Skip directly to content

20 - TỔNG KẾT GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 20 - TỔNG KẾT GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- PHƯỚC BÁU LỚN NHẤT ĐỜI NGƯỜI LÀ TU TẬP ĐÚNG PHÁP

(00:00) Mười ba phần trọng yếu của giới đức trong giới luật của Đức Phật mà vị Tỳ Kheo cần phải trau dồi, tu tập không phải trong một sớm, một chiều mà thành tựu được, phải kiên gan, bền chí, hết sức chuyên cần tu tập.

Vì muốn thoát khỏi hầm lửa đỏ rực đang đốt cháy chúng ta từng phút, từng giây, chúng ta há dễ duôi để cho thời gian qua mất thì có hối tiếc việc cũng đã muộn rồi, đời đời, kiếp kiếp khó mà gặp lại được thân người, được pháp, được bậc thầy có kinh nghiệm dẫn dắt là điều diễm phúc nhất trong thế giới này.

Nghĩa là quý thầy mà được đúng pháp Phật, được một bậc thầy dạy dỗ có kinh nghiệm, được thân người mà quý thầy tu tập thì điều đó là điều diễm phúc nhất cho quý thầy ở trong cái giai đoạn này.

Quý thầy nhìn đây: Mấy người mà theo Thầy? Mà Thầy là một cái người đã có kinh nghiệm mới vạch ra rõ con đường tu này, nếu mà không có kinh nghiệm làm sao vạch được con đường này? Hầu như bao nhiêu thế kỷ nay người ta có vạch được con đường này không?

Kinh sách thì nhan nhản ai cũng đọc được, nhưng mà cái lối mà vạch ra người ta không có biết đường đi. Người ta không biết thiền là như thế nào nữa, người ta nói bậy, nói bạ chớ không có nói ra đúng gì hết.

Thế rồi mà dẫn cả đám nhau đi thì thử hỏi bây giờ chúng ta được mấy người ngồi đây nghe, mà còn bao nhiêu người không được nghe pháp này thì thử hỏi cái diễm phúc họ có hay không?

Rồi cái tà kiến của họ đang chấp những cái pháp sai như vậy mà họ cho rằng đúng, đời họ sẽ phí bỏ và thời gian tu tập của họ có cái sự ích lợi gì cho họ đâu, toàn bộ là phí bỏ tất cả hết.

Cho nên trong cuộc đời mà quý vị được đủ phước duyên mà về đây gặp Thầy, mà được cái lời giáo giới như thế này, tức là giáo giới luật của Đức Phật như thế này, là quý thầy là người có phước nhất ở trong thế gian này chớ chưa phải là ít phước.

Nếu ít phước, bao nhiêu người có được nghe không? Và cái giáo án tuy rằng giảng dạy như vầy nhưng ngày mai có đủ duyên để mà kết hợp thành một cái bộ kinh sách cho quý vị nữa không, hay hoặc là nó sẽ tiêu ma?

Thí dụ như bây giờ Chánh Đức về đây lo làm công việc này, nhưng mà rủi đi ra ngoài kia cái chúng hốt ăn cắp đi, nó đem đi mất đi, rồi nó đem đốt đi, rồi thử hỏi còn được không? Rồi ở đây Thầy để trong cái thất kia rủi lửa cháy sạch thì ai mà nói lại một lần thứ hai cho quý thầy nữa?

Quý thầy cứ nghĩ rằng mình có đủ phước mình nghe được đó là phước báu của mình, chứ chưa chắc đã là những cái tài sản quý báu này mà nó không đủ phước của chúng sanh thì chỉ trong chớp mắt là nó sẽ tiêu hủy, không còn nữa.

Chúng ta đâu có ngờ được cái phước báu chúng ta có và chúng sanh còn có được phước báu nghe hay không? Chắc chắn điều đó chưa đâu.

(02:44) Cho nên hôm nay Thầy nói xong như vậy thì Thầy thấy tâm niệm của quý thầy nghe thì nó hay, nhưng quý thầy chưa biết cái nào trước, cái nào sau. Thầy sẽ tóm lược cái bảng tóm tắt, quý thầy phải tu cái gì trước, tu cái gì sau, Thầy sẽ cho photo cái này ra, Thầy sẽ phát cho quý thầy một bản.

Nghe thì lòng vòng nhiều như vậy, chớ cái bản đồ mà Thầy đã vạch ra cho quý thầy, Thầy chỉ tóm lược bây giờ phải tu cái gì, cái gì, cái gì, gì, gì, cho đến cuối cùng, thì cái đó Thầy tóm lược lại chỉ vài ba trang giấy, cao lắm là chừng mười trang giấy là đủ cho quý thầy.

Chớ còn bây giờ, hàng lớp mà Thầy nói như thế này, quý thầy cũng chưa biết cái nào trước sau nữa.

Mặc dù là quý thầy có thể về đọc lại, suy ngẫm lại thì quý thầy thấy cái đường lối Thầy chỉ có bước lắm chớ không phải không, nhưng mà quý thầy không có đủ mà tóm lại, không có đủ sức mà résumé - cô đọng lại, cô đọng lại cho nó có một cái ngắn gọn để cho biết cái lộ trình mình phải tập cái gì trước, cái gì sau.

Cho nên cuối cùng, khi mà cái khóa hạ này xong, Thầy sẽ hoàn toàn sẽ cô đọng lại cái pháp này để cho quý thầy tu cái gì, cái gì, cái gì gì.

Do đó Thầy nhắc phải tu cái gì trước, cái gì trước, thì quý thầy được nghe ở đây thì quý thầy biết tu, còn những người khác mà không được nghe, họ không biết đâu hết.

Bởi vì cái đó là cái người được nghe mới biết được cái đường đi tu, còn cái người mà không nghe pháp thì cầm cái bản đồ này họ không biết gì hết, không biết cái pháp đó tu làm sao, họ không biết.

Còn quý vị nghe Thầy nói bây giờ phải tu Chánh Niệm Tỉnh Thức nè, phải tu cái gì, cái gì gì, phải xả, phải trau dồi cái gì gì, thì quý vị biết. Thí dụ như Thầy nói trau dồi, quý vị biết trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm, mà Thầy chỉ nói trau dồi thôi thì quý vị đã biết rồi.

Đó thì quý vị nhớ rằng, cái điều đó là cái điều quan trọng.

Mà Thầy nghĩ rằng, bây giờ có in thành cái bộ sách cho quý vị thì quý vị cũng đọc có nhiều khi để mà mua vui mà thôi. Còn bây giờ Thầy cô đọng lại cho một cái giáo án này, cái gì tu trước, cái gì tu sau cho đến khi cuối cùng, thì quý vị theo đó mà được nghe Thầy giảng thì quý vị tu không sai nữa.

Thì sau khi mà rời khỏi Tu viện thì Thầy sẽ trao cho quý vị mỗi người một bản cô đọng lại cái giáo án này thành ra một cái đường lối tu tập. Cho nên quý vị về, quý vị tìm cái nơi nào yên tịnh quý vị nỗ lực thì quý vị cũng đi tới cái con đường tu tập này.

2- TỔNG KẾT PHẦN GIỚI HẠNH

2.1- GIỚI HẠNH BIẾN KẺ PHÀM PHU THÀNH BẬC THÁNH HIỀN

(04:53) Hai mươi lăm giới hạnh trong giới luật của Đức Phật cũng vừa đủ trang bị cho một vị tu hành có đầy đủ oai nghi chánh hạnh, có một đời sống giải thoát, thanh thản an lạc mà trên đời này không một giáo pháp nào có được như trong đạo Phật.

Nghĩa là hai mươi lăm cái giới hạnh mà chúng ta tu trước đó, chúng ta học trước đó, mà nếu mà chúng ta thực hiện đúng những cái giới hạnh thì tâm hồn chúng ta thanh thản vô cùng, không còn bị những cái nghề nghiệp, bị những cái này kia trói buộc chúng ta đâu.

Hai mươi lăm giới hạnh trong giới luật của Đức Phật để biến người tu sĩ lột xác họ từ một kẻ phàm phu tục tử biến thành một bậc - một vị Thánh Hiền.

Đó thì quý thầy thấy, hai mươi lăm giới hạnh mà trước chúng ta đã học, đây Thầy nói - chưa nói mười ba cái giới đức chúng ta đâu, mà chúng ta chỉ nói giới hạnh thôi, mà nó có thể lột xác quý vị đó. Từ kẻ phàm phu, qua những cái oai nghi của quý vị mà sống, người ta vẫn thấy quý vị là Thánh Hiền.

Vì cuộc sống của họ toàn bộ mới mẻ, bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi đều thay đổi, họ không thể sống như những người thế gian được.

Bậc tu hành giới hạnh của đạo Phật trên đời này không ai là không quý trọng và kính mến. Xưa Phật đã dạy: Một người giữ gìn giới hạnh trong sạch của đạo Phật thì tất cả Phật tử, cư sĩ sẽ phủ tóc trên mặt đường cho vị ấy đi.

Hai mươi lăm giới hạnh này giúp cho hành giả ly dục, ly bất thiện pháp dễ dàng. Nếu hành giả giữ gìn đúng pháp, đoạn dứt đúng pháp thì cảnh giới Niết Bàn tại thế không phải là một giấc mơ mà là một thực tại của vị ấy.

Nghĩa là chúng ta chỉ cần giữ gìn hai mươi lăm giới hạnh này thôi thì chúng ta cũng thấy mình ly dục, ly bất thiện pháp được. Nhưng mà ly dục, ly bất thiện pháp trong giới hạnh chớ không phải ly dục, ly bất thiện pháp trong giới đức đâu.

Quý vị đừng có hiểu cái danh từ - ly dục, ly bất thiện pháp ở trong giới đức nó khác, mà ly dục, ly bất thiện pháp là ở trong giới hạnh nó là chuẩn bị cho chúng ta bước qua cái giai đoạn ly dục, ly bất thiện pháp trong giới đức.

Nó có những cái giai đoạn mà chúng ta tiến ở trong cái bước đường giới luật của Phật, nó có những cái giai đoạn thấp, giai đoạn cao của nó.

Thì cái Niết Bàn tại thế quý vị sẽ thấy đạt được liền chớ nó không phải là còn giấc mơ mà quý vị mơ tưởng đâu. Quý vị sống đúng theo hai mươi lăm cái giới hạnh này thì quý vị thấy Niết Bàn tại thế.

(07:25) Hai mươi lăm giới hạnh thuộc về tất cả hành động của thân, khẩu, ý, được thực hiện làm nên những đức hạnh sống của người tu sĩ đạo Phật. Vì thế kẻ nào giả danh tu sĩ đạo Phật đều để lộ chân tướng giả dối mà không một ai trên thế gian này không nhận ra được.

Nghĩa là, chúng ta đã học hiểu biết hai mươi lăm giới hạnh của Đức Phật rồi, thì một người mà giả là tu sĩ đạo Phật thì chúng ta nhận qua hai mươi lăm giới hạnh này chúng ta biết rằng người đó không phải là cái người tu sĩ thật mà cái người tu sĩ giả.

Thí dụ bây giờ thấy một ông thầy tu sĩ mà đi làm thầy thuốc trị bệnh người ta thì quý vị thấy có đúng không? Không đúng đâu.

Một ông thầy làm thầy, làm một người tu sĩ, làm một vị Tỳ Kheo mà đi ra cuốc đất trồng tỉa lúa, trồng tỉa đậu phộng, trồng tỉa dưa leo, dưa hấu, thì thử hỏi cái ông thầy đó có đúng không? Không có đúng.

Mà không đúng như vậy thì có phải là chúng ta nhận thấy biết cái người đó sai không? Có phải là ông thầy tu không? Có phải là đệ tử của Phật không hay là đệ tử của ngoại đạo?

Người tu thật, người tu giả của đạo Phật do hai mươi lăm giới hạnh này mà người ta nhận ra mặt thật, mặt giả của nó dễ dàng.

Qua hai mươi lăm giới hạnh mà đã học rồi thì chúng ta vẫn thấy biết được cái người tu thật, tu giả. Nhưng chúng ta không nói thôi. Ai làm được cái gì thì cứ làm, chúng ta là những người tu hành không làm khổ người, nói ra làm khổ người ta làm gì? Nói ra chê bai thì mình đâu có phải là người tốt. Nhưng mình phải nhận biết, chớ không phải mình không nhận biết.

Bởi vậy, khi giáo án hành trì, tu tập của đạo Phật ra đời nhằm làm sáng tỏ lại Phật giáo: Đâu đúng, đâu sai, đâu là những đệ tử của Đức Phật chân chính, đâu là những kẻ giả danh phá đạo, phá giới luật của Phật, phân minh rõ ràng để người đời không còn lầm lạc, vô tình phỉ báng Phật Pháp, vô tình không hiểu rõ Phật Pháp, dìm Phật Pháp xuống tận đáy thẳm tà kiến của ngoại đạo mà cứ ngỡ đó là Phật Pháp.

Hai mươi lăm giới hạnh trong giới luật của Đức Phật minh xác hai đạo lộ rất rõ ràng: Đời sống của người cư sĩ và đời sống của người tu sĩ khác biệt một trời một vực.

Nghĩa là đời sống của cư sĩ nó không giống cái đời sống của tu sĩ đâu, nó khác biệt một trời một vực, hai bên nó xa lắc, xa lơ. Người cư sĩ còn phải lao động, còn phải làm nghề này, nghề kia sống, còn người tu sĩ thì hoàn toàn không làm nghề gì sống hết, chỉ đi xin ăn mà thôi, cho nên hai lối sống này cách biệt xa vời.

2.2- ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ CỦA ĐẠO PHẬT GIÚP CẢ NHÂN LOẠI GIẢI THOÁT

(10:07) Đạo Phật ra đời không phải giải quyết cho một số người chuyên tu ít ỏi ở lộ trình thứ hai. Mà đạo Phật ra đời để giải thoát cho toàn cả nhân loại, không những trên hành tinh này mà còn các hành tinh khác, miễn ở đâu có con người.

Tức là có chúng sanh.

Nên lộ trình thứ nhất, con đường của cư sĩ đi, đó là đối tượng của đạo Phật giải quyết.

Thì quý thầy nghĩ rằng, đạo Phật ra đời không phải nhắm vào một số ít mấy người mà ngồi đây mà Thầy dạy cho quý thầy đến cái chỗ làm chủ sanh tử luân hồi đâu, mà đạo Phật nhắm cả toàn nhân loại trên cái hành tinh này để giải quyết cho họ thoát khổ.

Vì vậy họ phải đứng ở trong cái pháp môn nào để mà họ giải quyết cho họ thoát khổ. Họ không còn đói khổ, họ không còn nghèo khổ nữa mà họ đầy đủ hạnh phúc, họ thương yêu nhau.

