50 - PHÁP HÀNH THỌ, TÂM NIỆM PHẬT 01 - CÁCH TỔ CHỨC ĐI KHẤT THỰC
GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 50 - PHÁP HÀNH THỌ, TÂM NIỆM PHẬT 01 - CÁCH TỔ CHỨC ĐI KHẤT THỰC
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1997
1- PHÁP HÀNH THỌ NIỆM PHẬT
(00:00) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học của chúng ta, tức là bây giờ tới Thọ niệm Phật. Hồi nãy là chúng ta đã học Thân niệm Phật, bây giờ chúng ta lại Thọ niệm Phật. Bởi vì Thân, Thọ, Tâm, Pháp - Thân đã niệm Phật rồi thì bắt đầu bây giờ tới Thọ niệm Phật.
Thọ niệm Phật như thế nào?
Thân Phật đã làm chủ được ba trạng thái của thọ:
1. Thọ lạc
2. Thọ khổ
3. Thọ bất lạc bất khổ
Đối với ba thọ:
1. THỌ LẠC KHÔNG ƯA THÍCH
(00:36) 1. Phật thọ lạc không làm tâm Phật ưa thích, không vui mừng, không ca ngợi, không cầu mong, không ước muốn, không tưởng nhớ.
Thọ ta niệm Phật cũng vậy, giống như Phật: Không ưa thích, không vui mừng, không ca ngợi, không cầu mong, không ước muốn, không tưởng nhớ, nhờ thế thọ ta không tác dụng được, không lôi cuốn được, không làm cho ta đắm đuối mê mờ.
Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:
Ở đây chúng ta thấy rằng Đức Phật đã xác định cho chúng ta biết rằng cái thân của chúng ta nó có ba cái thọ: thọ lạc, thọ khổ và thọ bất lạc bất khổ, và ở trong ba cái thọ này Đức Phật không có chấp nhận cái thọ nào hết.
Thọ lạc Đức Phật cũng không thích, mà thọ khổ Đức Phật cũng không sợ, mà thọ bất lạc bất khổ Đức Phật cũng không cho nó là Niết Bàn cứu cánh, toàn là cái thứ thế gian phàm tục. Những cái thọ này đối với Đức Phật - xem như là nó không cám dỗ được Đức Phật.
Do đó bây giờ chúng ta lấy cái thọ mà niệm Phật, thì cái thọ của Phật như thế nào thì cái thọ của chúng ta như phải thế nấy. Cho nên chúng ta phải tập nó như vậy. Nhưng muốn nói như vậy mà không có pháp tu, không có pháp hành thì làm sao mà chúng ta đạt như vậy được?
Cho nên chúng ta phải có pháp hành để cho chúng ta càng ngày nhờ cái pháp hành đó, nhờ cái giới hành đó mà chúng ta thấm được cái lý của nó, cho nên chúng ta hoàn toàn là chúng ta mới không có đắm đuối theo thọ lạc, không có sợ hãi theo thọ khổ, không có ham thích theo thọ bất lạc bất khổ.
“Thọ lạc…”
Bây giờ chúng ta trạch pháp cái câu này ra để mà chúng ta dùng pháp hướng đây:
“Thọ lạc là vô thường, khi có sanh ra khả ái, khả hỷ, khả lạc nhưng chỉ chốc thời, không được lâu dài. Vì thế thọ là nguy hiểm, là tai họa, là khổ đau, ta phải đoạn dứt, không được ham thích, say đắm, không được để chúng lôi cuốn, không được để tâm ta sa ngã theo chúng”.
Đó là cái câu trạch pháp mà chúng ta nhắc nhở. Và chúng ta cũng phải hiểu rõ nó là vô thường. Tại sao nó vô thường? Chúng ta quán xét. Bởi vì chúng ta khi mà trạch pháp câu này ra thì chúng ta phải có một cái sự hiểu biết của nó để chúng ta thấu suốt được.
Nó vô thường như thế nào? Thân của chúng ta bây giờ nó đang có cái sự thích thú, an ổn, hoặc là chúng ta đang ăn cái món ăn đó ngon, đó là nó có cái cảm giác thích. Vậy là bây giờ khi nuốt hết cái món ăn đó rồi thì nó mất đi, nó không còn nữa, như vậy là nó có thường không? Tức là vô thường.
(03:26) Cũng như thân ta bây giờ nó không có bệnh đau nè, nó nghe nó an ổn nè, rồi lát nữa cái nó nhức đầu, vậy thì nó có thường không? Nó là vô thường.
Cho nên khi mà thọ lạc nó sanh ra thì chúng ta thích lắm, cho nên nó gọi là khả ái, khả hỷ, khả lạc, nhưng mà nó chỉ có một chút là nó hết liền. Cũng như có người đi xa về gặp mình vui có một chút, rồi mai mốt đâu có vui nữa, đâu có vui hoài đâu, vui có bữa đó thôi, vui có hồi nãy đó thôi, còn bây giờ thì hết vui rồi.
Đó thì tức là cái vui đó nó không có kéo dài mãi, cho nên nó vô thường, lúc sanh ra rồi lúc mất, nó không có - vô thường. Vì thế chúng ta hiểu biết được cái thọ của thế gian, thọ của thân mình đều hoàn toàn là vô thường. Mà nó nguy hiểm, khi muốn cầu mong được cái thọ đó thì nó phải trải qua nhiều cái sự kiện nó xảy ra.
Thí dụ như trước khi mà có người thân đi xa bây giờ về gặp nhau mừng, thì trước khi đó, khi có duyên gì mà cái người đó đi xa thì chúng ta có buồn tủi không, có thương nhớ không? Thương nhớ, buồn tủi. Rồi bây giờ lâu ngày mới trở về gặp nhau, mới có vui mừng, cho nên bây giờ mà vui mừng thì nhớ trước kia, cái ngày mà chia tay ra đi, không biết còn sống hay chết, luôn luôn lúc nào cũng sầu khổ.
Rõ ràng là cái thọ lạc của nó đem đến cái niềm vui thì phải có cái sự khổ rồi mới có cái sự vui, cũng như có cái sự vui rồi thì nó sẽ đến cái sự khổ. Cho nên chúng ta phải thấy nó là nguy hiểm, là tai họa, là khổ đau.
Do biết nó là nguy hiểm, tai họa, khổ đau đó cho nên chúng ta phải đoạn dứt, không có ham thích theo nó, không có say mê theo nó, không có vui theo cái kiểu mà như vậy được nữa, vì vui đó rồi khổ đó. Cho nên chúng ta không có để cái thọ lạc đó mà làm cho tâm ta sa ngã.
Đó vì vậy cái câu trạch pháp này là chúng ta hiểu rõ như vậy, cho nên chúng ta nhắc như vậy thì chúng ta không còn say đắm nữa. Chớ còn không khéo thì chúng ta dễ say đắm lắm, dễ bị sa ngã nó cám dỗ. Cái thọ lạc này nó cám dỗ chúng ta dữ lắm.
Cái thọ khổ thì chúng ta sợ đó, nhưng mà cái thọ lạc này chúng ta không sợ đâu, mà chúng ta ham lắm. Vì thế gian mà người ta sống được tại vì có cái thọ lạc này mà người ta thích sống đây.
Cũng như một người sắp chết rồi mà vẫn thấy có cái giọt mật mà ngon thì họ vẫn thích, họ muốn chết rồi đó, họ sắp chết rồi mà họ vẫn còn thấy cái ngon của thế gian họ còn thích ăn, họ thích nếm chớ chưa phải họ muốn bỏ đâu.
Cho nên vì vậy mà chúng ta biết rằng cái thọ lạc nó đem đến chúng ta khổ lắm chớ không phải là sung sướng gì đâu. Nó chỉ là chốc thời, nó chỉ là chớp mắt mà nó đem đến cho chúng ta nhiều cái khổ sau này.
2. THỌ KHỔ KHÔNG SỢ HÃI
(06:04) 2. Phật thọ khổ, Phật không sợ hãi…
Nghĩa là gặp khổ như đau nhức, bệnh tật thì Đức Phật không có sợ hãi. Còn chúng ta mà đau nhức này kia nọ thì chúng ta sợ lắm, sợ chết nè, sợ khổ nè, sợ nhức, đủ thứ lo lắng buồn rầu, ăn không được, ngủ không được nữa. Nghe cái thân đau nhức chỗ nào đó, chúng ta thôi quá khổ. Còn ông Phật thì mặc nó, ổng chẳng hề sợ hãi gì hết, cho nên Phật không có sợ hãi cái thọ khổ.
… cũng không chán ghét nó, cũng không lo lắng, không buồn rầu, không ưu não, và luôn luôn Phật bất động trước các thọ khổ.
Nghĩa là trước các thọ khổ. Cho nên Phật nói chịu đau cái sức tận cùng của cái thân chúng ta mà Đức Phật vẫn thản nhiên, không để cho tâm mình dao động, thì nó có một sự mát lạnh ở chỗ tận cùng của sức chịu khổ của cái thân chúng ta.
Đó, thì như vậy là chúng ta đã thấy biết rằng Phật không có sợ hãi cái thọ khổ, Phật không có lo lắng, không có buồn rầu cái thọ khổ.
Như ai có thân này cũng đau cũng nhức, cũng tai nạn này tai nạn khác, nhưng mà đối với Phật thì Phật rất thản nhiên, đối với ta thì chúng ta gặp cái thọ khổ là chúng ta sợ hãi, chúng ta không có dám, chúng ta lo lắng, chúng ta buồn rầu, trái lại Phật không buồn rầu, không lo lắng gì hết. Tại vì nhân quả thì phải có thọ khổ thôi, mà thọ khổ thì mặc nó chớ đâu phải vì mình mà mình sợ nó!
Cho nên khi quý thầy thấy quý thầy có những cái thọ khổ đó, quý thầy có những cái bệnh tật mà quý thầy cứ lo lắng cho bệnh tật mình thế này thế khác, thì tức là quý thầy đã bị cái thọ lôi cuốn quý thầy rồi, làm cho quý thầy bất an rồi, tâm quý thầy dao động.
Còn bằng không mà nếu quý thầy chẳng có sợ hãi, quý thầy đặt cái niệm thọ trước mặt, quý thầy mới câu hữu với sắc thọ, hoặc thức thọ, hoặc hành thọ, hoặc tưởng thọ, quý thầy câu hữu, quý thầy đặt ở trước mặt quý thầy, quý thầy quán xét, quý thầy tư duy, quý thầy đập nó xuống, quý thầy chẳng rung động trước cái thọ khổ của quý thầy thì quý thầy làm chủ được thọ khổ. Cho nên quý thầy vượt thoát ra nó, mà thân nghiệp của quý thầy cũng sẽ hết.
Cho nên hầu hết là một số quý thầy tu hành mà trước cái thọ khổ, trước cái bệnh tật của quý thầy, tức là trước cái nghiệp thân của quý thầy quá đau khổ đó, tức là thọ khổ đó, quý thầy lo lắng thế này thế khác, nghĩ rằng thân mình phải mạnh mới tu được, đau ốm thì tu không được, bây giờ như thế này thế khác. Cứ lo lắng, sợ hãi như vậy thì chẳng tu gì được hết.
Trái lại, đặt cái niệm thọ khổ đó trước mặt của mình, rồi dùng cái trí, cái tri kiến giải thoát quán xét, tư duy, đập nó xuống, phá toang nó ra, nó không còn có nữa, thì như vậy là quý thầy sẽ thấy cái nghiệp thân của quý thầy giải thoát hoàn toàn, nó không còn làm cho quý thầy đau khổ.
Ta lấy thọ niệm Phật cũng vậy, giống như Phật, phải gan dạ, phải kiên trì, phải đầy đủ nghị lực, phải dũng cảm, phải chiến đấu với thọ, không sợ hãi, không chán ghét, không lo lắng, không buồn rầu, không ưu não, luôn luôn giữ tâm bất động trước các thọ khổ.
Ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để giữ tâm bất động trước thọ khổ:
(09:16) Đó, thì khi một cái người mà tu theo đạo Phật thì chúng ta phải thấy cái thọ khổ. Nếu mà chúng ta không có hiểu thấu được cái thọ khổ thì khi gặp cái thân nghiệp của chúng ta - nó mang cái thân từ khi mà sanh ra cho đến khi mà chúng ta chết, có nhiều người mang cái thân có cái nghiệp nó đau từ nhỏ chí lớn, mà nếu mà không có cái chỗ mà tu tập, không có được cái định mà tu tập để quét sạch nó thì chắc chắn là tới khi chết mà quý thầy cũng chưa hết cái nỗi khổ của cái thọ của mình.
Còn biết như vậy thì chúng ta sẽ tu tập đúng cách. Cái phần này là sau khi mà giảng xong cái giáo án này xong thì Thầy sẽ dành riêng cho những cái người mà có cái thân nghiệp nặng một cái bài pháp để giúp cho họ đặt cái niệm thọ mà tu cái Định Vô Lậu để quét sạch cái niệm thọ, phá đi những cái nhân quả đời trước của họ mang cái thân ra đã có cái bệnh, để giúp cho họ thoát ra cho khỏi những cái nghiệp thân đó, bằng những cái pháp có những cái ý nghĩa của Phật pháp để giải thoát họ ra khỏi cái thọ.
Chúng ta phải dùng cái câu này để mà trạch pháp để tu, để mà sống đúng như cái thọ của Phật:
“Thọ khổ…”
Chúng ta phải thấy nè:
“Thọ khổ không từ đâu đến, không từ đâu đi, toàn là do duyên ác mà có thọ khổ, do quả ác kết trái mà có thọ khổ. Ta cứ giữ tâm bất động, thọ đến thọ đi mặc thọ, chẳng tác dụng ta được, do thế thọ sẽ tịnh chỉ hoàn toàn.”
(11:04) Đó, như vậy thì các thầy sẽ dùng cái câu trạch pháp này mà khi gặp cái thân quý vị đau bệnh thì quý vị đặt cái câu này quý vị nhắc cái tâm của quý vị:
“Thọ khổ không từ đâu đến…”
Nó không phải ở ngoài nó đến vô thân ta đâu, mà nó cũng không từ đâu nó đi, hoàn toàn là nó do duyên hợp mà thành mà, cho nên:
“… toàn là do duyên ác mà có thọ khổ, do quả ác kết trái mà có thọ khổ. Ta cứ giữ tâm bất động, thọ đến thọ đi mặc thọ, chẳng tác dụng được tâm ta, do thế thọ sẽ tịnh chỉ hoàn toàn”.
Đó, chúng ta phải hiểu được như vậy thì chúng ta mới tịnh chỉ được các thọ. Có như vậy thì chúng ta mới làm chủ được cái thọ của chúng ta, chớ còn nếu không thì chúng ta yếu đuối đây rồi chúng ta sẽ bị thọ nó làm chúng ta bò càng bò niểng, sợ hãi.
