13 - TRAU DỒI TÂM XẢ 02 - KẾT LUẬN TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT 13 - TRAU DỒI TÂM XẢ 02 - KẾT LUẬN TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Người nghe: Tu sinh
Thời gian: 1997
1- TRAU DỒI TÂM XẢ (Tiếp theo)
1.1- XẢ VÔ LƯỢNG VẬT CHẤT THẾ GIAN
(00:01) Bây giờ đến chúng ta xả cái kế nữa. Bởi vì xả ái dục rồi, xả sắc rồi, thì bắt đầu bây giờ chúng ta xả đến tiền bạc của báu. Lợi mà, làm sao mà phải xả chớ còn không xả thì làm sao mà chúng ta đi tới cái chỗ giải thoát được? Nó cám dỗ chúng ta cũng rất mạnh đây.
Bây giờ, Thầy dạy quý thầy Xả Tâm Vô Lượng của báu, vàng bạc, vật chất thế gian.
Đó, tới cái giai đoạn này thì chúng ta phải biết rằng cái vật chất thế gian, tiền bạc coi vậy chớ khó xả lắm! Một cái bọc cao su nhỏ vầy thôi mà mình cũng chưa dám bỏ trong thùng rác nữa, thấy nó còn lành lành đó nhét đó ít bữa để lấy đựng lại, thì thử hỏi cái gì mà dám xả? Muốn vô, đem vật chất vô thêm chớ còn chưa muốn xả đâu!
Đó, những cái mà chúng ta phải hiểu biết, để ở đây là chúng ta xả tâm vô lượng thì phải xả các pháp vô lượng. Mà xả cái đối tượng tiền bạc của chúng ta là một cái điều dục lạc, năm cái dục lạc rất là khó xả. Vì vậy mà cái sự xả tâm này phải thấy được, bỏ nó đi, cho nó thực, và đồng thời phải nhắc đi, nhắc lại nhiều lần mới có thể xả được, chớ không phải nói “ Ờ tui xả, tui bỏ” đâu!
Nghe cái chuyện ông Bàng Uẩn mà đem của cải, vàng bạc mà đổ xuống sông, chúng ta nghe thì dễ lắm, nhưng thử chúng ta đem đổ coi chúng ta có tiếc không? Chắc chắn là chưa dám đâu! Chưa có ai dám làm được điều đó đâu. Đem bố thí để cầu danh chớ còn làm chuyện đó thì đem đổ uổng quá đâu có ai biết mình? Đó là những cái tâm mà chưa xả đó.
Rồi chúng ta còn lý luận nữa: “Ông này ngu quá, có tiền bạc đem đổ không cho ai hết. Để cho người ta phải đỡ không?” Chính cái chỗ mà để cho người khác đỡ là đã cái ngu rồi! Đã mình vì tiền bạc của cải mình khổ suốt cái đời của mình rồi, mình đem cho người ta lại làm cho người ta đắm mê nữa là mình đem gieo thêm cái họa cho người ta, chớ đâu phải sung sướng gì?
Bởi vì ông Bàng Uẩn ổng đã thấy được cái nhân quả, cho nên nếu đem cái rắn độc này đến nhà người ta thì người ta lại đam mê, rồi người ta bị lôi cuốn ở trong cái đó nữa, thì người ta lại khổ! Nhân quả của họ nghèo, họ phải trả cái nhân quả họ, mà họ trả cho trong sạch thì họ mới vượt thoát ra cái nhân quả.
(02:18) Muốn trau dồi tâm xả tiền bạc, của báu vật chất thế gian ta phải đặt niệm trước mặt, dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý:
“Tiền bạc…
Đây là cái câu đây:
“Tiền bạc, của cải, châu báu là những vật chất cám dỗ lôi cuốn rất mạnh làm cho tâm ta ham mê, say thích mà chạy theo, tạo ra biết bao nhiêu điều tội ác!”