Bởi vì đạo Phật chủ trương tự mình, cứu mình, không ai cứu mình được; tự mình đem lại sự an vui, hạnh phúc cho chính mính; tự mình xây dựng Niết Bàn cho chính mình; tự bàn tay và khối óc của mình đem lại một đời sống tươi đẹp, an lành cho chính mình, đem lại phước báu đầy đủ cho chính mình.

Vì thế đạo đức nhân quả của đạo Phật là một pháp môn rất cần thiết cho nhân loại để cho con người, ai ai cũng có thể trau dồi, tập luyện thân, khẩu, ý của mình trong các thiện pháp, xa lìa và đoạn dứt các ác pháp một cách dễ dàng, không khó khăn.

Đó là xây dựng cuộc sống của mình trong an lành, hạnh phúc và xã hội không rối trật tự, cuộc sống con người đối xử với nhau bằng các thiện pháp, tình thương nhau chan hòa, nhờ thế đất nước phồn vinh, thịnh trị, thái bình, trời đất, thời tiết mưa thuận, gió hòa, không có thiên tai, thủy nạn, không có những chứng bệnh nan y khó trị v.v…​

Đó là những giới hạnh mà Đức Phật nhấn mạnh vào tất cả chúng sanh để hướng dẫn và chỉ dạy họ, để tự họ thoát khỏi cảnh sống trầm luân, đau khổ của kiếp con người.

Có dịp Thầy sẽ giảng quý thầy giáo trình nhân quả, tức là đạo đức nhân quả. Giáo trình đạo đức này được ra đời, được phổ biến rộng rãi cho các tầng lớp con người trong xã hội, giáo trình này được áp dụng vào các trường học, xây dựng đạo đức nhân quả nơi các cháu thì các cháu là những mầm non của tổ quốc, các cháu trở thành những con người tốt, có lòng thương yêu chân thật đối với con người và chúng sanh, thì chừng ấy xã hội an lành, đất nước phồn vinh, không có nạn nghèo đói, không có nạn thất nghiệp, vì ai cũng thấy bổn phận của mình phải làm gì cho mình, cho người, cho xã hội, cho đất nước.

3- TỔNG KẾT PHẦN GIỚI ĐỨC

3.1- GIỚI ĐỨC GIÚP THỌ HƯỞNG ĐƯỢC HỶ LẠC XUẤT THẾ GIAN

(13:00) Mười ba giới đức trong giới luật của Đức Phật…​

Đây, Thầy nói đến cái giới đức đây, hồi nãy là giới hạnh, rồi nhắc cái đạo đức nhân quả, mà cái mục đích mà Đức Phật đưa ra đời là nhằm đem cái đạo đức nhân quả để giúp cho con người đứng ở trong cái hành thiện mà diệt trừ cái hành ác, để cho xã hội con người được an lành và thanh bình.

Còn mười ba giới đức này để giúp cho những người tu sĩ.

Mười ba giới đức trong giới luật của Đức Phật giúp cho người tu sĩ xa lìa những hỷ lạc tầm thường của thế gian…​

Xa lìa những cái hỷ lạc của thế gian.

…​ viễn ly, từ bỏ, không còn bị cám dỗ, lôi cuốn bởi những thứ hỷ lạc này, thay vào đó bằng thứ hỷ lạc phi dục lạc thế gian.

Nhờ thế, người tu sĩ mới nhận ra được đâu phải cuộc sống thế gian chỉ có dục lạc thế gian là tuyệt đỉnh, mà còn có một thứ hỷ lạc cao hơn nữa, tuyệt đỉnh hơn nữa, đó là hỷ lạc phi thế gian pháp. Nó còn gọi là hỷ lạc ly dục, ly ác pháp.

Thứ hỷ lạc này sẽ đưa con người tu sĩ đến yểm ly, ly tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn. Hỷ lạc này là thứ hỷ lạc của các bậc thánh, không phải kẻ phàm phu mà biết được, mà thọ hưởng được.

Nghĩa là cái thứ hỷ lạc mà dục lạc của thế gian thì hầu hết là người nào sanh ra trong cuộc đời này cũng đều có thọ hưởng, không ít thì nhiều.

Còn trái lại, cái hỷ lạc mà của các bậc xuất thế gian, các bậc tu sĩ, các đệ tử của Đức Phật mà tu sĩ, thì cái hỷ lạc này dành cho những bậc thánh chớ không phải là bậc phàm phu. Nếu quý vị mà không thực hiện mình là những bậc thánh thì chắc chắn quý vị không thể thọ hưởng được cái hỷ lạc này.

Mười ba giới đức trong giới luật của Đức Phật vượt tưởng tượng của loài người. Vì thế có người giàu tưởng tưởng tượng, biến cảnh giới của các bậc Thánh Hiền bằng cảnh giới Cực Lạc, mà hiện nay mọi người dựa vào kinh điển tưởng ra, biến cõi Phật thành cõi dục lạc tuyệt đỉnh như các kinh điển đã diễn đạt, thành một thế giới ảo huyền, hư vô, không có thật.

Mười ba giới đức trong giới luật của Đức Phật là một cảnh giới thực tế, cụ thể ở trạng thái tâm hồn của hành giả khi họ đã chắc chắn từ giã, từ biệt, xa lánh, ly dục, ly bất thiện pháp ở thế gian thì họ đã nhận ra được hỷ lạc này.

Như một người từ lâu nghe người ta khen ngợi một loại bánh đặc biệt ở thế gian này chưa từng có, và người thế gian chưa ai từng nếm được nên họ tưởng tượng ra cái ngon của bánh này, kẻ bảo ngon như thế này, kẻ bảo ngon như thế khác, cuối cùng thì chẳng có người nào được ăn và được nếm thử.

Chỉ có những bậc thánh tu hành đúng pháp mới biết được mùi vị của nó. Do thế, người đã có ăn, có nếm được loại bánh này, khi nghe mọi người nói ngon như thế này, nói ngọt như thế kia, thì người này đã bảo: “Quý vị chưa ăn, chưa có nếm nó bao giờ, nên bấy giờ quý vị nói đều sai hết!”

(16:27) Muốn nếm được mùi vị thì quý vị phải từ bỏ cái này, trau dồi cái kia, tu tập cái nọ thì quý vị sẽ vứt bỏ những hỷ lạc ngon ngọt của thế gian thường tình xong thì mới có thể nếm được mùi vị hỷ lạc xuất thế gian, bây giờ quý vị mới rõ, chớ không phải con đường tu hành theo đạo Phật khô cằn, khô cỗi như bãi sa mạc toàn là cát và nắng, nóng bức khó chịu!

Vì thế có người hỏi Thầy: Nếu tất cả mọi người đều tu theo đạo Phật thì thế gian này đâu còn có con người? Đó là đứng núi này mà trông núi khác hoặc là muốn hiểu núi khác thì không thể nào hiểu được. Như con cá ở dưới nước làm sao biết được sự sống trên đất bằng?

Cho nên con người thường sống hằng tưởng nên thường tưởng sai. Thậm chí ngay trong thân tâm này của họ, họ còn hiểu không nổi hết, huống là họ hiểu cảnh giới của các bậc Thánh Hiền.

Đó thì, các thầy muốn mà để hưởng được cái hỷ lạc của các bậc Thánh Hiền, của bậc xuất gia thì phải dứt bỏ cái hỷ lạc của thế gian. Bởi vì nếu mà không có vứt bỏ cái hỷ lạc của thế gian thì không thể nào mà hưởng cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian được.

Bởi vì cái hỷ lạc đó là cái hỷ lạc dục cho nên phải ly dục, ly ác pháp của thế gian ra, thì cái dục lạc của thế gian nó không còn có nữa, thì cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian nó mới có. Vì vậy bây giờ chúng ta còn ôm ấp cái dục lạc của thế gian thì làm sao chúng ta biết được cái mùi vị của xuất thế gian được!

Cho nên hầu hết là quý vị ngồi thiền mà nhập định mà có trạng thái hỷ lạc, khinh an, điều đó là điều sai hết.

Bởi vì chính mình chưa có ly được cái dục lạc của thế gian, tâm mình còn dính mắc cái này, cái kia, cái nọ, dù là mình là một vị tu sĩ nhưng mình vẫn còn dính cái chùa. Chớ đâu phải là mình một vị du tăng khất sĩ, ba y một bát, không còn chùa không còn cái vật gì gọi là của mình hết, thì như vậy mình mới thấy được cái hỷ lạc của bậc xuất thế.

Còn mình chưa có được như vậy mà mình tưởng tượng ra nào là khinh an, nào là hỷ lạc, nào thế này, thế kia, thì cái đó toàn là thứ dục lạc chớ không phải là hỷ lạc.

Bởi vậy tu hành chúng ta phải biết được cái hỷ lạc nào là chân chánh mà cái hỷ lạc nào mà nó không chân chánh.

Cái hỷ lạc mà đem đến chúng ta muôn thứ khổ, đó là cái hỷ lạc của dục, còn cái hỷ lạc mà đem chúng ta yểm ly, xa lánh tất cả các sự ham muốn, sự lôi cuốn của thế gian, của các pháp thế gian, nó làm chúng ta xa lìa được những cái khổ đau đó, thì đó là cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian.

(19:34) Nhưng muốn nếm được mùi vị của nó thì chúng ta phải tách lìa, xa lìa cái hỷ lạc của thế gian thì chúng ta mới thọ hưởng được cái đó. Còn nếu mà không xa lìa, không tách lìa thì chắc chắn là chúng ta không có thọ hưởng được.

Cũng như con cá mà muốn biết được ở trên đất bằng sống như thế nào thì ít ra nó cũng phải lìa khỏi cái hồ, cái sông, cái hồ nước của nó, mà nó lên đất bằng nó mới biết được. Còn bây giờ nó ở dưới nước mà nó muốn biết được ở trên đất bằng thì làm sao nó biết được!

Cho nên đó là những điều mà chúng ta phải ly được thì chúng ta mới thấy được.

Vì vậy mà chúng ta phải thấy được hai cái lộ trình mà Đức Phật đã vạch ra cho chúng ta biết đó là rất là rõ ràng.

Nếu mà chúng ta không thấy được hai lộ trình này thì chắc chắn khó mà chúng ta có thể đạt được cái kết quả của cái sự tu hành theo đạo Phật. Vì cái lộ trình của đạo Phật là xuất thế gian, ly tất cả các dục, các ác pháp của thế gian thì chúng ta mới thực hiện được cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian.

Đó thì, như vậy không có nghĩa là con đường mà đi tu theo đạo Phật nó khô cằn, khô cỗi, mà cho đến khi không còn cái người…​ (Mất tiếng)

Không có thai sanh, thì tức là chúng ta phải có hóa sanh, mà hóa sanh là nó phải là lìa cái dục nó mới hóa sanh được. Còn nếu mà chúng ta chưa lìa dục làm sao chúng ta hóa sanh được.

Cũng như bây giờ chúng ta còn ở trong dục mà chúng ta muốn có thần thông thì thần thông đó là thần thông gì? Thần thông huyễn hoặc, thần thông như là một cái trò ảo thuật gạt người ta.

Còn cái thần thông thực là chúng ta phải có một cái sự ly tất cả các dục này thì chúng ta mới sống được hóa sanh. Hóa sanh thì tức là chúng ta muốn như thế nào ? Như là Tứ Như Ý Túc, chúng ta Dục Như Ý Túc là chúng ta muốn như thế nào nó phải thành tựu như thế nấy. Chúng ta muốn sanh là sanh mà chúng ta không muốn sanh là không sanh.

Chớ không phải là bây giờ chúng ta muốn sanh nó cũng không được, mà chúng ta muốn chết cũng không được, muốn sống cũng không được, đó là chúng ta không có quyền.

Còn khi một cái người mà người ta ly được cái dục lạc của thế gian này rồi người ta có quyền sống chết, người ta muốn sanh như thế nào là theo ý của người ta muốn, muốn người lớn thì lớn, muốn người nhỏ là nhỏ.

Bởi vì khi mà chúng ta lìa khỏi những cái dục lạc thế gian rồi thì chúng ta có sự tự tại như vậy đó.

Cho nên đạo Phật nhắm vào cái chỗ mà chúng ta ly thế gian, ly các pháp thế gian ra thì chúng ta mới đạt được cái kết quả của cái sự làm chủ.

Mà cái sự làm chủ đó nó không có nghĩa là làm cho hoại diệt, làm cho tiêu diệt cái con người ở trên thế gian này. Mà thể hiện con người trên thế gian này càng cao đẹp, càng tốt đẹp hơn, và tâm hồn mỗi con người đều có những cái lòng thiện biết thương nhau, biết chan hòa những tình thương nhau chân thật, không biết ganh đua, không biết tỵ hiềm, không biết tham, sân, si, mạn, nghi, không có Ngũ Triền Cái, không có Ngũ Kiết Sử, không có Thất Kiết Sử trong đó, cho nên toàn là hạnh phúc của mọi người với nhau.

Vì vậy mà chúng ta thấy con đường của đạo Phật là con đường rất rõ ràng, thực hiện nó một cách là chúng ta lìa cho xa khỏi cái cuộc đời ham muốn của thế gian là chúng ta đã đạt được đạo Phật chớ đâu có gì khác hơn.

3.2- NHỮNG TÊN GỌI KHÁC CỦA GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC

(22:36) Như trước kia Thầy đã dạy:

Hai mươi lăm giới hạnh thuộc về thân hành, còn mười ba giới đức thuộc về tâm hành.

Trạng thái tâm hành là gì? Trạng thái tâm hành là thiền định, cho nên thân thuộc về giới hành hay là giới hạnhcòn tâm thuộc về giới định.

Vậy mười ba giới đức tức là mười ba định trong giới luật của đạo Phật. Cho nên có chỗ Phật gọi là Giới - Tâm - Tuệ.

Nghĩa là thay vì Phật gọi Tam Vô Lậu học đó, Phật gọi là Giới - Định - Tuệ, thì có chỗ Phật lại gọi là Giới - Tâm - Tuệ, cho nên tâm tức là giới đức của chúng ta.

Vì vậy mà chúng ta hiểu rõ được cái con đường đi của chúng ta chia làm ba cái giới rất rõ. Mà ba cái giới rất rõ này nó chỉ cho chúng ta nằm ở trong cái vị trí của Tam Vô Lậu học Giới - Định -Tuệ.

Vậy thì giới hạnh tức là giới bổn Pātimokkha, mà giới đức tức là Định, mà giới tuệ tức là Huệ.

