Skip directly to content

15 - PHÁP HÀNH TỨ CHÁNH CẦN

GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 15 - PHÁP HÀNH TỨ CHÁNH CẦN

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người nghe: Tu sinh

Thời gian: 1997

1- MỤC ĐÍCH CỦA ĐẠO PHẬT LÀ TÂM GIẢI THOÁT BẤT ĐỘNG

(00:00) Để tiếp tục cái buổi học, buổi giảng hôm nay, Thầy xin nhắc lại mục đích tu hành của đạo Phật từ lâu Thầy đã giảng dạy.

Này quý thầy!

Mục đích tu hành của đạo Phật không phải là làm Phật, làm Tổ, Bồ Tát, A La Hán, không phải làm Viện trưởng, Viện chủ, Tăng thống, Phó tăng thống, hoặc bất cứ một hàng giáo phẩm nào.

Cũng không phải vì lợi ích cho ai, cũng không phải vì lợi dưỡng, cũng không phải vì lợi ích thành tựu giới đức, mà cũng không phải lợi ích thành tựu thiền định, mà cũng không phải thành tựu tri kiến, tri kiến giải thoát, mà cũng không phải thành tựu lợi ích Tam Minh, mà cũng không phải vì sanh tử, luân hồi thoát kiếp đau khổ này!

Này quý thầy!

Mà vì chính tâm giải thoát bất động trước các pháp chính là mục đích Phạm hạnh của đạo Phật, là mục đích cuối cùng của Phạm hạnh.

Đó thì hôm nay xác định cho tất cả những điều mà chúng ta đã tu tập đó, để chúng ta đạt được cái mục đích bất động, tâm bất động giải thoát của chúng ta trước các pháp, trước thọ, đó là Phạm hạnh của đạo Phật.

Chớ không phải Phạm hạnh là cái đạo Phật giữ gìn nội cái giới luật, đạt được cái giới luật, đắc được cái giới luật là Phạm hạnh, không phải!

Cái phạm hạnh của đạo Phật tức là cái mục đích của nó để đạt được, đó là cái tâm bất động, tâm giải thoát bất động trước các pháp, trước các thọ của quý vị, đó là mục tiêu cuối cùng của Phạm hạnh.

Đó quý vị nhớ những cái điều này để chúng ta xác định được cái mục đích của chúng ta đến.

Nhiều thầy cứ nghĩ rằng mình phải tu thiền định, nhập Bốn Thiền, thực hiện Tam Minh để rồi cái đó là cái mãn nguyện của mình. Không phải đâu. Cái mà chúng ta đạt được, cái đó là cái mục tiêu cuối cùng là chúng ta phải thấy được cái tâm bất động của chúng ta.

Đó, thì hiểu được như vậy thì chúng ta biết rằng cái con đường mà từ Tứ Thiền để mà làm chủ cái sống chết cho đến chấm dứt cái sự luân hồi đau khổ này, thì nó chỉ là cái khoảng đường mà chúng ta đi để thực hiện cái tâm giải thoát bất động. Chớ không phải nó là cái mục đích chúng ta để đạt nó.

Do đó chúng ta không phải lấy thiền định mà làm cái mục đích, mà cũng không phải lấy tri kiến giải thoát mà làm mục đích, mà chỉ lấy cái sự - cái tâm giải thoát bất động của chúng ta.

Mà chỉ lấy cái tâm giải thoát bất động của chúng ta, đó là cái mục đích chính của Phạm hạnh của đạo Phật, là mục tiêu cuối cùng của đạo Phật.

Chớ không phải chúng ta nghĩ rằng chúng ta tu rồi chúng ta có một cảnh giới nào đó, hoặc là có một cái Phật Tánh, hoặc là có cái gì đó để mà chúng ta thường - lạc - ngã - tịnh ở trong đó mãi mãi, không có, cái mục đích đó không có. Mục đích có tức là còn có bị kiến chấp, còn bị cái thân kiến, đó là cái sai.

2- TỨ CHÁNH CẦN TU TẬP BẰNG PHÁP HƯỚNG VÀ PHÁP TÙY

(02:57) Cái bài học vừa rồi thì chúng ta - Thầy nhắc lại đó, thì:

…​ trong Chánh Pháp thiện, diệt trừ tà pháp ác.

Tứ Chánh Cần có pháp tu riêng…​

Cái này chắc có lẽ là đã học rồi, nhưng mà Thầy nhắc lại.

Tứ Chánh Cần có pháp tu riêng không phải trau dồi tâm mình như Tứ Vô Lượng Tâm.

Nghĩa là cái pháp Tứ Chánh Cần nó có cái sự tu riêng của nó. Cách thức nó trau dồi cái tâm nó - trau dồi các thiện pháp riêng, mà trau dứt đoạn các cái pháp ác riêng, chớ nó không phải như Tứ Vô Lượng Tâm.

Tứ Chánh Cần lấy mười điều ác và mười điều thiện mà tu tập theo tùy pháp Thập Thiện và tùy pháp Thập Ác, rồi dùng pháp hướng như truyền lệnh để cho tâm mình không sanh ác pháp và dứt bỏ ác pháp, sanh khởi pháp lành, tăng trưởng pháp lành.

Người tu sĩ phải nhận rõ theo pháp mà trạch ra thành câu hướng tâm Như Lý Tác Ý để đoạn dứt tâm sanh khởi ác pháp.

Đó thì, quý thầy nhớ trong cái vấn đề mà tu tập về các pháp này, thì chúng ta phải theo cái pháp tùy và cái pháp hướng mà áp dụng vào cái Tứ Chánh Cần này, thì chúng ta có cái pháp đoạn dứt và có cái pháp trau dồi để cho các thiện pháp sanh khởi.

Trước khi đến phần thực hành thì bây giờ Thầy sẽ đọc bài kệ của Phật để nhớ mà tu tập.

Đây là bài kệ, quý thầy nhớ kỹ bài kệ này:

Mười pháp cần dứt bỏ,

Mười pháp cần tăng trưởng.

Siêng tu tập như thế

Sống an vui hạnh phúc,

Được gọi bậc hiền nhân.

Nghĩa là chúng ta mà biết dứt bỏ mười cái pháp ác và tăng trưởng mười pháp lành bằng theo cách pháp hướng và pháp tùy mà tu tập thì chúng ta sẽ được gọi là bậc hiền nhân.

Như vậy chỉ cần tu Tứ Chánh Cần là chúng ta đã được sự giải thoát, đã được là cái bậc hiền chứ không còn xa lạ nữa. Không cần tu nhiều mà chỉ cần bây nhiêu đó cũng là thấy đã được hạnh phúc, an vui của đời sống này rồi.

3- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT SÁT SINH

(05:43) Vậy thì qua pháp hành như thế nào? Bây giờ quý vị phải trạch pháp câu này.

Câu thứ nhất:

Đây cái câu mà trạch pháp ra đây. Tức là chúng ta chọn cái câu đó ra để chúng ta dùng làm cái pháp hướng đó.

“Giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh là pháp ác, phải dứt trừ, phải đoạn trừ tận gốc cái tâm khả hỷ, khả ái này!”

Tức là cái tâm thích thú mà giết hại chúng sanh, cái tâm thích thú mà ăn thịt chúng sanh đó. Thì câu này có cái nghĩa là chúng ta phải đoạn trừ, đoạn dứt nó, không có được thích thú theo cái sự giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh.

Hằng ngày, chúng ta đều nương vào câu này mà chúng ta tu tập nhắc cái tâm của mình, để chúng ta dứt bỏ không có còn thích ăn thịt chúng sanh, mà không còn thích giết hại chúng sanh. Bởi vì chúng ta có thích giết hại chúng sanh, chúng ta mới có giết được chớ không phải là miễn cưỡng mà giết đâu.

Cho nên người ta cầm con gà, người ta cắt cổ con gà một cách an nhiên, người ta lấy cái con dao mà người ta đập con cá một cách rất tự nhiên. Một con vật la hét, một con cá giãy giụa, mà họ vẫn thản nhiên họ đập thêm mấy cái nữa!

Họ đập trong cái sự sung sướng chớ không phải là trong không có sự sung sướng. Cho nên nó Phật gọi là khả ái, khả hỷ đó. Cái hành động rất là đau đớn, thế mà họ rất là sung sướng.

Cho nên chúng ta dùng cái pháp hướng để nhắc cái tâm của mình để đoạn dứt. Đó là cái câu pháp hướng để đoạn dứt cái tâm ác.

Câu thứ hai:

“Chúng sanh có mạng sống như ta, cũng sợ đau, sợ chết như ta. Ta phải thương yêu như chính bản thân ta, như con ta và không được…​

Ở đây tới cái chỗ “như con ta” thì đó là cái câu để mà trau dồi cái thiện pháp.

Quý thầy nhớ: Một cái câu thì dứt bỏ, một cái câu thì trau dồi, làm cho nó tăng trưởng thiện pháp. Nó hai cái câu nó song song, chúng ta trạch pháp hai cái câu song song trong một cái điều ác để cho thực hiện được cái điều lành.

Bởi vì không giết hại chúng sanh đó là điều thiện, mà thương yêu chúng sanh thì chúng ta mới có làm điều thiện được, mà nếu không thương yêu chúng sanh thì chúng ta không làm được. Do đó, cho nên chúng ta trau dồi cái tâm chúng ta thương yêu, tức là chúng ta tăng trưởng thiện pháp.

Chớ không phải thiện pháp chưa sanh rồi chúng ta cho nó sanh, hay hoặc sanh là tăng trưởng - chúng ta nói như vậy là cái danh từ suông, nhưng ở đây chúng ta phải nhắc cái tâm của mình như Thầy (dạy) câu nói thứ hai:

“Chúng sanh có mạng sống như ta, cũng sợ đau, sợ chết như ta. Ta phải thương yêu như chính bản thân ta, như con ta vậy!”

Đó là, cái câu đó để chúng ta nhắc nhở trau dồi cái tình thương yêu của chúng ta. Cái sự đau, sợ, cái sự chết và sự đau khổ, thân ta ta biết sợ và chúng sanh cũng biết như vậy, để chúng ta giao cảm được cái nỗi khổ đau đó chung nhau. Cho nên chúng ta không nỡ giết chúng sanh, chúng ta cũng không nỡ ăn thịt chúng sanh.

(08:40) Đó là cái câu thứ hai. Câu trước là câu dứt bỏ, câu trước là dùng mệnh lệnh, câu sau thì trau dồi thân của mình, không có dùng mệnh lệnh.

Đó thì, các thầy thấy chỗ nào mà chúng ta cần nhấn mạnh thì cái chỗ đó là dứt, bắt buộc phải dứt. Còn chỗ nào mà chúng ta chưa dùng cái hướng lệnh thì chúng ta xoa dịu, chúng ta nhắc nhở êm ái để làm cho tâm chúng ta…​

Cũng như mình muốn dụ dỗ một con vật để mà mình rèn luyện nó, như con ngựa, hay hoặc là như con bò, con trâu để cho nó kéo cày, thì mình phải dụ dỗ nó, chớ mình la hét đánh đập nó thì chắc chắn mình gác ách mình cày không được đâu!

Cho nên mình phải dụ dỗ nó bằng cách là mình cho cỏ cho này, kia nó ăn. Các thầy thấy những cái nhà mà họ (làm) xiếc đó, cọp, voi hay hoặc là một con vật gì, họ cũng cho nó ăn rồi lần lượt dụ dỗ nó, rồi họ dạy nó múa, nó làm trò gì cũng được hết.

Thì cái tâm của chúng ta cũng vậy, nó vốn đã tích lũy những cái ác. Cho nên bây giờ chúng ta dụ dỗ để cho nó nhẹ nhàng, nó nghe được, rồi từng đó nó sửa lần, sửa lần, nó thấm nhuần được cái lòng thương yêu, chớ không được nạt nộ nó.

Cho nên cái câu thứ nhất là nạt nộ, bắt buộc, ra lệnh. Câu thứ hai thì xoa dịu, êm ái, nhẹ nhàng, làm cho tâm chúng ta dịu dàng nhẹ lại, để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, cái lòng từ bi của chúng ta.

Đó thì những cái câu như vậy quý thầy phải hiểu được, và lúc nào là dùng nó: Khi mà ra lệnh rồi thì bây giờ phải xoa dịu nó, chứ không thể nào mà quý thầy ra lệnh không thì chừng đó nó sẽ như thế nào? Nó cứng đầu, nó chống lại, nó không có chịu phục tùng đâu!

Cho nên vừa là dứt bỏ, mà cũng vừa là xoa dịu an ủi nó, để cho nó thấu đạt được cái lòng thương yêu của nó.

(10:24) Câu thứ nhất là dùng để đoạn trừ, dứt bỏ pháp ác, câu thứ hai dùng để trau dồi tâm ngăn ngừa pháp ác.

Nó ngăn ngừa cái pháp ác tức là nó sẽ phóng khởi cái pháp thiện.

Khi tâm chưa phóng khởi, tưởng điều ác thì ta phải hằng ngày trau dồi tâm ta bằng pháp hướng đến sự thương xót.

Nghĩa là cái tâm của mình nó chưa phát ra những cái điều ác, nó đương yên, nó đương thanh thản, nó đương sống yên lành, thì chúng ta phải tu tập.

Nhưng mà khi nó đã có những cái điều ác, nó có những cái hành động ác rồi thì chúng ta phải truyền lệnh ngăn, dứt nó liền! Đó là chúng ta dùng cái pháp dứt để ngăn dứt cái sự sự kiện xảy ra.

Cho nên phải biết áp dụng, Thầy nói phải biết áp dụng pháp hướng.

Khi bây giờ đó, mình có một cái sự việc gì đó, mình thấy một con rắn mình đập, đó mình đã giết con rắn rồi đó. Thì lúc bấy giờ đó, cái sự giết đó mình phải dùng cái pháp hướng ra lệnh: “Từ đây về sau phải chấm dứt!” Đó là dùng pháp hướng đúng, đúng chỗ, đúng thời điểm.

Còn bây giờ mình chưa có giết gì hết, mình bảo nó: “Đừng giết! Đừng giết! Dứt đi!” - thì cái đó là cái sai, truyền lệnh sai.

Bây giờ mình chưa có làm gì đau khổ chúng sanh hết, thì mình dùng cái pháp thương yêu chúng sanh mình nhắc nhở, mình trau dồi cái lòng thương của mình. Để cho nó mai mốt nó gặp con vật khác nó không có giết, nó gặp con vật dữ nó không có giết. Đó là chúng ta biết phải áp dụng đúng.

Chớ không, lúc nào chúng ta cũng ra lệnh, lúc nào chúng ta hét hò ở trong tâm chúng ta, thì cái đó là chúng ta làm cho nó rối loạn, nó không biết cái nào mà nó làm hết. Nó có làm ác đâu mà răn nó dữ vậy? Các thầy phải hiểu!

Bởi vậy, cho nên sự tu tập nó khó là khó cái chỗ mà chúng ta biết áp dụng. Mà không khéo áp dụng thì nó không có hiệu quả, nó không kết quả cho quý thầy, rồi nói sao mà pháp không có vi diệu. Nó không vi diệu là do chính chỗ áp dụng sai!

(12:14) Cho nên gần Thầy, các thầy mà sai thì có Thầy sửa, Thầy biết. Còn không gần Thầy là một điều rất là khó, vì áp dụng pháp hướng và pháp tùy này nó không đúng cách thì nó trở thành sai mất đi, nó không đơn giản được.

Khi tâm chưa phóng khởi, tưởng điều ác thì ta phải hằng trau dồi tâm ta bằng pháp hướng đến sự thương xót chúng sanh, để triển khai lòng từ bi của ta thì mới mong nó không sanh khởi ác pháp.

Pháp hướng để trau dồi lòng thương xót, ví như sợi dây mũi buộc con trâu, nhờ nó mà tâm không khởi ác pháp.

Nghĩa là cái pháp hướng là như chúng ta cột cái sợi dây nó đó, chúng ta muốn nó lôi nó ở đâu nó cũng đi theo hết, còn cái pháp dứt thì nó khác. Pháp dứt là khi mà nó đã thuần thục rồi thì chúng ta dứt. Còn bây giờ nó chưa thuần thục, nhưng khi nó làm một điều ác là chúng ta phải dứt, chúng ta phải la hét nó.

Cũng như bây giờ đó, con chó mình nuôi nó chưa thuần thục, mà nó hay đi bắt gà người ta, thì bắt đầu đó mình phải la hét nó, mình chặn nó trước đi, rồi sau đó mình tìm cách mình dụ dỗ nó, để cho nó thuần hóa trong cái thiện pháp, nó không có bắt gà, bắt vật của người ta nữa, thì như vậy đó là mình biết nuôi chó, mình biết dạy chó.

Nó là một phương pháp ngừa bệnh.