Đó thì như vậy là cái câu trạch pháp này quý thầy phải nhớ kỹ để thường nhắc nó.
Câu thứ hai:
“Thọ là vô thường, không có ngã, ta chẳng hề sợ hãi và nao núng. Thọ khổ hãy đi đi!”
Đó cái câu thứ hai là chúng ta đuổi nó đi đi: “Bây giờ mày nhức cái đầu, mày đi đi, đừng ở đây!” “Mày là vô thường, lúc mày có, lúc mày không, tại sao hôm qua mày không có nhức đầu mà bữa nay mày nhức đầu? Cho nên mày đi đi! Mày không phải là cái ngã.” Cho nên vì vậy đó, cái câu pháp hướng này để giúp cho chúng ta đánh đuổi cái thọ nhức đầu của chúng ta.
Đó Thầy nhắc lại câu hai:
“Thọ là vô thường, không có ngã, ta chẳng hề sợ hãi và nao núng. Thọ khổ hãy đi đi!”
Đó là chúng ta đuổi nó đi đi.
Câu ba:
“Thọ khổ là vô chủ, không phải của ta, không phải của ai hết, của nhân quả duyên hợp. Vậy thọ hãy đi đi!”
Nó là do duyên hợp của nhân quả mà, do ngũ uẩn là duyên hợp của chúng ta mà, bây giờ nó có thọ nhức cái đầu hay hoặc đau cái bụng đây, nó không phải của chúng ta đâu. Nó bây giờ nó đau, đi cầu không được, nó nhức nhối đây, nó đều cũng là cái nhân quả thôi. Cho nên đi đi chớ đừng có ở đây! Cho nên mình cứ ra lệnh mình đuổi nó đi.
Thọ khổ là vô chủ - nó không có chủ mà. Nó không phải của ta mà không phải của ai hết à. Nó do cái nhân quả mà hợp lại… (Mất tiếng)
(13:26) Câu hai:
“Thọ là vô thường, không có ngã, ta không hề sợ hãi và nao núng. Thọ khổ hãy đi đi!”
Câu ba:
“Thọ khổ là vô chủ, không phải của ta, không phải của ai hết, của nhân quả duyên hợp. Vậy thọ hãy đi đi!”
Đó là câu thứ ba, chúng ta cũng đuổi nó, không có cho nó…
Cho nên thường thường là lúc tuổi chúng ta già, chúng ta yếu, dễ hay có thọ lắm, cho nên lúc nào chúng ta cũng dùng những cái pháp hướng này đuổi nó đi: Nhức đầu, nhức chân, nhức tay, nhức khớp xương hay hoặc cái gì, tất cả chúng ta cũng đuổi nó đi.
Nó là cái tụi vô thường, cái tụi mà nó do cái nhân quả duyên hợp mà nó thành, nó tạo ra, bây giờ chúng ta cảm giác thấy cái thọ khổ chớ không phải là ai mà cảm giác thấy thọ khổ này hết, tại thọ là thọ như vậy. Cho nên chúng ta phải mạnh dạn mà đập đầu nó, đuổi nó đi, không có cho nó…
Câu bốn:
“Thọ khổ không phải trong ta, không phải ngoài ta, thọ là duyên hợp của nhân quả mà có, không phải của ta, không phải của ai. Vậy thọ khổ hãy đi đi, đừng có ở đây, đừng có làm khổ ta!”
Đó, chúng ta đuổi nó đi đi. Khi nào mà chúng ta bị cái gì mà khổ trong thân của chúng ta, cái cảm thọ của chúng ta, thì chúng ta phải hoàn toàn là xách đầu nó, đập nó xuống, đuổi nó đi, không có được để cho nó bén mảng vào cái thân của chúng ta, vào cái chỗ nào mà đối với chúng ta, để cho tâm chúng ta bất động hoàn toàn, an ổn hoàn toàn.
Đó là cái phần thọ khổ đến đây đã hết, vậy thì ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục học thọ bất lạc bất khổ. Bây giờ chấm dứt.
3. THỌ BẤT LẠC BẤT KHỔ KHÔNG PHẢI CỨU CÁNH NIẾT BÀN
(15:02) Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục học. Cái thọ thứ ba là cái thọ bất lạc bất khổ.
Bất lạc bất thọ khổ đó là một cứu cánh, một Niết Bàn mà người xưa trong cái thời Đức Phật có lục sư ngoại đạo họ cũng cho cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ là Niết Bàn, là cứu cánh. Ngày nay cũng có một số người chấp nhận cái chỗ bất lạc bất thọ khổ này là cái chỗ “chẳng niệm thiện niệm ác”, là cái chỗ “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, là cái chỗ “da mỏng, da dày đều rớt sạch”, bản thể của vũ trụ.
Thật ra thì cái chỗ này không có thọ khổ của các pháp của thế gian, nhưng nó là một trạng thái của một cái ý thức, cái tâm thức của con người, nó không có phải là cái chỗ cứu cánh giải thoát.
Vì cái chỗ này tuy rằng bất lạc bất thọ khổ, nhưng khi mà có một cái điều kiện lạc hoặc khổ thì ngay đó cái tâm của con người ở trong cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ này liền dao động.
Thí dụ như có một cái điều kiện gì xảy đến làm cho họ vui mừng thì ngay đó cái bất lạc bất thọ khổ này liền mất đi để nhường lại cho cái thọ lạc đó. Còn nếu có một cái trạng thái gì đau khổ, nhức nhối hay hoặc là giận hờn thì ngay cái thọ bất lạc bất thọ khổ này nó cũng mất đi, nó nhường lại cho cái thọ khổ đó.
Do đó, cái thọ bất lạc bất thọ khổ này không phải là cái chỗ cứu cánh.
Còn cái chỗ cứu cánh nó không phải ở trong cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ mà ở chỗ trạng thái là cái tâm nó không có dao động, nó bất động. Khi có một cái trạng thái lạc thì cũng không cám dỗ được nó, nó cũng bất động, mà khi có cái trạng thái khổ thì nó cũng bất động, nó không bị duyên theo thọ lạc và thọ khổ.
Còn cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ này thì luôn luôn nó bị duyên theo, hễ cái lạc thì nó chạy theo cái lạc thì nó mất cái bất lạc bất thọ khổ, mà cái thọ khổ đến thì nó cũng bị dao động theo, nó không có giữ được cái bất lạc bất thọ khổ này.
Cho nên đối với Phật thì Phật không có chấp nhận cái chỗ này là cái cứu cánh, là cái Niết Bàn, là cái bản thể của vũ trụ. Mà chính đạo Phật chấp nhận là trước mọi cái hoàn cảnh, mọi cái sự khó khăn, mọi cái lạc, cái thọ khổ mà cái tâm không dao động, thì chính cái chỗ đó mới là Niết Bàn, mới là cứu cánh của con người tu theo đạo Phật.
(18:07) Thân Phật thọ bất lạc bất khổ, Phật cho đó là một trạng thái còn phàm phu, không phải là cứu cánh, Phật không chấp nhận.
Ở đây quý thầy phải hiểu: Ngay chỗ thọ lạc mà chẳng sanh ưa thích, ham mê tức là tâm bất động trước thọ lạc, đó là Phạm hạnh, mục tiêu của Phạm hạnh. Ngay chỗ thọ khổ mà chẳng sanh tâm sợ hãi, dao động, đó là Phạm hạnh, là mục tiêu của Phạm hạnh, là giải thoát của đạo Phật.
Đó thì, như vậy quý thầy thấy rất rõ cái chỗ bất lạc bất thọ khổ này chỉ là một trạng thái bình thường của một người không lạc, không khổ chớ không phải tâm bất động. Tâm vẫn còn dao động, tâm vẫn còn chạy theo lạc hoặc là sợ hãi trước cái thọ khổ.
Ngay cái chỗ thọ bất lạc bất khổ mà sanh ưa thích, thấy cái trạng thái nó bất thọ lạc bất thọ khổ này tưởng là giải thoát, rồi sanh cái tâm ưa thích, cho nó là cứu cánh, là Niết Bàn thì đó là một cái tâm chấp trước. Cái tâm chấp trước như vậy là nó dính mắc vào cái chỗ chấp trước đó, cho cái trạng thái đó là cái cứu cánh của mình, thì đó là bị dính vào cái chỗ chấp trước.
Dao động nên chẳng phải là phạm hạnh cứu cánh, vì cái chỗ này nó dễ bị dao động, vì còn chấp trước nó cho nên có một cái gì thì nó dễ bị dao động. Còn cái kiến chấp nó, cho nó là cứu cánh thì tức là nó sẽ bị dao động ở chỗ đó.
Thọ ta niệm Phật, chỗ bất lạc bất thọ khổ này ta vẫn thản nhiên, không để tâm dao động, cũng không chấp trước thì đó là Phạm hạnh, là mục tiêu của Phạm hạnh, thì đó là tâm bất động giải thoát của mọi con người, và chính chỗ đó là chỗ của đạo Phật chấp nhận cái Phạm hạnh giải thoát của người tu theo đạo Phật. Chớ không phải chỗ bất lạc bất thọ khổ này mà cái chỗ bất động, bất động tâm.
Ta trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng dẫn tâm Như Lý Tác Ý để xả cái trạng thái tâm bất thọ lạc, bất thọ khổ này:
Ta trạch pháp như thế này:
“Thọ bất lạc bất khổ không phải là cứu cánh Niết Bàn, nó là một trạng thái không lạc, không khổ của phàm phu, vì thế chưa phải là cứu cánh, nên ta hãy từ bỏ, buông xuống, không được chấp trước nó, không được trụ ở nó mà phải bỏ đi. Hãy đi đi, đừng có ở trong ta nữa!”
Đừng có ở trong cái trạng thái bất lạc bất thọ khổ này trong ta nữa!
Đó là cái câu trạch pháp, Thầy xin đọc lại:
“Thọ bất lạc bất khổ không phải là cứu cánh Niết Bàn, ta hãy từ bỏ, buông xuống, không được trụ ở trạng thái này nữa!”
Đó là cái câu mà chúng ta hướng và nhắc tâm chúng ta hằng ngày để chúng ta đừng có chấp cái thọ bất lạc bất khổ này.
2- PHÁP HÀNH TÂM NIỆM PHẬT - PHẦN 1
[Phần 2 ở Giáo án 52]
1. TÂM PHẬT KHÔNG CÓ HAM MUỐN
(21:41) Bây giờ chúng ta tiếp tục Tâm niệm Phật.
1. Tâm Phật không có ham muốn. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không ham muốn các pháp thế gian.
Đối với các pháp thế gian thì Đức Phật đã xả bỏ hết, không còn để một cái pháp nào trong tâm mà Đức Phật chấp nhận, cho nên Ngài bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con xinh mà Ngài ra đi tìm con đường giải thoát, cho nên Ngài không còn ham muốn cái gì cả hết, chỉ còn tìm lấy cái sự giải thoát sanh, lão, bệnh, tử.
Cho nên tâm ta niệm Phật thì ta cũng phải như Phật vậy, không có ham muốn gì hết, bỏ xuống hết giống như Phật.
Muốn giống được như Phật ta nên trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:
“Các pháp thế gian là vô thường, là khổ, ta không nên tham muốn nó mà phải từ bỏ, xa lánh nó, đừng có bén mảng đến những pháp thế gian, nó là khổ!”
Đó là chúng ta dùng cái câu pháp hướng như vậy. Thầy xin nhắc lại để chúng ta nhớ lại cái câu pháp hướng cho rõ:
“Các pháp thế gian là pháp vô thường, là khổ, ta không nên tham muốn, hãy từ bỏ, hãy xa lánh cái lòng tham muốn đó đi!”
2. TÂM PHẬT KHÔNG THAM ĐẮM THẾ GIAN
(23:11) 2. Tâm Phật không tham đắm một vật gì ở trong thế gian. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không tham đắm một vật gì ở trong thế gian.
Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm Như Lý Tác Ý:
“Các pháp thế gian có sự cám dỗ và sự lôi cuốn, ta không nên tham đắm, vì tham đắm là khổ và làm nguy hiểm cho mình, là tai họa, ta hãy từ khước, từ bỏ và xa lánh nó!”
3. TÂM PHẬT KHÔNG SÂN
(23:53) 3. Tâm Phật không sân. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không sân hận đối với một ai.
Ta nên trạch pháp câu này để thường nhắc nhở tâm ta, như cái lý giải thoát mà tác ý ra:
“Sân hận là pháp khổ đau, làm cho mình khổ mà còn khiến cho người khác khổ. Ta hãy dứt bỏ không được sân hận dù bất cứ với một ai hết!”
Đó thì, quý thầy phải nhớ là lúc nào mình cũng như cái lý này mà tác cái ý ra để nhắc nhở cái tâm của mình không có còn sân hận. Vì sân hận là một cái pháp rất là ác, nó làm cho khổ mình và khổ người, người mà lấy tâm niệm Phật thì không để cho tâm mình sân hận.
Câu 2:
“Sân hận là một pháp rất ác, phải dứt bỏ ngay, không được lưu lại ở trong tâm ta một chút nào!”
Muốn được như vậy thì hằng ngày lúc nào rảnh rang chúng ta cũng phải như cái lý mà tác ý nó, để vạch mặt nó, cho biết nó là một cái pháp rất ác mà chúng ta cố gắng để mà xa lìa nó.
4. TÂM PHẬT KHÔNG CÓ NGHI NGỜ
(25:19) 4. Tâm Phật không có nghi ngờ. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không nghi ngờ ai cả.
Vì nghi ngờ là một tánh xấu ác làm cho tâm ta bất an, làm cho ta nghi kỵ đối với người khác, không có thân tình, làm cho người khác cũng đau khổ.
Muốn được vậy, ta trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng, hằng ngày như cái lý mà tác ý ra để dứt bỏ cái tâm nghi:
Câu pháp hướng đây:
“Nghi là một ác pháp làm khổ mình, khổ người. Từ đây ta phải dứt bỏ, ta phải từ giã, lìa xa tất cả những gì nghi nan, nghi ngờ người khác. Cái lòng nghi hãy đi đi, đừng ở trong ta nữa!”
Khi mà ta trạch pháp cái câu này rồi thì chúng ta cứ nhớ nhắc.
Vì cái tâm nghi kỵ, vì cái tâm nghi ngờ thấy cái người nào mà hơi có cái vẻ sanh nghi thì làm chúng ta phải bận tâm, hết sức bận tâm, là phải nhìn ngó họ, phải xem xét họ, rồi theo dõi họ bằng cách này bằng cách kia, cho nên ta rất bận tâm. Vì vậy nó làm cho chúng ta rất khổ. Rồi cái người khác mà nhận ra được mình mà theo dõi họ như vậy đó thì họ sanh ra ghét và không ưa mình.