Đó là những điều mà hôm nay thì quý thầy mới thấy rõ được điều kiện của đạo Phật Giới - Định - Tuệ hoàn toàn là nó thuộc về giới, chớ không có gì khác hơn hết.

Nhưng mà vì cái vị trí của giới nào nó ở vị trí nấy, nó có cái phận sự ở đó, nó làm cho tâm, làm cho hành động của chúng ta thanh tịnh, làm cho tâm chúng ta thanh tịnh, làm cho trí tuệ chúng ta thanh tịnh thì gọi là Giới.

(24:10) Cho nên lúc đầu Thầy có giới thiệu đó: Giới nó làm cho trí tuệ thanh tịnh mà trí tuệ làm cho giới thanh tịnh. Các thầy nhớ cái chỗ đó.

Vì ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới luật, mà ở đâu có giới luật thì ở đó có trí tuệ, cho nên cái trí tuệ của giới hạnh, nếu mà chúng ta có trí ở trong cái giới hạnh thì cái hành động hằng ngày của chúng ta nó phải thanh tịnh. Mà cái hành động mà được thanh tịnh như vậy thì ở đó phải có trí tuệ.

Cũng như giới đức: Ở đâu mà có tâm thanh tịnh thì ở đó nó sẽ có trí tuệ, mà có trí tuệ ở đó thì phải có giới đức ở đó.

Cũng vậy, cái giới tuệ nó cũng vậy: Ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới tuệ, mà ở đó mà có giới tuệ thì phải có trí tuệ.

Đó thì đến đây thì quý thầy đã thấy rõ được cái con đường đi của Phật toàn là những pháp thiện, cho nên gọi là Sơ Thiện là giới hạnh, mà Trung Thiện là giới đức, mà Hậu Thiện là giới tuệ, rất là rõ ràng.

Bởi vì đạo Phật là đạo thiện pháp, cho nên tất cả đều nằm ở trong giới, mà giới tức là thiện pháp chớ không phải là một cái pháp môn nào xa lạ.

Nhưng muốn thực hiện được những điều đó thì chúng ta có những ba mươi bảy phẩm trợ đạo để mà chúng ta thực hiện con đường tu, để thành tựu được cái con đường thiện pháp này. Con đường thiện pháp này tức là Giới - Định - Tuệ.

Vì vậy ở đây quý thầy phải hiểu giới tâm tức là thiền định, mà thiền định là một cảnh giới thực tại có sự an lạc, tuyệt đỉnh trong cảnh giới đó, không phải không có.

Đó quý thầy hiểu. Bởi vì cái thiền định nó có những cái hỷ lạc của nó. Cho nên Phật có so sánh hai cái hỷ lạc.

Hỷ lạc của dục thế gian, thì chúng ta ăn miếng ngon chúng ta biết ngon, đó là dục lạc của hỷ lạc của thế gian. Có một cái sự êm ấm làm cho chúng ta thích thú, đó là cái dục lạc của thế gian.

Còn ở đây chúng ta ly cái đó ra, cho nên chúng ta đạt được cái sức thiền định thì nó có cái hỷ lạc tuyệt đỉnh hơn là cái dục lạc của thế gian. Nó làm chúng ta thấy có một cảnh giới rất là tuyệt diệu ở trong đó.

Vì vậy ở đây quý thầy phải hiểu giới tâm tức là thiền định, mà thiền định là một cảnh giới thực tại…​

Có hiện chớ không phải là không có hiện. Nơi trong trạng thái tâm hồn chúng ta chớ đâu. Chớ không phải là cảnh giới nào ở xa xôi đâu, nó ở trong cái tâm trạng của chúng ta ở đây. Chỉ chúng ta ly dục là chúng ta sẽ có nó liền, mà chúng ta không ly dục là chúng ta không có nó mà thôi.

(26:38) …​ thực tại có sự an lạc tuyệt đỉnh trong cảnh giới đó, không phải không có. Đức Phật đã xác định điều này rất là rõ ràng qua bài so sánh bốn hỷ lạc thế gian của phàm phu và bốn hỷ lạc xuất thế gian của bậc Thánh.

Tiếc rằng, kẻ phàm phu tu hành chưa tới nơi tới chốn, cứ tưởng tượng ra hỷ lạc thế này, thế kia làm sai con đường tu hành theo đạo Phật, làm cho Phật Pháp gần như mất gốc, người tu thời nay hết biết đường tu, tu tầm bậy, tầm bạ, đời, đạo lẫn lộn, đạo Phật mà bây giờ lại giống như các tôn giáo khác trên thế gian này, thật rất đau lòng!

Kinh sách nguyên gốc của Đức Phật còn đó, mà người hiểu theo tâm dục lạc thế gian của mình nên thành sai lệch quá xa.

Đó thì, lấy cái tâm dục lạc của mình mà hiểu qua kinh điển của Phật thì làm sao hiểu cho nổi! Ít ra mình phải hiểu được cái kinh sách của Phật là cái tâm của mình phải ly dục lạc của thế gian mà thọ hưởng cái dục lạc của pháp xuất thế gian, thì chừng đó mình hiểu từng chữ, từng nghĩa rất rõ ràng không sai.

Mà bây giờ nhìn lại, ai là người mà đã ly được dục lạc thế gian? Mà đã thọ hưởng được dục lạc pháp xuất thế gian? Mà để nhìn lại kinh sách để dẫn chúng ta đi con đường này?

Tức là phải là những bậc A La Hán, những bậc mà có thể phải là có những cái kinh nghiệm tu hành chính xác ở trong giới luật của Phật, và sống đúng Phạm hạnh, đức hạnh của Phật, của đạo Phật thì mới có thể giải nghĩa và giải liễu pháp nghĩa và pháp của Phật, mới có thể đem lại cho chúng ta thấy rõ con đường tu tập.

Còn những bậc phàm phu có kiến thức học hỏi, nhưng làm sao hiểu được nghĩa lý này cho thông suốt? Cho nên làm sao vạch ra cho được! Từ đó tưởng ra thế này, tưởng ra thế khác làm cho con đường của Phật pháp quá xa xôi, quá xa lạ, làm cho chúng ta chẳng biết đường nào mà đi vào cho đạt được kết quả giải thoát.

(28:46) Mười ba giới đức trong giới luật của đạo Phật, của Đức Phật đã xác chứng thiền định của đạo Phật là giới luật nghiêm chỉnh mà thành thiền định.

Nghĩa là thiền định của đạo Phật phải là lấy giới luật nghiêm chỉnh nó mới có thiền định. Bởi vì thiền định của đạo Phật, mà muốn có thiền định của đạo Phật thì không thể một cái người mà tu thiền định đó mà còn sống ở trong dục lạc thế gian được.

Như quý vị bây giờ ăn ba, bốn bữa làm sao quý vị có thiền định được, còn chưa có ly cái dục ăn mà! Quý vị còn ham ngủ làm sao quý vị thực hiện được con đường thiền định này? Quý vị thấy rất rõ.

Cho nên từ cái kiếp sống của quý vị, quý vị còn ham thích từ cái nhà, từ cái cửa, từ cái vật dụng, từ Phật tử, từ cái danh, cái nhỏ nhỏ làm trụ trì, hoặc làm ông này, bà kia, thì thử hỏi cái đó là cái dục lạc của thế gian mà! Mà chưa có ly được nó thì làm sao mà quý vị thực hiện được con đường thiền định chân chánh của đạo Phật?

Cho nên hầu hết là cái sự tu hành của quý vị đều sai hết, không có còn cái chỗ nào gọi là đúng.

Bởi vì từ cái chỗ Sơ Thiền của Phật chúng ta thấy rõ ràng: Ly dục, ly bất thiện pháp, nhập Sơ Thiền, thì từ đó nó mới có cái hỷ lạc của sự ly dục, chớ đâu phải khi không mà có được, tức là mình phải ly cho sạch.

Đó thì thấy qua một cái Sơ Thiền, một cái thiền thứ nhất của đạo Phật mà chúng ta đã thấy được cái điều kiện mà Đức Phật đã xác định như vậy.

…​ chớ không phải ngoài giới luật mà đi tìm thiền định có được. Bởi vậy ly dục, ly bất thiện pháp mới nhập được Sơ Thiền. Điều này quá rõ ràng: Giới luật sanh ra thiền định.

Nghĩa là từ ở trong cái giới hạnh mà chúng ta mới có được cái giới đức chớ không phải là tự dưng mà không có giới hạnh mà giới đức có được.

Nghĩa là quý vị mà không dẹp bỏ tất cả những cái nghề nghiệp thế gian mà sống, mà còn có một bình bát, ba cái y mà đi xin ăn, thì chắc chắn là quý vị có làm một cái nghề gì đi mà sống trên cuộc đời này thì quý vị chẳng bao giờ mà xa lìa được cái dục lạc.

Mà chẳng xa lìa được cái dục lạc thì giới hạnh của quý vị chưa xong, thì quý vị không bao giờ mà có thể nếm được cái mùi vị của giới đức được! Do đó làm sao có thiền định được!

Nếu không có giới hạnh thì không bao giờ có giới đức.

Mà giới hạnh - quý thầy đã biết: Một vị tu sĩ chỉ còn ba y, một bát; không còn có một nghề nghiệp gì sanh sống, chỉ đi xin ăn mà thôi; đời sống không nhà, không cửa, không người thân thuộc, ruột thịt; giữa mọi con người tình thương bao la, rộng mở.

Có sống như thế thì định kia mới sanh ra, tức là giới đức mới tròn đủ.

Giới hạnh được Phật xem là Sơ Thiện, còn giới đức được xem là Trung Thiện. Vậy quý thầy học đến đây là chúng ta đã học được Sơ Thiện và Trung Thiện trong giới luật của đạo Phật.

Đến đây Thầy dừng lại.

4- NHỜ XẢ ĐƯỢC TÂM MỚI TU HÀNH DỄ DÀNG

(31:47) Trước khi mà nghe cái bài giảng buổi sáng của Thầy thì các con - Thầy kiểm điểm lại sự tu tập của các con trong cái giờ này.

Thì sau cái thời gian mà được nghe cái giáo án tu tập của Đức Phật, và cái sự mà trực tiếp được cô Út, mà gặp những cái duyên mà cô Út cổ tạo điều kiện cho mấy con xả được tâm. Cái vấn đề mà học tu tập theo đạo Phật và cái vấn đề xả tâm là cái vấn đề rất quan trọng.

Cho nên qua những cái gương hạnh của các bậc Thánh Ni cũng như Thánh Tăng trong thời Đức Phật, các con thấy người ta không phải là người ta tu thiền như mình, mà thường thường là người ta hay đặt cái niệm, cái hoàn cảnh của người ta.

Người ta gặp cái hoàn cảnh như cái lòng người ta khổ sở, như hồi sáng này Thầy có thuật lại cho quý thầy nghe một câu chuyện của một người mẹ. Bà là một hoàng hậu của một nhà vua, bà sanh ra được một đứa con, rồi đứa con gái đó chết, rồi bà khóc thương đứa con gái đó.

Do đó thì gặp Đức Phật, Đức Phật hướng dẫn cho bà, thì bà xả bỏ cái lòng thương đó, và khi xuất gia tu hành theo Phật thì Đức Phật khuyên bà nên lấy cái đề mục cái lòng thương yêu đó mà bà đặt trước mặt, rồi bà thực hiện cái tâm vô lậu của mình. Cuối cùng thì bà lấy cái đề mục đó mà bà đã thành tựu được đạo giải thoát.

Nó có nhiều cái gương hạnh mà chúng ta thấy rằng ngay cái tâm trạng của chúng ta khổ, khó khăn, gặp cái khó khăn nào đó, thì chúng ta lấy cái niệm đó mà chúng ta đặt trước mặt, rồi chúng ta dùng cái pháp tuỳ, pháp hướng, pháp quán, để chúng ta thấu triệt được, chúng ta phá vỡ cái tâm của chúng ta, từ đó cái lậu hoặc nó không còn nữa.

Mà nó không còn nữa thì tức là chúng ta sẽ thanh tịnh tâm. Mà thanh tịnh tâm thì trong cái thời gian mà dùng cái pháp hướng, cái pháp quán, cái pháp tùy đó thì nó giúp cho tâm chúng ta có cái - nhất là cái pháp hướng - thì nó có cái hiệu quả rất lớn là chúng ta chỉ cần ra lệnh.

Do đó khi mà cái pháp hướng mà đã thành tựu được cái Định Vô Lậu, thì nó rất hiệu quả, mà cái tâm thanh tịnh nữa rồi, do đó các vị đều có thể có cái sức làm chủ được cái thân hành, khẩu hành và ý hành. Thân hành là cái gì? Là hơi thở. Mà khẩu hành là cái gì? Là Tầm Tứ. Mà ý hành là cái gì? Là thọ tưởng.

(34:16) Cho nên lúc bây giờ cái pháp hướng đó nó có hiệu quả thì các ngài chỉ cần ra lệnh, các ngài truyền lệnh nó, bảo cái ý hành, cái khẩu hành nó ngưng nghỉ thì cái Tầm Tứ nó ngưng đi. Nó ngưng thì vị đó sẽ nhập Nhị Thiền.

Mà khi cái thân hành mà muốn điều khiển nó thì vị đó chỉ ra lệnh là: “Cái hơi thở ngưng đi! Các hành hoạt động của hơi thở ngưng đi!” - thì nó lại ngưng đi, thì vị đó nhập Tứ Thiền.

Mà nếu mà vị đó lại ra lệnh bảo: “Cái ý hành ngưng đi!” thì cái thọ với cái tưởng nó ngưng đi, nó không hoạt động nữa, thì lúc bây giờ các vị đó nhập Diệt Thọ Tưởng Định.

Thì các thầy, các con thấy người ta tu hành quá dễ dàng là vì người ta chỉ phá đi cái tâm vô lậu của mình thôi.

Thì trong cái bài giảng kế của Thầy đó, thì như các con đã thấy là sau khi mà học cái giới hạnh, rồi kế đó là chúng ta học đến cái giới đức, nó có cái kết quả rất lớn. Là vì cái giới đức nó nằm trong có mười ba cái giới đức của nó, nó tạo cho chúng ta thành một cái sức thiền định rất lớn chớ không phải tầm thường được.

Do vì vậy đó mà chúng ta học từ giới hạnh rồi đến giới đức rồi giới tuệ. Hồi sáng này, Thầy định giảng cho nó hết cái giới đức, nhưng cái thời gian nó không có dài được, nó tới giờ ăn cơm rồi, cho nên phải dừng lại còn một còn năm ba tờ nữa nó mới hết cái giới đức rồi mới chuyển qua cái giới tuệ.