Cái pháp mà chúng ta trau dồi cái tâm mình như vậy, đó là trau dồi cái tâm từ bi thương yêu của mình đối với chúng sanh như vậy, đó là cái pháp ngừa bệnh.

Còn cái pháp dứt bỏ là cái pháp hướng để đoạn dứt tận gốc bằng sức lực tinh thần, làm cho nó không còn ác pháp trong tâm ta nữa.

Đó thì phải song song hành hai cái, bởi vì trong Tứ Chánh Cần thì quý thầy đã thấy, Đức Phật đã dạy: Các pháp chưa sanh không cho sanh, đã sanh thì phải đoạn dứt, mà các pháp thiện chưa sanh thì cho sanh, khởi sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng.

Rõ ràng là bốn cái Tứ Chánh Cần này luôn luôn liên tục thì chúng ta phải có sự song hành, chớ không thể nào mà không song hành được. Chớ không phải là làm cho dứt hết các pháp ác rồi mới tăng trưởng pháp lành, thì đó là cái quý thầy đã nghĩ sai.

Vừa là dứt các ác, thì phải là vừa phải thể hiện sanh các pháp thiện liền tức khắc. Bởi vì không giết hại chúng sanh thì tức là thiện rồi, thì ngay đó đã phát khởi thiện rồi. Cho nên từng đó chúng ta càng trau dồi thiện, thì tức là nó sẽ tăng trưởng lên, cho nên không làm ác nữa.

4- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT TRỘM CẮP

4.1- PHÁP HƯỚNG TỪ BỎ TRỘM CẮP

(14:39) 2. “Trộm cắp, cướp giật, lấy của không cho là một điều cực ác. Ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly, xa lánh vĩnh viễn!”

Cái câu này là cũng là cái câu để dứt trừ đó, nghĩa khi nào nghe nói dứt trừ, đoạn bỏ, viễn ly đó, xa lánh vĩnh viễn đó, thì đó là cái câu hướng để mà tu tập dứt trừ, đoạn dứt cái tâm ác của chúng ta.

Câu này chưa được đầy đủ, quý thầy nên thêm câu dưới đây:

“Trộm cắp, cướp giật, lấy của không cho dưới mọi hình thức nào cũng đều là một tội lỗi cực ác, phải dứt trừ, từ giã, xa lìa, từ bỏ, viễn ly, đoạn tận!”

Đó là cái câu chúng ta. Bởi vì chúng ta nói câu trên nó chưa được đầy đủ, chưa được đầy đủ nhưng nó ngắn gọn hơn để chúng ta ra lệnh ngay chóng khi mà chúng ta đã thông suốt.

Câu dưới mặc dù là trộm cắp, lấy của không cho nó nhiều cái hình thức lắm, như ăn lo hối lộ đồ, hay hoặc là thế này thế khác, biển thủ đồ…​ Đó là những cái tội trộm cắp chớ không phải là không trộm cắp.

Do nó nhiều hình thức lắm, nhiều hình thức có thể mình lường gạt người ta lấy, thì nó cũng là do cái tội trộm cắp - nằm ở trong cái tội trộm cắp, cướp giật.

Cho nên ở cái câu thứ hai nó trọn vẹn đầy đủ, để nhắc nhở chúng ta không có làm những cái điều như vậy. Điều đó là cái điều ác, cái điều không tốt, cho nên phải viễn ly, đoạn tận nó đi, từ giã, từ bỏ đi, dứt trừ đi. Đó là những cái câu đoạn dứt nó.

4.2- ÁP DỤNG CẢ PHÁP HƯỚNG, PHÁP TÙY VÀ PHÁP QUÁN

(16:12) Đó cho nên nghe nói mình dứt ác, các pháp ác đã sanh thì dứt liền, thật sự ra trong khi đó mình không trau dồi mình thì khi mà nổi cơn sân thì quý thầy có dứt được nổi không? Đâu có dễ gì dứt được! Nó làm như chúng ta điên khùng ở trong tâm rồi, còn đâu mà biết đâu mà sáng suốt nữa mà dứt!

Đó cho nên bây giờ chúng ta chuẩn bị cho mình những cái tư tưởng, những cái sự dứt bỏ bằng chúng ta thấu suốt được cái lý của pháp ác. Vì vậy mà chúng ta muốn thấu được cái lý pháp ác đó, nhờ cái pháp hướng nó nhắc đi nhắc lại, nó làm cho chúng ta thấu được cái lý pháp ác.

Và đồng thời chúng ta còn phải tu tập thêm cái pháp quán để suy xét những cái tâm niệm giận của chúng sanh như thế nào, nó bừng bốc nó cháy như lửa như thế nào, nó làm cho cái con người giận, sân, nó phải như thế nào?

Vì vậy, tất cả những cái mà chúng ta tu học chúng ta đều phải có quán nè, rồi có hướng nè, rồi có tùy nè, nó mới đúng. Cho nên cái Định Vô Lậu nó kèm thêm với cái Định Chánh Niệm Tỉnh Thức, vì vậy mà nó luôn luôn lúc nào nó cũng dùng pháp hướng, pháp tùy, nó không có xa lìa các cái hành động tu tập này.

Cho nên khi mà chúng ta chưa rõ cái pháp ác nó như thế nào thì chúng ta đặt cái niệm pháp ác đó. Bây giờ thí dụ chưa rõ cái pháp ăn trộm ăn cắp như thế nào, thì chúng ta đặt cái niệm ăn trộm, ăn cắp đó trước mặt rồi chúng ta dùng cái tri kiến chúng ta phóng ra để chúng ta quan sát, chúng ta theo dõi, chúng ta xem xét.

Trong khi chúng ta xem xét, chúng ta mới hiểu rõ đó là thật là cái pháp ác, làm cho người ta đau khổ, làm cho người ta mất của, làm cho người ta tự tử, làm cho người ta chết dở sống ở trong cuộc đời khi người ta bị mất của.

Khi mà quán sát được như vậy thì chúng ta thấy nó là cực ác. Mà cực ác thì chúng ta phải đoạn dứt. Vì vậy mà chúng ta mạnh mẽ mà đoạn dứt nó, không làm cái điều đó nữa. Còn nếu chúng ta không thông suốt, thấy nó là pháp thiện thì chắc chắn là chúng ta sẽ trộm cắp mãi, và giết hại chúng sanh mãi, không bao giờ mà tận cùng được.

Đó thì những cái điều mà thầy dạy hôm nay để cho quý thầy biết áp dụng, và biết áp dụng trong pháp Phật đã dạy.

Bởi vì cái Định Vô Lậu là để giúp cho chúng ta nhìn thấu được các pháp mà quán các pháp. Định Vô Lậu là định dùng quán, chớ không phải là dùng hướng.

Đó, thì như vậy là chúng ta phải biết lúc nào mà dùng pháp hướng, lúc nào dùng pháp tùy, lúc nào là dùng pháp quán, thì như vậy mới có cái hiệu quả trên bước đường tu tập.

Chớ không phải mà muốn tu như thế nào là cái tâm tham, sân, si chúng ta hết được liền đâu, không phải dễ đâu, hay hoặc là các pháp ác mà chúng ta dứt được liền đâu, không phải nói một cách đơn giản được mà cả một công trình tu tập.

5- KHI TU TẬP CẦN TÂM CHUYÊN NHẤT CẢNH

(18:35) Đây là những câu pháp hướng tâm, nhắc tâm Như Lý Tác Ý dẫn tâm vào đạo, giải thoát ác pháp. Quý vị phải biết: Trước khi dùng pháp này tu hành dứt bỏ các ác pháp thì quý vị phải tâm chuyên nhất cảnh.

Nghĩa là như thế nào?

Thầy xin nhắc lại cho quý thầy nhớ, chớ không được đụng đâu ngồi đó.

Nghĩa là mình muốn mà tâm chuyên nhất cảnh thì không được mà mình đụng đâu ngồi đó, mà mình dùng pháp tùy, pháp hướng, pháp này, kia lộn xộn.

Muốn tu một cái pháp nào đó phải nghiêm chỉnh, phải tìm một cái nơi ngồi cho nghiêm chỉnh. Bởi vì pháp không phải là đồ chơi, không phải là đụng đâu mình có thể mà làm chỗ đó được, mà đây là pháp để cứu mình ra khỏi những pháp ác, để cứu mình thoát ra khỏi những sự đau khổ của cuộc đời.

Cho nên phải xem nó là một cái vật quý báu, phải nghiêm chỉnh - trước khi mà dùng một cái câu nào hướng, trước khi dùng một cái sự quán xét nào thì cũng phải nghiêm chỉnh mà quán xét thì nó mới có cái kết quả.

Còn nếu mà chúng ta đụng đâu ngồi đó, thì ngồi chơi chút cái rồi chúng ta cũng ngồi đó mà quán xét cái này, quán xét cái kia, làm như là sanh vọng tưởng nghĩ ngợi chuyện làm ăn vậy, thì cái chuyện đó không phải là cái người tu.

Người tu là trước khi mà chúng ta muốn khởi một cái gì đó chúng ta chủ động điều khiển, ngồi xếp bằng, lưng ngay thẳng đàng hoàng, nơi cái cảnh yên tịnh, chớ không được mà ngồi cái chỗ giữa chợ, ngồi đó suy nghĩ như là tìm cái công ăn việc làm, hoặc là tìm cái cách mưu mô kế này, kế kia để lường gạt người để lấy của, thì cái điều đó không được.

Ở đây là cái chỗ giải quyết cái tâm giải thoát, làm cho chúng ta xa lìa các pháp ác thì phải:

Tìm một nơi yên tịnh, tịch mịch, rồi ngồi kiết già, lưng thẳng, hít mười hơi thở bình thường…​

Nghĩa là mình hít thở hơi thở bình thường, không được thở chậm mà cũng không được thở nhanh, mà thở bình thường.

…​ cho tâm gom lại…​

Cho cái tâm mình nó tập trung trong cái hơi thở, nó gom lại theo hơi thở bình thường.

…​ và tâm chuyên nhất trong hơi thở.

Bây giờ cái tâm nó đã bám chặt ở trong hơi thở chuyên nhất rồi, bởi vì nó tâm chuyên.

Thì quý vị đặt niệm hướng tâm này ngay trước mặt mà dẫn tâm dứt trừ các ác pháp.

Trong khi tu tập quý vị không nên để mất niệm.

Tức là thất niệm đó. Cái niệm mà đặt đó thì quý vị không được quên, quý vị một lát quý vị nhớ hơi thở, lát quý vị nhớ chuyện khác, lát quý vị không nhớ, tức là các vị bị thất niệm. Cho nên Phật dạy thất niệm là không đạt được kết quả gì hết.

Vì mất niệm tức là thất niệm, mà thất niệm thì tâm mê, dao động, thì sự tu không có kết quả.

(21:19) Cho nên khi đặt cái niệm là phải tập trung trong cái niệm đó. Hồi nãy là mình tập trung trong hơi thở để cho mình gom cái tâm của mình lại.

Khi mình đặt được cái niệm trước mặt rồi, thì cái niệm đó mình chăm chăm mà nhìn cái niệm đó, để quán xét cái niệm đó, để suy tư cái niệm đó, tìm ra cái niệm đó, để rồi chúng ta mới thấu suốt được cái niệm đó.

Có tu nghiêm chỉnh như vậy thì kết quả mới đến với quý vị vĩ đại, lậu hoặc của quý vị mới quét sạch. Còn nếu quý vị tu tập mà không nghiêm chỉnh thì ngàn đời quý vị cũng chẳng đạt được cái đạo này đâu.

Câu này quý thầy dùng nó làm niệm. Khi niệm hướng vừa dứt thì quý thầy tiếp một niệm nữa, nhưng phải có một khoảng cách…​

Nghĩa là, cái niệm đặt nó rồi quý vị quán xét cái niệm đó rồi, nhất là Vô Lậu, khi mà cái niệm được quán xét thông suốt rồi thì quý vị xả nghỉ, không được tiếp tục cái niệm nữa.

Nhưng về cái pháp hướng, thì cái niệm này quý vị đặt cái niệm đó để quý vị trạch cái câu đó ra, quý vị hướng tâm, nhắc cái tâm mình rồi, thì cái câu này quý vị xong rồi thì quý vị có một khoảng thời gian nghỉ, rồi quý vị mới đặt cái câu khác để quý vị thay vào đó, để cho quý vị trau dồi cái tâm của mình, lòng thương yêu của mình, hay hoặc là dứt bỏ mạnh hơn nữa, thì nó cũng phải có một khoảng cách ngăn nhau.

Chớ không phải câu này rồi cái bắt đầu đọc tới câu khác, đọc tới câu khác nữa. Quý vị liên tục như vậy thì một người mà huấn luyện voi, ngựa, bò, trâu, họ làm như vậy con trâu bò nó cũng điên đầu nó, nó cũng không biết đâu nó làm nữa.

Phải tập cho nó thuần thục cái này, nghỉ một chút rồi để cho cái tâm nó yên tịnh trở lại rồi mới đặt cái câu khác.

Đó, hôm nay Thầy dạy như vậy các thầy mới biết cách làm, biết cách tu, chớ không khéo các thầy tu điên, tu khùng nữa.

Bởi vậy không có kinh nghiệm tu thì làm sao mà hướng dẫn người ta tu được! Mà không hướng dẫn người ta tu được thì Phật Pháp mai một, không còn ở trong thế gian này nữa.

…​ thì quý thầy tiếp một niệm nữa, nhưng phải có một khoảng cách giữa tâm yên lặng theo hơi thở ra, hơi thở vào.

Quý thầy nhớ: Ông Phật dạy rất kỹ cái chỗ này. Bởi vì người ta không nghiên cứu được cái giáo pháp của Phật. Khi muốn tu Định Vô Lậu, cũng như Định Chánh Niệm Tỉnh Thức, cũng như tất cả mọi thứ định để cho tâm gom lại, vì vậy Phật nói “Định Niệm hơi thở ra hơi thở vô khéo tác ý” - là như thế nào?

Bây giờ quý vị muốn đi kinh hành, mà để cho tâm quý vị gom vô cái tập trung, thì cái hơi thở là cái đối tượng trước cái mặt của quý vị rất dễ: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra!” Là nhắc như vậy, hướng tâm như vậy, làm cho tâm của quý vị nó gom vô hơi thở.

Bây giờ đó quý vị nói: “Tôi đi kinh hành, tôi biết tôi đi kinh hành!” Rồi quý vị nghỉ, quý vị cứ bước đi. Cái tâm của quý vị nó tập trung trong cái hành động đó liền tức khắc. Nó rời khỏi hơi thở, nó tập trung đó.

Thì đi một lát nữa thì quý vị: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra!” Tức là quý vị phải gom lại cái thân của quý vị, vì cái hơi thở đó nó sẽ nằm trong thân quý vị, do quý vị gom vào thân nó.

Rồi bắt đầu quý vị nhắc: “Đi kinh hành, tôi biết tôi đang đi kinh hành!” Thì ngay đó nó tập trung dưới hành động thân của quý vị. Như vậy cái sức tỉnh thức của quý vị nó càng ngày càng rõ ra.

Bởi vì Thầy dạy các vị có cái tụ điểm. Các vị phải hiểu: có cái tụ điểm, mà tụ điểm lúc nào tâm nó cũng phải gom nằm đó, để nó quan sát tất cả hành động, chớ không phải nó nằm dưới chân của quý vị.

Mà nó nằm dưới chân quý vị thì nó sẽ bị thất niệm, cho nên tỉnh giác của quý vị chỉ tỉnh giác mơ hồ, chớ chưa phải là tỉnh giác.

(24:46) Vì vậy mà nhìn qua trong một tháng nay, cái sự sống của quý vị thiếu tỉnh giác cho nên phá độc cư.

Đó quý vị thấy rõ. Cho nên thấy cái sự tu của quý vị kết quả hay không, là một người thiện hữu tri thức người ta có kinh nghiệm, người ta biết được quý vị tu đúng, tu sai.

Đó, những lời Đức Phật dạy như vậy. Cho nên khi mà chúng ta nhập tới Diệt Thọ Tưởng Định, chúng ta phải dùng hơi thở mà chúng ta đi tới, chớ không bao giờ mà lìa xa hơi thở. Bởi vì hơi thở là cái tụ điểm của chúng ta.

Đó! Đó là những cái mà Thầy đã hiểu biết được Phật, và hiểu biết qua kinh nghiệm bản thân tu hành của mình đã làm được những gì, đã thành tựu được những gì.

…​ khoảng cách giữa tâm yên lặng theo hơi thở ra, hơi thở vào.

