người tu sĩ phải dứt bỏ nói láo, tránh xa nói láo; nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật mà nói; nói chắc chắn, nói đúng, tin cậy không nói lường gạt ai; không nói phản lại lời nói của mình, phản lại lời nói của mọi người, của đời sống của mọi người.

Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật mới bước vào lộ trình xuất gia của đạo Phật.

Kế tiếp, người tu sĩ phải dứt bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi; nghe điều gì chỗ này không được đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi đến nói với những người này để sanh chia rẽ với những người kia.

Như vậy, vị tu sĩ ấy sống hòa hợp với những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ, vui mừng trong sự hòa hợp, thoải mái trong sự hòa hợp, vui mừng trong sự hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.

Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

Kế tiếp, người tu sĩ dứt bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác; vị ấy nói những lời nói không có lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm với mọi người; lời nói tao nhã, nhẹ nhàng, êm ái, làm đẹp lòng nhiều người.

Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ mới xuất gia trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

Kế tiếp, người tu sĩ cần phải dứt bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm; nói đúng thời, nói những lời chơn thật; nói những lời có ý nghĩa; nói những lời về Chánh Pháp; nói những lời về giới luật nghi; nói những lời hợp thời, hợp lý, có mạch lạc, có hệ thống, có lợi ích cho mọi người.

Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

(01:09:57) Kế đến, người tu sĩ phải dứt bỏ ăn uống phi thời, ngày dùng một bữa, không ăn ban đêm; dứt bỏ ăn uống phi thời, dứt bỏ ăn uống lặt vặt; dứt bỏ đi xem múa, hát, nhạc, diễn kịch; dứt bỏ trang sức làm đẹp, làm sang; dứt bỏ nằm giường cao rộng lớn; dứt bỏ nhận vàng bạc, tiền bạc của người cư sĩ cúng dường; dứt bỏ cất giữ tiền, bạc, của báu; dứt bỏ nhận thịt sống, dứt bỏ nhận thịt chín.

Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.

Đây là giới hạnh của những người tu sĩ mới bước vào lộ trình xuất gia đầu tiên theo đạo Phật. Những giới hạnh này người tu sĩ cần phải nhớ kỹ và ghi nhớ, không được để vi phạm những lỗi lầm này.

Người mới tu cần phải ghi nhớ mãi mãi những điều này, không được vi phạm. Có vi phạm nhỏ phải xấu hổ, phải hằng răn sám hối, phải hằng sửa sai không được kéo dài, không được tiếp tục phạm nữa. Có như vậy mới xứng đáng là người bước đầu vào đạo Phật.

9.2- TIẾP TỤC DỨT TRỪ ĐIỀU ÁC VÀ TĂNG TRƯỞNG ĐIỀU LÀNH

(01:11:22) Và người tu sĩ mới bước đầu vào đạo Phật cần phải hiểu thêm, cần phải tu tập thêm theo những bài kệ dưới đây để dứt trừ các điều ác mà tăng trưởng các điều lành:

Quý thầy hãy nghe những cái lời dạy này để mà cố gắng cho giai đoạn mới bước đầu vào đạo Phật:

Hãy mau mau làm điều lành,

Thường ngăn tâm làm điều ác.

Hai câu kệ đầu thì khi mà chúng ta mới bắt đầu vào đạo Phật, đi vào cái lộ trình thứ hai, trở thành một vị Tỳ Kheo tu hành, thì tất cả những cái điều lành chúng ta đều là thực hiện, làm tất cả những cái điều lành. Còn những cái điều ác, thì luôn luôn chúng ta phải ngăn chặn cái tâm của mình không được làm cái điều ác. Bất kỳ điều ác lớn, điều ác nhỏ gì thì chúng ta phải ngăn chặn nó lại.