Rồi khi mà học hết cái giới tuệ rồi thì chúng ta lại học tới cái giới bổn. Nội trong cái giới không mà chúng ta đã thấy rằng nó rất nhiều, mà nó rất là vi diệu, vì hầu hết là các vị Tỳ Kheo trong cái thời Đức Phật tăng cũng như ni đều là người ta ở trong giới mà người ta thành tựu đạo giải thoát chớ không phải ngoài giới mà đi tìm thiền định mà có được.

Cũng như ngoài cái giới mà đi tìm cái sự làm chủ thân tâm thì không có được. Bởi vì đạo Phật xây dựng trên cái thiện pháp cho nên giới là thiện pháp, tuy rằng cái giới hạnh, giới đức và giới tuệ nó cũng đều nằm trong cái thiện pháp tất cả hết. Cho nên chúng ta làm được chủ sanh tử đều nằm ở trên thiện pháp.

Vì lấy cái nhân quả mà làm cái nền móng cho cái thiền định của mình, do vì vậy mà phải tu tập cho đúng cái giới luật của Phật. Cũng vì cái giới luật của Phật mà bây giờ người ta coi nhẹ, người tu sĩ xem thường cái giới luật, cho nên người ta tu thiền mà nó không đạt được thành ra thiền điên, thiền khùng chớ không phải thiền đúng cách.

Còn chúng ta hiện giờ chúng ta tu đúng cách giới luật của Phật thì những cái thiền định của chúng ta tức là chánh thiền nó không phải là tà thiền. Và cái sự làm chủ sanh tử của chúng ta cũng rất dễ dàng.

Cho nên trên cái bước đường mà tu học thì các con nhớ kỹ rằng mỗi một cái niệm mà các con thấy, như cô Út quạt mấy con, tức là tìm mọi cách, kẻ hở nào là đập được là đập xuống liền để thấy cái tâm của các con ở chỗ nào, ở cái mức nào mà tu tập nó được hay là không.

Cho nên cô út bã thấy mấy con mà tu…​ (Mất tiếng) cô Út biết cái đó rất rõ.

(37:16) Cho nên hầu hết là các con thì - Thầy thì tùy thuận, ai muốn sao thì Thầy cũng duyên theo rồi lần lần gỡ lần cái rối của các con ra, còn cô Út nói:

“Như vậy mất thì giờ người ta nhiều lắm, Thầy dạy như vậy làm mất thì giờ lắm. Còn con đập ngay liền, xã được cái tâm thì nó thanh tịnh thì vô đó là vô định, mà không xã được thì bây giờ ngàn đời họ cũng chẳng có vô định được. Cho nên làm cho họ đừng có mất thì giờ mà họ đi vào cái rốt ráo cho nhanh hơn!”

Qua cái sự bàn bạc với cô Út Thầy thấy cô Út cổ có muốn các con tu nhanh hơn. Nhưng mà Thầy nói bây giờ nó lỡ cái thời đại rồi, cái thời đại này người ta phá giới nhiều quá, người ta chỉ chăm chú vào cái sự ức chế tâm để người ta vào định, thì mình lần lượt mình gỡ lần, chớ mình làm như vậy thì họ nghĩ rằng mình dạy không đúng Phật pháp.

Nhưng hôm nay vì cái giáo án này được ra đời thì vạch ra cái lối của Phật đi ngày xưa, tất cả các vị Thánh Tăng ngày xưa tu tập như vậy đó.

Và cũng là một cái điều, cái giáo án này ra đời cũng là một cái điều rất là chướng cho thiên hạ, là tại vì họ phá giới luật của Phật, họ không thấy con đường thiền định của đạo Phật xây dựng ở chỗ nào đúng, chỗ nào sai, cho nên cũng là một cái chướng ngại cho những người tu phá giới. Bởi vì, cái phá giới làm chúng ta nhìn rất rõ.

Như các con đã thấy, khi mà các con học giới hạnh rồi, thì các con biết nhìn vào cái giới tu sĩ hiện giờ mà trồng tỉa hoặc làm cái này, cái kia, toàn bộ là sai hết rồi, không có đúng giới rồi. Còn làm cái nghề này, còn làm cái nghề kia, hoặc thầy thuốc hoặc cái này kia, hoặc đi cúng bái, đều là sai hết không có đúng cái giới hạnh rồi.

Rồi đến cái giới đức thì các con thấy còn rõ ràng hơn nữa. Tới cái giới đức phải là như thế nào, thế nào thì bữa nay các con sẽ nghe cái lời giảng ở trong băng là như thế nào thì các con biết.

Cho nên qua những cái lần mà trắc nghiệm Thầy thấy trong chúng mình cũng có nhiều người tiến bộ lắm. Khi bị cô Út đập mà các con thấy vẫn thản nhiên, vẫn tươi tỉnh, thì cô Út xét người - Thầy nói sau cái thời gian tu tập cô Út xét người mà quyết đoán thì thấy có người tiến bộ, nhưng mà có người thì còn chậm lụt lắm chưa có tiến bộ được.

Nhưng mà Thầy tin rằng trong cái thời gian gần đây mà các con nỗ lực tu tập thì chắc chắn là đúng pháp, nó không sai nữa. Nhất là cái giáo án mà ra đời thì các con biết được cái đường lối của đạo Phật, cho nên các con không bị lạc nữa rồi. Vì vậy mà các con không còn tập trung chú tâm vào cái chỗ mà ức chế tâm của mình, để đi lạc vào thiền định.

Vì các con biết, trước kia Thầy có nói các con là có sáu cái tưởng chớ gì? Sáu cái tưởng. Nhưng mà Thầy giảng về cái giới đức, đến cái giai đoạn mà ở trong cái chỗ mà cái khoảng giữa cái Nhị Thiền, cái khoảng đường mà đi từ cái Nhị Thiền để đến nhập Tam Thiền, cái khoảng đường đó nó tới mười sáu cái tưởng chớ không phải là sáu cái tưởng đâu.

Mười sáu cái tưởng mà các con phải vượt qua mười sáu cái tưởng, mà nếu các con ức chế tâm thì mười sáu cái dục tưởng này các con không có vượt qua nổi, và con sẽ chết đuối ở tại cái chỗ - cái khoảng đường mà từ cái Nhị Thiền mà đi sang qua Tam Thiền chớ chưa có nhập được Tam Thiền đâu, nó mười sáu cái tưởng chớ không phải!

Bởi vì Thầy trước kia Thầy nói sáu cái tưởng thôi, nhưng mà khi mà dạy cái giới luật, mà về cái giới Đức đó, thì người ta bị mười sáu cái tưởng này mà rớt, không có người nào mà ngoi lên được cái chỗ này.

Cho nên khi mà ly dục, ly bất thiện pháp rồi, mà xa lìa năm triền cái mà chúng ta quăng sạch ra rồi, thì lúc bấy giờ chúng ta mới vượt qua chỗ này nổi.

Còn cái tâm mà phiền não tham, sân, si thì các con sẽ bị chìm đắm dưới này, quỷ la sát với hà bá long vương bắt quý vị, bắt các con nhận xuống biển hết, không có người nào mà ngoi đầu lên được hết, đi không có được tới Tứ Thiền đâu. Đó là con đường rất là khó khăn.

(40:38) Cho nên cô Út cổ nói với Thầy: “Mình phải ngay từ bây giờ phải đập phá những cái triền cái của các vị” - mà triền cái thì các con biết tham, sân, si, mạn, nghi chớ gì, nó làm cho các con phiền nảo vô cùng. Mà chính học tới giới đức các con mới thấy năm cái triền cái này mới rõ, nó nguy hiểm vô cùng.

Nó năm triền cái nè rồi nó năm, nó có năm cái hạ phần kiết sử nè, năm cái thượng phần kiết sử nè, rồi bảy cái kiết sử nữa, nó trói buộc các con quá chặt chẽ. Vì vậy mà cái lúc này là lúc mà các con phải đập cho sạch.

Cho nên cô Út cổ mạnh dạn cổ đập, đập cho được người nào là tốt người nấy. Cho nên các con thấy, người nào mà còn dính gia đình hay hoặc cái này kia cổ tìm mọi cách cổ đập ra, rồi cổ tìm mọi cách để mà cổ cứu vãn.

Thí dụ như Đào nó gặp cái trường hợp như vậy đó, cổ âm thầm, cổ nhiều cách, cổ tìm cách cổ cứu vãn để cho rứt cái gia đình ra, để cho cứu được một người nào mà ra khỏi cái trần gian là mình phước báu vô cùng lận, cho nên cổ tìm mọi cách.

Khi mà thấy Thầy đưa ra những cái phương án mà giúp cho Đào, cô bác hết, cô nói làm không được, cô nói vậy không đúng, cổ giải quyết à. Thì Cổ âm thầm không ai biết cái điều kiện cổ giải quyết như thế nào Thầy cũng chả biết, nhưng mà Thầy biết rằng cổ có cái khả năng có thể giúp cho mấy con được.

Còn riêng Thầy thì Thầy là một người nam, cho nên vì vậy mà Thầy thấy càng có người - khi mà cái giáo án ra đời hoặc là khi mà người ta hiểu được Thầy thì Thầy phải giữ được cái phẩm hạnh của một vị tu sĩ, của một bậc chân tu. Cho nên Thầy phải từ giã danh, từ giã lợi, từ giã sự cung kính và từ giã đồ chúng, từ giã tất cả mọi người để giữ được cái giềng mối của một người tu sĩ đạo Phật.

Cho nên Thầy vắng mặt, nhưng mà có cô Út, có những người đệ tử Thầy đã dạy có đủ kinh nghiệm ở bên nam để họ hướng dẫn các con, Thầy sẽ âm thầm ở trong cái ẩn bóng mà trợ giúp cho các người đệ tử của Thầy, những cái gì khó khăn thì lúc bấy giờ có mặt Thầy, còn không có khó khăn thì coi như là Thầy và các con không bao giờ gặp nữa.

Đó là những cái lúc mà cần phải - để giữ gìn cái mạng mạch của Phật pháp phải có những bậc chân tu của đạo Phật, để cho cái đạo Phật càng ngày càng sáng tỏ, và đem được cái nền đạo đức nhân quả để giúp cho mọi người ở trong thế gian này tự bàn tay của họ đem lại cái đời sống hạnh phúc, an vui xóa được cái đói nghèo của họ.

Chớ không phải chúng ta đem cơm, đem áo, đem tiền mà cho họ gọi là xóa đói giảm nghèo. Vì họ không có làm đủ cái điều thiện thì họ làm sao họ hưởng được cái phước báo thiện được? Họ làm ác mà làm sao họ không đói, không khổ, không nghèo!

Còn chúng ta dạy cho họ hiểu: Tự bàn tay họ, tự khối óc của họ, tự hành động của họ làm bằng những thiện pháp thì ngay đó họ đã hưởng được cái phước báu chính bản thân của họ chớ không ai xa lạ hơn.

Vì đó là một cái đạo đức nhân quả mà không thể nào mà chúng ta giúp cho họ mà hết cái nhân quả đó được, hết cái nhân quả khổ được. Cho nên ở đây cái mục đích của chúng ta là phải biết rằng tu hành không có phải nhằm vào cái mục đích giải thoát cá nhân của mình, mà phải giải thoát cho cả muôn người là ở cái chỗ này.

Đến đây Thầy sẽ nhường lại cái buổi sáng mà Thầy thuyết giảng cho quý vị nghe cái lời dạy trong băng.

5- GƯƠNG HẠNH TU TẬP THỜI ĐỨC PHẬT - PHẦN 4

[Phần 3 ở Giáo án 18]

(43:34) Bây giờ để tiếp tục cái chương trình học tập của giáo án, trước khi học đến giới tuệ thì Thầy xin thuật lại một vài mẩu chuyện của các bậc Thánh Tăng, để bước qua cái giới tuệ chúng ta biết giới tuệ là như thế nào. Nếu mà không có những cái gương hạnh này thì chắc chắn là chúng ta chưa biết cái giới tuệ của Phật là như thế nào.

Bởi vì hầu hết là các thầy cũng có học giới luật chớ không phải không, nhưng mà các thầy chưa có được nghe những cái lời giảng mà do từ kinh nghiệm bản thân của Thầy, mà Thầy thấy đó là một cái điều mà cần phải lưu lại cho cái giáo án này.

Cho nên qua những cái điều kiện mà nêu lên những cái gương hạnh của những bậc Thánh Tăng trong thời Đức Phật để quý thầy lấy cái đó mà thấy được khi mà bước sang qua cái giai đoạn giới tuệ là nó như thế nào. Chớ không khéo thì quý thầy tưởng là như là giới hạnh hay hoặc là giới đức nữa, nó lại khác rồi, nó không giống rồi.

Để tiếp tục học chương trình giáo án này ta nên noi gương các bậc Thánh Tăng thời Đức Phật để lấy đó mà làm gương hạnh sách tấn tu hành cho mình.

Bây giờ Thầy thuật lại:

Ông Phú Lâu Na.

Chắc ai cũng nghe cái ông này hết.

Khi đến tuổi trưởng thành…​

Hình như là ông Phú Lâu Na Thầy có thuật rồi phải không các con? Rồi phải không. Ngài Nita cũng có thuật rồi, ngài Vacchapàla cũng thuật rồi, bây giờ tới Ngài Gavampati.

1- NGÀI GAVAMPATI DÙNG THẦN THÔNG CHẶN ĐỨNG NƯỚC SÔNG

(45:09) Ngài Gavampati.

Ngài theo Phật xuất gia và chứng quả A La Hán.

Một hôm Đức Thế Tôn và một số đông Tỳ Kheo trên đường du hành vượt sông Sarabhà. Nhưng đến đó trời tối, mọi vị Tỳ Kheo phải nằm nghỉ trên bãi cát sông Sarabhà. Đến nửa đêm nước sông dâng lên và các thầy Tỳ Kheo trẻ tuổi la ồn náo. Thế Tôn nghe vậy bảo Gavampati can thiệp.

Vị Trưởng lão dùng giới tuệ Thần Túc Thông của mình làm theo lời Phật dạy, dừng dòng nước lại từ xa, khiến cho dòng nước dựng đứng lên như ngọn núi mà không tràn vào bãi cát được. Do vậy, mọi người biết Ngài có thần thông siêu việt. Hôm sau, chúng và Thế Tôn được Ngài đưa sang sông an lành.

Sau khi Đức Phật và đại chúng đi xong thì người ta không còn thấy Ngài nữa, Ngài đã ẩn bóng. Do vậy, Bậc Đạo Sư dùng kệ tán thán công đức của Ngài:

Với tuệ Thần Túc Thông,

Dựng đứng nước Sara,

Chính Gavampati,

Không ỷ lại, không động,

Ẩn bóng giấu tung tích,

Vượt qua mọi trói buộc,

Chư Thiên đều đảnh lễ,

Bậc Đại Sĩ Mâu Ni,

Đã vượt qua sanh hữu.