Cho nên đối với ta thì phải hiểu rõ cái tâm nghi đã làm cho mình rất khổ là phải cứ theo dõi người khác, phải để ý người khác. Rồi người khác mà hiểu được mình theo dõi họ như vậy thì họ sanh ra ghét, họ sanh ra thù hận, rồi họ đâm ra tìm cách nói xấu mình, hoặc là họ tìm cách này cách khác để hại mình.
Vì thế mà chúng ta muốn cho cái tâm nghi này nó không có ở trong mình nữa thì hằng ngày chúng ta hãy trạch những cái câu mà hồi nãy Thầy đã dạy ở trên đó, thường phải nhắc cho nó.
Cho nên ai làm gì thì chúng ta chẳng để ý, chẳng nghi ngờ ai hết. Ai làm ác thì họ chịu lấy, ai làm thiện thì họ nhờ, chớ chúng ta chẳng nghi họ là trộm cắp, hay nghi họ nói xấu mình, hay nghi họ thế này thế kia. Vì cái nghi nó làm cho chúng ta rất khổ tâm, và cứ phải để ý người khác nó rất mệt.
Cho nên chúng ta biết nó là tạo cho chúng ta khổ thì chúng ta hãy lấy câu đó - lấy cái tâm niệm Phật để mà diệt trừ cái tâm nghi. Vì ông Phật, tâm Phật không bao giờ có nghi ngờ ai hết, và mình lấy tâm mình niệm Phật thì mình cũng xả bỏ, cũng diệt trừ, cũng dứt đoạn cái tâm nghi, đừng có để nó trong lòng của mình. Đó, có như vậy được thì chúng ta mới có được an vui, mới có được hạnh phúc.
5. TÂM PHẬT KHÔNG TỊ HIỀM
(28:44) Bây giờ về cái phần:
5. Tâm Phật không tị hiềm. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không tị hiềm ai hết.
“Tị hiềm là một tánh xấu ác làm khổ mình, khổ người, ta hãy dứt bỏ, xa lánh, từ khước, viễn ly, đừng để nó bén mảng ở trong tâm ta!”
Đó, thì chúng ta cũng phải hiểu cái tâm mà tị hiềm: Tị là mình ganh tị, hiềm là mình hiềm hận. Ganh tị là mình thấy người ta hơn mình thì mình sanh cái lòng ganh tị, mình không muốn họ hơn mình.
Thấy họ giàu hơn mình thì mình sanh cái lòng ganh tị với họ, không có muốn cho họ hơn mình. Thấy họ học giỏi hơn mình, mình cũng sanh cái lòng ganh tị, không có muốn ai học giỏi hơn mình. Thấy họ hơi tu giỏi hơn mình thì mình cũng đâm ra ghét họ, rồi mình tìm cách nói xấu hay hoặc phá họ, không có để cho họ yên ổn tu hành.
Từ đó chúng ta thấy cái lòng tị hiềm nó tạo cho chúng ta nhiều cái tánh xấu, cái tánh ác ở trong đó, nó làm cho mình bất an mà người khác cũng không an. Do cái tánh đó như vậy, nó làm cho mình càng ngày càng lui chớ không có tiến ở trên con đường tu tập.
Do biết thấy được cái lòng tị hiềm là cái lòng quá xấu như vậy thì chúng ta phải cố gắng lấy cái tâm của mình mà niệm Phật, cũng giống như Phật, không có tị hiềm ai nữa hết, bỏ xuống.
Vì ai hơn thì mình mừng, ai tu tốt thì mình mừng, ai làm giàu thì mình mừng, mình mừng mình vui theo, mình hoan hỷ với họ, chớ mình không có ganh ghét họ, mình không có nói xấu họ bằng cách này hoặc bằng cách khác.
Cho nên cái lòng tị hiềm là cái lòng rất là tệ hại, do vì vậy mà chúng ta phải cố gắng mà xa lánh nó, từ giã nó, từ khước nó.
(31:05) Muốn được vậy ta hãy trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng chặt đứt nó:
Chặt đứt cái lòng tị hiềm.
Thường thì hằng ngày chúng ta ngồi thẳng lưng kiết già, đặt cái niệm tị hiềm trước mắt, rồi đặt cái pháp hướng, rồi chúng ta dùng cái pháp quán, chúng ta suy tư: Cái lòng tị hiềm của mình nó đưa mình đi đến những cái nỗi khổ nào, mình ganh ghét họ như thế nào, mình thấy họ hơn mình, mình ganh ghét họ làm sao, rồi nó làm cho mình khổ đau như thế nào, thì mình quán xét cho thấu suốt được cái lòng tị hiềm của mình, từng đó mình thấy nó đem đến bao nhiêu sự khổ đau cho chính mình.
Rồi cũng từng hiểu biết như vậy đó, mình mới dùng cái pháp hướng, một cái câu để mình trạch ra, để mình đuổi nó đi, mình đừng cho nó ở trong tâm của mình nữa, mình xem nó như một cái vật đồ bỏ, mình đừng có để nó ở đó. Cho nên cái câu trạch pháp này quý thầy nhớ mà ghi chép.
Ngày xưa khi mà Đề Bà Đạt Đa thấy Đức Phật có một cái giáo đoàn, được cái uy tín, các nhà vua đều là rất kính nể Đức Phật, thì ông sanh ra cái tâm tị hiềm, do đó ông tìm mọi cách chia cái giáo đoàn của Phật ra, rồi ông đặt ra những cái giới luật cho nó có cái vẻ sống hay hơn Phật, sống khổ hạnh hơn Phật, để làm cho hơn Phật.
Và đồng thời thì ông quyến dụ được nhà vua A Xà Thế, nhờ nhà vua A Xà Thế đó, họ cúng dường và hỗ trợ ông, cho nên ông lợi dụng cái lòng tin của một nhà vua, rồi ông tìm mọi cách để mà hại Phật.
Đó là cái lòng tị hiềm của con người ghê gớm. Ông lăn đá làm cho Phật phải chảy máu, ông dùng voi say để mà giết Phật, ông dùng mọi cách để mà hại Phật. Đó là cái lòng tị hiềm, cái lòng ganh ghét. Cái lòng tị hiềm của con người ghê gớm lắm.
Cho nên ở đây, một cái người mà tu theo đạo Phật thì chúng ta biết rằng Đức Phật ngày xưa không có bao giờ mà có tị hiềm. Đối với lục sư ngoại đạo, dù là người ta tu như thế nào thì Đức Phật cũng không có chỉ trích, chê bai người ta hết, tức là không có lòng tị hiềm người ta.
(33:43) Mà những cái ngoại đạo đôi khi đến hỏi Phật, như một cái vị khổ hạnh tu theo cái hạnh của con bò và một vị tu theo cái hạnh của con chó mà đến hỏi Phật, hỏi ba lần, Phật nói: “Đừng hỏi ta!”
Nghĩa là nếu mà Ta nói ra thì các ngươi sẽ khổ sở và nghĩ rằng Ta là tị hiềm với ngươi, hay hoặc là Ta sẽ nói xấu mấy ngươi, nhưng mà Ta nói là một cái sự thật, cho nên đừng có hỏi. Thôi thôi đừng có hỏi Ta! Cho nên hầu hết là Phật từ chối.
Nhưng các vị đó có ý muốn hỏi Phật, như mình tu những cái hạnh như vậy là sau này mình sẽ thú hướng, sẽ sinh đi về đâu, sẽ được làm cái gì? Thì Đức Phật buộc lòng mà nói ra một cái sự thật, chớ không phải là cái lòng tị hiềm muốn bài bác cái pháp của người ta, muốn nói xấu cái pháp người ta, nhưng tại vì cái pháp đó nó sẽ đưa người ta đi đến cái chỗ không giải thoát.
Cũng như bây giờ đó, quý thầy cũng thấy rằng khi mà Thầy hiểu biết được các pháp mà hiện bây giờ người ta đang gọi là Phật pháp người ta tu đó, người ta cứ ngỡ tưởng nó là sẽ đưa họ đi đến giải thoát, nhưng mà Thầy hiểu rằng nó sẽ không có đi đến giải thoát.
Cho nên từ lâu Thầy cứ nghĩ rằng mình sẽ núp sau lưng Hòa thượng để mình giúp đỡ cho những người tu đúng theo cái đường lối của đạo Phật, để cho họ đạt được cái sự cứu cánh giải thoát. Nhưng không có đủ cái nhân duyên mà mình làm như vậy.
Vì vậy bây giờ mà Thầy nói thẳng ra là những cái pháp mà người ta tu nó không có đưa họ đi đến cái cứu cánh giải thoát, mà nó đưa đi đến cái chỗ sai lệch, nó làm cho họ uổng cái cuộc đời, vì họ đang sống ở trong cái dục lạc của thế gian thì làm sao họ ly được dục, ly ác pháp được!
Cho nên Thầy nói ra không phải có nghĩa là ganh tị với họ trên cái danh lợi, mà nói ra để biết được cái đúng, cái sai của đạo Phật để giúp cho họ sáng suốt mà họ thấy được cái đường đi, cái cách thức tu tập để họ được giải thoát.
Ai tu cũng muốn được giải thoát, nhưng cuối cùng thì uổng phí một cuộc đời, cho đến ngày cuối cùng khi mà bỏ thân này phải chịu đau khổ dằn vặt vô cùng vô tận. Nhìn trước cái sự đau khổ đó, là một vị tu sĩ thì nhìn các vị tu sĩ mà đau khổ như vậy Thầy đâu có nỡ tâm.
(36:15) Cho nên nói ra không có nghĩa là tị hiềm với họ, ganh ghét với họ mà nói bài bác họ, mà nói ra để biết đâu là sự thật, đâu là cái pháp đúng của Phật, đâu là cái pháp không đúng của Phật, để giúp cho người ta tu hành.
Cũng như Đức Phật nói ra cho hai vị khổ hạnh tu theo hạnh của một con bò, một con chó, thì hỏi Đức Phật: “Vậy chớ tu như vậy thì sẽ được như thế nào, thú hướng được như thế nào?” Thì Đức Phật nói bây giờ mình sống giống như - mình ngủ, mình nằm, mình ăn, mình làm giống như một con chó, thì sau khi mình chết đi thì mình cũng thành con chó. Rồi mình sống, mình đi, mình ăn, mình nằm, mình ngủ cũng như con bò thì mình sẽ chết đi thì mình cũng giống như con bò. Đó là một cái sự hiển nhiên.
Đó là những cái hạnh, tưởng là mình làm cái hạnh đó thì mình sẽ sanh được cõi trời, sanh được cõi sung sướng hơn, nhưng mà không ngờ thì nó lại là đi vào trong một cái thú hướng quá là đau khổ.
Cho nên hai cái người này nghe xong thì khóc, khóc lên, thì Đức Phật nói: Tại các ngươi hỏi chớ Ta không có bao giờ Ta muốn nói cái điều này! Ta đâu có muốn nói cái điều này! Tại vì các ngươi hỏi, vì vậy mà Ta thấy như thế nào, hiểu như thế nào thì Ta nói như thế nấy để cho các ngươi biết mà các ngươi sửa lại cho nó đúng.
Cũng như bây giờ mình làm một cái điều thiện thì nó sẽ đến những cái thú hướng nó thiện, mà mình làm một điều ác thì thú hướng mình sẽ đi vào cái cảnh ác, cảnh khổ. Đó là cái hướng của mình. Một cái cây nó nghiêng về cái hướng nào thì cái bóng nó phải ngã về cái hướng nấy chớ làm sao mà ngã cái hướng khác được? Đó là như vậy.
Cho nên ở đây nói cái chỗ này ra thì không phải là cái lòng tị hiềm mà là cái lòng tốt của Phật. Còn như Đề Bà Đạt Đa đó là tị hiềm, tìm mọi cách để mà hại Phật, để mà giết Phật, để cho mình đạt được cái uy tín, mình làm hơn Phật.
Cũng như Thầy thì các thầy biết rằng Thầy chỉ cần ẩn một bên sau lưng của Hòa thượng để giúp cho Hòa thượng chấn hưng thiền Phật giáo và thiền Việt Nam, thiền Trúc Lâm, để giúp cho những người tu hành làm chủ được sanh tử một cách rất là tự tại, để nói lên được cái đường lối và cái sự trùng hưng, chấn hưng Phật giáo của Hòa thượng, của Thiền Tông Việt Nam của Hòa thượng, để làm sáng tỏ con đường Phật giáo Việt Nam do cái công của Hòa thượng.
Còn riêng Thầy thì Thầy cũng chẳng cần cho ai biết Thầy là một cái người gì hết, Thầy chỉ là một đệ tử của Hòa thượng, Thầy chỉ giúp Hòa thượng mà thôi.
(39:16) Đó, quý thầy thấy cái tâm niệm của Thầy, thì như vậy có phải là nói lên cái giáo án này là chỉ cái xấu người ta không, có lòng tị hiềm với người ta không? Tị hiềm người ta để làm gì? Khi mà nói lên để cho người ta biết điều này điều kia thì Thầy đã từ giã danh và lợi để đi vào một cái nơi xa vắng, yên tịnh để ẩn bóng rồi, còn đâu danh mà còn đâu lợi nữa, còn đâu có cái sự cung kính, cúng dường, còn đâu có sự đón tiếp rầm rộ của mọi người?
Đó thì quý thầy hiểu như vậy thì mới biết rằng một cái người mà lấy tâm niệm Phật thì đâu còn là cái tâm tị hiềm mà là cái tâm thương yêu, cái tâm muốn cho mọi người hiểu rõ được Phật pháp mà tu theo Phật pháp để được giải thoát hoàn toàn.
Bây giờ chúng ta trạch thêm một cái câu nữa, một cái pháp hướng nữa để thường xuyên nhắc nhở, vì cái lòng tị hiềm rất là ác. Như Đề Bà Đạt Đa chúng ta cũng thấy rất là ác, tìm mọi cách mà hại Phật, thì chúng ta biết rằng cái tâm tị hiềm của mình nếu có thì chắc chắn rằng mình cũng tìm mọi cách, nếu là mình không có đủ cái sức hại người thì mình cũng tìm cách nói xấu người.
Hầu hết là cái con người phàm phu mà ghét người, tị hiềm người khác thì tìm cách nói xấu người khác, hạ người ta bằng cái cách nói xấu người khác, làm những cái điều rất là tệ ác.