Đây là bốn cái câu kệ kế:

Nếu người làm điều ác

Chớ tiếp tục làm ác

Đừng ước muốn điều ác

Chứa ác chịu khổ đau

Ở đây thì Phật dạy bảo, người mới bắt đầu vào tu thì tâm của chúng ta còn quen đi ở trong cái đời sống thế tục, cho nên nó có những cái pháp ác còn lẫn lộn ở trong tâm hồn của chúng ta.

Cho nên Đức Phật dạy: Nếu người mà còn đang ở trong các pháp ác thì chớ nên tiếp tục các pháp ác, dứt nó ra đi, và đừng có muốn, ước ao, muốn, như bây giờ mình ham muốn cái này kia, ham ăn đó; hay hoặc là còn tham sân si đó, thì cái đó là các pháp ác đó.

Cho nên đừng có ước muốn điều ác, vì chứa ác thì cuộc đời chúng ta sẽ gặp nhiều cái sự đau khổ, mặc dù là hiện giờ chúng ta là những người tu nhưng còn có gặp những cái khó khăn chớ không phải là không có cái khó khăn.

Muốn cho được an ổn, yên ổn tu hành thì chúng ta phải nỗ lực dứt các điều ác, đừng có ước muốn nữa, đừng có ham muốn nữa, vì tất cả những sự ham muốn đó nó sẽ đem đến sự khổ đau, mà cái sự khổ đau đó toàn là những cái điều ác đem đến cho chúng ta.

Nếu người làm điều thiện

Tiếp tục làm thiện thêm

Lòng ước muốn điều thiện

Chứa thiện được an lạc.

Nếu mà chúng ta bước qua cái giai đoạn lộ trình tu theo đạo Phật bắt đầu mới vào tu, thì luôn luôn chúng ta đều ước muốn làm cái điều lành, tiếp tục làm cái điều lành và chất chứa những cái sự điều lành đó, thì con đường tu chúng ta sẽ được an lạc, nó không còn khó khăn nữa.

Còn trái lại, chúng ta có những cái tâm niệm chứa những cái ác, coi như là nghi ngờ thầy tổ của mình, nghi ngờ bằng cách này, bằng cách kia.

Trước khi mà chúng ta muốn đến với một vị thầy đó, thì ít ra chúng ta cũng phải chọn lấy có đủ niềm tin hay không?

Không đủ niềm tin mà khi đến đó mình nhận người ta là thầy mình rồi, mà mình đâm ra nghi cái này, nghi cái kia, đứng núi này mà trông núi nọ, rồi dùng những cái lời lẽ phỉ báng thầy mình, chê bai thầy mình bằng cách này bằng cách khác, thì đó là mình đã chứa những điều ác trong tâm của mình.

Và chứa những cái điều ác trong tâm mình như vậy là tự mình đã đem lại cái sự bất an, đem lại cái sự muôn đời của mình chẳng bao giờ tìm được con đường giải thoát.

Một khi biết thầy mình, là mình đến xin vị đó làm thầy mình, mà mình biết thầy mình chưa có đạt được đến cái mức giới luật cũng như thiền định cao siêu thì mình vẫn là quý trọng thầy mình, đừng có dùng cái lời lẽ phỉ báng thầy mình bằng cách này, bằng cách khác đối với một vị thầy mà đã đưa dắt mình bước đầu.

Ơn không có mà trả oán! Những cái hạng người đệ tử như vậy thì suốt đời của họ tu hành cũng chẳng ra gì. Vì đó là những điều mà họ đã chứa trong tâm họ toàn là cái thứ ác.

(01:15:09) Người ác thấy là lành

Khi ác nghiệp chưa đủ

Đến khi đã chín mùi

Người ác mới thấy khổ.

Nghĩa là bây giờ chúng ta nói cái này, nói cái kia, thì cái nghiệp ác nó chưa có đến cho chúng ta đâu. Nhưng mà khi nó đến đủ rồi thì chúng ta mới thấy rõ được cái khổ đó là do cái hành động ác của mình, cái hành động mà do cái tâm không tốt của mình.