Đó là cái bài kệ của Đức Phật tán thán cái vị tu sĩ này. Đó thì khi mà đến giới tuệ thì các thầy thấy cái sức thần thông của họ đến cái mức độ nào. Nước sông tràn như vậy mà dùng thần thông chặn đứng nước sông cao như núi mà không tràn xuống được.

Đó là cái ý muốn của người ta muốn như thế nào được như thế nấy. Đó gọi là tuệ giải thoát đó, chớ không phải tri kiến giải thoát đâu. Ở đây chúng ta lầm tưởng, lấy cái chỗ tuệ của định mà sanh ra, là cái tuệ nó không phải là cái tuệ tầm thường của phàm phu, không phải là trí tuệ tầm thường.

Cho nên chúng ta thấy ở trong kinh sách thường nói, khi mà chúng ta niệm hương, có cái bài hương đầu tiên đó: giới hương nè, định hương nè, dữ huệ hương, thì cái huệ hương đó nó thuộc về nằm ở trong Giới - Định - Tuệ đó, thì nó khác rồi.

Nhưng mà tri kiến và tri kiến giải thoát hương thì hai cái hương sau cùng này, là cái hương tri kiến và cái hương tri kiến giải thoát nó không phải là tuệ đâu. Nhưng mà cái hương tri kiến giải thoát nó nằm trong góc độ của tuệ thứ nhất, của giới tuệ thứ nhất. Thì một lát nữa quý thầy sẽ học tới cái tuệ thứ nhất, cái giới tuệ thứ nhất thì quý vị biết đó là cái tri kiến giải thoát.

Còn cái tri kiến mà hiện chúng ta dùng đây nó không phải là tuệ đâu, nó là cái tri kiến, cho nên nó là cái sự kết tập những sự hiểu biết, chớ không phải là như các vị đã giảng, thường là giảng cho chúng ta biết là văn - tư - tu, nó có ba cái tuệ gọi là: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ.

Những điều đó là những điều kiến giải của những bậc học giả, không phải là của những bậc tu hành chứng. Cho nên họ không có biết cái tri kiến như thế nào và tri kiến giải thoát như thế nào, cho nên họ gồm cho đó là trí tuệ của họ. Sự thật ra chưa phải, họ chưa hiểu.

(48:33) Bởi vì cái trí tuệ của đạo Phật mà khi từ định mà sanh ra, trí tuệ vô cùng tuyệt, siêu việt, không phải là cái trí tuệ tầm thường. Họ ở trong cái Tứ Như Ý Túc mà họ sử dụng cái trí tuệ đó chớ không phải là tầm thường.

Còn khi mà họ ra bình thường, họ sống như bình thường chúng ta thì họ dùng cái tri kiến giải thoát, cho nên gọi là tri kiến giải thoát.

Nhưng tri kiến giải thoát nó chỉ nằm ở trong mười ba cái giới tuệ của Đức Phật. Mà cái giới tuệ đầu tiên đó là cái tri kiến giải thoát của họ, còn tất cả những cái tuệ sau cùng, tới sau cùng đều là những cái tuệ do từ định mà sanh ra, cho nên cái tuệ siêu việt chớ không phải là tuệ tầm thường.

Để rồi học tới đó thì quý thầy mới thấy được cái giới tuệ của Đức Phật tuyệt diệu chớ không phải là cái thứ mà cái tri kiến kết tập, tích hợp lại những cái sự hiểu biết của kinh sách, của các vị kim cổ, hiểu biết của các bậc Thánh Hiền để lấy làm của mình đó, thì cái tri kiến đó gọi là cái tri kiến chớ chưa được gọi là trí tuệ, chưa được gọi là cái gì cả hết. Mà cũng chưa được gọi là cái tri kiến giải thoát nữa.

Đó thì, đủ biết rằng cái con đường của đạo Phật nó dạy chúng ta rất là rõ ràng và cụ thể. Cho nên ở đây chúng ta thấy cái vị này họ đạt được cái giới tuệ Thần Túc Thông. Ở đây người ta dùng cái danh từ là:

Với tuệ Thần Túc Thông,

Dựng đứng nước Sara,

Tức là dựng đứng nước sông Sarabhà.

Chính Gavampati,

Tức là ngài Gavampati, Ngài dựng đứng nước sông lại, không có cho nước tràn vào bờ, vào bãi cát để cho chúng Tỳ Kheo yên ổn mà ngủ suốt đêm đó để mà sáng mà lên đường đi.

Khi mà làm được những cái hành động đó vậy thì Ngài không có ỷ lại, Ngài không có ngã mạn cho nên:

Không ỷ lại, không động,

Tâm Ngài không có thấy đó là mình hơn ai hết, nghĩa là bình thường cũng như mọi người. Rồi khi mà đưa chúng Tỳ Kheo đi xong rồi thì Ngài lại ẩn bóng, Ngài giấu tung tích của mình, chẳng bao giờ ai thấy Ngài ở trong cái đoàn đó nữa.

(50:32) Vượt qua mọi trói buộc,

Ở đây mọi trói buộc không có nghĩa là - nghĩa là vượt qua cái sự khen tặng của các Tỳ Kheo, của các vị cư sĩ trong cái thời đó, cho nên Ngài đã ẩn bóng, Ngài không để cho lộ tung tích nữa. Đó là Ngài đã vượt qua cái sự khen của các vị đó.

Chư thiên đều đảnh lễ,

Hồi nãy cái chỗ cái câu này là “chư thiên” chớ không phải là “chư thiền”.

Chư thiên đều đánh lễ,

Nghĩa là các chư thiên đều thấy cái sự ẩn bóng, và thấy cái hành động của ông ta làm mà tâm không có ngã, không ỷ lại, thì cho nên chư thiên ở trên các cõi trời đều đến đảnh lễ Ngài.

Bậc Đại Sĩ Mâu Ni,

Những người đó gọi là Đại Sĩ Mâu Ni.

Đã vượt qua sanh hữu.

Nghĩa là không còn dính mắc cái sự sanh hữu, tức là khen chê, hoặc cái này kia, họ đã vượt qua hết những cái đó rồi.

Đó là qua bài kệ, như vậy chúng ta thấy khi mà cái trí tuệ, mà giới tuệ của họ, Thần Túc Thông như vậy, siêu việt như vậy đó, thì họ là những con người siêu việt rồi không thể nào mà tưởng tượng được.

Khi mà chúng ta tu hành tới cái tuệ, cái giới tuệ thì chúng ta cũng như vậy. Nghĩa là chúng ta muốn như thế nào là đạt như thế nấy, chớ không phải là cái muốn của chúng ta như còn phàm phu là muốn ăn, muốn ngủ đâu, hay hoặc là muốn nhà, muốn cửa, muốn chùa to, tháp lớn nữa đâu, hay hoặc là muốn làm danh làm ông này, ông kia đâu, không có đâu.

Người ta sẽ muốn cái khác, chớ không phải. Muốn làm sao cho tất cả thế gian này được hưởng hạnh phúc, muốn làm sao cho tất cả mọi người đều thực hiện những cái thiện pháp để đem lại những cái quả lành cho mọi con người để được an lành trong cuộc sống. Đó là cái muốn của những bậc mà người ta có trí tuệ, có giới tuệ.

Còn những bậc mà chưa có giới tuệ, họ còn muốn danh, muốn lợi của thế gian, họ còn muốn tiền tài của báu, họ còn muốn chùa to, tháp lớn, họ còn muốn đồ chúng, họ còn muốn bành trướng chỗ này đến chỗ kia để gây cơ sở bằng cách này, bằng cách khác. Đó là cái muốn của họ đó. Đó là cái muốn của thế gian.

2- NGÀI UTARA QUÁN XÉT KHỔ THỌ KHI BỊ TRA TẤN

(52:24) Bây giờ Thầy thuật lại cho quý thầy thấy một vị nữa.

Ngài Utara.

Ngài sanh ở thành Vương Xá, Ngài thông minh và thông suốt ba bộ kinh Vệ Đà, Ngài có danh tiếng tốt, Ngài có đức hạnh và dung sắc đẹp đẽ. Ngài được một vị bộ trưởng ở thành Ma Kiệt Đà gả con gái cho Ngài, nhưng Ngài từ chối.

Xuất gia với ông Xá Lợi Phất nên Ngài thường làm bổn phận của một chú Sa Di hầu thầy. Một hôm Tôn giả Xá Lợi Phất bị bệnh, Ngài phải ôm bình bát ra bờ hồ lấy nước cho ông Xá Lợi Phất. Khi lấy nước xong, Ngài để bình bát ở trên bờ rồi lội xuống hồ để tắm.

Cùng lúc ấy có một tên trộm bị lính đuổi chạy ra khỏi thành. Khi chạy ngang qua bình bát của Ngài đang để trên bờ sông, gã ăn trộm liền quăng của báu đánh cắp vào bát của Ngài. Các người lính đuổi theo thấy trong bình bát của Ngài có của báu ăn cắp nên bắt Ngài về đưa cho bộ trưởng Vasakàra…​

Đó là cái người muốn gả con cho ông ta đó, mà ông từ chối, ông đi tu đó.

…​ để trừng trị.

Nghĩa là bây giờ bắt ông đem về trừng trị do cái tội ông ăn cắp.

Ngài bị hành hạ đến chết đi sống lại. Bậc Đạo Sư liền đến khuyên Ngài: “Đây là kết quả của nghiệp đời trước của ngươi, ngươi cần phải chấp nhận và nhờ sức mạnh tư duy khổ thọ, tu tập Định Vô Lậu thì mới thoát khỏi nghiệp khổ này”.

Bậc Đạo Sư nói xong, đặt tay nhẹ lên đầu ông.

Trong lúc đó ông bị cột trói ở trong một cái trụ cột rất là to, và đồng thời thì Đức Phật hiện đến và khuyên ông nên lấy cái Định Vô Lậu đó mà thực hiện cái khổ thọ, lấy cái đề mục khổ thọ mà đặt ra trước mặt để mà thực hiện cái Định Vô Lậu. Và khi nói xong thì Đức Phật xoa đầu ông một cái rồi Đức Phật biến mất.

Nhờ thế mà tâm tư ông phấn khởi, đặt niệm quán xét thọ khổ, cuối cùng đoạn tận các uế nhiễm và lậu hoặc, chứng sáu thắng trí, chứng quả A La Hán.

Lúc bấy giờ ông đang bị cột trói trong một trụ cột rất to. Khi chứng quả xong, ông dùng giới tuệ Thần Túc Thông, vươn mình lên khỏi trụ cột, Ngài đứng trên hư không và hiện thần thông. Vì lòng từ mẫn đối với kẻ khác, Ngài không làm hại một người nào hết.

(55:20) Nghĩa là ông bị hành hạ đến cái mức độ mà tàn nhẫn đến sức không chịu đựng nổi. Bởi vì cái thù hận của cái ông bộ trưởng này đó, là vì gả con cho ông mà ông không có nhận, cho nên khi mà bắt ông là ăn trộm rồi thì ông này hành hạ rất là độc. Do đó thì, khi đó thì ông đã thực hiện được, nhưng mà cái lòng từ mẫn của ông, ông không bao giờ hại những cái kẻ mà đã làm hại ông.

Trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, các vết thương trên thân Ngài đã bị tra tấn quá tàn ác đều được lành hẳn.

Nghĩa là lúc bấy giờ ông dùng thần thông thì các vết thương ở trong thân của ông nó đều lành hết, nó không còn bầm xanh, hoặc là còn đổ máu, hoặc còn rỉ máu, hoặc còn mủ máu nữa.

Có người hỏi Ngài: “Trong cảnh đau khổ ấy, làm sao Ngài còn bình tĩnh mà tu tập được?”

Ngài trả lời:

“Tôi nhờ bậc Đạo Sư nhắc nhở và an ủi. Khi tôi thấy rõ sự đau khổ là nhân quả kiếp trước tái sanh của tôi, và tánh nhân duyên sanh của sự vật, và sự nguy hiểm của sự đau khổ trước kia nhiều hơn hiện tại, vì thế tôi không còn dao động, tôi phát triển thiền quán Vô Lậu và chứng được kết quả. Sau khi chứng quả, tôi có làm bài kệ:”

Ở đây, cái chỗ này thì quý thầy phải hiểu: Ông thấy rõ, khi mà được Phật nhắc ông thì ông thấy rõ cái nhân quả của kiếp trước ông, ông đã tạo cho người ta khổ còn gấp mấy lần trong hiện tại ông đã chịu khổ.

Ổng đã thấy được cái điều đó, cho nên ông nhận mình kiếp trước mình đã làm cho người ta khổ biết bao nhiêu, thì bây giờ cái chuyện hiện tại ông là - cái khổ mà hiện bây giờ bị hành hạ như vậy nó không có khổ nhiều đâu.

Vì thế mà tâm ông không còn dao động nữa, ông đã hiểu như vậy tức là hiểu được cái nhân quả chớ gì, cho nên tâm ông không sợ hãi, không dao động nữa, từ đó ông yên tâm mà ông phát triển. Đang bị cột trói như vậy mà ông vẫn an nhiên mà phát triển cái con đường thiền quán của ông, cuối cùng ông thành quả.

Cho nên ông viết cái bài kệ để chúng ta rút tỉa những kinh nghiệm mà tu tập:

Không có gì có mặt,

Lại thường còn mãi mãi,

Không có ác hành gì,

Lại thường hằng, thường trú.

Các uẩn được khởi lên,

Đó là cái pháp hướng, cái đề mục của ông mà ông đã đặt thành một cái niệm tu cái Định Vô Lậu mà qua cái bài kệ này ông lấy ra.

Đến đời khác diệt vong.

Biết được nguy hiểm này,

Tôi chấm dứt sanh hữu,

Từ bỏ tất cả dục,

Tôi chứng lậu hoặc tận.

(58:03) Nghĩa là, ở đây Thầy giải thích từng câu để từng cái câu kệ cho quý thầy thấy rõ.

Khi mà quán vô thường, mà đặt cái niệm khổ - niệm thọ khổ này, ông thấy lúc có đau, lúc không đau, cho nên ông thấy:

*Không có gì có mặt*,

Nghĩa là, trong thế gian này không có một cái gì mà có mặt hết.