Cho nên ở đây chúng ta phải trạch pháp những cái câu để mà chúng ta nhắc nhở cái tâm của mình để xa lìa cái tâm tị hiềm, để chúng ta lấy tâm niệm Phật thì không bao giờ còn cái tâm tị hiềm ở trong tâm ta nữa. Mà muốn được vậy thì chúng ta phải trạch pháp ra:
“Tị hiềm là một tâm rất ác, nó luôn luôn tìm cách để hại người, tìm cách để nói xấu người, nhưng cũng chính nó đã làm khổ cho ta và cũng đưa ta đến vào những thú hướng để đọa vào ác đạo để sanh làm ác thú hoặc là những kẻ hung dữ, mà không phải ở trong một kiếp này mà nó nhiều kiếp, nhiều đời.
Rõ biết như vậy, ta phải luôn luôn cảnh giác và từ giã, xa lìa, viễn ly cái tâm tị hiềm, không để cho nó ở trong tâm ta nữa!”
Và khi mà trạch cái câu này rồi thì hằng đêm, hằng ngày chúng ta phải nhắc, vì cái tâm tị hiềm rất độc, nó hại người mà nó hại mình sanh vào ở trong cái cõi địa ngục, nó sanh vào ở trong những cái - sanh ra làm những con vật ác độc.
Cho nên do vì vậy đó mà chúng ta phải cảnh giác và phải siêng năng tu tập để cho nó thấm nhuần cái lời này, cái câu này, để cho nó thấm nhuần cái lý này mà tâm ta không bao giờ tị hiềm, không bao giờ tranh hơn thua ai hết, không bao giờ nghĩ làm khổ người khác. Do cái chỗ tu tập đó thì chúng ta mới được giải thoát.
(42:41) (Mất tiếng) …tị hiềm, còn mình là người tu, là đệ tử của Phật thì mình phải dứt bỏ nó như chiếc giày rách, coi nó như cái đồ bỏ, không còn xài được nữa. Thì như vậy, hằng ngày chúng ta thường nhắc tâm của mình ném bỏ như ném bỏ chiếc giày rách.
Vì vậy một ngày nào đó cái tri kiến giải thoát của chúng ta nương vào cái trạch pháp này mà nó phóng ra cái tri kiến giải thoát, nó thấu suốt được lý tị hiềm đưa đến cho mình khổ, người khác khổ như thế nào, từ đó nó quét sạch cái lậu hoặc ở trong tâm của chúng ta bằng cái Định Vô Lậu.
Ở đây thì chúng ta mới có thân, thọ niệm Phật rồi bây giờ mới có tâm niệm Phật, nhưng mà nó là những cái pháp đầu tiên mà chúng ta tu tập bằng những cái pháp hướng để sau đó chúng ta có những cái pháp quán, do từ cái pháp hướng này mà nó sanh ra những cái pháp quán rất là tuyệt vời.
Nếu chúng ta chuyên tâm tu hành, trí tuệ chúng ta càng ngày càng thông minh chớ không phải là thiếu thông minh, không phải nhai lại cái bã mía của người khác mà nhai đi nhai lại có một số hiểu biết đó, mà chính cái tri kiến giải thoát của chúng ta nhờ những cái pháp hướng này mà nó phát triển ra, nó sẽ có những cái mà người ta không ngờ được.
Cũng như bây giờ hôm nay mà các con đã thấy Thầy nói ra bằng những cái kinh nghiệm bản thân của Thầy, bằng những cái trí tuệ tri kiến giải thoát của Thầy, chớ không có vay mượn ở trong kinh sách của những người khác mà ở trong kinh sách nói ra, mà chính do mình được giải thoát như thế nào mình sẽ nói ra theo cái sự giải thoát của mình như vậy.
Do đó cái chỗ đó gọi là tri kiến giải thoát. Cái chỗ sai, chỗ đúng, mà tu được hay là tu không được, mình nói ra qua cái sự của mình chớ không phải vay mượn của kẻ khác, nói lại bằng cái của kẻ khác.
Cho nên do cái sự hiểu biết của các con bây giờ cũng là cái hiểu biết của người khác chớ không phải là cái hiểu biết của các con. Tại sao trong cái thời gian tu hành suốt 5 năm, 10 năm nay mà các con không có kinh nghiệm nào của mình để nói ra mà cứ nói cái kinh nghiệm của kẻ khác? Thì như vậy mình chẳng có gì hết. Mình tu mình chẳng biết gì hết.
Chớ đâu phải các con không tu, nhưng mà tu tại sao mình không phát triển được cái tri kiến của mình để mình nói những cái pháp hành của mình ra, mà bây giờ cứ nghe người ta nói cái pháp hành của người ta không, còn riêng mình mình không biết cái gì hết.
Tức là mình không phát triển được, mình không khai triển và triển khai được cái trí tuệ của mình, cho nên mình không thấy được cái pháp hành của mình đúng đắn, để đưa cho mình đi đến giải thoát. Bây giờ Thầy dạy cái gì các con cứ theo Thầy mà nói thôi, hoàn toàn các con không có cái gì mới của các con hết.
Mà bây giờ các con biết khai triển nó, đặt cái pháp hướng này khai triển nó, thì từng đó các con có những cái trí tuệ của mình, cái trí tuệ vô sư của mình, nó có những cái thông hiểu của nó, nó có những cái kinh nghiệm riêng của nó, nó nói ra, nó làm người ta thấy: “À như vậy là đúng là của người này chớ không phải là của người khác được.”
Đó thì như vậy các con thấy, ở đây cái mục đích là triển khai cái trí tuệ, cái thông minh của các con ra bằng những cái pháp hướng này, chớ không phải bằng nhai lại cái bã mía của người khác.
6. TÂM PHẬT KHÔNG NGÃ MẠN
(45:40) 6. Tâm Phật không ngã mạn. Tâm ta niệm Phật cũng không bao giờ có ngã mạn, cống cao, kiêu căng, tự đắc, vì cống cao, kiêu căng, tự đắc là tánh xấu và ác.
Muốn xa lìa tánh ngã mạn, kiêu căng, tự đắc, ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để luôn nhắc nhở và diệt trừ tánh này:
“Ngã mạn, cống cao là một trong năm pháp ác của Ngũ Triền Cái, ta phải dứt bỏ tánh này. Vì cuộc sống con người do nhân quả hợp lập thành, nên có người xấu, kẻ tốt, người sang, kẻ hèn, chớ đâu phải ta hơn ai! Ta như mọi người, bình đẳng như mọi người, chỉ có kẻ ngu si mới không thấy nhân quả, cho mình hơn người. Sự thật chẳng ai hơn ai.”
Nghĩa là chúng ta sống ở trong cái nhân quả, do cái nhân quả lành, nhân quả ác mà người ta thấy có sự tốt xấu, có sự hơn kém nhau: Có người thông minh, có người ngu tối, rồi cái người thông minh lại cho minh là tự đắc, tự cao, ngã mạn, nhưng mà sự thật đó là trong cái vòng nhân quả.
Bây giờ cái người này ngu, nhưng mà kiếp này người ta ngu, kiếp sau người ta còn ngu không? Còn mình bây giờ kiếp này mình thông minh nè, mình nào là ông tiến sĩ, nào là bác học nè, mình thông minh nè, mình giỏi nè, mình đọc qua mình thuộc liền nè, nhưng mà kiếp sau mình có được như vậy nữa không?
Bây giờ thì mình cống cao, ngã mạn, mình coi người ta không ra gì hết, nhưng mà không ngờ đó là cái nhân quả.
Cũng như bây giờ mình có được cái nhan sắc đẹp đẽ, thấy một cái người mặt rỗ, rồi mũi tẹt, rồi môi họ thì hô hay miệng họ hô, mình cười, mình nói họ, mình coi họ là thường mình này kia, mình cho rằng mình là ngon, là đẹp, là tốt, còn họ là xấu.
Thì mình đâu biết đó là cái nhân quả của người ta phải trả, còn mình được cái nhân quả nào đó mà mình bây giờ được cái tướng mới tốt một chút thôi, mình hơn họ ở chỗ nào? Có phải là mình có hơn cái gì đâu, mà đó chỉ là nhân quả mà thôi, có gì đâu mà mình phải cống cao, ngã mạn!
Cũng như bây giờ mình thấy sao mình học hay, mình đọc cái mình thuộc, còn người đó đọc hoài không thuộc, đó cũng là nhân quả.
(48:01) Cho nên cái nẻo đi của nhân quả mà chúng ta không hiểu biết, do đó mà chúng ta sanh ra ngã mạn, cống cao.
Còn nếu mà chúng ta hiểu biết cái nhân quả thì chẳng qua là chúng ta thấy mình chỉ bị chi phối ở trong nhân quả chớ mình chẳng có hơn ai hết. Là con người của mình với một con vật hiện giờ là một con kiến đang bò ở trên mặt nền nhà này, chúng ta thấy chúng ta là con người, còn con kiến là con kiến, nó nhỏ mọn, nó không đáng, nó không bằng mình chút nào, thì ngay cả mình thấy con kiến với mình, mình thấy mình hơn con kiến thì đó là ngã mạn, cống cao.
Mà mình đâu biết rằng cái đó là cái nhân quả, vì được những cái phước nào đó mà mình làm người, còn người ta thiếu những cái phước nào đó mà người ta làm con kiến, con trùng. Mình phải thấy cái nhân quả, cho nên mình đối với con kiến mình có hơn nào con kiến ở đâu? Do cái sự nhân quả mà thấu suốt như vậy đó thì chúng ta đâu có nỡ coi thường một con kiến mà giết nó mà không biết thương!
Đó, như vậy là cái đường đi của nhân quả hầu hết là các con chưa có thông suốt, chưa có thấy rõ, cho nên chúng ta chưa có giải thoát được tâm mình.
Cũng như tại sao mà có người lại thương mình, lo lắng cho mình thế này thế khác, họ hy sinh cả đời họ cho mình, nhưng cũng có người làm cho mình mãi mãi khổ đau, nhưng cũng có người thì chửi mắng mình, cũng có người thì làm thế này thế khác. Thế mà mình không thấy nhân quả, cứ theo nhân quả đó mà sanh ra buồn khổ, giận hờn, rồi tạo thêm những nhân quả mới, làm cho cái đời của mình càng lúc càng đi vào cái sự khổ đau.
Còn người ta thấy nhân quả, người ta ngồi, người ta nghe trong cái nghịch của nhân quả thì người ta nghe cũng giải thoát, mà người ta nghe trong cái thuận nhân quả thì người ta cũng không thích thú. Còn mình nghe cái thuận thì thôi mê man lắm, thích lắm, mà nghe cái nghịch của nhân quả thì thôi khóc lóc sướt mướt, không có ai mà chịu nổi.
Đó cho nên ở đây Thầy thường dạy các con cái nhân quả mà không thấy cái nhân quả. Muốn nói đến cái tâm Phật không có ngã mạn tức là nói đến cái sự tâm bình đẳng, không có thấy hơn thua người khác, cho nên nó không có ngã mạn.
Cho nên ông Phật nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.” Câu nói đó rất là bình đẳng. Người nào cũng sẽ tu làm Phật được hết, mà tất cả chúng sanh chớ không phải là chỉ có loài người chúng ta không.
Bởi vì luật nhân quả, bữa nay chúng ta mang thân kiến, ngày mai chúng ta mang thân người, bữa nay chúng ta mang thân người, ngày mai chúng ta mang thân chúng sanh, có sai khác chút nào đâu!
Cũng như bây giờ trước mặt đây, các con ngồi đây, trước mặt Thầy là mọi người đều là người. Nhưng mà khi mà bỏ thân này rồi, chắc chắn các con còn làm người được không hay hoặc làm con trùng, con dế, con kiến? Khó lắm!
Bởi vậy Phật nói được thân người là khó, nhưng các con cứ nghĩ rằng mình mất thân này rồi mình cũng sẽ được thân người nữa. Cho nên vì vậy mình hễ hơi hơi, mình thấy mình có một chút gì hơn người hơi hơi cái thì ngã mạn, cống cao. Tu hơi chưa có ra gì, hơi hơi à, chỉ được hơi hơi là đã thấy có cái sự cống cao, ngã mạn rồi.
(51:11) Bây giờ mình nghe Thầy khen mình tu khá, bỗng dưng bữa nào Thầy khen người khác là thấy mình ganh tị rồi, mình chịu không nổi được rồi. Mình muốn luôn luôn lúc nào cũng có mình mình là hơn thôi, còn nếu mà khen ai nữa là mình không chịu, thì do đó cũng là cái tâm ngã mạn, cống cao, chỉ muốn mình, tự mình mà thôi.
Ví dụ như Thầy khen một người nào đó khéo tay, khéo tu, càng ngày càng tiến bộ, thì lúc bấy giờ đó mình hiu hiu rồi, mình thấy hơn mọi người rồi, đó là ngã mạn rồi. Còn bây giờ bắt đầu khen cái người nào khác hôm nay tu hơn rồi, bắt đầu sanh cái tâm, nghe rồi không chịu trong người của mình, khó rồi, không ưa rồi, thấy cái người đó mà hơn mình rồi thì mình không có chấp nhận rồi, thì như vậy tự mình đã là có cái ngã mạn.
Mà mình tu từ nào đến giờ, cái ngã mạn của mình mình có xả chưa? Mình chưa xả. Thì vì vậy cho nên mình phải dùng cái trạch pháp, cái câu để cho mình nhắc đi, nhắc lại. Thầy xin nhắc lại cái câu đó để cho các con nhớ mà ghi lại để mà nhắc, để mà phá cái tâm đó.
Vì chúng ta là vốn con người từ cái nhân quả sanh ra, chết đi thì chúng ta cũng trở về cái nhân quả, thế mà chúng ta không thấy được đường đi của nhân quả mà cứ nuôi ngã mạn của mình, cống cao của mình, luôn luôn lúc nào cũng nuôi nó ở trong lòng. Xả nó đi, bỏ nó đi, đừng có nuôi lớn nó nữa!
Chúng ta chẳng ra gì hết, tất cả mọi người đều là bình đẳng như nhau. Người ta chửi mình, người ta mắng mình là nhân quả chớ không phải gì hết, cho nên chúng ta biết được nhân quả thì chúng ta chẳng có buồn khổ gì cả hết.
Đây là cái câu trạch pháp đây:
“Ngã mạn, cống cao là một trong năm pháp ác của Ngũ Triền Cái, ta phải dứt bỏ tánh này. Vì cuộc sống con người do nhân quả lập thành, nên có người xấu kẻ tốt, người sang kẻ hèn, chớ đâu phải ta hơn ai! Ta như mọi người, bình đẳng như mọi người. Chỉ có kẻ ngu si mới không thấy nhân quả, cho mình hơn người, sự thật chẳng ai hơn ai cả.”
Đó là cái câu như vậy để trạch pháp nhắc cho chúng ta biết, chúng ta phải sống trong nhân quả chứ đừng có tự cao, tự đại, kiêu căng, ngã mạn của mình nữa. Đó là câu thứ sáu: Tâm ta niệm Phật mà phá vỡ tâm ngã mạn.