Quý vị nhớ phải nhắc tâm mình theo hơi thở, không để tạp niệm xen vào:

Nghĩa là lúc bấy giờ không được cho tạp niệm xen vào. Thì nhờ có nương - bám chặt hơi thở thì lúc bấy giờ tạp niệm mới không xen. Do đó:

“Hơi thở ra tôi biết tôi thở ra, hơi thở vào tôi biết hơi thở vào!” Khoảng độ mười hơi thở thì quý vị lại nhắc câu này để trau dồi lòng thương yêu của quý vị, để ngăn ngừa lòng tham lam của quý vị.

Quý vị trạch câu này ra để dùng pháp hướng nhắc tâm Như Lý Tác Ý:

“Của cải, tài sản của ta, ta mất ta còn buồn khổ, có thể ta đi đến chết quyên sinh, tự tử. Nỡ nào ta lấy của người bằng mọi hình thức cho được?”

Đó, cái câu này để cho chúng ta tu tập, trau dồi cái tâm của chúng ta biết thương cái người mất của, làm cho chúng ta không có bao giờ còn nỡ tâm lấy của người nữa. Đó là trau dồi cái tâm của mình, biết cái khổ của người khác, là cái người mất của cũng như mình mất của.

Đó là như vậy. Mà cái sự thực hành thì phải như lời Thầy dạy hồi nãy thì quý vị mới có kết quả. Cái câu trước là dứt đoạn, câu này là trau dồi cái tâm biết thương người, biết thương người mình không lấy của người, vì lấy của người làm khổ người.

Do vì vậy mà chúng ta phải có một khoảng cách, câu trên với câu dưới khoảng cách mười hơi thở. Và mười hơi thở đó để tập trung gom tâm làm cái sức tỉnh thức, làm cái tụ điểm để chúng ta hướng câu kế, để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta đối với muôn người. Vì vậy mà chúng ta không lấy của không cho.

Các thầy thấy Thầy dạy có cách thức, có hẳn hòi, có pháp hành rõ ràng, nhưng quý thầy tu sai là quý thầy chịu trách nhiệm, chớ còn Thầy không có trách nhiệm ở trong sự tu sai đó. Thầy dạy các thầy làm đúng thì các thầy có cái kết quả, mà làm không đúng thì quý thầy phải chịu lấy.

6- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT TÀ DÂM

(27:19) Câu 3:

Tà dâm là một thứ sắc dục không chân chánh, làm nát cửa, tan nhà người và cả mình, làm đau khổ gia đình mình và gia đình người. Ta phải chấm dứt thói sắc dục bất chánh này; ta ly khai, từ bỏ, xa lánh, viễn ly vĩnh viễn!”

Đó là cái câu mà đoạn dứt cái tâm ưa sắc dục, ưa đi ve vợ người khác, ưa làm những cái chuyện tồi bại, phá gia cang người khác, thì đó là cái hành động tội ác cực lớn chớ không phải là nhỏ đâu, làm tan nhà, nát cửa người. Cho nên lấy câu này mà nhắc để mà chúng ta hằng ngày trau dồi cái tâm mình dứt đoạn, không có được cho nó phạm vào cái lỗi ác này.

Đây là một câu trạch pháp để dùng hướng tâm đoạn dứt pháp ác, trừ tà dâm thói xấu. Quý vị nào có căn bệnh này thì phải ngày đêm chuyên cần tu tập pháp hướng.

Bởi vì cái tật này - có nhiều người mang cái tật này dữ lắm, còn có nhiều người, người ta không có, còn có nhiều người thì mang cái tật này rất nặng, thấy vợ con người ta là thích tới à! Đó là những cái hạng người chuyên môn tà dâm, cái tâm rất là tệ bạc.

“Tà dâm là một tánh rất xấu làm cho con người mất thể diện, thọ tiếng xấu bạc tình, bạc nghĩa muôn đời. Ta phải dứt bỏ như dứt bỏ một vật thối tha, bẩn thỉu nhất!”

Đó là cái câu dứt nữa đó, câu pháp hướng này là câu dứt nữa đó, chớ không phải là câu trau dồi.

Cho nên ở đây chúng ta phải nhận ra những cái pháp hướng, trạch pháp ra cái câu nào cho đúng nghĩa của nó, và đồng thời trong một thời gian mà tu hai câu này thì chúng ta cũng phải có một cái đoạn thời gian cách nó đi ra, để tập trung gom lại, rồi dùng cái lực tinh thần của chúng ta mà ra lệnh, để cho nó dứt bỏ, thì sau này tâm chúng ta nó mạnh dạn, nó xa lìa các pháp ác, nó không còn làm cái đó nữa.

Bởi vì cái thói quen của chúng ta mà tà dâm như vậy đó, thì nó có cái thói quen thích thú của nó, nó có cái khả hỷ, khả lạc, nó làm chúng ta thích. Cho nên chúng ta bị nó sai khiến chúng ta, vì vậy mà chúng ta không dằn được nó. Mà không dằn được nó thì chúng ta phạm phải cái tội ác rất lớn là phá gia cang gia đình của kẻ khác.

(29:32) Cho nên từng ngày chúng ta tập luyện như vậy, hai câu: câu trước và câu sau này, chúng ta thường phải nhắc nhở khi mà chúng ta có cái tật xấu đó.

Tiếp tục, quý thầy dùng câu thứ hai này làm pháp hướng để răn nhắc tâm mình thường xuyên để xa lìa tánh ác xấu đó:

“Đời người thường ao ước được cuộc sống hạnh phúc lứa đôi, bên nhau trung thành mãi mãi, chẳng bạc tình, bạc nghĩa. Vậy ta hãy biết thương người, mong cầu đem lại hạnh phúc cho người.

Thì tánh tà dâm là một tánh xấu đem lại ta khổ, người khổ, gia đình tan nát. Biết thương mình, thương người, ta hãy dứt trừ tánh xấu này!”

Đó thì, đây là cái câu pháp hướng để gợi cái lòng thương yêu của người, của mình, mà không làm hại gia đình mình, không làm hại gia đình người. Đó là cái câu pháp hướng trau dồi cái tâm của chúng ta thương yêu, thương mình, thương người đó, để không làm cho gia đình tan nát.

Đây là câu trạch pháp dùng để hướng tâm nuôi lớn lòng thương yêu với sự an vui hạnh phúc của mọi người.

Nghĩa là của mình, của người ở trong đó nữa. Cho nên nhắc cái tâm của mình thường xuyên, dùng cái câu này nhắc. Khi mà dùng hai câu trạch pháp trên để đoạn dứt cái tâm tà dâm thì chúng ta phải dùng câu dưới này để cho an ủi, chúng ta thấu suốt được cái lòng thương yêu chúng ta đối với sự làm tan nát cả đôi bên gia đình.

Đó thì, cái sự tu tập phải trau dồi, phải rèn luyện như vậy, gọi là dứt ác mà tăng trưởng thiện.

7- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT NÓI DỐI

(31:01) Câu 4:

Người có chánh hạnh…​

Bây giờ về phần 4 là về phần ngôn ngữ rồi đó.

Người có chánh hạnh ngôn ngữ không bao giờ nói chuyện không thật, luôn luôn nói những điều chân thật, không nói láo.

Đó về cái ngôn ngữ, mà cái chánh hạnh ngôn ngữ, thì không bao giờ mà cái người mà người ta đặt láo, nói chuyện không thật, nói luôn luôn lúc nào phải chân thật.

Nói láo là một lời nói dối gạt người, làm cho người tin theo phải khổ sở, nó là một pháp ác.

Đó, nói láo là một cái pháp ác, chớ không phải là…​ Bởi vì con người ta không chết mình nói chết, con người ta không té sông mình nói té sông, đó là một cái điều kiện là làm cho người ta khổ sở. Những cái điều mà nói như vậy, điều đó là không đúng.

Cho nên trong thời Đức Phật, Ngài La Hầu La mới đến tu thì ông cũng có cái tật hay nói láo. Do đó có những người mà đến thăm Phật, hỏi Đức Phật có trong tịnh xá không, thì Đức Phật có trong đó ông nói Đức Phật không có, họ bỏ đi về. Còn khi nào mà Đức Phật không có, thì ông nói có ở trong đó đó, có ở trong tịnh xá, họ vô họ tìm cùng không thấy ông Phật đâu hết.

Cho nên người ta mới nói với Phật là có ông - cái chú Sa Di đó chú hay vọng ngữ quá, chú nói láo dữ lắm. Do đó mà Phật mới dạy cho thầy - cho La Hầu La bằng những cái đức hạnh như thế nào, thì có dịp Thầy sẽ thuật lại những cái chuyện mà Đức Phật giáo dục cho đứa con một của mình, qua những cái pháp ác mà cái chú này đã phạm phải trong cái tuổi còn thơ ấu.

Bây giờ chúng ta trạch pháp ra, về cái phần mà nói láo đây:

Nói láo là một tánh xấu ác, ta phải dứt trừ, từ bỏ, viễn ly!”

Đó là chúng ta ngắn đó, nghĩa là chúng ta ngay đó chúng ta nhấn liền: “Nói láo là một tánh xấu ác, ta phải dứt trừ, từ bỏ, viễn ly!”

Câu 2:

“Nói láo là một tánh xấu, ác pháp, làm ta mất uy tín với mọi người. Vậy nay ta hãy từ bỏ, xa lánh pháp này!”

Đó, khi mà nói láo, người ta biết mình nói láo rồi thì mình sau này mình nói không ai tin mình hết. Cho nên câu thứ hai nó lại dài hơn, để chúng ta thấy rõ cái sự nói láo là nguy hại cho chính mình.

(33:17) Câu 3:

“Ta là người tu tập Tứ Vô Lượng Tâm - tâm thương yêu rộng lớn đối với muôn loài, ta nỡ nào dối gạt chúng sanh? Ta phải từ bỏ, xa lánh nơi nói láo để thực hiện lòng thương yêu rộng lớn!”

Mình lấy cái tâm Từ Bi Vô Lượng của mình đó mà mình áp dụng để mà xoa dịu cái tâm của mình đừng có nói láo, vì nói láo là như vậy làm cho không đúng cách, làm cho người khác khổ. Do đó mà chúng ta trau dồi cái lòng thương yêu của chúng ta.

Câu 4:

“Nói láo là không thương chúng sanh và không thương mình, ta phải chấm dứt, đoạn dứt tánh xấu ác này!”

Đó là một cái câu để mà chúng ta dùng pháp hướng.

Câu 5:

“Thương người không được nói láo, vì nói láo là không thương người!”

Đó là cái câu thứ 5.

Câu thứ 6:

Nói láo là một tánh xấu cực ác, ta phải chấm dứt ngay!”

Đó, cái câu đó là cũng là câu để mà chúng ta ngắn gọn, để mà chúng ta ra lệnh chấm dứt nó đó.

Quý thầy là đệ tử của Phật phải tu tập chánh hạnh ngôn ngữ, phải rèn luyện chánh hạnh ngôn ngữ, dù bất cứ trong trường hợp nào, dù có chết nát thây các thầy cũng không được nói lời thiếu chân thật!

Đó thì cái phần này, thì khi mà chúng ta đã nhận mình là đệ tử của Phật, do đó chúng ta không được nói thiếu lời chân thật. Dù lúc bấy giờ người ta bắt buộc mình phải nói cái lời dối mà họ không giết mình, thì nhất định là mình thà chết chớ không được nói dối, không được nói láo. Đó là cái người tu sĩ đạo Phật như vậy.

Cho nên xưa Đức Phật có một cái thời tu tập ở trong núi, có một nhà vua đi săn nai, đuổi con nai, còn con nai chạy ngang qua chỗ Đức Phật rồi lại chui dưới cái tảng đá chỗ Đức Phật mà nằm, mà trốn đó. Cho nên nhà vua chạy đến hỏi: “Ông có thấy con nai của tui ở đây hay không?”

Thì ông Phật làm thinh. Nếu mà nói con nai mà chạy luôn thì là nói vọng ngữ, mà nói con nai chui xuống ở dưới cái cục đá của mình, là nói thật, thì không vọng ngữ, thì ông vua sẽ bắt con vật mà giết đi, thì mình mang cái tội chỉ cho người ta giết chúng sanh, cho nên mang cái tội sát sanh.

Cho nên ông Phật ổng ngồi tu ông không dám nói gì hết, ổng làm thinh. Bởi vì hai cái giới này, hai cái pháp ác này nó kèm theo một trường hợp, cho nên ông Phật chỉ làm thinh mà chịu.

Nhà vua lẻo tai, cắt hai cái lỗ tai, ông cũng chẳng nói, móc hai con mắt cũng chẳng nói, chặt tay cũng chẳng nói. Cho nên cuối cùng thì ông đã thành tựu được cái chỗ giữ gìn giới luật nghiêm túc.

Đó thì các con thấy trong giới luật, mà người tu hành người ta giữ có cái nói láo và sát sanh không mà người ta chịu chết đó.

Đó thì, sự tu tập của chúng ta là đệ tử của Phật, hoàn toàn là chúng ta phải giống như Phật. Sau khi dạy Tứ Bất Hoại Tịnh thì thân của Phật như thế nào, ý của Phật như thế nào, thì chúng ta phải sống như vậy mới chính là Tứ Bất Hoại Tịnh Pháp.

Bây giờ chưa tới, Thầy chưa giảng dạy, chớ giảng dạy thì những cái câu chuyện này được nhắc đi nhắc lại cho quý thầy để rèn luyện mình sống đúng như Phật, tức là niệm Phật đó.

8- TÂM TÍCH LŨY NHIỀU ĐIỀU ÁC NÊN PHẢI THỌ THÂN NÀY

(36:38) Hàng ngày phải rèn luyện, siêng năng theo pháp Tứ Chánh Cần mà tu tập.

Nghĩa là phải siêng năng, vì cái pháp này là cái pháp siêng năng, mà siêng năng thì mới dứt ác, mới tăng thiện được. Còn nếu không siêng năng chưa chắc đã gì chúng ta đã dứt ác được.

Vì vốn cái tâm của chúng ta là cái tâm tích lũy, cái tâm nó tích trữ những pháp ác nhiều đời nhiều kiếp, cho nên mới có thọ thân này, nếu mà nó đã tích thiện thì nó đâu có thọ thân này, nó phải thọ cái hóa thân. Tức là nó sẽ biến hóa ra cái thân, chớ nó không phải nó còn cái thân mà sanh cái chỗ bẩn thỉu, cái thân mà sanh cái chỗ dục.

Cho nên ở đây chúng ta là do cái thai sanh, vì cái tâm của chúng ta nó có những cái ác pháp, cho nên nó mới sanh ở trong thai sanh. Còn những người mà thiện pháp, thì như Phật ví dụ, như các người cõi trời thì họ là hóa sanh, họ không có thai sanh.

Cho nên có người hỏi Thầy: Có hóa sanh hay không? Thật sự có hóa sanh.

Bởi vì các thầy cứ nghĩ rằng một cái người mà tu tập như chúng ta nè, tu tập như chúng ta vầy, mà khi mà thân định trên tâm, mà tâm định trên thân rồi, nhập được Tứ Thiền rồi, thì người ta ra lệnh, thì cái thân này nó sẽ biến muôn ngàn cái thân, không phải là hóa thân sao?

Ngồi đầy cái rừng này, ngồi đầy cái khu đất này, hàng trăm hàng vạn ông thầy như Thầy, giống y mặt, người nào cũng giống y hết. Mà bây giờ Thầy muốn cái thân này - tức là Dục Như Ý Túc mà - muốn nó như thế nào, muốn cái thân Thầy nó lớn bằng cả nửa bầu trời này, nó tự nhiên nó sẽ lớn như vậy đó.

Thì các thầy nghĩ có phải hóa không? Nếu không hóa làm sao được cái chuyện đó! Cái thân bây lớn đây mà hóa ra đứng nửa cái bầu trời này thì quý thầy nghĩ như thế nào? Cái chân nó có thể nói rằng, không có lượng được cái chân mà thò xuống là kể như trái đất này nhẹp đi. Thì đó không phải là hóa sao?

Vậy cho nên nó có cái thế giới hóa thân chớ đâu phải không có cái thế giới hóa thân! Cho nên Phật nói là cõi trời. Khi chúng ta hướng tâm về thiện thì chúng ta sẽ sanh vào hóa thân, mà chúng ta về dục thì chúng ta phải sanh về thai sanh. Đó thì, các thầy phải thấy được bốn cái sanh của con người.

Cho nên các thầy nghĩ rằng: Khi mà chúng ta hoàn toàn là dứt dục, không còn cái tình dục thì chắc chắn là con người trên thế gian này không có. Đâu ra không có? Chúng ta hóa sanh mà!

Như bây giờ Thầy muốn Thầy có một trăm người ngồi ở trong cái khu đất này, Thầy chỉ cần nhập cái Định đúng nó Thầy câu hữu, thì ngay đó thì nó ngồi một trăm người chớ đâu phải một người!