Lại thường còn mãi mãi,

Nghĩa là vật này có thì nó không có kéo dài được trường tồn. Cũng như bây giờ chúng ta có, chưa chắc đã là nó mãi mãi được, nó sẽ bị hoại diệt đi. Đó là cái sức quán của ông, thấy nó vô thường như vậy đó.

Không có các hành gì,

Tức là cái hành động nào.

Lại thường hằng, thường trú.

Nghĩa là không có cái hành động nào mà nó thường hoài được, mà không có cái pháp gì mà trong thế gian này mà thường trú được, nó luôn luôn nó thay đổi và hoại diệt. Đó là ông thấy các pháp vô thường đó!

Các uẩn được sanh khởi,

Tức là năm cái uẩn của chúng ta nó sanh khởi thì nó lên nó thành cái thân, mà nó không có sanh khởi thì nó hoại diệt, thì nó đâu có cái thân!

Đến đời khác diệt vong.

Nghĩa bây giờ, hiện đời này thì nó hợp nhau nó sanh khởi thì nó có mình, mà đến đời khác thì nó mất đi, cho nên đến đời khác thì nó diệt vong mất, nó đâu còn nữa.

Biết được nguy hiểm này,

Nghĩa là thấy sự sanh khởi, sự vô thường, sự vô ngã của nó, sự thọ khổ của nó như vậy, thì biết nó là cái sự nguy hiểm, rất là nguy hiểm.

Tôi chấm dứt sanh hữu,

Sanh hữu là cái gì các thầy biết không? Sanh hữu là tức là những cái dây mà trói buộc như nhà cửa, của cải, tài sản, anh em, cha mẹ, ruột thịt, dòng họ, tất cả những cái vật nhỏ, vật lớn, đó là gọi là sanh hữu.

Cho nên ông nghĩ rồi bắt đầu ổng buông hết, không có còn gì trong tui nữa hết, nghĩa là tui phải buông sạch, thì buông sạch như vậy là còn ba y, một bát chớ gì?

Từ lâu tới giờ ông có đi theo, ông thọ, theo làm Sa Di hầu với ông Xá Lợi Phất, nhưng ông có hết sanh hữu không? Còn sanh hữu chớ, chứ chưa phải hết! Cho nên, tới bây giờ ông mới quán được cái sanh hữu, ông mới diệt sạch nó, dứt sạch nó.

Từ bỏ tất cả dục,

Tất cả lòng ham muốn ông cũng đều bỏ hết xuống, không có ham muốn nữa. Mà dứt bỏ sanh hữu tức là dứt bỏ dục, bởi vì không có vật để mà dục nữa thì sao mà có dục! Cho nên ông không còn vật gì để mà ham muốn nữa.

Tôi chứng lậu hoặc tận.

Nghĩa là lậu hoặc ông quét sạch rồi, không còn nữa, cho nên Định Vô Lậu ông đã thành tựu, từ đó nó thực hiện được Tam Minh, tức là có cái trí tuệ, cái giới tuệ của ông hẳn hòi.

Đó thì, đó là một vị mà đã có thần thông, đã bị cột trói, rồi từ cái chỗ mà chứng đạt thì Ngài thực hiện cái tuệ, cái giới tuệ Vô Lậu của Ngài mà Ngài thực hiện được thì Ngài biến ra một con người đứng ở trên hư không. Rồi từng đó người ta hoảng sợ, người ta quá sợ hãi rồi, không còn ai mà có thể hành hạ ông ta được nữa hết.

Và cuối cùng thì ông không trả thù một người nào hết, hoàn toàn, người nào đối xử ông như thế nào ông cũng không có…​ nhưng ông chỉ nghĩ rằng mình được giải thoát mà thôi.

Đó hôm nay chúng ta thấy những cái đó là những cái mà chúng ta bước sang qua một cái điều kiện mà chúng ta học về cái giới tuệ, thì cái giới tuệ là cái vấn đề mà chúng ta phải có thiền định.

(01:01:12) Bởi vì nếu mà không có thiền định, làm sao mà chúng ta có cái này được? Nếu không có thiền định thì làm sao chúng ta có được? Có thiền định là như thế nào?

Chúng ta bảo nè: “Các hành phải ngưng!” - thì bây giờ trong thân chúng ta các hành ngưng thì tức là thân định, mà tâm chúng ta nó diệt Tầm Tứ thì nó là định rồi.

Cho nên lúc bấy giờ tâm nó định ở trên thân, mà thân bây giờ nó định ở trên tâm, cho nên Phật nói khi mà thân định trên tâm mà tâm định trên thân thì chúng ta câu hữu Tứ Như Ý Túc, là Dục Như Ý Túc - chúng ta muốn như thế nào là nó sẽ theo như thế nấy.

Mà bây giờ cái hơi thở, các hành trong thân của chúng ta mà chúng ta bảo nó ngưng thì nó ngưng được, thì cái lực mà của tinh thần của chúng ta trong cái pháp hướng nó vi diệu đến mức độ nào nó mới ngưng chớ?

Còn bây giờ chúng ta tập thở rồi chúng ta ngưng thở, thì cái điều đó không phải là chúng ta dùng cái lực của tinh thần mà chúng ta dùng cơ để nín thở. Mà dùng cơ nín thở thì chắc chắn là không đạt được kết quả, mà phải dùng pháp hướng mới kết quả.

Cho nên Thầy thường nhắc quý thầy, người ta chỉ dùng cái pháp hướng mà người ta tu Định Vô Lậu để người ta quét sạch, người ta quét sạch được cái lậu hoặc của người ta thì cái pháp hướng đó nó trở thành hiệu quả mà người ta điều khiển được cái thân nó ngưng hoạt động.

Chớ không phải là chúng ta ngay đây mà chúng ta tập thở chậm, hoặc là thở như thế nào chúng ta cũng có vận dụng cái sự thật chậm của nó thật, nhưng không phải quá sức của nó. Quá sức của nó sẽ rối loạn cơ thể và làm chúng ta sẽ trở thành bệnh. Cho nên chúng ta phải hiểu được.

Còn cái lực mà tinh thần của chúng ta điều khiển nó rất là vi tế, nó ra lệnh, tuần tự nó sẽ chậm, nhẹ lần theo nó mà nó không bị rối loạn, nó thay đổi toàn bộ cơ thể chúng ta, đến khi nó dừng mà chúng ta không chết.

Quý thầy phải hiểu con đường tu tập theo đạo Phật là như vậy nó mới đúng cách. Cho nên ở đây chúng ta cần làm sao ly dục, ly bất thiện pháp mà thôi, mà ly được rồi thì chừng cái điều khiển này nó không phải khó khăn.

Bởi vì trong cái thời gian mà ly dục, ly bất thiện pháp đó chúng ta phải tu tập Định Vô Lậu và Chánh Niệm Tỉnh Thức Định cho cái sức tỉnh của chúng ta rất cao độ, để chúng ta có một cái phóng ra những cái tri kiến, làm cho cái sự quán xét của tất cả lậu hoặc chúng ta đều bắt được nó, cho nên chúng ta quét cho ra khỏi tâm.

Mà quét ra khỏi tâm thì tâm chúng ta tịnh rồi, thì tức là cái pháp mà chúng ta đã dùng pháp hướng để quét tất cả lậu hoặc, nó trở thành một cái tinh thần, cái lực của tinh thần, cho nên gọi là lực định, hay hoặc là cái định lực.

Trong đạo Phật nó có năm cái lực, có Ngũ Lực đó, thì tín lực nè, rồi tấn lực nè, rồi niệm lực, rồi định lực rồi huệ lực, thì năm cái lực này chúng ta thấy rất rõ ràng, nếu mà chúng ta tu tập đúng thì chúng ta có năm cái lực đó.

Mà năm cái lực đó thì cái niệm lực là nơi mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu là nó đã có niệm lực, mà cái niệm lực đó thì đó là cái lực của tinh thần của chúng ta, nó là cái pháp hướng đó. Cho nên chúng ta ra lệnh thì ngay đó mà các hành ở trong thân chúng ta ngưng thì tức là cái định lực.

Do cái định lực nó đã điều động được cái thân định rồi thì lúc bấy giờ chúng ta mới dùng cái huệ lực của chúng ta, do vì vậy mà cái Tam Minh, Lậu Tận Minh nó mới thể hiện, nó mới thấy đây là khổ thật, đây là nguyên nhân của khổ, đây là con đường diệt khổ, đây là cảnh giới Niết Bàn.

Đó nó mới thấy thật, nó chứng được cái lý Khổ - Tập - Diệt - Đạo. Còn bây giờ chúng ta hiểu là cái ngộ chớ chưa phải là cái chứng lý. Chớ chờ khi nào mà cái Lậu Tận Minh nó hiện ra thì cái trí tuệ của cái giới tuệ này nó hiện ra, thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy nó mới chứng được cái lý Khổ - Tập - Diệt - Đạo, nó mới rõ ràng hơn.

(01:04:32) Đó thì trên cái bước đường tu tập, thì quý thầy phải thấy, hiểu được những cái sự tu tập của chúng ta nó như thế nào mà đúng, như thế nào sai. Qua cái bài giảng của Thầy rồi thì quý thầy biết, quý thầy tu - từ lâu tới giờ quý thầy tu sai hay đúng quý thầy biết liền.

Còn ngay bây giờ quý thầy mà đi vào từ cái Chánh Niệm Tỉnh Thức, rồi bắt đầu từ cái Định Vô lậu mà quý thầy tu tập cho đến khi mà quý thầy thấy ly được dục, ly được ác pháp rồi thì quý thầy lấy những cái pháp hướng mà quý thầy đã từng tập luyện đó, nó có cái hiệu quả đó, thì ngay đó bây giờ quý thầy chỉ thay đổi, thay đổi trạch pháp cái câu ra, cái câu này bây giờ phải sử dụng cho nó như thế nào.

Sử dụng cho nó muốn nhập Nhị Thiền thì mình chỉ ra lệnh rằng: “Tầm Tứ phải tịnh chỉ, phải ngưng! Không có được hoạt động nữa!” Thì ngay đó chúng ta chỉ dùng cái pháp hướng đó, nhắc một lần, hai lần thì ngay đó là Tầm Tứ chúng ta diệt liền chớ khỏi cần mà phải ức chế nó đâu!

Các thầy thấy rất rõ. Bây giờ chúng ta muốn sáu cái loại tưởng hay là mười tám cái loại tưởng mà để cho nó ly ra thì chúng ta chỉ cần ra lệnh “Mười tám cái loại tưởng phải ra khỏi!” - tức là ly hỷ, trú xả đó, thì ngay đó là mười tám loại tưởng nó sẽ ra khỏi tâm chúng ta liền tức khắc, từ đó chúng ta sẽ nhập vào Tam Thiền, đâu phải là cái khó? Đâu phải còn ma chướng nữa?

Còn chúng ta chưa có cái hiệu quả của cái pháp hướng tức là cái lực của tinh thần chúng ta chưa có mà chúng ta thực hiện thì chúng ta không bao giờ mà đạt kết quả được hết. Chúng ta phải có một cái sức lực của tinh thần của chúng ta, mà lực tinh thần tức là niệm lực chớ cái gì? Cái niệm lực là cái pháp hướng, cái câu pháp hướng đó nó trở thành một cái niệm.

Nếu mà không có cái câu đó làm sao gọi là niệm? Chẳng hạn bây giờ chúng ta biểu: “Tầm Tứ phải diệt!” - thì không có cái tên “Tầm Tứ” thì làm sao gọi là cái niệm?

Quý thầy phải hiểu: Một cái đoạn văn, một cái câu nào đó, nó là cái niệm. Mà cái niệm đó để chúng ta ra lệnh, truyền lệnh cho cái hành động của cái đối tượng đó nó phải ngưng, phải dừng, cho nên gọi là cái niệm. Vì vậy mà gọi là niệm lực.

Mà niệm lực thì quý thầy phải biết nó là Tứ Niệm Xứ. Mà Tứ Niệm Xứ thì nó ở đâu? Thân, Thọ, Tâm, Pháp của chúng ta ở trong thân của chúng ta chớ đâu, đâu phải ngoài thân? Cho nên chúng ta ra lệnh trong thân chúng ta để mà làm chủ.

Vì vậy mà học tới Tứ Niệm xứ Thầy sẽ giảng cái này rất rõ để cho quý thầy biết để mà sử dụng ở trong Tứ Niệm Xứ. Mà nếu mà chúng ta chưa tu Tứ Niệm Xứ mà vội tu Bốn Thiền thì cái chuyện đó hoài công.

Bởi vì Niệm rồi mới tới Định chớ? Chớ đâu lý nào mà Định đi trước Niệm được? Đó thì quý thầy phải biết. Chớ không thể nào mà chưa có Định mà có được cái trí tuệ Tam Minh thì làm sao có, làm sao có được trí tuệ mà thần thông được? Đâu có thể nào có trí tuệ đó được!

Cho nên phải tuần tự mà chúng ta tu tập từng cái bước của mỗi bước đi trên con đường của đạo Phật, xây dựng cho chúng ta từng chút để chúng ta không lạc lối.

3- NGÀI GANGÀTIRIYA GIỮ HẠNH ĐỘC CƯ KHÔNG NÓI CHUYỆN

(01:07:12) Bây giờ tới một cái Ngài nữa

Ngài Gangàtiriya.

Ngài này, thường cái tên của Ngài quá dài là tại vì cái tên này để mà dịch cái nghĩa ra là - Ngài trước kia thì Ngài không có cái tên, nhưng mà Ngài thường Ngài ở trên cái bờ sông Hằng. Ngài cất cái chòi ở trên đó, mà Ngài theo Phật xuất gia Ngài ở trên cái bờ sông đó Ngài tu, cho nên người ta gọi cái tên đó là “cái người sống ở trên bờ sông Hằng.”

Cái tên của Ngài đó là “người sống ở trên bờ sông Hằng”, chúng ta dịch ra Việt ngữ là như vậy đó. Còn gọi chung là cái tên của Ngài là như vậy.

Ngài xuất gia theo Phật tu hành, Ngài chọn đời sống khổ hạnh, ở trên bờ sông Hằng nên người ta gọi Ngài là “Người sống trên bờ sông Hằng”. Ngài làm một cái chòi để ở, Ngài nguyện không nói với một ai.

Nghĩa là Ngài nguyện là suốt cái thời gian tu hành, Ngài ở trên cái bờ sông Hằng đó, không bao giờ nói với ai một lời nào hết.

Suốt một năm, Ngài không thốt ra một lời nói nào. Trong năm thứ hai có một người nữ nhân trong làng thường mang thực phẩm đến cúng dường cho Ngài, muốn biết Ngài có phải là người câm hay không.