Người hiền đang sống khổ

Khi thiện nghiệp chưa đến

Nay thiện nghiệp chín mùi

Người lành được an vui.

Nghĩa là hiện bây giờ chúng ta làm lành, nhưng mà cái cuộc sống của chúng ta đang gặp những cái khó khăn, là do cái nhân quả của đời trước mà hôm nay mình chịu lấy.

Khi mà cái thiện nghiệp hiện giờ mình đã làm, nó chưa có đến đâu, một ngày nào đó nó sẽ đem đến cho mình. Mà nó đem đến cho mình, nó chín muồi rồi thì cái người mà làm cái điều lành đó sẽ được an vui và an vui mãi mãi trong cuộc sống của họ, họ sẽ không có thiếu thốn một cái gì cả.

Bài kệ kế:

Chớ khinh chê điều ác

Cho rằng chưa đến mình

Như nước nhỏ từng giọt

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người ngu chứa đầy ác

Do chất chứa dần dần.

Nghĩa là hiện giờ chúng ta coi cái chuyện ác nhỏ chẳng ra gì hết: Mình chê, mình nói người này thế này, người khác hay hoặc là mình làm đau khổ người này thế này, thế khác, mình coi nó không có gì. Nhưng mà nó sẽ là những giọt nước mà nhỏ lần lần, nó sẽ đầy cái bình của chúng ta.

Cho rằng nó chẳng có hại mình gì được hết, nhưng mà cuối cùng khi mà cái nghiệp nó đầy đủ rồi, thì cái bình kia nó vẫn phải tràn đầy. Và khi tràn đầy thì chúng ta sẽ thấy thọ lấy những cái quả khổ, mà không ngờ trước những cái quả khổ mà do từng cái giọt nước ác nhỏ, tuy nhỏ, nhưng lâu ngày nó sẽ đầy một cái bình.

Tuy giọt nước nó mềm nhưng nó có thể soi mòn được đá cứng, và cái giọt nước ác nó cũng vậy, nó có thể giết hại đời sống của chúng ta toàn là gặp những đau khổ.

Chớ khinh chê điều thiện nhỏ

Cho rằng chưa đến mình

Như nước nhỏ từng giọt

Rồi bình cũng tràn đầy.

Người trí chứa đầy thiện

Do chất chứa dần dần.

Cái người trí thì luôn luôn mỗi việc thiện nhỏ chúng ta đều cố gắng làm, giống như từng giọt nước nhỏ, đến ngày nào đó một bình nước đầy chúng ta mặc sức mà dùng, đời sống chúng ta được an vui và hạnh phúc.

Đây là những điều mà phải nói rằng, trên cái bước đường tu hành theo đạo Phật thì phải nói rằng, cái giai đoạn đầu tiên bước qua cái lộ trình thứ hai này, trở thành một vị tu sĩ của đạo Phật, thì chúng ta phải nhớ những cái bài kệ này là những cái hành động mà đầu tiên chúng ta phải dứt trừ những cái điều ác.

Những cái điều ác mà nó đưa đến cho cái đời sống của chúng ta nó cái nhiều cái quả khổ, mặc dù là chúng ta tu hành nhưng phải gặp nhiều cái quả khổ. Chúng ta cố gắng mà dứt trừ nó thì may ra chúng ta sẽ được an vui trong cuộc đời tu hành của chính mình.

(01:18:02) Bởi vậy hằng ngày trên cái đường tu tập của chúng ta, chúng ta hãy tích lũy từng chút cái việc làm lành: Thấy một con vật mà bị trôi trên một cái vũng nước, đang sắp chết đuối trên cái vũng nước nhỏ, chúng ta mau mau cứu chúng, thì đó là một cái việc làm lành nhỏ của chúng ta.