7. TÂM PHẬT KHÔNG KHOE KHOANG
(53:27) Câu thứ 7:
7. Tâm Phật không khoe khoang. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, phải giống như Phật, không khoe khoang.
Khoe khoang là bản chất của ngã mạn, kiêu căng. Mọi pháp trên thế gian này đều do nhân quả chi phối, diễn biến kẻ hơn, người kém, kẻ hay, người giỏi đều do nhân quả, không có ai hơn ai cả, có cái gì mà phải khoe khoang?
Muốn dứt bỏ tánh khoe khoang, ta trạch pháp câu này để hằng ngày Như Lý Tác Ý:
Đây là cái câu trạch pháp để hằng ngày chúng ta tu tập đây:
“Khoe khoang là tánh xấu ác làm cho người khác tủi thân, buồn khổ. Ta hãy dứt trừ, xa lìa, không bao giờ còn cái tánh khoe khoang nữa!”
Thí dụ như bây giờ đó, mình được cái vật gì, cái quần áo hay hoặc là cái thứ gì tốt đẹp thì mình đem mình khoe người khác: “Tôi được cái này”, thì cái người khác người ta không được, người ta cũng ham muốn như vậy, làm cho người ta buồn tủi cái thân người ta. Người ta nghĩ rằng cái thân mình nghèo, làm sao mình có được cái vật này?
Thí dụ như các con giờ có được cái chiếc nhẫn hột xoàn đi, bây giờ các con đem ra: “Ba tui mới cho tui được chiếc nhẫn hột xoàn nè, coi hột xoàn rất là đẹp!” Thì cái người kia họ nghèo, họ thấy họ buồn tủi, họ thấy họ cũng muốn cái vật đó chớ, nhưng mà làm gì họ có được? Cho nên họ tủi thân họ, họ khổ sở. Cho nên chúng ta đừng có khoe khoang cái vật gì của chúng ta, nhưng mà cái khoe khoang đó có cái tai hại rất là tai hại.
Thầy nhớ trong cái bộ Tây Du, trong cái lúc mà Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh thì được Đức Phật Quan Âm cho cái y có hào quang chiếu sáng. Cho nên trong khi đến cái ngôi chùa của người ta, thầy trò Tam Tạng đến cái chùa đó mà ở, ngủ, thì Tôn Hành Giả thấy mấy cái y của mấy ông thầy này đều là xấu không có bằng y thầy của mình, anh ta mới xách ra khoe:
“Đây cái y của thầy tui nè! Mấy ông coi nè, hào quang chiếu sáng, còn cái y của mấy ông như đồ bỏ vậy, mà mấy ông nói của mấy ông tốt. Tốt bằng khỉ gì của tui! Thầy tui có cái y này còn đẹp hơn của mấy ông nhiều!”
(55:38) Do đó ổng khoe cái y của thầy ổng tốt quá. Thì cái ông thầy mà trụ trì ở trong chùa đó, ổng thấy cái y của ông Tam Tạng: “Trời ơi! Từ thuở giờ mình có cả trăm cái y mà đâu có được như cái y này! Y này tốt quá, cái y này là thứ vô giá rồi!” Cho nên ổng mới nói hỏi xin Tam Tạng để mang về. Ổng vô trong phòng ổng xem cái y này ổng thích quá, ổng mới trải ra cái y.
Không ngờ là có một con quỷ ở đâu gần bên cái hang đó, bên chùa đó, nó lại nhìn thấy cái y này nó cũng động lòng tham nó, cho nên nó vô đó hóa gió cái nó hốt cái y này nó đi. Ông thầy này cũng tham, tính mình lấy cái y này, mình đốt cái phòng của ông Tam Tạng với ba thầy trò của ông Tam Tạng cho tiêu đi mình lấy cái y. Có vật, các con thấy có đồ quý coi nguy hiểm không? Mà tại vì mình khoe đồ quý mình ra cho nên bị chúng thiếu điều giết mình.
Cho nên cái đêm đó thì thay vì con quỷ nó đến nó lấy cái y mất đi, rồi cái ông thầy tưởng là cái y mình còn để ở trong phòng của mình, rồi mới bàn tính với đám đệ tử: “Tối nay mình đốt cho chết thầy trò Tam Tạng để mình lấy cái y cho rồi!”
Nhưng mà khi đốt rồi thì Tôn Hành Giả ổng mới ngồi đó, ổng lên trên cao, ổng ngồi ổng thổi gió cho cháy sạch cái chùa, tại mấy cái thằng này nó tham, thổi cho chết đi cho rồi! Không ngờ thổi cháy cái chùa, nhưng mà cái y thì cũng lấy mất rồi.
Cuối cùng thì mấy ông thầy trò này chạy vô kiếm cái y thì cái y cũng không còn, mà cái chùa thì cháy tiêu, mà con quỷ ở bên đó nó lấy cái y mất. Còn Tôn Hành Giả làm cho chùa người ta tiêu rồi, khoe khoang của làm chùa tiêu rồi, thì cái y mình chúng cũng lấy tiêu rồi, thành ra bây giờ cũng đã mất. Cho nên thầy trò bây giờ cũng mới đi tìm yêu, mới lấy y lại, vất vả và cực khổ, có ngu không?
Chúng ta phải biết rằng cái khoe khoang nó không có hay ho gì hết, mà chúng ta phải nói rằng đây là cái nhân quả, chúng ta có được cũng là do nhân quả mà thôi, mà không có cũng là do nhân quả, có gì mà tủi thân mà phải khóc, mà phải đòi?
Đó, muốn được vậy thì chúng ta phải dùng cái câu trạch pháp này để chúng ta… Tâm chúng ta nó còn yếu lắm, hở có gì là mừng vui là khoe à, khoe ra, mình làm cái gì được hay là mình cũng khoe ra, mình tu được giỏi một chút là mình cũng khoe ra.
Thí dụ như mấy con ngồi được năm tiếng, mười tiếng đồng hồ cũng nói ra, nói ra cho người ta thấy mình ngồi được năm bảy tiếng, cho mình hay hơn họ chơi, đó là cũng khoe ra. Cái đó là những cái chúng ta không có nên nói gì hết. Tất cả những cái mà tu tập là phải dè dặt, cẩn thận.
Mà muốn được vậy thì hằng ngày chúng ta phải trạch pháp mà nhắc đi nhắc lại để từng đó chúng ta bỏ đi, từng đó chúng ta mới dẹp sạch hết đi, nó không còn nữa.
8. TÂM PHẬT KHÔNG PHẪN NỘ
(58:09) Đó. Ở đây là cái phần thứ 8:
8. Tâm Phật không phẫn nộ. Tâm ta niệm phật cũng vậy, phải giống như Phật, không có phẫn nộ.
Phẫn nộ là một cơn giận dữ có thể giết người mà chẳng hề sợ ai hết. Phẫn nộ giống như một con thú dữ hung ác, người có tánh hay phẫn nộ, thú hướng phẫn nộ sẽ sanh ra ác thú, ác cầm, những loài độc dữ. Người phẫn nộ không thể sanh cõi trời được, không thể làm người được, chỉ có sanh vào ác thú và địa ngục mà thôi.
Nghĩa là khi mà cái người mà có cái tâm phẫn nộ là cái thú hướng đó họ không thể nào sanh cõi trời được, cõi người được. Hiện giờ chúng ta là con người, mà mỗi lần chúng ta sân, phẫn nộ dữ tợn đó, cái người mà sân dữ tợn là cái người đó chúng ta phải biết rằng cái thú hướng của họ sẽ sanh vào những cái loài vật hung dữ, những cái loài vật dữ chớ không phải là loài hiền được. Do đó thì chúng ta biết rằng cái phẫn nộ là cái rất là tệ ác, là cái hướng không có tốt cho cái đời sống của chúng ta.
Muốn cho ta không có tánh phẫn nộ, ta phải trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý:
Đây là trạch pháp cái câu đó ra để chúng ta hằng ngày tu tập cho cái tánh phẫn nộ chúng ta không còn nữa. Do đó chúng ta mới có cái thú hướng khác tốt hơn, để không cái hành động mà phẫn nộ đó nó sẽ đưa chúng ta đi vào cái chỗ mà sanh ra loài thú dữ, hoặc là loài độc dữ, hoặc là ở địa ngục khổ đau.
Đây là cái pháp hướng:
“Phẫn nộ là tánh hung ác làm khổ mình, khổ người. Ta hãy dứt bỏ, tránh xa, từ khước, từ đây về sau ta không còn cái tánh phẫn nộ nữa!”
(01:00:10) Đó là mình hướng tâm, mình nhắc nó như vậy để từ đây về sau mình giữ gìn cái tâm của mình không có phẫn nộ nữa.
Và không có phẫn nộ nữa thì tâm ta mới niệm Phật, mới giống như Phật được, nếu mà còn phẫn nộ mà tâm ta niệm Phật thì chắc chắn là không giống Phật. Cho nên muốn tâm mình niệm Phật giống Phật như ở trong Tứ Bất Hoại Tịnh lấy cái Phật giới mà tu tập thì phải làm sao giống như Phật, phải làm sao mà tâm của mình y như tâm Phật.
Mà muốn được vậy thì hằng ngày phải trau dồi, phải rèn luyện, phải tu tập bằng những cái pháp hướng nhắc tâm mình tới lui, bỏ những cái tật xấu, cái pháp ác mà trong tâm mình đã sẵn chứa, đã quen đi nhiều đời, nhiều kiếp.
Do nhân quả đã huân tập trong nhiều đời, nhiều kiếp cho nên bây giờ nó trở thành một cái tánh phẫn nộ rất là dữ tợn. Vì vậy mà muốn bỏ nó cũng không phải trong một ngày, một tháng mà hết, mà phải siêng năng, cần mẫn từ năm này đến năm khác, ngày nào chúng ta cũng dùng cái pháp hướng này đặt trước mặt rồi nhắc tâm mình tới lui để dứt bỏ nó, không còn được để mang ở trong tâm nữa, thì như vậy một ngày nào đó chúng ta sẽ không còn phẫn nộ nữa.
Và không còn phẫn nộ nữa tức là chúng ta hướng về cái hướng thiện, cái hướng tốt, tâm chúng mình sẽ không phẫn nộ nữa là tâm mình sẽ giống như Phật rồi. Mà giống như Phật thì cái thú hướng đó là mình sẽ thành Phật, mình sẽ như là ông Phật, không có khác nữa. Đó là cái hướng mà chúng ta tu tập tốt.
Đến đây thì Thầy sẽ dừng lại. Ngày mai thì chúng ta sẽ tiếp tục học Tứ Bất Hoại Tịnh về cái phần mà tâm chúng ta niệm Phật, Thân, Thọ, Tâm rồi tới Pháp niệm Phật nữa. Khi nào mà hết cái Tâm niệm Phật rồi thì mới tới cái Pháp niệm Phật, chúng ta dùng Pháp niệm Phật.
Bởi vì Phật dạy chúng ta có bốn chỗ niệm Thân, Thọ, Tâm, Pháp bốn cái chỗ này, mà bây giờ chúng ta mới có tu được cái Thân, cái Thọ rồi cái Tâm, nhưng mà cái Tâm chưa hết, nó còn tu nữa, nó còn nhiều cách nữa để tu cho hết cái Tâm niệm Phật rồi mới tới Pháp niệm Phật.
(01:02:19) Khi hết Pháp niệm Phật rồi thì Thầy sẽ dạy tiếp tục các con sẽ tu Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần dường như Thầy đã có dạy rồi, và đồng thời nếu mà đã học rồi thì chúng ta sẽ tu Tứ Niệm Xứ. Mà hễ tu Tứ Niệm Xứ xong rồi thì Thầy sẽ dạy các con tu Tứ Thiền, từ Sơ Thiền đến Bốn Thiền, đến thiền thứ tư, mà hễ tu rồi cái đó thì chúng ta sẽ tiếp tục tu tới Tứ Như Ý Túc, Thầy còn dạy quá nhiều.
Mà mỗi cái bài như bữa nay Thầy giảng cái Tứ Bất Hoại Tịnh, mà chúng ta tu mới có Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật. Rồi chúng ta phải còn có Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Pháp, nhiều quá phải không các con? Rồi Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Tăng nữa. Mà bây giờ Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Phật, mới có Tâm niệm Phật à, còn Pháp niệm Phật nữa, rồi mới có Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Pháp, Thân, Thọ, Tâm, Pháp niệm Tăng.
Như vậy là trong còn có từ đây cho tới hết hạ còn có mấy ngày, chắc chắn là chúng ta sợ không đủ, phải không? Không có đủ. Mà nếu không đủ thì làm sao chúng ta biết tới Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ còn nhiều lắm, Tứ Niệm Xứ rất là nhiều.
Rồi Tứ Thiền phải dạy cặn kẻ cách thức như thế nào để nhập Sơ Thiền, hơi thở ở chỗ nào, rồi xả như thế nào có Tầm diệt Tứ, không Tầm không Tứ như thế nào, rồi cho đến nhập Nhị Thiền, Tam Thiền những cách thức như thế nào. Nó còn quá nhiều, đâu có ít được!
Rồi Tứ Như Ý Túc dạy các con để mà tu tập, để mà thị hiện những cái oai lực, cái thần thông nữa, chớ không lẽ chúng ta tu khơi khơi không đâu, chúng ta còn tập nữa. Như vậy là sợ cái thời gian chúng ta không đủ mà học không có hết các pháp.
Đến đây Thầy ngưng lại để rồi các con còn nghe lại cái băng buổi sáng, và đồng thời thì cũng còn thưa hỏi Thầy một vài điều cần thiết ở trên cái sự tu tập hằng ngày của các con nữa.
3- OAI LỰC VĨ ĐẠI CỦA GIỚI LUẬT, ĐỨC HẠNH
(01:04:29) Bây giờ để Thầy tiếp tục Thầy nói. Trong những năm tháng mà Thầy ở một mình trên Hòn Sơn, Thầy tu tập trên Hòn Sơn, tức là Thầy rèn luyện mình trong sống những cái nơi hoang vu, vắng vẻ.
Mà ở Hòn Sơn, hầu hết là những người mà ở Hòn Sơn thì họ gọi là trên cái đỉnh Hòn Sơn đó là cái Ma Thiên Lãnh, cái đỉnh núi đó gọi là Ma Thiên Lãnh, cái đỉnh hòn đó họ gọi là Ma Thiên Lãnh. Thế mà Thầy đã chấp nhận lên cái nơi mà gọi là Ma Thiên Lãnh để ở trên đó một bóng một hình mà tu hành, trong cái thời gian mà Thầy đã rèn luyện mình cái tâm vô úy, không biết sợ hãi một cái gì.