Bởi vì suốt cái thời gian cả năm trời mà không thấy ông này nói lời nói nào hết, cứ đem sớt bát rồi đi về chớ ông không có hỏi, không có gì hết, không có nói chuyện gì hết à, mà cũng không xin thêm cái gì hết, cứ cho cái gì ăn nấy chớ còn không hỏi gì hết.

Cho nên cái cô này, cô lại không biết cái ông thầy này ổng câm hay sao mà không thấy ổng nói tiếng nói nào hết, không thấy ổng nói gì hết! Cho nên muốn thử ông ta coi thử coi có nói hay không. Thì đến năm thứ hai, thì khi cô này cổ thấy ông này không biết có phải câm thật không cho nên cô mới đem cái đồ ăn uống đến cúng dường.

Nên khi đổ sữa cúng dường, cô làm đổ sữa ra ngoài.

Nghĩa là thay vì cô đổ vào trong bát cho ông ta thì cô lại làm cho nó đổ ra ngoài đi. Thì do đó đó:

Ngài mới nói: “Thôi, vừa rồi bà chị!”

Nghĩa là đổ ra ngoài tràn bát ông, thì ông thấy nó kỳ quá rồi, cho nên buộc lòng ông phải nói tiếng nói: “Thôi đủ rồi bà chị, đừng đổ nữa!”.

(01:09:17) Đó, như vậy là bà này biết rằng ông này nói chớ không phải là câm. Các con thấy bà này cũng khéo! Để dò biết, mà làm cho ông phải nói thôi: “Đổ thôi vừa thôi chớ! Đổ gì đổ dữ, đổ tràn ra cứ đổ hoài!”

Nhưng đến năm thứ ba thì ông chứng quả A La Hán.

Nghĩa là khi mà bà đã biết ông là nói được rồi thì bà ta cứ đem cơm đến cúng dường cho ông, rồi ông chẳng nói nữa, suốt năm thứ ba thì ông đã chứng quả A La Hán.

Ngài có làm bài kệ tán thán hạnh cũ của mình:

Đó, thì các thầy nói là Thầy dạy độc cư, mà các thầy mà giữ gìn đúng như vậy để chờ mà người ta thử vậy đó! Thấy nó kỳ lạ quá thì mới thoát ra nói thôi chớ còn cái chuyện mà không mà kỳ lạ chắc ông này không cạy miệng ổng được đâu. Cho nên ổng lập hạnh cũng dữ tợn lắm đó!

Trên bờ sông Hằng,

Dùng ba lá thốt nốt,

Ông có dùng có ba lá thốt nốt thôi chớ ông không có dùng cái gì hết.

Ta dựng lên cho ta

Một chòi lá nho nhỏ,

Bát ta là cái ghè,

Dùng cúng sữa người chết,

Nghĩa là ông lấy cái bát không phải cái bát như chúng mình đâu, là cái ghè của người ta để ngoài gò mả đó để mà khi mà người ta tảo mộ đó, người ta đổ sữa trong đó người ta cúng người chết, ông lấy cái đó ông làm cái bát ông ăn cơm. Các con thấy ghê gớm không? Mình chắc không dám đâu!

Bát ta là cái ghè,

Dùng cúng sữa người chết,

Còn y áo của ta

Lượm chấp từ đống rác.

Suốt hai năm sống vậy.

Ta chỉ nói một chữ,

Nghĩa là chỉ nói có một lời, có nói với cô ta đó thôi chớ còn không có nói với ai nữa hết.

Trong khoảng năm thứ ba,

Khối si ám tan tành.

Nghĩa là tất cả vô minh ông tiêu sạch hết rồi.

Đó thì qua cái bài kệ này chúng ta thấy những cái bậc trong cái thời Đức Phật có những bậc thiệt là vĩ đại thiệt chớ không phải thường đâu! Thậm chí câm đến nỗi mà người ta tưởng là ông này câm thiệt, không có nói cho nên người ta mới thử đó. Còn chúng ta chưa có gì hết là chúng ta lia lịa hết, không có còn giữ cái miệng gì được hết!

Đó qua những cái hạnh này Thầy mới ghi chép lại cho chúng ta biết rằng những cái sự tu tập của chúng ta nó phải theo những cái gương hạnh.

Bởi vì mình quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng mà? Mình phải quy y cho đúng các bậc Thánh Tăng chớ? Chớ không lẽ mình quy y nó không đúng các bậc Thánh Tăng thì mình nương với ai đây? Cho nên mình phải nương các bậc này, vì những bậc này chúng ta thấy tuyệt diệu và quá là tuyệt!

4- NGÀI SÌHA TU TẬP NHƯ LÝ TÁC Ý

(01:11:34) Bây giờ về bên phái nữ thì Thầy cũng khai triển luôn về cái phần nữ để chúng ta có những cái gương hạnh của người nữ. Vì chúng ta ở đây, tu viện chúng ta ở đây cũng có phái nữ, cho nên Thầy cũng khai triển thêm một vài vị tăng, một vài vị ni - Thánh Ni.

Bà Sìha.

Bà được cha mẹ cho xuất gia tu hành theo Phật. Bà tu tập thiền quán nhưng không thể chặn đứng tâm tư chạy theo ngoại vật khả ý.

Nghĩa là bà tuy tu vậy chớ lòng bà cứ luôn luôn nó chạy theo sự ham muốn ở bên ngoài chớ không có nhiếp tâm được.

Bảy năm bị dày vò…​

Nghĩa là bà tu tập bảy năm như vậy mà cái tâm ham muốn, cái tâm mà còn dính mắc cái này thế gian, còn thương mẹ, thương cha hoặc cái này kia nó vẫn còn hoài, nó không hết mà suốt bảy năm như vậy.

“Làm sao thoát khỏi nếp sống ức nhiễm này?…​

Bà nói cái ức nhiễm tức là nó cái thương, cái ghét, cái này, cái kia, cái nọ, cái ham muốn cái này, kia, làm sao mà cho thoát ra được? Mà ông Phật ổng dạy mình mà tu hoài nó không được! Nó không xả ra được, nó cứ dính hoài à! Cho nên bảy năm trời bà rất đau khổ!

…​ Ta hãy chết là tốt!”

Bà nghĩ rằng mình đi tu mình như vầy mà cái tâm nó như vầy mà dẹp nó không được thì thôi chết cho rồi đi, để làm gì?

Bà cột một cái dây thòng lọng ở trên nhánh cây, đút cái cổ vào cái dây thòng lọng để thắt cổ chết cho rồi. Trong những giờ phút cuối cùng bà cố gắng triển khai thiền quán.

Tức là bà đút cái cổ bà vô trong cái dây thòng lọng nhưng mà bà chưa có dám đạp cái ghế, sợ đạp nó siết họng chết đi! Cho nên lúc bấy giờ bà đút đó là bà chờ, nếu mà quán mà nó không trôi được rồi, nó không xa được rồi, thì bà đạp cái ghế một cái là nó siết cái họng bà cho chết cho rồi chớ đừng có để cho nó dính dính ở trỏng nữa.

Đó! Các con thấy, các thầy thấy cái gương hạnh của người xưa kinh không? Người ta tu mà người ta thấy cái tâm nó không có dẹp được, người ta chỉ còn tìm cái chết.

Mà bây giờ trước khi giờ chết người ta còn đem cái pháp để mà người ta tu hành coi nó - cái giờ phút cuối cùng này nó ra hay không, hay nó còn dính nữa? “Dính nữa cái tao đạp cái ghế cái cho mày đứt luôn!”

Đó, thì các con thấy cái sự tu hành của cái người xưa sao mà tuyệt quá! Họ không coi cái thân họ ra gì hết, mà họ chỉ coi cái sự giải thoát là hơn hết!

Bà cố gắng triển khai thiền quán. Trí tuệ viên mãn, nội tâm thiền quán tràn đầy, bà chứng được quả A La Hán, mở thòng lọng…​

Mở cái thòng lọng tức là cái dây cột cổ bà đó.

…​ bà trở về tịnh xá.

Nghĩa là bà chứng rồi đó, bà trở về tịnh xá. Chỉ có đút cái cổ vô cái đó mà bà đã tu chứng, xa lìa được cái tâm thế gian tức là ly dục, ly bất thiện pháp! Những cái gương hạnh thiệt là tuyệt vời!

Bà sung sướng, phấn khởi nói lên bài kệ:

Không như lý tác ý,

Bị dục tham ám ảnh,

Nghĩa là luôn luôn lúc nào bả tu tập theo lời Phật dạy mà bả không có như cái lý tác ý ra, tức là ám thị đó! Các thầy thấy, bà sơ xuất ở chỗ ám thị này!

(01:14:27) Bà nói, ở trong này bà nói “Không như lý tác ý” cho nên “Bị dục tham ám ảnh”, cái lòng ham muốn cái này, cái kia nó ám ảnh bà hoài mà không dứt được là do bà không có như lý tác ý, tức là bà không dùng pháp hướng.

Còn chúng ta bây giờ hằng ngày tâm chúng ta khởi ham muốn cái gì, hoặc là khởi có cái gì thì chúng ta dùng pháp hướng chúng ta đánh bạt nó đi, thì như vậy là chúng ta như lý tác ý chớ gì? Còn cái này không, bà không có dùng theo cái lời Phật dạy cho nên bà nói:

Không như lý tác ý,

Bị tham dục ám ảnh,

Nó cứ ám ảnh bà hoài à!

Ta trước bị dao động

Không chế ngự được tâm.

Bị phiền não chi phối,

Lạc tưởng ngự trị ta

Tâm ta không thăng bằng,

Bị tham tâm chi phối.

Bảy năm sống ốm yếu,

Da vàng, dung sắc xấu

Đêm ngày không an lạc

Ta sống chịu khổ đau.

Do vậy ta lấy dây,

Đi vào giữa khu rừng,

Tốt hơn ta treo cổ,

Còn hơn sống hạ liệt.

Nghĩa là bà thấy rằng cái tâm mà nó còn thương, còn ghét, còn ham, còn muốn này kia là cuộc sống hạ liệt, đâu phải là cuộc sống mà cao thượng đâu! Cho nên bà biết như vậy mà sao lại ly không được? Do cái chỗ bà không dùng pháp hướng.

Cho nên khi mà chứng rồi bà mới thấy, cái chính là không như lý tác ý, như cái lý tác ý nó mới chính là cái chỗ mà dẹp, còn bà không có dùng cái đó. Cho nên bây giờ bà mới vô đầu là bà nói: “Không như lý tác ý” cho nên tâm bà bị tham dục. Bà nhắc cho chúng ta thấy cái chỗ đó.

Bởi vì qua bài kệ này Thầy thấy qua những cái kinh nghiệm mà người ta - nếu một người có tu, người ta nghe cái câu đó người ta biết rằng cái bà này thiếu là như lý tác ý tức là pháp ám thị, cho nên bà mới khổ sở bảy năm trời như vậy.

Cho nên đến chừng mà đút cần cổ vô trong cổ gần chết rồi bà cứ nhắc lia, nhắc lịa, bà tác ý lia lịa, cho nên chừng đó cái bà xả được cái tâm của bà liền, bà thấy đúng là cái pháp Như Lý Tác Ý là tuyệt diệu nhất chớ không có gì hơn.

Đó thì hôm nay lấy bài kệ này thì các thầy đã biết cái pháp nào mà các thầy tu rồi chớ gì?

Cái gì mà tâm của quý vị mà nó mà máy động thì quý vị phải biết vì nó động tâm cái gì chớ gì, mà nó động tâm gì đó thì ngay ngay ngồi dậy thẳng lưng liền để mà đặt cái niệm đó trước mặt mà lấy cái pháp Như Lý đó mà tác nó ra cho nó ra ngoài, tát tai nó văng ra đi, đừng có để nó ôm ở trong bụng quý vị thì quý vị sẽ thoát khỏi chớ gì? Cứ như vậy mà tu tập thì vô lậu nó sẽ đến với quý vị chớ có gì khác hơn!

Còn hơn sống hạ liệt.

Làm chắc dây thòng lọng,

Ta cột ở cành cây,

Quàng thòng lọng quanh cổ,

Tâm ta liền giải thoát.

Mau không! Các thầy thấy, xỏ cái đầu vô cái dây rồi, bắt đầu ở đó mà quán mới dùng Như Lý Tác Ý ra: “Tất cả đều khổ, bây giờ có đứt cổ thì chết cũng là khổ, có nghẹt họng cũng chết là cũng là khổ!” - cho nên vì vậy mà bà quán riết trôi ra hết tất cả, từ đó giải thoát.

Đó thì, những cái gương hạnh của người tu nó gần gũi chúng ta quá chừng, mà gần lại cái pháp mà Thầy dạy cho các thầy quá độ. Mà cái người ta không có tu tập, người ta không khai triển được những cái gương hạnh này ra! Những cái bài kệ bà ta viết rõ ràng, bà ghi lại ở trong kinh rõ ràng như vậy, thế mà không có ai khai triển nổi ra những cái pháp tu hành!

Còn bây giờ, vì cái sự kinh nghiệm tu tập, qua cái pháp hướng mà Thầy biết rằng đó là ám thị chớ gì? Như Lý Tác Ý chớ gì? Do đó Thầy khai triển ra, thì đâu đâu in như là nó cũng giống nhau in rập khuôn hết.

Cho nên các vị đều là những bậc Thánh Tăng, những bậc Thánh Ni thời xưa, cũng đều là có những cái tu tập giống như mình không khác, mà người ta đạt được kết quả là do cái pháp hướng chớ không phải gì. Bởi vì chúng ta tu tập sai thì nó làm sao mà nó đúng được!

5- NGÀI HOA NI SẮC TỲ KHEO PATÀCÀRÀ QUÁN VÔ THƯỜNG

(01:17:52) Bây giờ Thầy nhắc đến bà Patàcàrà, bà Patàcàrà này là người ta còn dịch cái tên - theo cái âm của người Hoa đó - thì bà có gọi là cái tên là Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo, mà cái tên này thường thường chúng ta hay nghe thường lắm: Bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo.

Mà ở đây thì cái câu chuyện của bà thì dài dòng lắm, nó không có ngắn, nhưng mà ở đây thì Thầy tóm lược lại để cho chúng ta biết để mà qua những cái bài kệ của bà để mà chúng ta lấy kinh nghiệm mà tu tập thôi.

Khi bà đến với Đức Phật với một tâm trạng đau buồn nhất, hai đứa con đã chết, chồng cũng chết, cha mẹ và đứa em trai cũng chết.

Nghĩa là đồng thời trong một cái ngày hôm đó là cả một cái gia đình chết tan nát, chỉ còn có mình bà sống thôi.