Quý thầy ngạc nhiên, quý thầy chưa đến chỗ này quý thầy chưa thấy. Khi nào ở đây có chúng tới đó rồi thì quý thầy sẽ trực tiếp thấy. Còn bây giờ đem ra biểu diễn cũng như làm trò xiếc cho quý thầy coi thì cái chuyện đó là cái chuyện mê hoặc, chuyện làm cho người ta không đi vào cái chánh của Phật Pháp.

9- TU TỨ CHÁNH CẦN LÀ THỰC HIỆN ĐẠO ĐỨC NHÂN QUẢ

(39:19) Các thầy nên nhớ: Chỉ có tùy pháp Tứ Chánh Cần mà quý thầy dứt ác…​

Nghĩa là tùy theo, nương theo Tứ Chánh Cần đó, tức là cái pháp tùy. Tùy là như thế nào? Bởi vì theo cái pháp đó, là nương theo cái pháp đó mà dứt được các ác pháp, tăng trưởng các thiện pháp.

Các thầy nên nhớ chỉ có tùy pháp Tứ Chánh Cần mà quý thầy dứt ác, làm thiện. Đó là con đường đạo đức nhân quả chân chánh của đạo Phật.

Đó, thì con đường mà chân chánh của đạo Phật thì nó chỉ có cái pháp Tứ Chánh Cần là nó giúp cho quý thầy thực hiện được nhân quả chân chánh của nó, tức là đem lại những cái quả thiện, cái nhân thiện. Mà chính Đức Phật đã xây dựng đạo pháp của mình, giáo lý của mình trên con đường của nhân quả, trên cái nền tảng của nhân quả, của đạo đức nhân quả.

Quý thầy phải lấy những câu trên mà Thầy đã trạch ra pháp để quý thầy dùng nó hướng tâm Như Lý Tác Ý.

Hằng ngày phải siêng năng tinh tấn đặt niệm trước mặt, đừng để thất niệm, chuyên cần tu tập, như vậy tâm quý vị thanh tịnh. Quý vị sẽ “chỉ” được các hành trong thân, nhập Chánh Định, dẫn tâm đến Tam Minh, quý vị thành tựu đạo giải thoát.

Nghĩa là chỉ cần tu Tứ Chánh Cần, thực hiện được trí tuệ, thực hiện được cái các pháp thiện, thì tâm của quý vị nó sẽ thanh tịnh. Và khi thanh tịnh đó thì quý vị mới “chỉ” được các hành ở trong thân của quý vị.

Mà “chỉ” được các hành ở trong thân thì quý vị thân tâm mới nhập định được, mà nhập định được thì quý vị mới hướng tâm đến Tam Minh, quý vị mới thành tựu được đạo giải thoát vô lậu.

Nó không đơn giản, mà chỉ bắt đầu vô từng pháp đã có những cái hiệu quả của nó. Cho nên chúng ta càng đi sâu thì chúng ta thấy pháp này nó bổ túc cho pháp kia.

Nhưng mục đích của nó là nhắm vào dứt ác mà tùng thiện, tăng trưởng thiện, để thực hiện được cái tâm thanh tịnh không còn một chút ác pháp trong đó. Do vì vậy đó mà nó mới “tịnh”, nó mới “chỉ” được các hành, làm chủ được sự sống chết ở trong thân của chúng ta.

10- PHÁP HÀNH TỪ BỎ LỜI NÓI XẤU ÁC

(41:26) 5. Quý thầy là những người tu sĩ đạo Phật, quý thầy phải giữ gìn chánh hạnh trong ngôn ngữ, quý thầy không được nói xấu ác, không được đặt điều ra nói xấu hoặc vu khống cho người.

Đó thì cái câu, về cái phần mà nói về ác xấu đó, nói về cái chánh hạnh của cái ngôn ngữ, thì nó có bốn cái phần, những cái phần trước thì quý thầy đã học rồi, bây giờ tới cái phần mà mình nói xấu người khác.

Mà cái người mà trau luyện giữ gìn cái chánh hạnh ngôn ngữ thì không được nói xấu ai. Người ta xấu thì người ta làm xấu, không được đặt điều ra nói xấu người khác, hoặc là vu khống người khác, người ta không làm điều đó mình nói người ta làm.

Thí dụ như người ta không ăn trộm, mình nói người ta ăn trộm, người ta không lấy của mình, mình nói người ta lấy của mình, thì điều đó là đặt ra, mình vu khống, vu oan người ta. Thì cái đó là cái người mà trau dồi cái chánh hạnh ngôn ngữ thì không được nói những cái điều đó.

Đây là pháp ác thứ năm quý thầy cần phải tu tập trau dồi tâm mình để đoạn dứt, từ bỏ, để được xa lánh cái tánh ác này.

Có nhiều người họ lấy cái sự mà nói xấu người hoặc là đặt điều ra nói xấu người, họ thích lắm, họ làm cái đó họ thấy thích thú lắm. Cho nên họ thường hay đem chuyện người này nói chuyện người kia, nói xấu người ta.

Thì cái đó là cái tánh xấu ác đó, cái ngôn ngữ đó, cái đó là không phải là chánh hạnh ở trong ngôn ngữ, mà đó là những cái ngôn ngữ tệ bại, những cái ngôn ngữ không có ra gì.

“Đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết là một điều ác, làm cho người khác đau khổ. Ta phải dứt trừ, từ bỏ, viễn ly tật xấu ác này!”

Đây là cái câu hướng đây.

“Đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết là một điều ác, làm cho người khác đau khổ. Ta phải dứt trừ, từ bỏ, viễn ly tật xấu ác pháp này!”

(43:25) Câu 2:

“Đặt điều ra nói xấu người là một pháp ác, là một tánh xấu tệ của ta. Ta phải dứt trừ, ta phải từ bỏ, từ bỏ như bệnh cùi!

Đó là câu thứ 2 của pháp hướng

Câu thứ 3:

“Nói lời vu khống oan ức khiến người ta tức tối sanh ra tự tử, quyên sinh, hoặc oan ức tù tội tử hình, đó là một pháp ác, một pháp cực ác. Ta phải từ bỏ, dứt bỏ vĩnh viễn!”

Đó là cái câu 3.

Câu 4:

“Ta là tu sĩ đạo Từ Bi, thương khắp chúng sanh, nỡ nào đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết để cho người khổ sở, như vậy là ta làm mất Từ Bi, nên ta phải dứt bỏ tật xấu ác này vĩnh viễn!”

Đó là những cái điều kiện mà chúng ta cần phải dùng pháp hướng này để trau dồi và để dứt bỏ tâm chúng ta trong những cái ngôn ngữ thiếu chánh hạnh.

Câu 6:

“Ta là người trau dồi lòng thương khắp chúng sanh, nỡ nào ta đặt điều nói xấu người? Nói xấu người là một điều cực ác, như vậy ta không còn là con người biết thương chúng sanh. Vậy từ đây ta phải bỏ tật xấu này!”

Đó là một cái câu để chúng ta ngăn ngừa cái ngôn ngữ không được chánh hạnh.

“Vu khống, nói oan ức cho người là một hành động tà ngôn hạnh, giết người bằng gươm miệng, rất là ác độc!”

Đó, mình vu khống người ta, đó là mình giết người ta bằng cái lưỡi gươm miệng của mình, cho nên mình phải dứt bỏ.

“Người tu sĩ đạo Từ Bi thương khắp chúng sanh, ta phải dứt trừ vĩnh viễn tà hạnh ngôn ngữ này để thực hiện lòng thương yêu phủ trùm vạn hữu!”

Đó thì cái câu này là cái câu trau dồi tâm thương yêu của chúng ta.

(45:20) Ở đây quý thầy nhớ kỹ lấy những câu trạch pháp này làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để thường xuyên dứt bỏ và trau dồi lòng thương yêu chúng sanh rộng lớn, phải nghiêm chỉnh tu tập đừng để thất niệm, có như vậy quý thầy mới chứng được đạo quả Bồ Đề.

Đó thì, đến cái phần này là chúng ta dứt được bốn cái khẩu nghiệp mà nó không chánh hạnh, cho nên phải cố gắng mà trau dồi. Người ta tai họa mà xảy ra đều do cái miệng lưỡi của chúng ta mà ra.

Cho nên hầu như quý thầy không thấy cái hạnh độc cư, vì hạnh độc cư nó giúp cho quý thầy ngăn chặn được bốn cái điều xấu ác của cái miệng của chúng ta. Người mà làm thinh thì không bao giờ mà có xảy ra cái bốn cái ác khẩu này, mà người hay nói chuyện thì luôn luôn sẽ xảy ra bốn cái ác khẩu này.

Nghĩa là nói nặng nói nhẹ người, rồi từ người này, từ người kia, thì đó là những cái ác khẩu chớ không phải là những cái thiện khẩu. Vì thiện khẩu thì thương yêu nhau làm sao có từ giã nhau, làm sao mà có từ khước nhau, đó là những cái điều ác khẩu.

Cho nên ở đây những cái người dùng ác khẩu thì chúng ta đều biết là người nhiều chuyện, hay nói chuyện, mà người không dùng ác khẩu thì người không nói chuyện, mà không nói chuyện tức là độc cư.

Dù các thầy có nói lời lành đi nữa, nhưng lời lành đó chưa hẳn đã là lành, vì trong đó hàm ý có những gì cá nhân của mình trong đó, mà có những lời nói có cá nhân trong đó chắc là không phải lành.

Quán xét cho cùng chúng ta thấy lời nói là một tai hại rất lớn cho loài người, nếu mọi người không nói thì chắc chắn là cảnh giới ở thế gian này là có thể gọi là thiên đàng.

Lời nói là để biểu diễn ý nghĩ của chúng ta nhưng ý nghĩ sao lại là thương lại là tốt; mà lời nói làm cho mọi người hiểu được ý nghĩ ta mà làm cho đau khổ thì đó là cảnh giới thế gian này trở thành địa ngục.

11- PHÁP HÀNH TỪ BỎ LỜI NÓI HUNG DỮ

(47:24) 7. Lời nói hung ác là lời nói dữ tợn làm cho người ta khiếp sợ, chửi rủa, mạ nhục, lời nói nạt nộ làm cho người ta khiếp đảm, hăm dọa, đe dọa, nói chung là lời nói hung dữ làm cho chúng sanh sợ hãi đó là một lời nói tội ác rất lớn, khiến cho ta sợ hãi, bất an.

Vì thế chúng ta là những người tu sĩ đạo Phật luôn luôn phải giúp chúng sanh đừng sợ hãi, phải cho họ những lời nói, những hành động vô uý khiến cho họ không sợ và được an ổn vui mừng.

Muốn được ban vui cứu khổ, phò nguy cho chúng sinh thì ta phải luôn luôn tu tập dứt bỏ lời nói hung dữ.

“Lời nói hung dữ là lời nói cực ác làm cho chúng sanh sợ hãi. Ta hãy mạnh dạn quyết tâm từ bỏ, xa lìa, đoạn dứt lời nói hung dữ!”

Đó là câu hướng tâm thứ nhất.

Câu hướng tâm thứ hai:

“Từ đây về sau ta không được to tiếng, lớn tiếng bất kỳ với ai, vì to tiếng, lớn tiếng là lời nói hung dữ. Ta phải dứt bỏ và từ giã nó để chúng sanh không còn sợ hãi nữa!”

Đó là câu hai.

Câu ba:

“Ta là người tu sĩ đạo Phật phải biết thương người, cớ sao ta lại dùng lời nói hung dữ để làm cho mọi người sợ hãi? Từ đây thương người, ta không được nói lời hung dữ nữa!”

Đó là câu ba.

Câu bốn:

“Tâm ta luôn luôn thương khắp chúng sanh, ban rải lòng Từ khắp cùng, không làm cho chúng sanh sợ hãi. Vậy ta phải luôn luôn có những lời nói ôn tồn, nhã nhặn, từ hòa, sáng suốt, đúng thời!”

Đó là câu bốn.

12- DÙNG PHÁP HƯỚNG HỢP THỜI, HỢP LÝ, HỢP SỨC KHỎE

(49:05) Này quý thầy, quý thầy phải siêng năng dùng những câu pháp hướng này, đã trạch pháp tốt đẹp, cứ tùy theo pháp, tùy theo tâm, tùy theo sức mà nỗ lực tu tập trau dồi cho đúng cách.

Đến đây thì Thầy nói cho quý thầy thấy, bây giờ mình đặt ra rất nhiều, nhưng mình phải lựa câu nào cho hợp với mình, rồi tùy cái sức khỏe của mình.

Chớ không phải điên khùng mình thấy câu nào rồi cũng ngồi liên tục ngồi mà trau dồi, ngồi mà hướng tâm mà nhắc thế này thế khác. Ngồi riết quý thầy - cơ thể của quý thầy mỏi mệt, rồi quý thầy đâm ra ác pháp ở trong đó chớ không phải là thiện pháp nữa.

Cho nên chúng ta thí dụ như chúng ta lượng cái sức của mình, mỗi ngày chúng ta dùng một câu hoặc hai câu cũng đủ lắm rồi, đâu cần phải tu cho nhiều? Tu mà có vừa sức với nó chúng ta mới thấy có sự an lạc. Tu quá điên đầu, tu muốn tu cho mau thành Phật, thì cái chuyện đó là cái chuyện sai.

Chúng ta trau dồi đâu có nghĩa là trau dồi trong một bữa? Muốn huấn luyện một con vật chúng ta cũng phải từ từ, năm tháng, ba tháng nó sẽ trở thành thuần thục.

Chớ chúng ta vội vàng nghe như vậy rồi ngồi li bì, rồi quán li bì, rồi ngồi li bì mà hướng lu bù, tu không biết cái cơ thể mình ra sao, không biết cái sức khỏe mình ra sao! Tu riết chán nản, tu hết muốn tu nữa! Đó là cái sai, cái không đúng,

Cho nên Thầy thường nhắc nhở là mình phải tùy theo sức, mỗi ngày mình chia ra mình tu một lần, hai lần là đủ rồi. Để cho mình được xả nghỉ, cho tâm hồn mình thanh thản, cho tâm hồn mình nó có sức gom lại.

Còn mình tu vừa gom đó, bây giờ gom nữa, gom riết, cái đầu óc nó đen tối, cái đầu óc nó rối loạn, cái đầu óc nó không còn bình tĩnh, sáng suốt nữa, nó mệt nhọc, nằm đâu thì nó muốn ngủ đó rồi. Thì tức là bây giờ nó từ cái sai này nó dẫn đi đến cái sai khác, cuối cùng thì quý thầy chẳng thấy đạo, mà lại thấy gần như mình muốn điên.

Nói thì nhiều nhưng chọn ra những câu đúng để mà chúng ta tùy theo cái căn cơ của mình mà lấy những câu pháp hướng đó mà tu tập cho chín chắn, và nó phải hợp thời, hợp lý, hợp sức khỏe.

Đó những cái điều này Thầy chú ý quý thầy rất nhiều. Vì quý thầy có nhớ kỹ như vậy thì quý thầy trau dồi, tu tập thì nó mới có kết quả lớn.

(51:09) Đây Thầy nhắc lại:

Này quý thầy, quý thầy phải siêng năng dùng những câu pháp hướng này, để trạch pháp tốt đẹp, cứ tùy theo pháp, tùy theo tâm, tùy theo sức mà nỗ lực tu tập trau dồi cho đúng cách thì kết quả đến với quý vị cụ thể rõ ràng.

Vì quý thầy thường dùng pháp hướng nên pháp này có hiệu quả rất lớn.

Nghĩa là hàng ngày mình cứ dùng pháp hướng mình tu tập đó, cái hiệu quả của nó rất lớn. Vì pháp hướng là pháp dùng tinh thần mà để điều khiển, quý thầy lưu ý cái phần đó.

Còn bây giờ quý thầy mà vận dụng tập trung là quý thầy dùng cái sức tập trung, mặc dù nó có tinh thần tập trung thật nhưng mà nó ức chế. Và quý thầy còn phải dùng cơ để mà thở cách này cách khác, đó là cái sự ức chế, nó không phải đâu.

Còn dùng pháp hướng, chỉ chúng ta dùng tinh thần chúng ta hét lên một tiếng rồi chúng ta thản nhiên như thường, cho nên nó không có kéo dài cái sự tập trung, cho nên nó không ức chế ai hết, mà ra lệnh.

Mà cái sức tinh thần ra lệnh nó mạnh hơn cái sức ức chế của chúng ta nhiều. Cái sức tập trung chúng ta nó càng ngày nó làm cơ thể chúng ta mất đi sức khỏe, và nó không có đạt đến cái độ cao cũng như cái sức tinh thần của chúng ta.

Cho nên khi mà pháp hướng quý vị mà tu tập như vậy, sau này cái pháp hướng nó rất là hiệu quả. Mà nó rất hiệu quả thì tới chừng mà quý thầy muốn nhập định, quý thầy chỉ cần ra lệnh là nó đã nhập định. Bảo nó: “Các hành phải ngưng! Hơi thở phải ngưng!” là nó ngưng liền, thì quý thầy sẽ nhập được Tứ Thiền liền.