Thấy một cái miếng miểng chai, hoặc là một cây đinh, hoặc là một cây gai nằm ở trên đường mà người qua, kẻ lại, thì do đó chúng ta nên nhặt cái vật đó đi, không khéo thì có người vô ý họ sẽ đạp phải, họ sẽ gây cái đau khổ cho cái thân người đó. Do đó, chúng ta muốn tránh sự đau khổ cho mọi người thì chúng ta nên lượm cái vật đó đi. Đó là một cái việc làm lành nhỏ.

Cũng như chúng ta đi, chúng ta nhìn xuống chân mà chúng ta tránh đi, đừng có để đạp con kiến hoặc là côn trùng dưới chân, tránh cái sự chết hoặc là cái sự gãy chân đau khổ của chúng, chính cũng là một cái điều lành nhỏ mà chúng ta hằng ngày chúng ta (gặp) phải.

Thấy một con vật đang đói khát, trong khi đang quằn quại trên cái sự đau khổ của cái cơn đói hoặc là cơn bệnh của chúng, thì chúng ta ngồi mà chúng ta nhìn, rồi chúng ta khởi một cái tâm thương yêu, mong rằng cái sự đau khổ của chúng sanh này sẽ giảm đi, sẽ bớt đi. Sự ước mong, sự ước muốn của chúng ta nó cũng được cảm thông với cái sự đau khổ của chúng sanh.

Đó là những cái việc làm lành nhỏ mà góp nhặt từng chút để tạo nên cái lành lớn. Nếu chúng ta không làm được những cái điều nhỏ này thì khó mà có thể dứt trừ được những điều ác.

Hằng ngày chúng ta ngồi lại, thấy hai con vật đang cắn lộn nhau, đang giành nhau một cái vật thực gì đó mà cắn nhau, chúng ta vội vàng can ngăn chúng ra, đừng để chúng đánh nhau, thì đó cũng là một việc lành nhỏ.

Hằng ngày chúng ta có những điều mà vô tình chúng ta có thể làm đau khổ chúng sanh. Khi chúng ta đang ngồi ăn, thấy một con kiến hoặc là một con vật gì rớt ở trên mình chúng ta, bị nó cắn làm cho chúng ta ngứa hoặc đau. Trong khi bị đau, ngứa chúng ta không có ý tứ, không nghĩ đến thương chúng, cho nên lấy tay chúng ta vò đi, chà đi làm cho con vật bị chết đi, đó là chúng ta làm một cái điều ác nhỏ.

Cũng như chúng ta ngồi chơi, có một con muỗi đáp trên mặt chúng ta hút máu, chúng ta bắt đầu nghe ngứa ở tại chỗ đó thì chúng ta phải ý tứ: “Trên mặt chúng ta có chỗ ngứa, có lẽ có một con vật, con muỗi hay con gì cắn chúng ta, phải từ từ nhẹ tay để làm cho con vật đó không chết!”, đó là một việc làm thiện nhỏ.

Hằng ngày còn biết bao nhiêu việc nhỏ, như chúng ta đổ một cái xô nước nóng, chúng ta nhìn trước sau coi dưới đất chúng ta đổ có loài chúng sanh không, nếu không có chúng ta sẽ đổ. Và đổ nước nóng xuống đất mà không có chúng sanh thì không có chết hại chúng sanh, đó là một việc làm thiện của chúng ta.

(01:21:14) Chúng ta nắm một cái cây mà chúng ta ném, cái cây rớt rủi ro trúng một con vật nhỏ như một con rắn chiếu, hoặc là một con trùng, hoặc là một con kiến, nó cũng làm cho con vật đau khổ.

Tốt hơn, chúng ta đừng vô tình ném một cái cây, một khúc cây rớt để làm cho đau khổ chúng sanh. Chúng ta hãy để nhẹ nhàng khúc cây vào cái nơi vị trí của chúng, thì thứ nhất là oai nghi tế hạnh của chúng ta rất là nhẹ nhàng, rất là có oai nghi, và thứ hai là không làm đau khổ chúng sanh.