Đức Thế Tôn dùng kệ khuyên bà:

Nước bốn biển ít hơn,

Nước mắt của loài người,

Đức Phật nói nước bốn biển nó còn ít hơn nước mắt loài người.

Khóc than vì đau khổ,

Vậy sao ngươi hủy hoại,

Nghĩa là bà đang ở trong cảnh đau khổ, hai đứa con chết, chồng chết, rồi cha mẹ, rồi đứa em trai cũng chết, làm sao bà không khổ?

Vì vậy mà Đức Phật khuyên có cái bài kệ để khuyên bà, thì Đức Phật ví như nước bốn biển ít hơn nước mắt của bà trong lúc này nữa, mà bà sao lại có cái ý mà Đức Phật trách bà đó, sao bà lại quá ngu si vậy, khóc than để mà tự mình giết hại mình, hủy hoại cái sinh mạng của mình sao?

Nghe kệ xong, bà nguôi được cơn đau buồn. Bậc Đạo Sư lại dạy tiếp :

Các con, cha, bà con,

Không phải chỗ nương tựa,

Khi thân hoại, mạng chung,

Bà con, huyết thống ngươi,

Không thể che chở ngươi!

Thấy được sự thật này,

Kẻ trí sống giới đức,

Và mau chóng thành tựu,

Con đường hướng Niết Bàn.

Đó, Đức Phật nói rằng dù mình có thương, có gì đi nữa mà mình - khi mà thân hoại, mạng chung hay hoặc mình đau bệnh, mình già chết, thì chắc chắn là bà con huyết thống của mình, những người thân, cha mẹ của mình không thay thế mình được cái điều đó đâu.

Cho nên cái người trí biết thì phải sống giới đức, tức là sống với giới hạnh đó, giới đức, giới hạnh đó. Còn cái người mà không biết thì không có sống cái giới đức, giới hạnh thì không có thể nào mà hướng đến con đường Niết Bàn được.

Và mau chóng thành tựu,

Con đường hướng Niết Bàn.

(01:20:25) Đức Đạo Sư lại dạy tiếp:

Người sống một trăm năm,

Không thấy pháp sanh diệt,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp sanh diệt.

Nghĩa là Ngài khuyên như vậy để rồi Ngài cho một cái đề mục, Ngài khuyên cho cái bà này bả an ủi được bả rồi, bả hiểu được rồi là lấy giới mà sống, khi mà sống được với giới đức rồi thì cái người đó phải dùng cái Định Vô Lậu mà quán xét, quán xét cái sự vô thường, cái sự sanh diệt của các pháp, cho nên cái bài kệ, bốn câu kệ này :

Người sống một trăm tuổi,

Không thấy pháp sanh diệt,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp sanh diệt.

Chúng ta tuy rằng biết cái thân này nó vô thường, nó sanh diệt liên tục ở trong này, mà chúng ta biết, hiểu như vậy, mà chúng ta không sợ hãi, không có lo lắng tu hành mà cứ sống để cho nó sanh diệt, sanh diệt mãi, cho nên, coi như là sống dù một trăm tuổi mà không biết nó sanh diệt, như bây giờ chúng ta là những người chưa biết sanh diệt, cho nên chúng ta chưa dám ly gia đình, chưa dám bỏ của cải, chưa dám bỏ tài sản. Đó là chúng ta chưa biết pháp sanh diệt.

Bởi vì pháp sanh diệt nó đâu phải - tất cả các pháp sanh diệt nó đều là thay đổi liên tục, bữa nay nó của mình, ngày mai nó của người ta chớ đâu phải của mình nữa sao? Mà thế mà mình cứ chấp là của mình, mình cứ ôm giữ nó hoài.

Cũng như bữa nay vợ mình, ngày mai biết là vợ ai đây? Cho nên vì vậy mà mình cứ ôm nó là vợ mình không à, mà không ngờ rằng ngày mai mình chết, mốt nó lấy thằng khác rồi! Mình đâu có biết được cái chuyện đó, vì nó là pháp sanh diệt mà! Nó đâu có phải là thường còn được!

Cho nên có ông Trang Tử đó ổng vỗ bụng ca đó, thì khi mà vợ ổng chết ổng đánh trống ổng vỗ ổng (nói): Vợ chết trước là vợ ổng mà vợ chết sau là vợ người ta!

Rõ ràng là cái lời của ông Trang Tử là nói rất đúng là pháp sanh diệt, cho nên nó đâu có thường hằng được!

Mình nghĩ rằng mình chết chắc vợ mình nó ở vậy nó nuôi con thôi chớ, nhưng mà sự thật ra ba bữa sau thì nó chờ cho mình chôn xuống mồ rồi, ba bữa sau nó đi theo thằng khác rồi! Cái điều đó là mình không ngờ được cái sự sanh diệt đó, thế mà mình cứ ôm ấp là mọi cái của mình hết.

Tiền của mình làm bữa nay do mồ hôi, nước mắt mình làm ra, chưa chắc gì mình đã thọ hưởng hết được, tối mình làm ra rồi mình đem mình cất trong tủ cái tối ăn trộm nó vô nó lấy hay hoặc ăn cướp nó vô cạy họng, nó đánh mình u đầu, đổ máu cũng lấy ra, cũng sạch.

Cho nên nó là pháp sanh diệt, nó càng đem đến cho sự khổ mình. Cho nên ở đây Đức Phật nói:

Tốt hơn sống một ngày,

Mà thấy được pháp sanh diệt.

Mà thấy được pháp sanh diệt thì người ta vứt bỏ hết, người ta đâu có thèm nữa! Nó là rắn độc mà, nó là thú dữ mà, tại sao mình cứ huân vô để mình lấy khổ? Nó không giải thoát được!

Cho nên ở đây, khi một người mà hiểu được Phật pháp rồi người ta rất sợ các pháp sanh diệt! Mà các pháp sanh diệt là cái gì? Là xung quanh chúng ta toàn là các pháp, nó luôn luôn sanh diệt! Cho nên chúng ta phải ra khỏi, ra khỏi cho mau chớ không phải - còn một phút giây nào là đau khổ!

Cũng như là bây giờ Thầy còn cái thân này nè, thì tức là Thầy còn đau khổ chớ! Bữa nay nó không đau ngày mai nó đau. Suốt cái thời gian mà Thầy giảng quý thầy, quý thầy thấy Thầy cũng mệt nhọc, cũng khổ sở, cũng đủ thứ hết, cũng nhức đầu, cũng mệt cái này, cũng mệt cái kia chớ đâu phải! Đó là pháp sanh diệt mà làm sao mà bảo nó đừng có làm chuyện đó được!

Cho nên bỏ nó là chúng ta khỏe. Vì vậy mà bỏ nó thì tức là Thầy được giải thoát hoàn toàn, cho nên đâu có tiếc gì cái thân này mà phải trường thọ làm gì?

(01:23:32) Khi nghe kệ xong, bà trạch pháp cái pháp đó, bà lấy các pháp vô thường sanh diệt đó bà đặt thành một cái pháp hướng. Cho nên từ đó bà quán cái pháp hướng đó mà bà tu tập cái Định Vô Lậu, bà chứng quả được A La Hán liền tức khắc.

Các thầy thấy chưa? Nội cái ông Phật, ổng cho bốn câu kệ này là bả đã biết được đó là cái pháp hướng của bà rồi. Còn chúng ta nghe câu kệ này chớ chưa biết đâu, phải không?

Nhưng mà Thầy giải thích ra thì quý thầy biết đây là một cái pháp hướng, trạch ra cái câu này, tức là ông Phật ông biết không có thể nào mà không dạy cho cái bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này mà hiểu được cái pháp hướng này thì chắc chắn là không hết cái lậu hoặc của bà ta đâu!

Cho nên ông Phật tiếp thêm cho bà cái câu cái trạch pháp ra, cái câu pháp hướng.

Người sống một trăm tuổi,

Không thấy pháp sanh diệt,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp sanh diệt.

Do đó bà đặt cái câu này ra bà làm cái pháp trạch của bà, thì hằng ngày bà dùng cái đó mà quét sạch cái tâm vô lậu của bà, cho nên bà chứng quả A La Hán.

Sau khi bà chứng quả A La Hán rồi thì bà cũng có làm một cái bài kệ nói lên cái chỗ tu tập của mình:

Với cày, cày ruộng đất,

Gieo hạt giống trên đất,

Loài người được tài sản,

Nuôi dưỡng vợ và con.

Sao ta giới đầy đủ

Làm theo Đạo Sư dạy,

Lại không chứng Niết Bàn?

Không sợ, không dao động.

Khi ta đang rửa chân,

Làm cho dòng nước chảy,

Thấy được nước rửa chân

Từ cao chảy xuống thấp,

Nhờ vậy tâm ta được định,

Như ngựa hiền khéo luyện.

Đó thì, khi mà Đức Phật khuyên bà, khuyên bà để cho bà không có buồn khổ, rồi khuyên bà để bà thấy rằng các pháp thế gian không phải là chỗ nương tựa như cha mẹ, anh em, huyết thống gì đó không phải là chỗ nương tựa, của cải tài sản cũng không phải chỗ nương tựa.

Nhưng mà bà cứ bà tu hoài mà sao bà thấy rằng giới luật của Phật giảng cho bà như vậy, bà giữ giới luật như vậy - bởi vì trong cái bài kệ trước thì quý Thầy thấy có cái chỗ này “Kẻ trí sống giới đức” đó, cho nên bà giữ gìn giới đức của Phật dạy, cái giới nào bà cũng giữ rất là nghiêm chỉnh, nhưng mà thấy sao mình lại không chứng Niết Bàn?

Làm theo lời Đạo Sư dạy lại không chứng được Niết Bàn, mà tâm thì không sợ, không dao động, không có buồn lo nữa mà sao mà không có?

Thì một hôm đó bà - Đức Phật cho cái bài kệ tiếp bà cũng chưa hiểu nữa. Cho nên bây giờ một hôm đó bà đang rửa chân, bà rửa chân rồi bà dùng - bà thấy dòng nước mà nó chảy xuống, rồi thấy được nước rửa chân từ trên cao nó chảy xuống thấp: “Nhờ vậy tâm ta được định”.

Nghĩa là trong lúc đó bà mới nhớ lại cái câu kệ này, tức là cái dòng nước nó chảy hoài, chảy hoài thì bà nghĩ rằng nó chảy hoài tức là vô thường chớ gì?

(01:26:20) Đó thì, các pháp sinh diệt đó, nó không có còn cái chỗ mà nó một mực nữa, cho nên từng đó bà mới ngộ được cái câu mà bốn bài kệ trên, do đó bà mới đặt nó thành một cái câu thiền quán Vô Lậu của bà để cho bà quét sạch những lậu hoặc.

Đó nhờ cái thực hiện mà bà rửa chân rồi bà - bởi vì bà - Đức Phật nói mà bà chưa có hiểu, bà chưa có thấu đạt được cái lý đó, từ cái chỗ bà rửa chân, bà thấy nước nó chảy xuống, chảy xuống, chảy xuống mà nó không có chảy lại được, do đó bà mới thấy: “À cái dòng nước là cái dòng các pháp sanh diệt” - cho nên bà ngộ được rồi.

Bà ngộ được rồi thì cái tâm bà nó được định tỉnh rồi, được định tỉnh rồi thì bà mới như thế nào để cho tiếp tục ở trên con đường tu hành của bà?

Rồi ta cầm cây đèn,

Bước vào ngôi tịnh xá,

Nằm trên chiếc giường nhỏ,

Ta nhìn, quán ngọn đèn.

Rồi ta lấy cây kim nhỏ,

Dìm tim đèn xuống dần,

Thấy cây đèn Niết Bàn,

Tâm ta được giải thoát.

Như vậy là như thế nào? Bây giờ cái ngọn đèn như thế này, bắt đầu nó cháy ngọn lửa đó, bà lấy cây kim bà đè cái ngọn đèn cứ lần lần nó xuống, thì ngọn lửa càng thụt lần, thụt lần, thụt lần cho đến khi cái ngọn đèn bị - cái tim nó bị lún sâu quá - cái ngọn đèn nó tắt đi, thì bà thấy ngay đó là cái dòng sanh diệt nó đã hết rồi.

Các thầy thấy, đó là qua cái kinh nghiệm tu hành của người ta quán xét từng chút để người ta thấy được cái tâm của người ta thay đổi từng chút, từng chút ở trong cái sự quán xét của Định Vô Lậu nó như vậy.

Còn mình ngồi mình quán, quán gì mình cũng chả biết gì hết, còn người ta rất là vi tế ở trên cái sự tu tập của người ta, để người ta quán xét được cái chỗ tu tập đó.

Đó là những cái bài kệ qua những cái kinh nghiệm tu tập rất là vi tế khi mà chúng ta tu Định Vô Lậu. Chúng ta phải xét từng chút. Nếu chúng ta đặt một cái câu rồi chúng ta cứ quán thường nó không nhằm nhò gì đâu.

Cho nên Thầy nói Thầy ngồi ở trên núi, ở trên cái Hòn Sơn, mà Thầy ngồi mà Thầy dùng những cái sự mà quan sát những cái loài chúng sanh, Thầy thấy như thế này thế khác, nó làm cho tâm của Thầy nó mới có khởi lên những cái lòng thương yêu của chúng sanh sâu sắc.

Còn các thầy không chịu ngồi quan sát thì các thầy làm sao mà có lòng thương yêu đó được?

Cho nên ở đây chúng ta muốn Vô Lậu thì chúng ta phải quan sát tất cả những sự kiện thay đổi, mà những sự kiện thay đổi đó nó làm cho chúng ta sâu ở trong cái chỗ pháp, cho nên chúng ta mới chứng được cái lý vô thường.

Còn các thầy cứ nghe Thầy nói câu nào viết đó, mà cứ nhai đi, nhai lại cũng như nhai bã mía vậy thì thôi thôi nó có vô thường gì được! Các thầy hiểu điều đó không?

Cho nên vì vậy mà Thầy mới thấy bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này thiệt là hay! Cái bài kệ này tuyệt diệu, nó ở trong cái hành động để mà phá vỡ cái lậu hoặc, mà không đem cái bài này giảng ra cho quý thầy thì quý thầy chắc chắn là cũng nhai bã mía của Thầy thôi chứ cũng không gì khác hơn! Nhai hoài mà lậu hoặc nó vẫn còn, cũng vẫn còn nhớ nhà, nhớ cửa, cũng còn nhớ này kia mà nó không hết.

Đó, là đến đây là chúng ta đã qua những cái gương hạnh của Thánh Tăng và những bậc Thánh Ni tiếp tục trong cái phần giáo án hôm nay. Để nghỉ một chút./.

[Phần 5 ở Giáo án 22]

HẾT BĂNG