Vì quý thầy thường dùng pháp hướng nên pháp này có hiệu quả rất lớn về sau là quý thầy chỉ cần hướng tâm là quý thầy đã nhập định Tứ Thiền tức khắc, không phải chờ đợi tu tập lâu dài.

Cho nên quý thầy nghe ở trong kinh điển Phật dạy: Có nhiều người họ tu quét sạch cái vô lậu của họ thôi, mà họ dùng pháp hướng, pháp tùy thôi, chỉ có pháp mà thí dụ như trên thân quán thân họ thôi, rồi họ dùng cái pháp hướng như vậy, cuối cùng họ theo nương theo cái pháp tùy của Tứ Niệm Xứ hay hoặc là Tứ Vô Lượng Tâm, họ dùng như vậy.

Sau đó cái pháp hướng nó hiệu quả, cho nên đến khi mà vô Tứ Thiền thì họ chỉ ra lệnh, ra lệnh là họ đã nhập Tứ Thiền. Cho nên trong vòng một tuần lễ hay hoặc là nửa tháng là cái họ đã nhập Tứ Thiền.

Mình thấy trời ơi, sao mình tu lâu quá, mà vô Tứ Thiền vất vả vô cùng. Còn sao mà quý vị Tỳ Kheo trong thời đức Phật sao họ tu dễ vậy? Đó là tại vì mình tu không đúng cách, chớ không phải là nó khó.

Tại vì pháp hướng là cái pháp truyền lệnh của cái tinh thần rất mạnh, còn cái pháp của mình đang tu đây là mình ức chế tâm của mình để mình vào Bốn Thiền cho nên nó rất khó khăn, nó đâu phải dễ.

13- KẾT HỢP TU TẬP TỨ VÔ LƯỢNG TÂM VÀ TỨ CHÁNH CẦN

(53:32) Để làm sáng tỏ sự tu tập, trau dồi các hành động thân, tâm của quý vị đi về hướng thiện pháp thì quý vị cần phải lưu ý bài kệ này để quý vị thực hiện Từ Vô Lượng Tâm và Tứ Chánh Cần cho được viên mãn.

Đây bây giờ Thầy sẽ đọc cái bài kệ này để quý thầy biết được từ cái Tứ Chánh cần với cái Từ Vô Lượng Tâm, hai cái nó kết hợp để nó thành ra một cái bài kệ mà chúng ta theo đó mà chúng ta tu tập các thiện pháp:

Từ tình thương ta được sanh ra

Quý thầy thấy, nếu mà cha mẹ mà không thương nhau làm sao mình có mình đây? Cho nên từ cái tình thương cha mẹ thương ra mình mới sinh mình ra.

Bây giờ:

Do tình thương ta được nuôi lớn.

Nếu mà cha mẹ sanh con ra mà không thương thì quăng nó ngoài đồng chớ làm gì mà nuôi? Ôm ẵm nó còn bé bỏng như vậy nó quá là cực khổ chớ đâu phải!

Bây giờ thử hỏi quý thầy ẵm con người ta mà nuôi đi, quý thầy nếu mà không thương quý thầy ôm ẵm nổi không? Rất là vất vả cực khổ. Cho nên cũng do tình thương mà ta được nuôi lớn.

Có tình thương ta sống chan hòa.

Quý thầy thấy rõ. Nếu mà chúng ta không có tình thương thì chúng ta chưa sống với vạn hữu đâu, cho nên Từ, Bi, Hỷ, Xả đó là cái tình thương của chúng ta để sống chan hòa với vạn hữu. Cho nên chúng ta phải tập luyện nó chớ không thể nào tự dưng mà nó có được cái tình thương đó được!

Nhờ tình thương chúng ta giải thoát.

Vì chúng ta thực tập như vậy đó, do đó cái tình thương chúng ta đối với các pháp chúng ta được giải thoát, không còn bị chướng tâm, không có bị chướng ngại nữa.

Đó thì, trong một cái tình thương, cái tình thương đó mà chúng ta ở đây nó có một cái bài kệ: Từ - Do - Có - Nhờ; bốn cái chữ Từ - Do - Có - Nhờ mà chúng ta được giải thoát. Nếu chúng ta thiếu thì chắc chắn là chúng ta không giải thoát.

Nếu bây giờ không có từ tình thương cha mẹ sanh ra thì chúng ta có con người đâu mà tu tập, phải không? Cho nên Phật gọi là cái người mà sanh mình ra đó là đại bố thí.

Bây giờ do tình thương ta mới được nuôi lớn. Nếu mà không có tình thương của cha mẹ thì làm sao nuôi lớn. Do đó: “Công cha như núi Thái Sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.” Có cái ơn nào mà bằng cái ơn sanh thành, dưỡng dục đâu? Cho nên đó là một cái lớn, cái đại bố thí của chúng ta.

Rồi bây giờ chúng ta muốn cho được cái sự an ổn, cái sự hạnh phúc, sự an vui, sự giải thoát nơi tâm hồn của mình, thì mình phải tu tập rèn luyện cái tình thương đó thì mình mới sống hòa tan được với trong vạn hữu, với mọi người.

Còn bây giờ quý thầy đâu có thương, quý thầy thương quý thầy á, cho nên đụng ai quý thầy cũng xạc hết à, cũng mắng, cũng chửi người ta được hết, thì như vậy là có hòa chan với cái sự sống với ai không?

Đó. Cho nên chúng ta phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm. Mà tu tập Tứ Vô Lượng Tâm mà không có dứt bỏ các pháp ác thì làm sao mà thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm? Cho nên phải có Tứ Chánh Cần.

Các thầy thấy cái câu ở dưới, chúng ta thấy: Hai câu ở dưới chúng ta thấy con đường tu chúng ta rất rõ.

Rồi nhờ tình thương chúng ta mới giải thoát. Do đó chúng ta mới thấy được con đường giải thoát chúng ta cho đến khi đó tâm bất động trước mọi cảnh mà. Mục đích của đạo Phật là như vậy, nó trước mọi cảnh chớ đâu phải do thiền định, đâu phải do cái gì!

Đó là cái chỗ mà chúng ta đã thấy được bốn câu kệ này để chúng ta theo đó mà chúng ta tu tập Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Chánh Cần. Cho nên một cặp pháp này phải song song với nhau, theo nhau mà tu tập.

(56:43) Theo bài kệ này quý thầy phải hiểu:

Từ tình thương của cha mẹ thương nhau mới sanh chúng ta, chúng ta mới có ra đời, ơn rất nặng, nên Phật gọi cha mẹ là đại bố thí.

Do tình thương chúng ta được nuôi lớn: Khi sinh chúng ta ra, cha mẹ thấy mặt ta tự nhiên có một lòng thương con hơn thương một vật gì khác trên đời này, nên tận tụy, hy sinh mình nuôi con. Cha chịu vất vả dầm sương dang nắng, làm cực khổ để nuôi dưỡng con. Mẹ ăn đắng nằm cay, chịu ướt chịu hôi, chịu thúi, để con được lớn khôn, nên người.

Biết bao kể xiết công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Chỉ vì lòng thương mà chẳng bao giờ than thân trách phận, chỉ thấy con mạnh khỏe, an vui là sung sướng nhất cho mình. Vì lòng thương cha mẹ phải vượt qua những nỗi nhọc nhằn, những nỗi khổ đau.

Có tình thương ta sống chan hòa.

Vì tình thương có hai loại,

Ở đây tới chỗ này chúng ta mới phân biệt, hai câu dưới này chúng ta phân biệt để chúng ta thấy có hai cái loại tình thương:

Có tình thương ta sống chan hòa

Vì tình thương có hai loại

1. Loại thương hạn hẹp - thương cá nhân mình, do tình thương này mà tạo ra muôn ngàn thứ đau khổ cho mình, cho người.

Tình thương này gọi là tình thương ích kỷ, tình thương nhỏ mọn, tình thương hạn hẹp chỉ biết thương mình, chẳng biết thương ai.

Đó, cái tình thương đó là tình thương rất là nhỏ, chỉ có lo cho mình thôi. Như nhà vua mà nói thương bà hoàng hậu, mà bà đi với ai thì nhà vua giết bà đó. Đó là thương ích kỷ, thương nhỏ đó, chớ không phải thương lớn đâu.

(58:34) 2. Tình thương rộng lớn: Từ Bi Vô Lượng…​

Đó là Tứ Vô Lượng Tâm đó. Là tình thương rộng lớn đó.

…​ là tình thương rộng lớn vô tận vô cùng, tình thương này giải thoát cá nhân thoát khỏi bản ngã con người, tình thương bao la vô bờ bến.

Nó làm chúng ta thoát ra khỏi cái cá nhân của mình, cái ích kỷ của mình.

Hai câu trên là tình thương hạn hẹp…​

Nghĩa là thương cha mẹ, thương con, thương này kia mà thương mà sanh ra, đó là tình thương hạn hẹp đó.

…​ nhưng nó cũng xuất phát từ lòng thương, lòng thương yêu này là lòng thương yêu vô minh…​

Phải xét thấy cái đó là lòng thương yêu của hạn hẹp, đó là lòng thương yêu vô minh.

…​ không thấy xa nên thương mà khổ, gói ghém trong ích kỷ. Nhưng cũng nhờ có tình thương mà ta mới có mặt trên hành tinh này.

Nghĩa là, dù nó hạn hẹp, nhưng nó có tình thương chúng ta mới có cái sự hiện hữu ở trên cái hành tinh này.

Từ tình thương cá nhân nhỏ hẹp này ta chuyển biến, trau dồi lần lần tình thương này bằng một cái trí tuệ minh mẫn, thoát ra ích kỷ, nhỏ mọn, hẹp hòi, từ đó biến tình thương này trở thành tâm Từ Bi Vô Lượng.

Đó, từ cái tình thương đó. Bây giờ chúng ta thấy có hai tình thương có khác nhau không? Nhưng mà chúng ta biến dần, biến dần làm cho chúng ta sáng suốt ra, không còn vô minh nữa, cho đến chúng ta dẹp được những cái ích kỷ nhỏ mọn của chúng ta, thì từ đó cái tâm Từ Bi Vô Lượng của ta nó sẽ thực hiện rộng lớn ra.

(01:00:02) Khi đã thấm nhuần lòng Đại Từ Bi Vô Lượng này thì tâm hồn ta bất động trước vạn pháp…​

Các thầy thấy chỉ có tu Tứ Vô Lượng Tâm không, tu cái Tứ Chánh Cần không, mà bất động trước vạn pháp, thì đó là mục đích của đạo Phật rồi, còn phải tu cái gì nữa.

Như vậy lúc bấy giờ chúng ta có định không? Có! Tại sao? Tại vì chúng ta có cần gì tu nó đâu, chúng ta chỉ cần dùng pháp hướng mà ra lệnh “Các hành ngưng!” là chúng ta đã làm chủ cái sống chết, thì nhập Tứ Thiền rồi!

Và đồng thời thì lúc bấy giờ chúng ta - bởi vì cái pháp hướng nó có hiệu quả, nó là cái sức lực của tinh thần của chúng ta đã từng tập trau dồi những cái này mà nó thành tựu được cái pháp này - thì lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần ra lệnh, chúng ta có tập tu gì Tứ Thiền đâu!

Cho nên trong khi nghe các thầy Tỳ Kheo chỉ trong vòng hít thở có mấy cái là các thầy đã nhập Tứ Thiền, trong một ngày, hai ngày hay hoặc một đêm mà người ta đã nhập Tứ Thiền.

Mà nhập Tứ Thiền xong, thì ông A Nan ổng chứng đạo xong thì ổng khỏi cần mở cửa hang ổng cũng chui vô được, ổng bay vô được. Thì các thầy thấy đó là ổng phải câu hữu Tứ Như Ý Túc sao? Cái chuyện mà ở đây quá thật chớ không phải là cái chuyện nói dối đâu. Đó là cái chuyện trên thân khi mà cái pháp hướng mà đã hiệu quả.

Bởi vì cái mục đích chúng ta là tu tập cái pháp hướng chớ không phải tu tập cái ức chế, mà tu tập ức chế nó sẽ trở thành thiền tà, thiền bậy, không đúng.

Ngồi đây mà giữ tâm không vọng tưởng là ức chế, ngồi đây mà nhiếp tâm trong hơi thở để đè nén tâm không vọng tưởng là ức chế, cái đó sai. Bởi vì do ly dục, ly bất thiện pháp là tâm chúng ta thanh thản, là định, chớ đâu có gì khác hơn!

Mà khi tâm thanh tịnh, định, thì tức là chúng ta điều khiển pháp hướng, thì làm gì cái gì không ngừng? Một thân biến ra muôn thân thì cái đó là dùng pháp hướng chớ gì? Vì chúng ta Dục Như Ý Túc, cái muốn của chúng ta muốn như thế nào, bây giờ chúng ta muốn cái thân này phải ngưng thở thì nó ngưng thở.

Thì các thầy có cần gì mà phải rèn luyện hằng ngày, phải nhắc phải ngưng, ngưng đâu! Còn bây giờ chúng ta ở trên cái hơi thở mà cứ “Ngưng! Ngưng!” hoài mà nó có ngưng được đâu?

Đó là cái tu sai không có đúng cách. Bây giờ Thầy nhắc trở lại để cho quý thầy thấy con đường của đạo Phật là nhắm cái chỗ nào? Cái chỗ tâm thanh tịnh. Mà thanh tịnh thì ác pháp phải lìa, mà ác pháp còn, tâm ham muốn còn thì không bao giờ gọi là thanh tịnh.

…​ sống chan hòa cùng muôn loài vạn vật cỏ cây bên nhau, thương yêu thắm thía: “Có tình thương ta sống chan hòa.”

Lúc bấy giờ tình thương đó luôn luôn ngự trị trong tâm ta, khiến tâm ta thanh tịnh và an lạc, không còn ô nhiễm các pháp thế gian, do thế ta “chỉ” các hành trong thân, nhập định ngay tức khắc, làm chủ được sống chết.

Và cũng từ nơi tâm thanh tịnh, an lạc đó ta hướng tâm đến Tam Minh, thế là Phạm hạnh đã xong, không còn trở lui cuộc đời này nữa.

“Nhờ tỉnh thương chúng ta giải thoát” - hai câu cuối cùng chỉ cho tình thương rộng lớn. Câu trên chỉ cho sự trau dồi tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả Vô Lượng, câu dưới chỉ cho tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả viên mãn được đạo giải thoát.

Bây giờ quý thầy tiếp tục tu tập dứt trừ các pháp ác và trau dồi các pháp thiện.

Như hồi nãy chúng ta đã học tập và trau dồi pháp ác và trau dồi pháp thiện thứ bảy. Kế, trau dồi pháp thiện thứ tám và dứt bỏ pháp ác thứ tám.

Đó, hồi nãy chúng ta mới trau dồi được cái thứ tám, rồi chúng ta đọc cái bài kệ. Cái bài kệ để chúng ta biết rõ từ cái tình thương ích kỷ rồi biến dần, biến dần tu tập nó tới cái tình thương rộng lớn - tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả rộng lớn của vô lượng.

Rồi từ đó chúng ta mới thấy được cái mục đích của thiền định là không có tập thiền định chút nào hết, chỉ có dùng pháp hướng mà chúng ta đã nhập thiền định, và từng đó chúng ta câu hữu tất cả những gì mà chúng ta muốn là nó có theo ý muốn của chúng ta, tức là Dục Như Ý Túc.

14- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT TÂM THAM

14.1- THAM DỤC LÀ NGUỒN GỐC KHỔ CỦA LOÀI NGƯỜI

(01:03:41) Bây giờ đến cái phần chúng ta học về đây là về phần ý, về phần cái ý của nó.

Ý nó có ba cái pháp ác, do đó ý có ba pháp ác thì chúng ta phải xem cái pháp ác nào trước của nó.

8. “Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó thường khiến ta ham muốn nhiều.”

Đó là bây giờ cái tham lam này là cái dục đó, quý thầy sẽ thấy tới đây là cái bài mà phân tích ra cho thấy được từng khía cạnh của cái tâm tham của chúng ta. Thầy sẽ phân tích ra cho quý thầy thấy.

Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó khiến ta ham muốn nhiều, thấy cái gì cũng muốn. Do sự ham muốn này, đầu tiên là ta đã tự tạo cho mình khổ, kế đến là tạo cho người khác khổ.

Vì mình ham muốn - đầu là mình ham muốn cái này cái kia là nó đã tạo cho mình khổ rồi, phải chạy theo nó, phải làm cho có tiền có bạc để sắm ra nó. Muốn cái này, muốn cái kia, thì cái nào nó cũng tạo cho chúng ta khổ.