Nghĩa là có rèn luyện mình, có giữ gìn mình như thế nào, mình mới không sợ. Còn hiện giờ mấy con luôn luôn lúc nào cũng sợ hãi, tại sao vậy? Tại sao Thầy biết sợ hãi, mà tại sao Thầy lại không sợ hãi mà mọi người khác lại sợ hãi?
Có người lên ở trong hai bữa, ba bữa là phải xuống cái Ma Thiên Lãnh, không dám ở trên đó, còn Thầy ở suốt gần cả năm trời mà không có sợ một chút gì hết. Tại sao vậy? Tại vì một con người mà giữ gìn giới luật của Phật nghiêm chỉnh, chẳng hề mà có sợ hãi cái gì cả hết. Tại sao vậy? Tại vì giới luật của Phật nó rất là vi diệu.
Theo Thầy biết, đời sống của một người mà tu theo đạo Phật mà nghiêm chỉnh thì không bao giờ có sợ chết sợ sống gì cả hết. Bởi vì chính nó đã hướng dẫn cho chúng ta ba y một bát, đời sống chúng ta bỏ hết rồi, cuộc sống chúng ta không còn gì nữa rồi, cho nên chúng ta không còn sợ một cái gì nữa hết.
(01:06:16) Cho nên Thầy ở trên Hòn Sơn đã rèn luyện mình sống đúng giới hạnh của Phật, Thầy chẳng bao giờ sợ.
Một con chim biển, nó nhiều con chim biển chớ không phải một con chim biển, mà loại chim biển nó rất lớn, nó lớn cũng bằng con chó và lớn hơn nữa, nó ngồi cao như thế này nè, bự lắm, người ta gọi là chim đại bàng. Thế mà nửa đêm nó bay vào nó đáp ở tại hòn, người nào mà nhát gan là phải sợ hãi. Tiếng hét của nó, tiếng kêu của nó như là tiếng hét của một con vật gì dữ tợn. Thế mà Thầy vẫn thản nhiên khi sống chung với chúng ở trên đỉnh Hòn Sơn như là bạn bè thân thuộc, thì các con biết do cái giới hạnh như thế nào.
Vừa rồi hồi sáng Thầy có nói, trên cái bước đường tu tập của Thầy, do cái giới hạnh của Thầy, trong khi mà Thầy về Trảng Bàng đây mà Thầy nhập thất tu, thì trong cái thời gian mà chiến tranh chưa có kết thúc, tức là từ năm 71 đến 75 thì các con biết chiến tranh nó rất là dữ tợn.
Thế mà giữa một cái khu xóm mà Thầy ở, nửa đêm thì cách mạng về đào hố, đào hầm toàn ở trong xóm đó, kêu là đào hố đào hầm, nằm toàn ở trong xóm đó. Nghĩa là ngoài rào đều đào hầm hết, quân đội của cách mạng nằm đầy hết.
Cho nên người ta nghe đào hầm là họ bắt đầu họ rút họ đi hết, dân ở đó rút đi hết. Thầy thì quyết tâm là nhập thất là không rời khỏi thất, mẹ Thầy với em Thầy cũng phải rút đi, còn riêng Thầy thì ngồi đó mà tu tập.
Vậy mà khi vừa sáng ra thì trận chiến nổi lên, thì hai bên đánh với nhau, súng đạn kinh khủng, nào là máy bay, nào là pháo dồn dập. Xung quanh tất cả cái thất của Thầy ở, nhà cửa họ cháy, lửa lên ngùn ngụt, Thầy thì an nhiên ngồi đó mà giữ tâm tu tập của mình, không hề chút sợ hãi. Thầy nghĩ rằng một người mà giữ gìn giới hạnh của Phật thì chắc chắn là giới luật sẽ hộ trì, không sợ. Các con thấy trong vấn đề vĩ đại thật.
Và cuối cùng thì chiến cuộc nó đi qua, và những đoàn xe tăng của quân đội quốc gia lúc bấy giờ đi đến. Hầu hết là cái số lính mà đi bộ thấy Thầy ngồi trong chong ngóc ở trong thất mà ngồi tu, thì họ bảo rằng Thầy sao mà ngu, mà dại quá vậy? Súng bắn, súng đạn như vậy, máy bay bắn như vậy mà Thầy cứ ngồi đó không sợ!
Rồi nó nói gì nói mặc nó, Thầy ngồi tu thì ngồi tu. Cái tượng Phật ở trước chùa mà hằng ngày mấy con ở trước mà mấy con tu, cái tượng Phật đó Thầy đặt ngồi dưới đất với Thầy, cái tượng nó để ở trên cái tòa sen ngồi dưới đất như vậy, Thầy thì ngồi dưới đất như vậy, Thầy trải cái tấm chiếu Thầy ngồi dưới đất Thầy tu.
(01:09:03) Nghĩa là cái tượng Phật đó với Thầy chỉ một cái gian phòng nhỏ hơn cái khu này có một chút vầy, thế mà Thầy ngồi đó. Rồi những người lính họ đi vào họ thấy, họ la lối, họ nói Thầy không biết chết không biết sống gì hết, súng đạn như vậy! Thầy mặc họ nói gì nói, Thầy cứ ngồi làm thinh tu thôi. Rồi họ bỏ đi luôn luôn. Và cuối cùng thì nhà cửa thiên hạ cháy sạch mà chỗ thất Thầy không cháy!
Đó thì các con thấy. Cái oai lực không phải là ai che chở Thầy hết, mà Thầy biết rằng cái người mà tu giới luật nghiêm chỉnh là sẽ có sự hộ trì đến cái mức độ đó, không ngờ được! Các con biết những cái máy bay trực thăng mà nó bắn rốc két, nó bắn ào ào ào, mà bắn đâu cháy nhà đó hết.
Mà Thầy nói trúc tre hàng rào, nó bắn trúc nó ngã rạp xuống hết, bởi vì dưới đó là hố của cách mạng nó nằm ở dưới đó mà, nó bắn rạp. Rồi nó bỏ bom, rồi pháo nó dập, kinh khủng! Thế mà Thầy vẫn an nhiên, với một thân của mình bằng xương bằng thịt như thế này, đủ sức can đảm mà không hề sợ chết.
Còn các con thì Thầy thấy các con chắc lúc bấy giờ cũng chạy kêu là hổng cẳng, chớ đừng có nói vẫn dám ngồi đó. Còn Thầy thì thản nhiên, chết, mà chết ở trên sự tu hành, vì mình đã phát nguyện là không rời thất, quyết định là không rời thất. Các con thấy cái sự vô úy của Thầy đến cái mức độ xem cái thân mạng này nó nhỏ như lông hồng, như sợi chỉ mành treo chuông.
Nhưng đáng thương mẹ Thầy với em Thầy, nhìn thấy cái khu vực mà bị bắn phá và nhà cửa cháy, họ ở xa họ nhìn, họ khóc lóc, họ đau khổ, còn riêng Thầy rất vững tâm không có gì hết. Nhưng mà cuối cùng thì Thầy không chết.
Cho nên một cái lần sau, lần cuối cùng mà giải phóng thì mẹ Thầy với em Thầy không có nỡ để Thầy ở trong đó nữa, cho nên mới tìm mọi cách để mời Thầy ra khỏi thất, chớ còn cái lần trước Thầy hoàn toàn là Thầy không đi, hoàn toàn không đi.
Thầy thấy rõ ràng là cái oai lực của cái giới hạnh rất là vĩ đại. Cho nên cái cuộc đời tu hành, Thầy nói cái người mà tu như Thầy rồi thì bất kỳ ở đâu cũng no cơm ấm áo hết, không bao giờ đói.
Thậm chí như thế này nè các con thấy. Khi ở trên Hòn Sơn mà mỗi lần leo lên, leo xuống để xin được một số gạo mà sống, xin gạo thì rất dễ, nhưng mà vác lên thì các con biết, vác gạo mà lên núi ăn thì đâu có phải chuyện dễ, nó nhọc nhằn, nó khó lắm.
Cho nên thậm chí như vậy mà Thầy cũng tự sống bằng lá cây, bằng những cây rau mà Thầy trồng ở trên núi, Thầy trồng Thầy sống, Thầy không bao giờ mà thèm xuống xin gạo nữa, ở trên đó mà sống. Còn các con thì vắng gạo chắc chắn là các con không chịu nổi rồi.
4- CÁCH TỔ CHỨC ĐI KHẤT THỰC
(01:11:43) Cho nên ở đây, theo Thầy nghĩ, tùy cái duyên của các con, bất kỳ ở đâu mà các con tổ chức được cái cách thức đi khất thực sống, đừng có lo nấu nướng, đừng có lo gì hết. Người nào mà người ta giúp đỡ cho các con được cái phần ăn uống bằng cách là các con chỉ xin người ta được thì các con sẽ tu hành tốt mà thôi.
Cho nên hiện giờ đó, cái phần của cô Út là cổ chọn cái người như thế nào phù hợp với cổ. Các con thấy cổ đâu có thèm học những cái gì của Thầy đâu, cổ đâu có thèm nghe những cái gì của Thầy đâu, cổ không thèm nghe.
Nhưng mà cổ tu đó, cổ tu cổ tìm cái đường giải thoát của chính cổ đó. Chớ cổ biết được đại khái là Phật pháp là phải cái nhân quả như thế nào cổ hiểu như vậy, rồi cổ nỗ lực cổ tu. Cổ tu làm sao cổ cũng mong cho cổ được giải thoát, cổ mong cho cổ cũng ra khỏi cái con đường sanh tử của cuộc đời này. Cổ đã hiểu được cái đời là khổ rồi chớ không phải là cổ không hiểu đâu.
Nhưng mà cổ không có chịu đi nhẩm lại cái lối của người khác, mà cổ đi lại cái lối của cổ. Cổ nói cái đời này đâu phải là cái đời của ông Phật mà đi xin được, mình phải tự mình làm sao mà mình thắng được cái ăn, cái ngủ của mình, mình tu như thế nào mà mình không có đi xin đi xỏ ai hết, mình phải tự làm lấy sống bằng cách nào. Đó là một sáng kiến của cổ.
Thầy không nghĩ rằng cái điều đó là cổ có thể làm được hay không, nhưng mà Thầy tin rằng cái người mà cương quyết - cũng như Thầy cương quyết trong cái niềm tu hành của Thầy do giới luật mà Thầy nỗ lực thực hiện, Thầy không sợ một cái sự chết chóc nào hết, không sợ cả cái đói khát nữa, cho nên Thầy trèo trên núi Thầy ngồi Thầy cũng chẳng ngán, rồi trước bom đạn Thầy cũng chẳng ngán.
Mà Thầy thấy cô Út bây giờ, cô Út cũng nghĩ cách mà nỗ lực qua cái cách của cổ, thì nếu mà các con người nào mà nương theo cổ được, chắc chắn Thầy tin rằng cái sự hướng dẫn của cổ cũng đưa đến các con giải thoát. Bởi vì cổ tìm cách như thế nào để mà cổ thực hiện ở trong cái đường ly dục ly ác pháp, cổ cũng biết được điều đó rất rõ.
(01:13:47) Bởi vì nói chung là đại khái là cổ nắm được cái yếu lý của đạo Phật chớ không phải cổ không nắm được, nhưng mà cổ muốn cái đường đi- bây giờ cái thời đại của cổ không phải là thời đại của Đức Phật, cho nên cổ phải vạch ra một cái lối làm sao cho nó phù hợp trong cái thời đại của mình mà mình cũng được giải thoát, mình cũng có thiền định, cũng làm chủ được sự sanh tử như Phật. Còn bây giờ mà cứ nhẩm lại cái lối của Đức Phật, mình đi mà mình đi xin như vậy thiệt là quá khó, không phải dễ.
Cho nên cổ nói các con là theo cổ là đứa nào cũng phải làm hết, già cũng phải làm theo già, mà trẻ cũng phải làm theo trẻ. Có không, cổ nói vậy không? Như vậy là cổ có cái riêng của cổ chớ không phải là cái chung đâu.
Nhưng mà cái riêng của cổ, nghĩa là cổ không phải là nói như vậy để mà đời sống của chúng ta vì chạy lo làm để mà phục vụ cho cái sống đâu, mà phục vụ như thế nào cho cái đời sống của chúng ta tu được giải thoát, chúng ta cũng làm chủ sanh tử, cũng không còn đắm mê, cũng không còn đắm đuối ở trong cái danh, cái lợi, cái ăn ngon, cái mặc đẹp nữa mà cũng giải thoát ra được.
Thì Thầy thấy những cái người mà có những cái sáng kiến mà làm nên cái cuộc đời của mình thì những người đó ít lắm, hầu hết là chúng ta phải nhẩm lại cái lối của người khác. Thậm chí như Đức Phật đâu có dạy chúng ta ăn rau ăn cỏ, mà trên cái hoàn cảnh khó khăn của Thầy ở trên Hòn Sơn buộc lòng Thầy cũng phải tạo cách thức ăn rau ăn cỏ mà sống chớ không cần ăn cơm. Các con hiểu điều đó chưa?
(01:15:18) Thì cái hoàn cảnh của cô Út hiện giờ, cổ cũng nghĩ cách làm sao mà chúng ta cũng phải thực hiện được những cái mà Đức Phật thực hiện được giải thoát, mà không phải sống như Đức Phật.
Đó, thì cũng như Thầy ở trên Hòn Sơn mà Thầy tu, sau đó Thầy bỏ cơm bỏ gạo, Thầy ăn bằng lá cây, Thầy ăn bằng những cái rau mà Thầy trồng ở dưới cái mương nước để mà lấy cái đó hằng ngày sống thôi. Đó thế thì những cái đó là những cái môi trường mà chúng ta phải tự tạo lấy cho cuộc sống tu hành. Vì đời chúng ta không còn nữa hết rồi, bỏ hết rồi, không còn gì nữa, thì chúng ta phải tạo lấy một cái lối giải thoát cho chính chúng mình.
Còn bây giờ mà ôm bình bát ra đi xin, làm sao đi xin được! Đất nước chúng ta quá khó, phải không, các con thấy, điều đó khó lắm. Mà Thầy đã từng tổ chức như thế nào các con biết không?
Thầy chỉ xin mấy người cư sĩ thôi, bây giờ quý vị chỉ cần lập cho Thầy một cái tiệm cơm chay thôi, tiệm cơm chay đó là quý vị sẽ mướn cái người mà người ta vô người ta bán ở đó. Hằng ngày người ta bán, thì lấy cái số tiền mà những người ăn cơm chay ở tiệm đó trả công cho những người nấu cơm, còn riêng quý vị, bây giờ có 100 người tu, chỉ giúp đỡ cho mỗi một người tu vậy một buổi, một ngày vậy đó là một bữa cơm thôi, bao nhiêu cơm gạo đó thôi.