Đó là những cái hành động thiện nhỏ mà chúng ta cần phải nhặt nhạnh từng chút, từng ngày để tạo cho chúng ta có những cái điều lành lớn sau này.

Đối với cái hành động ác hằng ngày mà hành động nhỏ chúng ta cũng cần lưu ý. Và đối với cái hành động thiện nhỏ hằng ngày chúng ta cũng cần lưu ý để mà trau dồi thân tâm của mình trong những oai nghi, tế hạnh của một người tu sĩ mới bắt đầu tu tập giới hạnh của Phật, thực hiện cái đời sống tu hành oai nghi tế hạnh đầy đủ, nhẹ nhàng, để giúp đỡ tất cả chúng sanh không vì mình mà đau khổ.

Đây là những điều căn bản đầu tiên, giới hạnh của người tu sĩ mới bước qua lộ trình xuất gia cần phải thông hiểu rõ ràng để không có lỗi lầm, để không phạm phải.

Nhưng bấy nhiêu đây chưa đủ để đi suốt cái quãng đường xuất gia tu hành để đi đến chấm dứt sanh tử luân hồi được, mà còn phải tu tập nhiều hơn nữa, và phải tu tập nhiều hơn nữa.

9.3- SỐNG TRẦM LẶNG ĐỘC CƯ VÀ TU TẬP CÁC LOẠI ĐỊNH

(01:22:53) Người tu sĩ Phật giáo mới bước đầu vào đạo cần phải sống độc cư, sống trầm lặng, sống một mình; còn phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt.

Đó, cho nên chúng ta không bước vào cái lộ trình của người tu sĩ thì thôi, mà đã bước vào cái lộ trình của người tu sĩ thì thứ nhất là chúng ta phải thấy về cái hạnh độc cư rất là quan trọng đối với người tu sĩ.

Bởi vì cuộc sống của chúng ta ngoài đời, chúng ta rất thích là ham vui, nói chuyện này, chuyện kia, cười cợt, nói diễu, nói đùa, nói móc, nói máy, nói mỉa mai người này, người nọ, người kia để cho mình thỏa thích cái tâm vui, cái tâm cô đơn của mình.

Nhưng khi mà bước vào nẻo xuất gia tu hành rồi, thì chúng ta phải thấy những cái sống như vậy nó không đúng là cái hạnh của người tu sĩ.

Mà sống đúng hạnh người tu sĩ là phải sống độc cư, sống một mình, sống không nói chuyện với ai, luôn luôn phải ưa thích trầm lặng, phải sống cuộc sống trầm lặng, phải luôn sống cho mình, phải luôn sống để tâm mình hợp nhất, đừng bị phân tán (bởi) các cái ngoại cảnh, các cái đối tượng, các cái hoàn cảnh.

(01:24:04) Vì vậy mà chúng ta thường xuyên phải tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và cái Định Vô Lậu, và phải sống hằng ngày trong cái Định Sáng Suốt.

Và hằng ngày, muốn sống trong cái Định Sáng Suốt, thì người tu sĩ mới bắt đầu qua cái lộ trình thứ hai - cái lộ trình của người xuất gia thì phải tu tập ở trong cái Chánh Niệm Tỉnh Thức.

Mà cái Chánh Niệm Tỉnh Thức thì lấy cái sự đi kinh hành, lấy cái việc làm hằng ngày của mình trong lao tác, trong lao động mà tập trung tâm mình ở nơi cái hành động, để biết cái hành động của mình đang ý tứ làm những công việc cho tỉnh táo, cho sáng suốt, và thường phải dùng pháp hướng nhắc cái tâm của mình.