Rồi do đó mà không có tiền có bạc thì sanh ra mới trộm cướp, mới lấy của người, mới biển thủ, mới làm cái này cái kia để cho gian lận ở trong đó mới có ra mà sắm những cái ham muốn đó.

Đó là những cái tội ác đó, tuần tự đó do cái tâm tham này mà nó sanh ra biết muôn vàn cái thứ tội ác không. Tất cả những cái gì ác là nó làm sạch hết.

Phật gọi tâm ham muốn này là dục, là nguồn gốc khổ của loài người.

Đó, thì cái tâm ham muốn là cái nguồn gốc khổ, nó tập hợp tất cả những cái pháp ác lại để nó thực hiện được cái ham muốn của nó, cho nên nó là nguồn gốc khổ.

Vậy chúng ta hãy truy ra coi từ đâu mà có dục?

Mình phải truy ra coi ở đâu mà nó sanh ra cái dục này?

Coi từ đâu mà có tham lam?

Đó, phải truy ra. Nếu mà không truy ra thì chúng ta nghe nói dục thì chúng ta chẳng hiểu nó ở đâu hết, chỉ nó ở trong bụng của mình nó ham muốn là ham muốn.

Cho nên mình không biết cái gốc của nó thì làm sao mình đốn được cái gốc. Mình phải biết được cái gốc, rồi cái gốc nó đi ra như thế nào, rồi từng đó chúng ta phải chặt tỉa như thế nào để tới cái gốc mới là đốn sạch nó mới được.

Như Phật đã dạy, do duyên Thủ mà gồm có…​

Thủ là mình giữ lại đó. Bây giờ giữ cái bàn, cái ghế cái này cái kia, nó do cái duyên đó mà nó mới có ra cái gì? Thì nó mới có là:

…​ Dục Thủ;

Mới muốn giữ đó, nó mới - mình muốn có cái này cái kia thì tức là nó có cái Dục Thủ ở trong đó.

…​ Hai là Kiến Thủ;

Những cái hiểu biết của mình cái gì đó là mình giữ lại. Thì khi mình giữ lại, thì:

Ba:

Thì nó mới có:

…​ Giới Cấm Thủ;

Giới Cấm Thủ là nghĩa là cái đó là có giới hạn rồi đó, nghĩa là ai mà chạm đến thì không được đó. Đó. Thì đó là, lần lượt mình sẽ triển khai ra tất cả những cái này để cho mình thấy được cái chỗ mà mình có cái tham, cái dục như thế đó.

Bốn: Ngã Chấp Thủ.

Bây giờ đó từ cái chỗ đó nó có xây xung quanh rồi đó, xây xung quanh của mình đồ đạc này kia rồi, bắt đầu từ đó cái đó là của mình rồi đó, thì tức là có cái ngã chấp rồi.

(01:06:30) Do cái chấp thủ này gồm có ba loại Hữu.

Do cái chấp thủ đó đó, mà Đức Phật chia nó ra làm có ba loại Hữu của nó, bởi vì Thủ rồi nó mới có Hữu. Cho nên nó do cái chấp thủ đó nó mới - do bốn cái chấp thủ này thì nó mới có sanh ra ba cái Hữu, ba cái loại Hữu. Vậy thì:

Một - Dục Hữu, hai là Sắc Hữu, ba là Vô Sắc Hữu.

Đó nó chia ra làm như vậy.

Dục Hữu là cái lòng muốn có của mình, nó mới có sanh ra cái lòng muốn có của mình.

Rồi Sắc Hữu là cái vật có, nó sanh ra mình có.

Vô Sắc Hữu là những cái vật không có, mà mình tưởng ra, để rồi mình chạy theo nó, là Vô Sắc Hữu.

Do Hữu mới có cái Ái.

Đó, bây giờ mới sinh ra cái Ái.

Ái thì gồm có sáu cái:

Đó, nó đi tuần tự, tuần tự rồi các thầy sẽ thấy nó tới cái chỗ nào đây. Nó đi từng phần, từng phần để mà chúng ta sẽ thấy.

Ái thì gồm có sáu cái:

1. Sắc Ái;

Bây giờ đó mình thấy cái hình sắc cái bàn cái ghế này cái mình thích, đó là Sắc Ái.

2. Thanh Ái;

Mình nghe âm thanh mình thích.

3. Hương Ái;

Mình nghe cái mùi hương thơm mình thích.

4. Vị Ái;

Mình ăn miếng gì ngon ngọt mình thích.

5. Xúc Ái;

Mình chạm mình nghe êm ái, thích thú, thì đó là Xúc Ái.

6. Pháp Ái.

Mình nghe cái gì mà vừa tai, nghe cái gì mà nó thích thú ở trong lòng của mình, cái đó là mình - thí dụ như người ta nói có một cái vật gì thường hằng, hoặc là có một cái gì đó hay hoặc là có cái thế giới Cực Lạc Tây Phương nào đó, cái mình nghe mình nghĩ rằng mình chết đi mình cũng về sanh đó đó, thì đó là cái Pháp Ái.

Cho nên nghe cái đó rồi mình chấp cái đó đi, mình cho đó là nữa mình chết, mình về đó mình sanh mình sung sướng như vậy, mình thích thú như vậy, ở đó là nhà cửa, lầu đài hay hoặc là ăn uống gì đầy đủ như cõi Cực Lạc vậy, thì do đó là mình bị Pháp Ái.

Do Ái mà sanh ra Thọ.

Đó, có Ái thì nó mới sanh ra cái Thọ.

Thọ gồm có sáu Thọ:

Đó lần lượt mình truy ra, để cho thấy được cái chỗ nào đó đặng mình biết được cái gốc của nó mình đoạn dứt:

1. Nhãn xúc sở sanh Thọ

Cái mắt của mình đó, nó chạm vào một cái vật gì đó, như bây giờ Thầy thấy cái đồng hồ đây, thì tức con mắt Thầy chạm vào đó, thì nó sanh ra cái Thọ, nó sanh ra cái Thọ tức là nó muốn cái vật đó.

(2. Nhĩ xúc sở sanh Thọ)

Nhĩ xúc nó sở sanh ra Thọ - cái lỗ tai mình nó tiếp xúc với cái âm thanh, nó sanh ra cái Thọ, cái Thọ thích cái âm thanh đó.

(3. Tỷ xúc sở sanh Thọ)

Tỷ xúc nó sanh ra Thọ - cái tỷ là cái lỗ mũi mình, thì nó xúc với cái hương thơm, thì nó mới sanh ra cái Thọ hương thơm.

(4. Thiệt xúc sở sanh Thọ)

Thiệt xúc thì nó sở sanh ra cái Thọ, thì thiệt - cái lưỡi của mình mà nó chạm xúc với cái đồ ăn, nó thấy ngon, thì nó sanh ra cái Thọ ngon.

(5. Thân xúc sở sanh Thọ)

Thân xúc nó sở sanh ra Thọ - Cái thân xúc của mình nó chạm vào cái chỗ êm ấm, hay hoặc là nóng mát, nó sanh ra cái Thọ biết nóng, mát, biết êm ấm, đó là nó sanh ra cái Thọ.

(6. Ý xúc sở sanh Thọ)

Ý xúc sở sanh ra Thọ - cái ý của mình nó tiếp xúc với các pháp thì nó sanh ra: Cái đó là pháp đúng, pháp sai, cái đó là pháp thiện, pháp ác, thì đó nó sanh ra cái Thọ đó.

Thì như vậy chúng ta đã thấy lần lượt nó đã sở sanh ra những cái Thọ như vậy.

(01:09:43) Do có Thọ mà sanh ra Ái.

Có mười một duyên kế tiếp để tạo thành ác pháp, bất thiện pháp trong thế gian này.

Đây bây giờ chúng ta thấy từ cái Ái này nó sẽ tiếp tục nó sinh ra các cái pháp mà nó - mười một cái duyên kế tiếp để sanh ra các ác pháp, mà bây giờ chúng ta đang tu tập để trừ các ác pháp đó - các ác pháp trong thế gian đó. Tu tập Tứ Vô Lượng Tâm nè, tu tập Tứ Chánh Cần nè, để diệt trừ các pháp ác này.

Vậy thì chúng ta biết ở đâu mà nó sanh ra các pháp ác này? Thì do cái Ái mà chúng ta sanh ra các pháp ác.

Bởi vì tất cả những cái Ái này mà nó sanh ra - do đó nó mới sanh ra Thọ. Nó sanh ra Thọ vì vậy mà đến đây thì chúng ta biết: Do có Thọ mà sanh ra các pháp pháp Ái. Như vậy thì chúng ta sẽ tiếp tục để cho thấy được do cái duyên nào mà nó sanh ra cái gì đây.

Ái thì nó có mười một cái Ái:

1. Do duyên Thọ mà có Ái sanh.

Đó: “Do duyên Thọ mà có Ái sanh.” Bắt đầu mình thấy cái Thọ nó mới có cái Ái nó sanh ra. Phải không. Mà mười một cái điều kiện mà nó sanh ra để chúng ta biết được, nó xảy sanh ra như thế nào mà cho đến khi nó thành ra các ác pháp đây, các bất thiện pháp đây?

Hai là:

2. Do duyên Ái mà có tìm cầu.

Có cái Ái là có cái ưa thích của mình rồi, thì ưa thích - bây giờ Thầy ưa cái đồng hồ Thầy phải tìm cầu cho có cái đồng hồ, Thầy ưa thích cái máy này thì Thầy phải tìm cầu có cái máy này, Thầy ưa thích cái người phụ nữ thì Thầy đi tìm cầu cái người vợ, thì đó là phải đi tìm cầu.

Đó thì chúng ta thấy nó sanh ra, do cái Ái đó nó sanh ra đi tìm cầu, đi tìm cầu chỗ này, chỗ kia.

3. Do tìm cầu mà lợi sanh.

Do mình tìm cầu thì có cái lợi nó sanh ra. Lợi - hồi đó mình không có gì hết, bây giờ tìm cầu, rồi bây giờ mình tích lũy là có vợ, có con, có này kia đủ thứ hết, thì đó là tiền bạc, của cải tài sản, đó là những cái lợi nó sanh ra, rất nhiều.

(01:11:33) 4. Do lợi sanh ra thì phải tiêu dùng.

Bây giờ mình có tiền bạc thì mình phải dùng, có cái bàn này mình phải sử dụng cái gì, có cái nhà này phải làm như thế nào, phải xài nó như thế nào, phải sử dụng nó sao cho nó hợp, cho nó trang hoàng như thế nào để cho hợp với cái đời sống của mình, cho nên phải có sự tiêu dùng.

5. Do sự tiêu dùng mà sanh ra dục sanh.

Do cái sự tiêu dùng này, mình thấy nó thích thú nó mới - cái ham muốn của mình nó mới sinh ra. Đó, do cái sự ham muốn này bắt đầu nó mới có sự sanh ra. Cái kia thì ở trên nó mới có ái thôi, mà tới đây thì chúng ta mới thấy được cái dục.

Hồi nãy tham lam là dục đó, là lòng ham muốn của chúng ta. Bây giờ đó, do cái sự tiêu dùng này nó sanh ra cái ham muốn này, cái tham muốn này, cái tham lam này.

6. Do tham dục sanh thì đắm trước sanh.

Hễ có sự mà ham muốn thì cái dính mắc, đắm trước nó mới sanh. Thấy - do cái lòng ham muốn của mình nó mới thấy cái đồng hồ, mới thích, nó mới sanh ra đắm trước, nó mới dính đó, dính mới có mua về.

7. Do đắm trước sanh thì chấp thủ sanh.

Thì mới mua về mới giữ, tức là có giữ lại, tức là chấp thủ sanh.

8. Chấp thủ sanh thì hà tiện sanh.

Bắt đầu mình thấy: Từ cái chỗ mình hồi nào tới giờ thì mình chưa có hà tiện đâu, nhưng mà khi mà nó bị dính mắc rồi, thì bắt đầu người ta xin cái đồng hồ không cho đâu, tức là hà tiện tới rồi đó.

Rồi bắt đầu đó mình hà tiện nữa, thấy người ta đến mà người ta xin tiền, mình thấy, bởi vì mình chấp thủ, mình dính rồi, cho nên mình đâu có dám bỏ ra cho họ, cho nên hà tiện nó sanh.

9. Hà tiện sanh thì thủ hộ sanh.

Tức là khi mà hà tiện có rồi thi có cái sự giữ gìn bảo vệ nó, không có cho mất mát. Nghĩa là làm chín đồng, muốn kiếm thêm bỏ đồng nữa chớ chưa dám lòi ra ăn nữa. Đó là thủ hộ nó sanh.

10. Do thủ hộ sanh, một số bất thiện pháp, ác pháp sanh.

Đó, bắt đầu cái giữ gìn đó đó, mà muốn bảo vệ nó bằng cách này bằng cách khác, thì ác pháp nó bắt đầu nó sanh đó.

11. Do ác, bất thiện pháp sanh thì trượng kiếm, đao búa, gậy gộc, tranh đấu, tranh luận, đấu khẩu, ác khẩu, vọng ngữ sanh.

Đó tất cả những cái đó nó bắt đầu nó mới có, những cái thập ác đó, nó mới sanh ra.

Thì như vậy là quý thầy đã thấy được cái con đường đi của Đức Phật, vạch từ cái duyên này đến cái duyên khác mà để cho các pháp ác sanh ra.

14.2- SỐNG PHẠM HẠNH ĐỂ DIỆT TÂM THAM

(01:13:47) Vậy thì bắt đầu bây giờ chúng ta dứt trừ những cái pháp ác này, tức là chúng ta sẽ dứt trừ lần lượt, chúng ta dứt trừ các Ái, các Thọ của chúng ta đó.

Cho nên tới đó thì chúng ta sẽ, tất cả các Ái các Thọ chúng ta dứt thì cái duyên Sanh, Tử, Ưu, Bi, Sầu, Khổ chúng ta dứt chớ có gì! Mà đi từ cái chỗ nào? Đi từ chỗ các ác pháp này.

Mà chính ác pháp này là từ cái chỗ đó nó sanh ra tới ác pháp. Bây giờ chúng ta phải đốn sạch những cái ác pháp này, cho nên Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Chánh Cần là pháp cần thiết cho chúng ta để dứt các ác pháp.

Chúng ta biết rõ được cái gốc của nó, thì đi từ cái gốc đó mà chúng ta đốn dần thì cái cây này nó phải - cái cây khổ này nó phải tiệt, nó phải đoạn dứt, nó không còn khổ nữa.

Nếu mà không hiểu được như vậy thì chúng ta cứ tu lòng vòng lòng vòng ở đâu mà tưởng là dứt khổ, nhưng sự thật là không dứt khổ.

Vì chúng ta chưa biết nó là ác pháp, mà ác pháp là cái gốc khổ, chớ không phải là lòng ham muốn chúng ta là gốc khổ đâu. Tại vì lòng ham muốn nó mới có sanh ra ác pháp đây.

Đó. Vậy thì chúng ta đi từ cái chỗ mà tu Tứ Chánh Cần và Tứ Vô Lượng Tâm thì ác pháp nó sẽ dứt. Ác pháp sẽ dứt thì giải thoát dứt, sanh tử dứt.

Ở đây quý thầy cần phải hiểu: Do tiêu dùng mà tham dục sanh. Nếu tiêu dùng không có bất cứ loại nào thì tiêu dùng diệt, mà tiêu dùng diệt thì tham dục diệt, tham dục diệt thì sân diệt, sân diệt thì si diệt.

Biết rõ như vậy nên Phật dạy: Sanh đã đoạn thì Phạm hạnh mới xong, con người mới giải thoát.

(01:15:11) Tại sao vậy?

Đức Phật nói: Bởi vì đời sống - như quý thầy đã thấy cái lộ trình thứ hai mà Thầy đã vạch ra đó - đời sống của tu sĩ trắng bạch như vỏ ốc, tức là chúng ta đã, tiêu dùng đó đã diệt sạch rồi.

Vì chúng ta đâu có tiền bạc đâu mà tiêu dùng, muốn gì cũng đâu có được? Cho nên ngay đó là chúng ta đã “Sanh đã tận” rồi.

Đó thì, ngay đó chúng ta đã thấy được cái chỗ mà cái bước mà chúng ta đoạn dứt được cái pháp ác, là ngay cái đời sống của chúng ta phải là đời sống Phạm hạnh. Mà đời sống Phạm hạnh là cái đời sống không còn tiền bạc, tiêu dùng, không còn muốn gì được nữa hết.

Nghĩa là đi xin ăn rồi, bây giờ người ta cho ăn ngon thì ngon, ăn dở thì dở chớ không nói: “Cho tui vậy không được, tui ăn vậy là thiếu dưỡng chất, chết tui đi! Để tui tu không được thì mấy ông không có phước đâu! Cho tui ăn cho ngon, đặng tui tu cho được để có phước!” - thì cái đó là cái sai rồi.