Ví dụ như bây giờ 100 người, mỗi một cái ngày ăn như vậy đó là 100 người nó tốn là 5 triệu, mỗi một tháng là 5 triệu thì mỗi ngày nó bao nhiêu như vậy, thì quý vị giao cái số tiền đó một tháng cho cái người đó ở đó người ta lo nấu cơm, để rồi quý vị đến đó, người ta xin cơm ở đó, cho người ta ăn ngày một bữa như vậy đó, là giao người ta 5 triệu rồi người ta chi ra người ta nấu một tháng, rồi tháng sau trả người ta 5 triệu nữa, rồi người ta cứ lo như vậy, tạo cho cái thế là chúng ta ở trong một khu vực rừng núi hay một nơi nào yên ổn đó, tới giờ đó chúng ta ôm bát đến chúng ta xin.
Cũng như bây giờ Thầy tạo cho quý thầy thấy rõ, các con ở trước các con nấu cơm, các con để ở tại cái chỗ cơm đó, sáng đúng giờ là quý thầy ra đó lấy cơm chứ quý thầy không có bận tâm gì lo cơm nước. Các con muốn cho ăn cái gì đó thì ăn, dở cũng ăn mà ngon cũng ăn. Cho nên vì vậy mà gần đây thì các con sẽ thấy, thí dụ như một người đau, một người bệnh cũng như người mạnh, cái gì mình ăn được mình ăn.
Cũng như thầy Chí Thiện về đây thầy bệnh, do đó cho nên đệ tử của thầy thì quá lo cho thầy, thấy cô Út cho ăn toàn là măng không, cho nên vì vậy mới làm cái này cái kia để nhờ các con đem ra. Như vậy là sai rồi, sai cái luật đi khất thực rồi.
Bây giờ mình bệnh mà mình còn đi được, mình còn mạnh khỏe như người khác chớ chưa phải là mình nằm một chỗ, phải không? Cho nên người ta vẫn đi xin cái đó người ta ăn thì mình cũng đi xin cái đó mình ăn. Cái đó mình ăn không được thì mình ăn cơm với muối, ăn cơm với cái khác chớ đâu làm riêng được!
Mình làm riêng rồi mấy thầy kia người ta nói sao? Ông này cũng còn thấy đi được mà, ông đâu có nằm liệt đâu mà bây giờ ông ăn hơn mình như vậy, ông ăn đồ ngon hơn mình như vậy, thì như vậy ông này lợi dưỡng quá rồi! Như vậy là nó mất cái giới luật của Phật đi.
(01:18:18) Cho nên vì vậy mà những cái điều kiện mà học trò của thầy Chí Thiện đã làm, cái đó nó sai cái quy luật của người đi khất thực ở đây rồi. Trừ ra cái người đó bệnh, đi không được, và do đó ăn uống không được, thì các vị Tỳ Kheo ở đây, các thầy ở đây người ta mới đến nhà bếp, người ta mới xin.
Chẳng hạn như Thầy, bây giờ Thầy xin: Bây giờ thầy Chí Thiện thầy ăn không được, cái bữa hôm nay thầy ăn không được, thầy muốn xin được cháo hoặc hoặc được canh, hay hoặc là sữa để cho thầy uống để mà thầy uống thuốc để mà thầy trị bệnh. Thì như vậy là Thầy phải trực tiếp, hay một vị tăng nào ở trong cái khu vực này họ đến, họ trực tiếp ở ngoài các con mà xin, thì như vậy đúng.
Còn cái này, ở ngoài đó mình làm để mình đưa vô nữa, thì cái đó trật. Phục vụ cho ông thầy của mình, còn bao nhiêu ông thầy khác bệnh có ai phục vụ không? Các con thấy bất bình đẳng phải không? Cho nên đó là cái sai.
Vì vậy mà vừa rồi, đệ tử của thầy Chí Thiện có đến xin sám hối Thầy, những cái đó là cái sai. Nhưng mà nếu mà không có giữ gìn, mà cái căng thẳng như vậy thì cái Tu viện của chúng ta nó không có kỷ luật mất rồi. Các con biết những cái sai đó nó có nhiều cái sai lắm, và vì vậy mà cái người tổ chức rất là khó, giữ gìn được cái kỷ luật rất là khó, không phải dễ.
Cho nên mọi người đều có những cái ý muốn riêng, mà mỗi cái ý muốn đó là các con sẽ thấy nó dẫn dắt đến cái chỗ sai lệch của đạo Phật dữ lắm, nó làm chúng ta mất cái hạnh, cái giới hạnh của người tu, cho nên rất khó.
Bây giờ thì Thầy nói như thế này các con thấy nè. Nếu mà các con muốn sống ở đây với cô Út, vì sau này là cô Út cổ phải lo tất cả những cái đời sống, những cái quyền sống ở trong này của các con hết rồi, và cái sức của cô Út như thế nào thì các con phải hợp sức với cô Út mà sống. Chớ còn Thầy đi rồi, chắc chắn là Phật tử họ không đến đây đâu.
Nghĩa là còn Thầy thì họ đến họ cúng dường đồ đó, chớ còn Thầy không còn thì chắc chắn là họ sẽ không đến đâu. Thường thường Thầy biết như vậy mà, họ cúng dường cho Thầy chớ họ không cúng dường cho ai hết à. Có Thầy thì coi như là cái cây bồ đề nó tỏa ra nhành lá nó, cho nên không bao giờ mà các con đói. Mà không có Thầy thì bây giờ đói thì các con cũng phải chịu đói chớ còn các con xin họ không được đâu.
Nhưng mà các con bây giờ có Thầy, các con đói Thầy chỉ nói, Thầy chỉ viết bức thơ, hay Thầy chỉ gọi điện thoại Thầy xin: “Bây giờ mấy con Thầy ở trên này, có một số chúng hai chục hay ba chục người đang thiếu gạo ăn, đang thiếu thực phẩm, xin mấy con về giúp đỡ Thầy số gạo hay đồ ăn!” Thì họ kéo xe hơi về cho Thầy ăn không hết đâu. Nhưng mà đủ ăn thì thôi Thầy không gọi, mà không đủ ăn Thầy gọi cái có liền.
Đó là cái cội bồ đề, luôn luôn bao giờ nó cũng đầy đủ. Các con nghe cái bài kinh mà Thầy đã có nói, cái chỗ đó cơm ăn áo mặc đầy đủ mà có một vị thầy hướng dẫn cho mình tu hành, tâm chưa vô lậu được vô lậu, tâm chưa an tịnh được an tịnh chớ gì? Thì nơi đó có được cơm ăn áo mặc đầy đủ, có được pháp tu hành như vậy, thì bây giờ đuổi cũng không đi, phải không, có nhớ không?
(01:21:14) Rồi bây giờ đó, nếu mà ở chỗ đó có một vị thầy mà dạy cho mình, tâm chưa vô lậu được vô lậu, tâm chưa an tịnh bây giờ được an tịnh, mà chỗ đó cơm ăn áo mặc rất là khó khăn, cực khổ, xin rất là khó, nhưng mà đuổi cũng không đi nữa, cũng bám đó nữa. Mặc dù đây là khó đó nhưng mà cũng bám ở đó. Cái kia thì có thể là dễ dàng đó thì chắc chắn đuổi cũng không đi nữa, bám luôn nữa.
Nhưng mà bây giờ đó thì Thầy đi rồi, phải không? Thầy không có ở đây nữa rồi, thì cơm ăn áo mặc sẽ thiếu rồi, nhưng mà cái pháp Thầy còn để đây, phải không? Các con tu thì được, nhưng mà các con không khéo rồi đói bụng nhăn răng rồi tu cũng không vô nó mới chết!
Tu sinh:… (Không nghe rõ)
Trưởng lão: Ờ, thì bởi vậy cho nên cô Út nói vậy các con hiểu không? Là bởi vì khi mà các con học theo Thầy thì bắt đầu phải đi khất thực rồi, phải sống theo đúng gương hạnh của Phật. Còn cô Út thì cổ nghĩ khác, là vì các con phải làm, dù người già, người yếu gì cũng phải làm hết để mà sống, chớ không thể… Bây giờ mình đi xin ai? Cổ đã nghĩ rằng Thầy đi rồi thì khó mà xin người khác.
Cho nên cổ không thể nào làm mà nuôi một lần mà rất đông được, cho nên vì vậy mà cổ nói như vậy để cho các con hiểu là bây giờ đó, thứ nhất là mình hiểu được pháp của Thầy, mình tạo được cái chỗ tốt, chỗ nào mà yên ổn, là vì mình phải có sống mới tu được, mà không có sống thì không tu được.
Do đó, được pháp để cho mình tâm chưa vô lậu được vô lậu, tâm chưa được an tịnh bây giờ nó được an tịnh, thì do đó nắm cho vững cái pháp, rồi phải tạo cái môi trường như Thầy nhắc nhở mà, tạo sao mà mình đi sống, mình khất thực mình sống cho được, đừng có để cho mình nấu nướng ăn.
Bởi vì ở đây, trước mặt cô Minh Cảnh nè, cô đã từng ở núi, cô đã từng nấu cơm ăn, nhưng mà thời gian không phải là ngắn đâu, cô ở núi rất lâu chớ không phải ngắn, nhưng mà tới bây giờ cô có giữ cái hạnh đó, tu như vậy, nấu ăn như vậy, cô có giải thoát được không? Hay hoặc là còn đi hái mãng cầu, hái đu đủ bán để gởi tiền mua gạo, phải không? Mình tu như vậy riết rồi…
Tu sinh:… (Không nghe rõ)
Trưởng lão: À, đó thì bởi vậy, Thầy mới nói khi mình nấu thì nó đâu… Bởi vậy, khi mà hồi Thầy dạy đó, Thầy dạy cái thân mình niệm Phật, mà thân Phật đi khất thực thì thân mình phải đi khất thực.
Thân mình đã đi khất thực rồi thì ở cái nơi vị trí của mình có cây ổi, cây xoài, cây mít hoặc là cây nhãn có trái, vậy thì lúc bấy giờ như thế nào? Bây giờ mình đi xin ăn rồi, người ta cho mình cái bữa đó có được cơm ăn rồi, bắt đầu về hái mấy trái xoài này để dú (làm chín), trưa nay mình cũng ăn cho nó thêm mấy trái xoài nữa.
Thì Thầy ở đây, Thầy nói cái điều này: Chưa từng thấy ông Phật nói rằng ổng ở trong cái vườn xoài mà ổng đi xin cơm rồi ổng nhìn trên cây xoài, ổng thấy hôm nay có mấy trái xoài chín, thôi mình hái xuống đặng mình thọ thực rồi mình ăn luôn mấy trái xoài này nữa. Thầy chưa từng nghe cái điều đó.
(01:24:12) Cho nên ở đây, một cái người muốn đi khất thực mà đúng cái pháp hạnh của Phật, xin ăn mà sống đó, thì có những cái cây trái mà xung quanh cái chỗ nhà chúng ta ở, mà nó có trái rồi, nó già, nó chín rồi, thì kêu cái người cư sĩ mà họ đã từng cúng dường cho mình hằng ngày có một bữa cơm ăn, xin họ đến hái những trái xoài đó, bố thí hoặc là cho ai, hoặc là họ bán, họ làm gì thì họ làm tự bụng.
Chớ còn mình không có cái quyền hái cái trái đó ăn, mà mình chỉ có quyền là đi xin. Người ta có cho mình, bữa nay thí dụ như người ta cho cơm, người ta cho thêm mình trái xoài, thì về mình ăn cái trái xoài đó. Còn không cho thì đừng có nói: “Trái xoài này ở thất tui, tui trèo lên tui hái, tui để một cái giỏ đó tui dú, lần lượt nó chín cái trưa bữa nào tui cũng ních mười trái, hai chục trái cho đã!” Thì không có được. Đi xin kiểu đó mà còn để thêm số trái xoài.
Hay hoặc hôm nay trước thất tui có trồng thử hai, ba cây đu đủ, bây giờ trái quá trời, thôi để bữa nào tui cũng đem trái đu đủ vô tui ăn. Tui cũng không ăn phi thời, tui ăn đúng Ngọ, nhưng mà mấy trái đu đủ này là tại trước nhà tui, tui hái để tui ăn. Thì như vậy là cũng không được nữa.
Cái này không có phải làm cái chuyện đó đúng. Cái chuyện này có đu đủ thì giao cho mấy cái người cư sĩ họ thường là cúng dường mình trong cái cuộc sống của mình, giao cho họ hái họ làm gì làm. Riêng tui, tui chẳng hề hấn mà hái một cái trái cây nào mà tui ăn thêm. Khi mà người ta cho tui cái gì tui ăn cái nấy. Mình thêm, coi chừng nó lại sai mình sống ở trong cảnh dục nữa đó.
Bằng chứng ở đây Thầy nói như cô Minh Cảnh cô đã từng sống, thì cô biết là khi có trái nó đòi ăn thêm chớ không phải là không ăn thêm, rồi bán, rồi buôn, rồi mua sắm cái này kia, nó đủ thứ nó chạy theo dục lạc.
Cho nên cái hạnh của người tu mà đi khất thực là cái hạnh giải thoát, cái hạnh ly dục, ly bất thiện pháp. Còn mình mà thêm như vậy là mình không có ly, mà mình thêm dục chớ không ly. Thêm ăn thêm uống là thêm dục, cho nên nó khó là khó chỗ đó.
Các con, cho nên vì vậy mà khi nói cái thân niệm Phật là Phật đi khất thực, cái thân Phật đi khất thực thì thân mình cũng đi khất thực, thì cái khó là khó ở chỗ này, phải thông suốt, phải hiểu.
Nếu mà không dạy rành cái chỗ này, sau đó thì các con không có hiểu, rồi tưởng đâu là xung quanh nhà mình có nhãn, có ổi, có đu đủ hay hoặc là có thơm, có này kia đó thì mình cứ hái ních nó thôi. Chuyện đó thì thôi cũng như là không đi xin rồi, thôi trồng thêm lúa gạo đi cho ăn cho nó đủ hết đi, cần đi xin chi cho cực, phải không?
Rồi cho nên các con nhớ là khi nào giữ gìn được cái chánh nghiệp đúng thì không làm một cái gì, không hái một cái trái cây gì hết thì mới vậy.
Còn bây giờ cô Út cổ thấy cái điều đó, cổ hiểu mình làm như vậy đâu có được, không có được. Nghĩa là mình ở đâu cũng có cây trái, mà cái vấn đề này không phải cái chuyện đó được, phải làm sao cho nó phù hợp với trong cái hoàn cảnh của mình để mình tu tập, thì cái này để chờ cái điều kiện mà cô Út tổ chức theo cái kiểu sống của cổ tu hành như thế nào.