Thí dụ như mình đang lặt rau, hay hoặc đang nấu cơm, thì đang lặt rau nói: “Tôi biết tôi đang lặt rau". Và khi lặt rau xong rồi, thì đến cái giai đoạn nấu cơm thì: "Tôi biết tôi đang nấu cơm", thì thỉnh thoảng mình lại nhắc: "Tôi biết tôi đang nấu cơm".

Tập cho cái sức tỉnh thức của mình ở trong cái hành động đó để cho nó luôn luôn nó tỉnh thức, nó không có một niệm vọng tưởng xen vào, và cũng không có một cái niệm vô ký quên đi cái hành động của chúng ta.

Vả lại thì cái đó là cái phần tu Chánh Niệm Tỉnh Thức, thì cái phần đó nó giúp cho chúng ta được ý tứ trong cái hành động để mà giữ gìn cái giới hạnh cho nó đừng có vi phạm, đừng có phạm phải.

Và kế tiếp thì chúng ta phải tu cái Định Vô Lậu. Và cái Định Vô Lậu thì chúng ta phải thường xuyên đặt cái niệm ở trước mắt của chúng ta.

Bây giờ chúng ta là những người mới rời khỏi gia đình, tình cảm của chúng ta nó còn dính dấp đối với những người thân, cho nên mình đặt cái niệm nhân quả đối với những người thân như cha, mẹ, vợ, con, anh, em. thì chúng ta mới nhìn nó mà quán xét cái nhân quả.

Nếu không có cái nhân quả thì làm gì ngày nay chúng ta trở thành con cái hay hoặc là trở thành cha mẹ của mình? Chúng ta quán xét. Rồi chúng ta quán xét: Nếu không có nhân quả thì làm sao mà những người này họ trở thành vợ con mình được? Có nhân quả, một là mình nợ họ, hai là họ nợ mình!

Do cái chỗ đó, chúng ta quán xét suy tư, từ đó chúng ta mới dứt được cái tình thương yêu một cách rất là vô minh, không có sáng suốt, làm cho cái tâm của chúng ta càng ngày càng lìa xa cái tình thương yêu nhỏ mọn, nó không rộng lớn như cái tâm từ bi của Phật dạy.

Muốn được vậy thì hằng ngày chúng ta đặt cái niệm lòng thương yêu của chúng ta đối với gia đình, đối với những người thân, chúng ta phải quán xét nó bằng cái đường lối của nhân quả, bằng những cái nợ của mình: Hoặc là mình nợ, hoặc là họ nợ mình, cho nên đây là một cái sự vay trả, một cái sự đòi hỏi để trả nợ với nhau trong cái hiện kiếp này, mà cái kiếp kia là những người con nợ với nhau, mình nợ họ, họ nợ mình!

(01:27:41) Do như vậy thì chúng ta mới dứt được những cái điều thương, những cái điều ngồi mà suy nghĩ gia đình, suy nghĩ vợ con. Do đó, chúng ta mới dứt được, nó mới không còn trói buộc chúng ta được. Do đó chúng ta mới yên tâm mà giữ gìn giới hạnh để chúng ta ly dục ly ác pháp. Nhờ thế chúng ta mới ngồi lại mà tu được cái Định Sáng Suốt.

Vậy Thầy sẽ đọc cho quý thầy nghe bài kệ Nhất Dạ Hiền.

Bây giờ Thầy sẽ đọc cái bài kệ:

Quá khứ không truy tìm

Tương lai không ước vọng

Chỉ có pháp hiện tại

Chánh Niệm Tỉnh Giác đây

Tuệ tri Quán Vô Lậu

Không động không rung chuyển.

Biết vậy nên tu tập

Hôm nay nhiệt tâm làm

Đêm ngày không mỏi mệt

Xứng gọi Nhất Dạ Hiền

Luôn luôn sống trầm lặng.