Cho nên ở đây chúng ta phải đoạn diệt cho được cái tham dục của mình. Mà đoạn diệt cái tiêu dùng trước. Tiêu dùng - người tu sĩ thì không còn tiêu dùng nữa rồi. Ba y một bát, thiểu dục tri túc rồi còn cái gì nữa tiêu dùng?

Không có thì chúng ta đến xin Phật tử. Chúng ta đến xin họ có cho là họ cho mà không cho thì chúng ta cũng chịu thôi.

Về thí dụ cái y này rách rồi, mà nó đã mục rồi, mà đến xin người ta nói: “Bây giờ tui chưa có để hôm nào tui có tui sẽ cúng dường cho thầy, bây giờ thì tui chưa có!” Thì mình cũng thôi, về chắp vá lại mà mặc đi, để cho kín thân chớ đừng để lõa lồ thôi, chớ cũng chưa có dám đòi hỏi ai nữa hết. Đó là mình đâu có tiêu dùng được, mình đâu có muốn được!

Còn bây giờ các vị có tiền, đâu có: “Cái này rách, thôi bỏ đi, đi ra chợ mua, may, sắm cái khác, chớ để gì mà để rách rưới như vậy?” Còn mình không có nữa thì đâu có tiêu dùng được, cho nên vì vậy mà phải chắp vá lại mà sống. Đó là đời sống của tu sĩ như vậy.

Cho nên trong cái thời Đức Phật, các thầy thấy bảy, tám mươi tuổi, các vị Tỳ Kheo trong cái thời đó bảy, tám mươi tuổi đi lụm cụm mà vẫn phải đi xin ăn, chớ không được cái người Tỳ Kheo khác mà xin về cho cái vị đó ăn.

Cho nên nghe qua những cái bài kệ của Trưởng Lão Ni Kệ hoặc Tăng Kệ chúng ta thấy sao mà cái đời tu sĩ lúc bấy giờ - lẽ ra thì họ nhập diệt cho rồi, chớ để chi lê thê mà đi xin quá khổ như vậy!

Mà đi đường non núi nữa, quá vất vả, phải nương cây gậy lụm cụm mà đi xin ăn. Bởi vì người ta đã thấy cái nhân quả của người ta, người ta vui vẻ để người ta trả chớ không phải người ta không thấy.

Biết rõ như vậy nên Phật dạy: Sanh đã đoạn thì Phạm hạnh mới xong, con người mới giải thoát.

Chúng ta truy tìm biết như vậy, bây giờ chúng ta mới biết đâu là sống đúng đời sống của người tu sĩ đạo Phật: Trắng bạch như vỏ ốc, không còn thằng phược và những sợi dây vật chất, thương ghét trói buộc, chỉ còn một lòng Từ Bi vô bờ bến.

Tuy là biết rõ như vậy, trước là để lập hạnh sống xuất gia ba y một bát, sống vô gia đình, không nhà cửa, không chùa to tháp lớn, một thân, một mình tiêu diêu, an lạc, có duyên thì giúp người, không duyên thì ẩn bóng, nhưng lúc ta còn đang tu thì phải siêng năng dứt bỏ pháp ác và trau dồi pháp thiện.

14.3- PHÁP HƯỚNG DIỆT TÂM THAM

(01:18:15) Như hồi nãy Thầy đã kể ra: Tham là do dục mới có tham. Vậy chúng ta phải trạch pháp câu này để dứt bỏ:

“Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó làm cho ta đau khổ và người khác đau khổ. Từ đây đứng trước mọi vật dù miếng ăn, manh áo tốt xấu, ngon dở, ta cũng phải từ khước, viễn ly, xa lìa; xem nó là rắn độc, là quỷ dữ, là ác thú trong tâm ta!”

Đó là cái câu pháp hướng để quý thầy nhắc nhở, để cho cái tâm mình đừng có tham ăn, tham mặc, tham y, tham áo, tham của cải tài sản, tham tiền, tham bạc…​ để chúng ta dứt bỏ tất cả những cái đó, để chúng ta không còn bị tâm tham nữa. Bởi vì tâm tham nó làm cho ta khổ mà người khác khổ.

Nhớ nhắc đi nhắc lại câu này nhiều lần, cho đến khi trước cái ăn và tất cả những vật dụng gì mà ta không còn ham muốn gì hết thì mới xong.

Nghĩa là đứng trước cái ăn, tức là cái vật thực hàng ngày của mình đó, tất cả những cái vật dụng hàng ngày mà cần thiết cho đời sống tu hành của mình, chớ đừng nói chi như người ngoài đời bằng cách này bằng cách khác đó, thì tâm ta chẳng còn ham muốn một vật gì hết. Thì lúc bấy giờ chúng ta mới thiểu dục tri túc - mới biết đủ đó, thì đó là lúc chúng ta mới xong.

Vậy phải nghiêm chỉnh tu hành, đừng xem thường nó, nó được Đức Phật gọi nó là một loại độc trong ba thứ độc.

Đó thì cái tham là Đức Phật gọi nó là một cái loại độc chớ không phải là nó thứ thường. Cho nên nó gọi trong tam độc thì nó là tham sân si, nó là cái độc đầu tiên của ba cái thứ độc đó. Vậy thì quý thầy đã hiểu được nó là cái thứ độc chớ không phải là cái thứ thường.

Đến phần này gọi là trau dồi ý hành, nó rất vi tế và khó khăn vô cùng. Vậy quý thầy cần phải siêng năng, đừng để thất niệm, nhưng cũng phải vừa với sức của mình.

Đó một lần nữa Thầy nhắc quý thầy đó: Tu vừa sức của mình. Mà nhớ là đừng để thất niệm, khi đang tu thì đừng để thất niệm, để vọng tưởng mà xen vô thì quý thầy hoài công rồi đó. Lúc bấy giờ chúng ta đặt cái niệm cho vững chắc không có được để thất niệm.

Cho nên trong kinh điển của Phật dạy: Khi mà đặt cái niệm rồi thì không được thất niệm, phải luôn luôn ở trong cái niệm cho nó rõ ràng, cho nó tỉnh táo, chớ không được để cho nó lờ mờ nữa.

…​ của mình.

Thành tựu hay không thành tựu là do ở chỗ quyết tâm, có muốn ra khỏi cuộc đời dục lạc đầy cạm bẫy này hay không. Nếu quý thầy không muốn xa lìa cuộc đời dục lạc thế gian thì xin quý thầy đừng tu hành theo đạo Phật, vì chẳng có ích lợi gì cho những người còn say mê dục lạc thế gian.

Vì mình còn ham mê dục lạc thế gian, còn thích ăn, thích ngủ, còn thích nói chuyện thì quý thầy đừng có theo đạo Phật. Tu uổng công lắm, mất cái thì giờ mà chẳng lợi ích cho mình, mà còn nợ của đàn na thí chủ nữa.

Cho nên khi quý thầy thấy nó còn thích, thôi, quý thầy đừng đi! Bởi vì cái cuộc đời thế gian quý thầy phải đoạn dứt nó, chớ quý thầy mà còn ham thích nó một chút xíu thôi, thì không có thể được.

Sau này Thầy sẽ đọc lại một câu kệ, chỉ có một chú Sa Di, chú đi tu mà chú nhớ mẹ chú, do cái chỗ này mà chú không thành tựu được cái đạo giải thoát.

Thì các thầy biết một chú Sa Di bảy, tám tuổi mà đi tu, làm sao không nhớ mẹ mình? Vậy mà về nhà bà mẹ khuyên một lời nói, mà chú về chú nỗ lực chú rời bỏ cái tình thương đó, để rồi chú nỗ lực chú thành một bậc A La Hán.

Đó là những cái mẩu chuyện của Trưởng Lão Tăng Kệ trong cái thời của Đức Phật như vậy đó.

15- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT TÂM SÂN

15.1- SÂN LÀ PHÁP ÁC NHẤT TRONG MƯỜI ĐIỀU ÁC

(01:22:03) Thứ hai:

“Sân là lòng giận dữ rất khó dằn, nó là pháp ác do tâm ý. Khi nó tức giận người ta có thể giết người không gớm tay, không sợ tù tội và cũng không sợ chết. Do thế mới biết lòng sân rất dữ.”

Đó, cái khi mà người ta giận người ta không còn sợ chết, sợ tù, sợ tội gì hết, người ta giết người, người ta không có gớm tay đâu. Cho nên cái lòng sân dữ lắm, không có phải hiền lành đâu.

Cho nên chúng ta thấy bây giờ mình sân, người ta chửi mình, người ta mắng mình, mình sân đó, mình ráng mình nén xuống chớ trong lòng tức lắm.

Còn người đời người ta chưa biết người ta không nhẫn, người ta không nén thì người ta ăn thua đủ, người ta không nhịn ai hết, thì cái sân này, nó tới cái sân khác, nó đưa đi đến cái chỗ mà có thể giết nhau, có thể nằm nhà thương hay đi ở tù.

Muốn biết người tu hành…​

Nghĩa là mình muốn biết cái người mà tu hành được giải thoát ở mức độ nào thì chúng ta chỉ cần nhận ở cái lòng sân của họ là dễ biết họ, rất là dễ biết. Thấy họ sân là biết họ tu ở cái mức độ nào rồi.

Cho nên có nhiều vị tu hành rất lâu năm ở rừng ở núi, mà khi đụng cái việc thì chúng ta thấy tâm sân họ bùng khởi lên, thì chúng ta biết rằng đó là họ chẳng có được gì hết, chỉ qua một cái hình thức mà ép của họ, qua cái sự tu tập của họ, có cái vẻ khổ hạnh bằng cách này bằng cách khác nhưng tâm sân của họ chưa xả được, thì tham, sân, si, đều là còn đủ chớ chưa hết.

Lòng sân còn thì lòng tham còn. Lòng sân còn thì ngu si còn.

Bởi vì chính mình ngu si cho nên mình chưa có minh được. Do đó vì vậy mà cái si còn thì tham còn, sân còn.

Người ta nói xấu nhau cũng vì lòng sân thù hận, người ta giết nhau cũng vì lòng sân thù hận, người ta cướp đoạt của nhau cũng vì lòng sân thù hận.

Bởi vậy sân là một pháp ác, một pháp cực ác lớn. Trong mười điều ác lòng sân là ác nhất.

15.2- PHÁP HƯỚNG DIỆT TÂM SÂN

Muốn tu tập dứt bỏ lòng sân ta hãy tu tập và trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm. Khi nào lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả có được thì lòng sân mới hết được.

(01:24:12) Nhưng Tứ Chánh Cần cũng có pháp tu. Vậy ta phải trạch pháp ra câu này để dùng nó mà hướng tâm tu tập:

“Ý sân là một hành động cực ác, đầy tội lỗi, làm cho ta khổ, người khác khóc. Ta phải từ bỏ, dứt trừ, phải mạnh dạn và quyết tâm xa lìa nó, từ bỏ nó, xem nó như thú dữ ác độc, như quỷ dữ la sát!”

Đó là những cái câu hướng tâm để chúng ta thấy cái lòng sân của chúng ta dữ tợn lắm, như quỷ dữ vậy, như la sát vậy.

Dùng câu này hướng tâm Như Lý Tác Ý phải ngồi kiết già, lưng ngay thẳng.

Vì chúng ta biết những cái pháp ác, cực ác thì chúng ta càng ngồi yên tịnh, càng ngồi kiết già để thân tâm gom lại một điểm mà chúng ta xua đuổi, chúng ta đánh đuổi nó mới được.

Chớ còn chúng ta ngồi - như cái ghế này mà ngồi, mà dùng để mà xoa cái tâm tham, tâm sân, si của chúng ta, không được!

Như cái bình thường, như chúng ta ngồi một cái ghế thường như thế này mà chúng ta tập trung cái niệm ở trước mặt chúng ta để xoa cái tâm mà đừng giết hại chúng sanh thì còn có thể được. Nhưng mà đến khi mà cái ý mà dừng tham, sân, si - ba cái ác độc này nó không đơn giản đâu.

Cho nên phải ngồi khoanh chân gom nó lại, tập trung cái niệm lại, do đó mới có đủ cái sức mà có thể dùng cái pháp hướng mới có thể đánh mạnh nó mới ra được.

Cho nên chúng ta phải biết tu, biết cách thức, chớ còn nếu mà không biết cách thì chúng ta cũng không có kết quả đâu.

Phải ngồi kiết già, lưng ngay thẳng, đặt pháp hướng trước mặt, dùng hết sức tinh thần xua đuổi như xua đuổi một con chó điên.

Nghĩa là mình biết nó, biết cái sân, cái tham, sân, si của mình là con chó điên đó, nếu mà mình không xua đuổi mạnh thì nó cắn mình chết đó, nó cắn mình điên đó. Cho nên mình phải đem hết cái sức của mình ra để mà xua đuổi như xua đuổi một con chó điên.

Đó, thì như vậy là chúng ta phải biết cái cách thức mà chúng ta ngồi kiết già là chúng ta gom hết toàn lực để mà đánh đuổi một con chó điên, để không nó đem lại cho chúng ta tai họa là điên khùng.

2. “Ý sân từ đây phải chấm dứt, phải từ bỏ không được phóng khởi!”

Nghĩa là mình nhắc nó không được - từ đây bất cứ hoàn cảnh nào - không được phóng khởi ra. Đó là cái câu mà mình hướng tâm để đoạn dứt nó.

3. “Ý sân phải chấm dứt ngay!”

Đó, mình chỉ nói như vậy, câu ngắn như vậy: “Chấm dứt ngay!” Mình ra lệnh nó như vậy là lâu ngày chúng ta dùng cái sức tinh thần của chúng ta, cái pháp hướng nó sẽ hiệu quả đến cùng.

Cho nên đến cuối cùng thì ngay cái chỗ mà người ta vừa chửi mình thì ngay đó nó có chấm dứt ngay liền ở trong đầu của mình, nó phóng ra: “Chấm dứt ngay!” - ngay đó tâm mình thản nhiên không sân nữa.

Thì quý vị thấy cái pháp hướng nó hiệu quả đến cái mức độ đó đó. Nó ngắn chừng nào thì cái lực của nó lại mạnh chừng nấy, mà nó dài - cái câu hướng mà dài thì cái lực nó yếu chừng nấy.

Cho nên khi mà cái pháp hướng để mà dứt, để từ bỏ, để chấm dứt đó, thì pháp hướng càng ngắn thì cái lực nó càng mạnh, cái tinh thần nó càng mạnh. Còn cái pháp hướng mà nó dài đó là cái pháp trau dồi chớ còn không phải pháp hướng (dứt bỏ).

Đó Thầy nhắc như vậy để sau này quý thầy (có) cái trí tuệ thông minh, sáng suốt, quý thầy tùy theo đó mà quý thầy trạch ra những cái pháp hướng cho nó đúng với cái môi trường, đúng với cái tâm của mình để cho mình tu tập.

(01:27:23) Trau dồi lòng thương yêu để phát triển tâm lành, ngăn ngừa tâm ác, quý thầy phải trạch pháp dùng pháp hướng dẫn tâm thương yêu chúng sanh:

Bây giờ đó mình trau dồi cái tâm thương yêu của mình.

4. “Ý sân giận dữ, chửi mắng, nạt nộ người khiến cho người ta sợ hãi, đau khổ. Ta phải thương yêu họ, không được làm cho họ sợ hãi. Vậy từ đây ta không nên chửi mắng, la hét mà phải thương yêu, an ủi, giúp đỡ họ đừng sợ hãi!”

Đó là cái câu trau dồi cái tâm thương yêu của mình đó. Cho nên câu này không có dùng cái nạt nộ hay ra lệnh, mà chỉ xoa dịu, nhẹ nhàng, an ủi nó, để cho nó lần lượt nó lớn lên cái lòng thương yêu mà không có la hét làm cho người ta sợ.

Mỗi khi mà chúng ta tức giận, la hét gì đó thì chúng ta nhớ là phải thương người, cho nên nó dịu xuống liền tức khắc mà nó không có la hét.

5. “Đời là khổ, ta không nên sân để làm cho người, vật khác đều khổ thêm. Thấy ai sân ta nên thương họ, ta phải tập thương họ cho chân thật!”

Đó là những cái điều mà chúng ta xoa dịu, làm cho cái tâm của chúng ta thấy người sân là chúng ta thương, nhắc nhở chúng ta thấy cái người mà giận dữ là chúng ta thương.

Và chúng ta cũng biết trạch pháp ra: “Đời là đã khổ rồi, cho nên sân lại làm cho người khác, vật khác đều khổ theo, vì vậy mà cái tâm không có được làm như vậy nữa mà phải thương yêu!”

Đó là cái câu ám thị để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, để nó phá đi cái tâm ác của chúng ta là sân.