Thì các con sẽ thấy rằng những cái pháp mà Thầy dạy về những cái pháp hành này nó phải phù hợp với cái cuộc sống. Mà cái cuộc sống mà Thầy nói đây là mình bắt chước theo cuộc sống của Phật, nhưng mà cái hoàn cảnh, cái thời đại của mình nó không có phù hợp với Đức Phật hồi nào được hết.
Nghĩa là cái thời đại của Đức Phật khác, rồi đất nước của Đức Phật khác, đất nước của mình khác, cho nên hai cái này nó rất khó cho chúng ta trong giai đoạn tu tập.
(01:27:23) Vậy thì tùy ở các con mà các con có thể biết cách như thế nào để nó phù hợp trên cái bước đường mà thực hiện giáo pháp của Phật để đi đến cái chỗ giải thoát. Không khéo rồi đây do đó mà mình lại lầm lạc thế này thế khác, rồi cuối cùng thì nó động tâm mà nó không có tu tập được gì hết.
Chẳng hạn là như bây giờ các con thấy cái lối tổ chức của cô Út nó như thế này mà các con sống cái kiểu như đi xin ăn như quý thầy ở trong này, thì Thầy hỏi như quý thầy, Thầy hỏi như thế này nè: Bây giờ đó mình ngồi đây mình tu hành, mà người ta ở đằng trước người ta phải nửa đêm bốn, năm giờ người ta thức dậy người ta nấu cơm cho mình ăn.
Mà trong khi người ta đâu phải là những người cư sĩ, người ta là những người tu, mọi người ở đằng trước người ta cũng là người tu chớ, người ta cũng muốn giải thoát chớ, tại sao bắt người ta nấu cơm cho mình ăn? Như vậy là mình tu mình có giải thoát cho họ được không? Mà nếu không được thì quý thầy đừng có mỗi bữa đi ra đằng trước mà xin cơm vô đây ăn!
Nếu mình tu cho người ta giải thoát được thì người ta nấu cơm cho mình thì mình tu cho người ta giải thoát. Còn đằng này mình tu giải thoát cho mình chớ không phải là tu giải thoát cho người ta.
Vậy thì mình phải làm sao chớ còn không khéo quý thầy cứ nghĩ rằng mình ngon, mình sướng, mọi cô ở đằng trước họ lo nấu cơm cho mình, nhưng cuối cùng mình tu hành mình giải thoát mình làm Phật, còn họ hoàn toàn là làm chúng sanh thì cái này là như thế nào? Nó không công bằng chút nào hết. Cho nên chúng ta phải nghĩ như thế nào?
Bởi vì cái người cư sĩ người ta không có tu, người ta làm công quả hay hoặc là người ta làm cái chuyện đó để người ta sống, thì bắt đầu có cái lợi lạc nào đó cho họ sống, do vì vậy mà họ mới hằng ngày họ nấu cơm cho mình ăn, mình tu hành, mà họ dùng cái nghề đó.
Vì vậy thí dụ chẳng hạn bây giờ mình bỏ ra 5 triệu mỗi tháng cho năm chục người đi, phải không, năm chục người sống đi. Bây giờ đó thì nếu mà họ nấu cơm cho mình không thì họ lấy cái gì họ sống họ nuôi vợ nuôi con họ, cho nên vì vậy đó mình trả lương cho họ thêm, là thay vì mình đưa 5 triệu thì mình đưa họ 10 triệu để cho họ có 5 triệu họ nuôi vợ, nuôi con họ, thì như vậy là họ sẽ làm việc, như vậy mình đâu có lợi dụng họ.
Còn bây giờ mấy con ở đằng trước, mấy con nấu cơm, có trả tiền lương mấy con không? Mà quý thầy cứ ở đằng sau, cứ bữa trưa nào cũng xách đít của mình ra bưng cơm về ăn hết, mà rốt cuộc rồi quý thầy làm Phật còn mấy con thì làm chúng sanh hoài, mà không có đồng lương nào hết, thì như vậy có công bình trong xã hội này không? Không có công bình!
Cho nên chúng ta phải tổ chức như thế nào để công bình, cho phù hợp với cái lý của cái sự tu hành của mình, phải không? Như vậy mới đúng chớ, các con thấy chưa?
Cuối cùng thì tại sao mà Thầy không còn nương tựa ở một cái chỗ để mà dẫn dắt các con đi tới nơi tới chốn?
(01:30:08) Tại vì từ lâu tới giờ, theo Thầy hiểu là các con thường là cứ nghĩ rằng nương tựa vào Thầy để mà tu tập, cho nên hầu như là không có chịu nỗ lực rốt ráo. Để bây giờ khi mà Thầy tuyên bố ẩn bóng thì các con mới vội vàng, lật đật, rồi từ đó các con mới tự lực để tìm lấy cái cách thức cho mình trong cuộc sống cũng như trong cuộc tu hành của mình, từng đó các con mới chịu động não, mới chịu khai triển ra những cái gì mà các con làm biếng, chưa có triển khai.
Cho nên từ nào tới giờ, bây giờ về đây sống thì nhờ Thầy nè, trong cái sự sống của mình tất cả mọi cái đều là nhờ Thầy hết, phải không? Do vì vậy mà các con thấy mình cứ ở trong thất mình lo mình tu thôi, không có tính. Người nào cũng vậy, ai cũng muốn cái sung sướng mà chỉ biết cho mình tu thôi chớ không nghĩ gì đến cái người khác.
Trong khi người cư sĩ họ làm ở ngoài, họ làm ra đồng bạc rất là vất vả, họ cực khổ lắm. Mà vì mình tu hành, họ nghĩ rằng cái sự tu hành của mình quá khổ sở. Các con cũng biết rằng mình phải thức đêm, thức khuya tu hành chớ đâu phải là mình ngủ thẳng chân thẳng cẳng đâu. Họ cũng vì chỗ đó mà họ cúng dường mình.
Nhưng mà mình, mình biết rằng mình có tu tới nơi tới chốn chưa? Cho nên hằng ngày mình cũng còn lơ đễnh, chưa có phải thật sự. Vì vậy mà khi Thầy ẩn bóng rồi thì các con mới chịu động não mà khai triển ra. Còn các con không thì Thầy vẽ làm sao thì các con cứ làm vậy thôi, nhiều khi còn làm trật, làm theo ý muốn của mình nữa.
Cho nên cuối cùng Thầy nói, hầu hết là mình có một số con mà nó không có chịu làm ăn, nó ỷ vào ông cha giàu của nó, nó cứ ở không nó ăn à, nó không chịu làm, bây giờ ông cha chết rồi bắt đầu buộc lòng tụi nó mới nhảy ra nó làm nó sống. Thì như vậy là không biết chừng mà Thầy ẩn bóng đây trong số các con mới có những người tu giải thoát được, chớ còn nếu mà cứ nương tựa kiểu này hoài cho đến khi tới già, tới chết các con cũng không tới đâu.
Cho nên trong cái thời Đức Phật, người ta nương tựa pháp của Phật, người ta nương vào cái hạnh của Phật mà người ta không có nương tựa vào cái sống của Phật. Tại sao người ta không nương tựa vào cái sống của Phật? Các con thấy rõ phải không? Ông Phật ổng cho cái bình bát, đi xin được thì ăn, không xin được thì đói chịu chớ đâu có nương tựa Phật được. Ông Phật ổng đâu có lo cơm, lo nước!
Còn Thầy thì lo cơm, lo nước thì các con cứ ngồi khoanh chân đó mà lo. Cho nên cô Út nói đúng. Tại vì các con không có chịu nghĩ đến cái chuyện sống của các con để thực hiện cái sống.
Còn thời ông Phật thì chỉ nương vào cái tin vào ổng và tin vào cái pháp mà thực hiện giải thoát, còn về cái ăn, cái sống thì của mọi người. Ai đến với ổng thì bao nhiêu cũng được hết, trăm ngàn người cũng được, ổng không có lo cái đời sống đâu. Ổng cũng sáng sớm ổng mang bình bát ổng đi xin, có thì ổng cũng ăn mà không có thì ổng cũng chịu đói cũng như ai vậy.
Thì tất cả các đệ tử của ổng, 1250 vị Tỳ Kheo này cũng đều là y như vậy, người nào xin được thì xin mà không xin được thì về đói, chớ không nói: “Bây giờ con đói quá, bữa nay Phật xin Phật trút cho con ăn đi” thì không có bao giờ có chuyện đó.
(01:33:14) Phải không? Các con thấy đâu có chuyện đó đâu. Đâu có phải chơi cái kiểu như quý vị Tỳ Kheo mà ngồi ở hàng rào đó mà rình, chờ cho bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo đi xin về cái nhảy ra cái bà kia phải trút vô bát, còn ổng ổng xách về ổng ăn. Mấy ông tăng hồi trước khôn lắm!
Bởi vì không biết trong cái giới bổn mà nói cái vấn đề đó thì Thầy cũng không có nghĩ rằng Phật pháp là như vậy. Nói bên ni họ đi khất thực, bởi vì trong cái mùa hạn hán thì họ đi khất thực để mà sống, thì mấy ông tăng này lười biếng lắm, mấy ổng ngồi núp núp ở trong hàng rào, chờ cho mấy cái bà này rời ra khỏi khu vực cái của bả đi xin, xin về mà coi bộ đầy bát thì mấy ổng bước ra, mấy ổng giả đò cũng ôm bát đi ngay lại.
Thì mấy bà này thấy cái bát của mấy ông tăng là trống rỗng không có gì hết, thôi chịu khó trút. Trút riết rồi mấy ổng lấy hết cơm lấy gạo của mấy bà này hết. Trong khi mấy ổng khỏi cần đi xin xa, chỉ ngồi núp ở trong hàng rào, thấy mấy bả ôm bát về đầy là mấy ổng đi ra lấy ăn hết.
Đó thì do cái chỗ đó đó, Thầy thấy nó bất bình đẳng ở chỗ đó. Thậm chí như bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo, bả đều ba ngày đêm, ba ngày như vậy đều khất thực, mấy ông tăng sớt lấy hết, cho nên bà đói, bà khổ sở, bả không đi nổi nữa. Vì vậy mà một vị trưởng giả mới thấy như vậy, mới đưa bả về rồi cho ăn cho uống, rồi bà khỏe, rồi mới hỏi nguyên do, rồi cái ông này mới đến trình với Phật, Phật mới chế cái giới ra để cho mấy ông tăng đừng có chơi cái kiểu mà ăn trên.
Đó thì có những cái câu chuyện như vậy. Cho nên ở đây Thầy muốn nói lại cho các con thấy rằng, trên cái bước đường tu tập của chúng ta không phải giống như thời Đức Phật.
Đức Phật không có lo kinh tế cho ai hết, còn riêng bây giờ mấy con đói, chắc chắn là Thầy không để cho mấy con đói được. Mà cái đức của Thầy nó có thể rộng rãi là Thầy có thể xin người ta, một lời nói của Thầy xin hàng vạn cái số gạo, cái số thóc mà để chúng ta sống rất dễ dàng.
Nhưng mà thời Đức Phật, các con thấy Đức Phật đâu phải không có uy tín? Đức Phật xin cả vua chúa dễ dàng lắm. Nhưng tại sao ông Phật lại không xin để mà ăn cho nó sung sướng, ông Phật lại để cho mọi người đi xin? Đó, đó là những cái nguyên nhân mà Thầy đọc ở trong kinh sách Thầy thấy rõ ràng vấn đề này.
Cho nên ở đây Thầy ẩn bóng để cho các con phải tự mình suy ngẫm lấy cuộc sống tu hành của mình, giải quyết được cuộc sống đúng hạnh của Phật là giải quyết được phân nửa cái đường đi tu rồi đó. Mà giải quyết không được cuộc sống thì các con lại nhầm trên cuộc sống của thế tục thì các con không có tu giải thoát được.
Như cô Cảnh, cô về ở trên núi Long Hải cô tu. Cô cũng quyết vào núi tu, nhưng mà giải quyết cuộc sống không được, cho nên cô bị kẹt ở trong cái cuộc sống, rồi bắt đầu chạy theo cái dục lạc của ăn, của đời sống con người rồi.
Mặc dù ở trong cái chòi lá ở trên núi có gì hơn, rồi bây giờ cô lại trồng đu đủ, rồi mãng cầu, rồi hằng ngày có người đến mua bán đu đủ, mãng cầu. Tất cả bây giờ trở thành cái chợ buôn bán của cổ ở trên đó rồi! Cô lập cái chợ chồm hỗm ở trển, có không? Như vậy rốt cuộc rồi cô Cảnh lập cái chợ ở trển, mai mốt đây thuế nó vô nó thâu!
(01:36:30) Đó, trên cái bước đường tu tập không khéo rồi chúng ta lại lập quán, lập tiệm hết rồi. Cho nên ở đây làm sao mà chúng ta phải tổ chức như thế nào. Và cái người mà có thể tổ chức cuộc sống mới đó, Thầy mới nói đó là có cô Út chớ còn không ai mà làm cái điều này đâu.
Nhưng mà các con nên nhớ rằng đó là vấn đề mới mẻ, vấn đề khó khăn, không phải là vấn đề dễ, chớ không phải là đơn giản đâu.
Vì vậy mà sau cái mùa hạ an cư này rồi thì các con tự liệu lấy, mọi đứa đều tự liệu lấy. Pháp của Thầy đã trao nó đầy đủ hết rồi. Như vậy là khi sống với cô Út là phải sống với cái sự như thế nào để mà chúng ta tạo được cái cuộc sống của chúng ta, không còn ở trong cuộc sống thế gian mà!
Còn nếu mà mình còn ở trong cuộc sống thế gian thì như cô Minh Cảnh, ngày nào đó tưởng là về núi mà tu hành, nhưng cuối cùng thì không ly được cái đời sống thế gian thì đời sống của chúng ta kéo dài thêm cái thời gian nữa mà không đi đến đâu được hết.
Thì như vậy là các con đã hiểu được cái chỗ tu tập của Phật pháp nó khó, khó nhất là khó về cái đời sống chớ không phải là khó cái gì hết. Cái đời sống mà giải quyết được, sự tu tập rất dễ dàng, không còn khó.
Mà giải quyết đúng cách, chớ còn giải quyết mà không đúng cách, bây giờ chúng ta có tiền có bạc để đó, chúng ta cứ bỏ ra để ăn mà sống mà tu thì cũng không tới đâu được hết. Cái đó nó còn bị sai ở trong cái chỗ tiền bạc nữa thì nó cũng không đúng cách của người tu. Làm sao mà như là thời Đức Phật đi xin ăn đó, đừng có biết ngày mai là chúng ta ăn cái gì, ai cho cái gì ăn cái nấy, đó mới là giải thoát./.
HẾT BĂNG