Đó là một cái bài kệ mà Thầy nhắn nhủ quý thầy. Trầm lặng đây là độc cư đó, sống một mình mình đó, sống trong cái trạng thái tâm hồn trầm lặng, đừng có lăng xăng, đừng có nhôn nhao ở trong cái tâm của mình. Và cái sự tu tập thì ở đây chỉ rõ là hai cái định: Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và cái định Vô Lậu Định.

Cho nên hai câu kệ này để hàng ngày, hằng đêm quý vị cố gắng mà tu tập:

Chánh Niệm Tỉnh giác đây

Tuệ tri Quán Vô Lậu

Đó là hai cái định mà quý thầy cần phải tu tập trong hiện giờ, chớ không phải tu tập cái hơi thở mà hãy tu tập hai cái định này trước. Vì cái bước đầu mà tu theo đạo Phật không phải đi vào cái định, mà phải đi vào cái sức tỉnh giác chớ không phải là cái định.

Vì cái định nó phải ngưng các hành, còn cái tỉnh giác thì nó không ngưng các hành. Mà chính cái sức tỉnh giác nó làm cho cái tuệ tri chúng ta mới sáng suốt, mới diệt được cái lậu hoặc, làm cho tâm chúng ta vô lậu. Nhớ kỹ mà tu tập, siêng năng mà tu tập cái định này.

Vì quá khứ nó cũng không ích lợi gì cho chúng ta, mà tương lai thì chúng ta có mơ mộng, có ước vọng cái này kia thì nó cũng chưa cái đến. Cho nên chúng ta đừng có sống ở trong cái thời gian quá khứ, cũng đừng có sống trong cái thời gian tương lai, mà hãy chỉ có cái hiện tại. Mà cái hiện tại thì chúng ta tu cái gì đây? Tức là chúng ta tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.

(01:30:30) Và tuệ tri Quán Vô Lậu để cho cái tâm chúng ta không dính mắc vào cái ngã, để tâm chúng ta không dính mắc vào các pháp mà sanh ra tham, sân, si, phiền não.

Đó là phương pháp mà quý thầy phải tu tập, siêng năng mà tu tập. Đó quý thầy nhớ ghi lại cái bài kệ đó. Đó là như vậy. Cố gắng hàng ngày lúc nào cũng phải tu tập, không có được biếng trễ những cái pháp này.

Cho nên quý thầy nhớ kỹ, cái đời sống của quý thầy hiện giờ ở đây là luôn luôn sống trầm lặng, phải sống trầm lặng, không được nhôn nhao, không được nói chuyện, không được đi lăng xăng mà chỉ đi với sự kinh hành thanh thản trong pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác Định mà thôi.

Làm việc cũng vậy, khi những giờ lao động thì quý thầy quét dọn hoặc là nhổ cỏ, cũng tuần tự làm nhẹ nhàng để tâm trong Chánh Niệm Tỉnh Giác chớ không được làm vội vàng, làm không có tu tập ở trong đó thì nó không ích lợi cho sự tu tập của mình.

Cho nên qua bài kệ này thì quý thầy phải nhớ học thuộc lòng, và thường từng nhắc nhở sự tu tập của mình hằng phút, hằng giây để cho sức tỉnh giác và trí tuệ quán xét diệt lậu hoặc, làm cho tâm không còn lậu hoặc nữa thì mới có sự giải thoát chân thật của đạo Phật.

Qua cái bài kệ này để nhắc nhở trong hiện tại, quý thầy về đây tu tập, nỗ lực thực hiện, có pháp để mà tu. Không khéo rồi chỉ không biết pháp nào mà tu, cứ lo ôm chặt hơi thở mà tu thì không đúng.

Vì lúc nào dạy hơi thở thì Thầy sẽ dạy hơi thở, mà chưa dạy thì quý thầy phải tu hai cái định đó trước tiên. Chớ nếu quý thầy mà không tu hai cái định đó thì chắc chắn là quý thầy sẽ đi vào hơi thở, không đạt được kết quả tốt của hơi thở đâu.

HẾT BĂNG