15.3- ĐỊNH VÔ LẬU DIỆT TÂM SÂN

(01:29:00) Đến đây thì chúng ta lại còn phải dùng cái Định Vô Lậu mà tu cái Tứ Chánh Cần nữa. Đó, thì các thầy phải thấy được cái công trình tu tập chúng ta phải sử dụng liên tục những cái định, trừ ra có cái định Hiện Tại An Lạc Trú là Bốn Thiền là chúng ta không sử dụng trong này thôi.

Dùng Định Vô Lậu tu Tứ Chánh Cần là ta phải ngồi kiết già, lưng thẳng, đặt niệm sân trước mặt rồi tác ý đi tìm: Cái sân từ đâu có, từ đâu sanh, từ đâu diệt? Cứ như thế chúng ta phát sinh tri kiến giải thoát, làm cho ta hiểu rõ cái ý sân, bẻ vụn cái ý sân, làm cho tan vỡ cái ý sân, không còn đất đứng nơi tâm ta nữa.

Nghĩa là trong khi mà chúng ta quán xét, tự nó phóng ra, nó làm chúng ta thấu suốt được cái sân từ đâu đến, từ đâu có, từ đâu không, cho nên chúng ta biết rất rõ.

Do biết rất rõ đó, thì nó bẻ vụn cái ý sân của chúng ta, nó làm cho tan nát cái ý sân ra, nó làm cho cái ý sân không còn đất đứng nơi tâm ta nữa. Đó là chúng ta dùng Định Vô Lậu mà phá tâm sân.

Đó thì, chúng ta biết áp dụng ở trong Tứ Chánh Cần bằng Định Vô Lậu. Bởi vì cái Định Vô Lậu nó không phải dùng pháp hướng, mà nó dùng cái tri kiến nó quét sạch, nó suy tư, nó đi tìm cái nguồn gốc của cái tâm sân, rồi nó suy tư từ cái sân đó nó khổ như thế nào, nó làm sao…​ nó quét sạch ra. Nó làm cho tâm của chúng ta không còn sân đứng được ở đó.

Phải đặt niệm này trước mặt, đừng cho thất niệm…​

Luôn luôn lúc nào mà chúng ta tới, chúng ta mà thấu suốt được rồi thì chúng ta mới xả nghỉ, còn nếu chưa có thấu suốt được thì chúng ta đừng có xả nghỉ ngang mà chúng ta phải được liên tục, đừng có để thất niệm trong cái thời gian mà truy tìm cái sân, thì nó mới được.

Phải đặt niệm này trước mặt đừng cho thất niệm, có như vậy tu Tứ Chánh Cần câu hữu Vô Lậu Định.

Đó bắt đầu chúng ta tu Tứ Chánh Cần mà chúng ta câu hữu qua Định Vô Lậu đó, thì các thầy thấy mình phải khéo léo, mình phải áp dụng cho đúng cách. Chớ nếu mà mình cứ tu Tứ Chánh Cần không thì mình không thông suốt được cái tham, cái sân, si của mình, do đó mình nhắc ở ngoài da của nó không thì nó không có thấm đâu.

Cho nên chúng ta lại dùng cái Định Vô Lậu, do nhìn cái lậu hoặc của tham, sân, si, này là như thế nào, vì vậy mà chúng ta đốn sạch từ ở trong gốc nó, đập tan nó từ ở trong cái gốc sân của nó, dứt được cái ý sân của nó.

Đó thì quý thầy thấy tuyệt diệu không? Cho nên mình biết câu hữu được pháp này với pháp kia, cho nên mình câu hữu với Định Vô Lậu mà mình đạt được cái như ý nguyện của mình là tâm sân dứt.

Đó, thì như vậy là Thầy dạy quý thầy có cách thức để tu tập, có cách thức để câu hữu, chớ đâu phải là thiếu cái sự câu hữu đó: Mình cứ Định Vô Lậu là mình phải tu Vô Lậu, còn cái định tu Tứ Chánh Cần là phải cứ tu Tứ Chánh Cần, không phải đâu.

Chúng ta chính hồi nãy mà chúng ta tu Tứ Chánh Cần mà chúng ta tu tập lòng cái thương yêu của mình tức là câu hữu với Tứ Vô Lượng Tâm đó. Những cái mà chúng ta câu hữu, mà Thầy nhắc thì quý thầy mới biết, mà Thầy không nhắc thì quý thầy không biết đâu.

Đó, thì đó là những cái mà chúng ta câu hữu với nhau, pháp này câu hữu với pháp kia để mà chúng ta thực hiện cho đạt được cái mục đích của chúng ta là giải trừ được cái tâm ác của chúng ta, mười cái điều ác ra khỏi cái tâm của chúng ta, không còn đất đứng ở đó.

16- PHÁP HÀNH ĐOẠN DỨT TÂM SI

16.1- SI LÀ TRẠNG THÁI CỦA VÔ MINH

(01:32:14) Si.

Bây giờ đến cái phần ngu si của cái ý của chúng ta đây.

Si là Vô Minh, là trạng thái ham ngủ, ham ăn.

Đó tức là cái si của chúng ta nó hiện ra cái trạng thái ham ăn, ham ngủ, đó là cái si đó. Cho nên vì vậy mà chúng ta biết cái trạng thái ham ăn, ham ngủ của chúng ta là si. Cái người nào mà còn thích ăn, thích ngủ là cái người đó đang si, chớ chưa phải là thông minh.

Mặc dù bây giờ họ là thông minh, họ là nhà bác học đi nữa, họ là những con người mà học tiến sĩ đi nữa mà còn ham ăn, ham ngủ là những người đó là những người si chớ không phải là những người không si đâu.

16.2- ĐỊNH CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC PHÁ TÂM SI

(01:32:45) Muốn đoạn dứt pháp ác này quý thầy phải tu Chánh Niệm Tỉnh Thức Định.

Đó, thì bây giờ muốn đạt được cái chỗ mà si này thì chỉ có cái Chánh Niệm Tỉnh Thức Định thôi, nó mới có sức tỉnh thức, chớ còn nếu không thì nó ham ăn, ham ngủ à.

Mà nó tỉnh thức thì nó diệt trừ cái ăn, do đó nó mới có sức tỉnh thức nó mới tu Định Vô Lậu, nó mới quét sạch được cái ăn, nó mới thấy cái ăn là bất tịnh.

Đó, thì từ cái chỗ này nó câu hữu với cái kia mà nó kết hợp, nó làm cho chúng ta có một cái lộ trình tu tập rất là dè dặt, rất là kỹ lưỡng, rất là dày mịt, không có để cho những cái pháp ác xen vô được.

Bởi vì chúng ta có những cái pháp nó làm như cái mạng lưới mà không cho pháp ác rơi trên đó được, nó đánh bại, nó đánh bạt ra hết, nó không có còn cái chỗ nào mà có thể lọt vào cái pháp ác lọt vào tâm chúng ta được.

Nhờ các pháp này mà chúng ta câu hữu liên tục, mà chúng ta đánh các pháp ác ra khỏi tâm chúng ta. Vì vậy đưa chúng ta ra con đường giải thoát rất là rõ ràng và cụ thể.

Cho nên Chánh Niệm Tỉnh Thức là chúng ta phải đi kinh hành nhiều, theo hành động đi mà chúng ta tỉnh thức thì không còn lười biếng, không còn buồn ngủ nữa.

Đó, nó phá cái si của chúng ta rất rõ, cái trạng thái si của chúng ta.

16.3- HỌC HIỂU, VÉN MÀN VÔ MINH ĐỂ PHÁ TÂM SI

(01:33:52) Muốn phá và dứt ác pháp si mê này thì quý thầy phải phá Vô Minh.

Đó, bây giờ đó, hồi nãy là đi kinh hành để tỉnh thức thôi. Còn bây giờ chúng ta si tức là Vô Minh chớ gì? Mà muốn phá Vô Minh thì phải làm sao? Chớ đâu phải là tỉnh thức không! Tỉnh thức không mà nó không hiểu gì hết thì cái tỉnh thức đó là chỉ để ngồi cứ suốt ngày chơi cho nó thanh thản thôi chớ có làm gì?

Đó bây giờ chúng ta phải dùng cái sức tỉnh thức này để mà chúng ta tu tập cái Định Chánh Niệm Tỉnh Thức làm cho chúng ta có sức tỉnh thức, từ tỉnh thức đó chúng ta mới phá cái Vô Minh. Mà phá cái Vô Minh thì nó phải có Minh.

Muốn phá Vô Minh quý thầy phải học hiểu những lời Phật dạy, Thầy dạy.

Đó, bây giờ nó muốn phá được cái Vô Minh đó thì mình phải là cái người học, chớ mình không học thì mình không biết, mà mình không biết thì mình lầm.

Chẳng hạn bây giờ nói đời khổ, quý thầy cho rằng đâu có khổ? Đó là cái (Vô) Minh của quý thầy. Nhưng khi nghe nói khổ, vạch ra cho từng li, từng tí mới thấy thật đây là khổ! Vì vậy bây giờ quý thầy mới thấy được cái khổ, mà thấy được cái khổ đó là vén được cái Vô Minh, vậy quý thầy đã Minh.

Minh là nhờ cái sự học hỏi những cái gì của người ta đi qua rồi người ta dạy lại cho mình để mình thấy được, mà mình thấy được đó là cái Minh của mình.

Cái nào chưa hiểu cần phải hiểu cho rõ.

Nghĩa là, khi mà lời dạy đó cái nào mình chưa hiểu thì mình cần phải hiểu rõ, hiểu cho rõ hiểu phải cho đúng, đừng có hiểu sai, vì hiểu sai tức là Vô Minh.

(01:35:17) Theo những điều mà từ lâu quý thầy chưa biết, bây giờ được học hiểu, quý thầy đã biết và biết rất rõ đó là: Phá si, dứt trừ si, tức là phá Vô Minh. Phá Vô Minh tức là Minh. Minh là hiểu rõ cái nào ác, cái nào thiện.

Đó như hồi nào tới giờ Thầy chưa có dạy Thập Thiện, cho nên quý thầy đâu có nghe nói là các pháp ác, rồi các pháp thiện. Bây giờ dạy các pháp ác, các pháp thiện thì quý thầy biết có mười cái pháp ác nè, có mười cái pháp thiện nè, làm sao là ác, làm sao thiện, thì như vậy đó là các thầy đã Minh rồi đó, đã biết được mười rồi.

Còn hồi đó Thầy chưa có nói mười, các thầy nghe nói pháp ác chớ không biết nó mười hay hai mươi hay cái gì đó, các thầy chưa có biết đâu. Còn bây giờ đã được học, các thầy biết đó là pháp ác, đó là pháp thiện, mười cái pháp thiện này, mười cái pháp ác này. Đó, hay hoặc là tất cả những cái pháp khác như thế nào, thế nào, thì bắt đầu quý thầy Minh rồi đó.

Vì vậy mà Minh thì tức là mình không theo ác pháp, mà Vô Minh thì mình theo ác pháp thì mình sai lệch.

Minh là hiểu rõ cái nào ác, cái nào thiện, cái nào đúng chân lý, cái nào sai chân lý, cái nào đúng nhân, cái nào đúng quả, cái nào cần trau dồi, cái nào không cần trau dồi, cái nào cần dứt bỏ, cái nào không cần dứt bỏ, cái nào tùy, cái nào chỉ, cái nào ức, cái nào quán, cái nào diệt, cái nào xả, cái nào hướng, cái nào ly, cái nào khởi, cái nào diệt, cái nào khổ, cái nào không khổ, cái nào còn khổ, cái nào hết khổ, cái nào sân, cái nào không sân, cái nào tham, cái nào không tham, và biết rất rõ, đó là Minh.

Tất cả những cái mình biết rõ như Thầy kể ở trên thì đó là gọi là Minh. Mình biết cái này khổ, cái này không khổ, cái này tham, cái này không tham, cái này ác, cái này không ác, đó là những cái đó gọi là Minh.

Nhờ có Minh mà si hết.

Nghĩa là mình rõ rồi thì cái si kia nó hết rồi, mình không có lầm nữa, cho nên gọi là hết.

Khi có Minh thì chúng ta hãy tinh tấn, chuyên cần tu tập, không phí bỏ thời gian vô ích, một lòng quyết tâm, quyết dứt bỏ các pháp ác.

Bây giờ mình đã Minh rồi mà mình lười biếng thì các pháp ác nó còn không? Còn.

Cho nên khi mình đã biết rõ rồi thì mình mới chuyên cần, siêng năng, tu tập để trau dồi cái thân, tâm của mình để dứt bỏ thì nó mới hết chớ! Chớ không phải biết rồi để khơi khơi nó hết đâu, nói tôi Minh rồi cái tôi biết.

Bởi vì cái Minh này là cái Minh của mình huân tập cái sự hiểu biết của người khác mình mới hiểu thôi, cho nên cái này Phật dạy đó là cái tri kiến chứ chưa phải là cái tri kiến giải thoát.

Còn cái tri kiến giải thoát của mình mà Thầy nói ngồi mà để phá cái vô lậu, nó tự phóng ra, rồi tự nó tìm hiểu ra, rồi nó quán xét, nó thấu suốt được cái lý đau khổ hay hoặc cái lý nào đó, rồi nó xả đi cái lý đó đi, nó làm cho không còn lậu hoặc, thì cái đó gọi là tri kiến giải thoát.

Còn bây giờ cái Minh này nó mới là cái tri kiến của chúng ta thôi. Tức là chúng ta nhai lại những cái hiểu biết của người khác để cho mình hiểu cái đó đúng sai thôi, đó là cái tri kiến đúng. Còn nếu mà mình nhai lại cái tri kiến sai thì nó thành kiến chấp, tà chấp hay là thân chấp, do đó nó đưa chúng ta đi lầm lạc đến cái chỗ càng gây thêm pháp ác nữa, cho nên càng đem đến sự khổ đau.

16.4- ĐỊNH SÁNG SUỐT PHÁ TÂM SI

(01:38:25) Quý thầy ngồi kiết già, lưng ngay thẳng trước mặt, tưởng ánh sáng ngày như đêm rồi dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý:

“Tâm u tối si mê như đêm đen, ta hiện giờ thấy nó sáng suốt như ban ngày, không còn đen tối nữa!”

Đây là tu cái Định Sáng Suốt đây, để cho chúng ta từ đó nó mới có cái sự sáng suốt, nó như cái lý nó tác ý ra những cái phá cái sự - cái tri kiến giải thoát của chúng ta mới phát ra được.

Vậy thì khi mà tu cái Định Sáng Suốt này, thì thứ nhất là chúng ta được tỉnh thức, chúng ta ngồi giữ tâm thanh thản thì nó sáng suốt ngày như đêm, đêm như ngày.

Còn nếu mà chúng ta chưa có đủ tỉnh thức thì chúng ta phải tu tập dùng cái tưởng để thấy cái tâm chúng ta si mê nó như đêm đen, bây giờ nó sáng suốt, ngày như đêm, đêm như ngày, nó sáng suốt như ngày, nó không còn u tối nữa.

Do cái tưởng Sáng Suốt này nó làm cho tâm chúng ta luôn luôn ở trong cái chỗ sáng suốt đó và nó phát triển cái tâm thanh thản, tức là tâm tỉnh thức.

Đó thì, chúng ta phải thấy được cái mấu chốt tu cái chỗ này gọi là tu cái tâm sáng suốt, hay là cái Định Sáng Suốt.

Cái chỗ này là cái chỗ phần thêm để cho chúng ta biết. Còn trước kia Thầy dạy quý thầy là giữ cái tâm thanh thản, tức là giữ cái tâm sáng suốt của mình.

Còn bây giờ là chúng ta chưa có đủ cái tỉnh thức, cái Chánh Niệm Tỉnh Giác, cho nên cái sức tỉnh chưa có, thì giữ cái tâm thanh thản nó không có được lâu, do đó chúng ta mới ngồi mới tưởng là cái tâm của chúng ta bây giờ si mê như đen tối, mà bây giờ nó phải sáng suốt như ban ngày, nó không còn đen tối nữa.

Đó là chúng ta dùng nhắc nó để rồi chúng ta ngồi đây chúng ta dùng cái tưởng thấy luôn luôn lúc nào cũng sáng suốt ở trước mắt của chúng ta. Do cái ánh sáng đó, do cái sáng tưởng tượng đó mà nó giúp cho chúng ta sáng suốt.

Những cái bài này đã được Phật dạy các vị Tỳ Kheo trong thời Đức Phật rất lâu và rất nhiều chớ không phải mới mà Thầy đặt ra đâu. Có dịp quý thầy nghiên cứu về kinh tạng Pali hoặc là kinh tạng A Hàm thì quý thầy sẽ thấy được những cái điều mà Phật dạy này./.

HÉT BĂNG