Đó, mình nhắc nó như vậy đó. Nếu mà muốn có tiền bạc mình phải có làm những điều này, điều kia chớ? Một ông nhà nông mà muốn có lúa gạo, có tiền bạc thì ổng phải biết bao nhiêu, ổng giết biết bao nhiêu con vật dưới ruộng lúa không? Ổng phải cày xới biết bao nhiêu con trùng chết không?
Đó thì chúng ta thấy, đó là cái nghề lương thiện chớ chưa phải là cái nghề cướp giựt ai đó, nhưng mà còn phải biết bao nhiêu chúng sanh phải chết! Còn tất cả những cái nghề khác, nó còn dày xéo lên nhau, lên con người nhau để mà xâu xé từng đồng bạc, giết nhau từng đồng bạc, thì chúng ta thấy nó có tệ hại không?
Nên lấy câu này trạch pháp mà nhắc đi nhắc lại trau dồi tâm ta cho thấm nhuần.
Bây giờ Thầy cho thêm một câu nữa để chúng ta có những cái câu, bởi vì chúng ta đã học Xả thì chúng ta phải có những cái trạch pháp, những cái câu để chúng ta nhắc cho nhiều, nhắc cho thấm nhuần, nhắc cho tận xương tủy của chúng ta, từ đó chúng ta mới xa lìa nó được.
Đây là một cái câu nữa:
“Vì tiền bạc, châu báu, vật chất thế gian mà con người xâu xé lẫn nhau, nhà nhà không yên ấm, nước nước mất thái bình! Ta phải từ bỏ tiền bạc, của báu, vật chất thế gian như bỏ đôi giày rách!”
Như cái đôi giày mà mình hết mang được rồi, mình quăng ra đống rác đó! Xem nó là của báu, vật chất, vàng bạc của báu của mình quăng nó như là quăng cái đôi giày rách của mình quăng ở đống rác vậy đó!
Thì đó là một cái câu để hướng tâm, để ám thị, để Như Lý Tác Ý câu này ra, để làm cho chúng ta thấy vàng bạc của báu là cái đôi giày rách, là con rắn độc, thì như vậy chúng ta mới ném nó được, chớ không khéo chúng ta khó mà ném được!
Phải lặp, đi lặp lại, hướng tâm để ta xả cho được Vô Lượng Tâm này:
“Tiền bạc, của cải, châu báu, vật chất thế gian là tên chủ độc tài, sai bảo ta làm bất cứ một điều gì ta đều mờ ám vâng theo, làm những điều tội lỗi tày trời!
Vậy, ta phải từ giã, xa lìa ông chủ này để được tự do, thoát kiếp nô lệ!”
(04:36) Đó là một cái câu nữa đó. Nghĩa là chúng ta phải nhìn thấy tiền bạc của báu là một cái người chủ độc tài, luôn luôn lúc nào nó sai chúng ta, hễ muốn cái gì là nó sai chúng ta làm theo cái nấy.
Nghĩa là chúng ta bị nô lệ nó. Nó muốn uống rượu là nó sai chúng ta uống rượu à, nó muốn hút thuốc là nó sai chúng ta hút thuốc à, nó muốn cái gì nó làm cái nấy hết à!
Nó muốn làm những cái tội ác gì nó cũng sai chúng ta làm được hết. Nó muốn giết người, tiền bạc nó có rồi, nó mới sai chúng ta giết người đó, thì bắt đầu chúng ta cũng đem tiền bạc ra để mà tung ra để giết người nữa. Nó làm những điều tội lỗi, rất là tội lỗi!
Cho nên nó là một cái ông chủ độc tài, sai bảo ta cái gì, ta là tôi tớ rất là trung thành của nó đó. Cho nên muốn thoát kiếp nô lệ thì chúng ta phải xa lìa cái ông chủ này, chớ ở gần ổng, ổng cứ sai mình hoài!
Cho nên, ở đây phải cố gắng mà xa lìa nó đi, xa lìa như những bậc tu hành giải thoát, những bậc Thánh Hiền, Thánh Tăng của thời Đức Phật, họ đã xa lìa nó đó, cho nên họ không bị sai.
Vì giới luật của Phật dạy người tu sĩ không cất giữ tiền bạc, cho nên họ xa lìa, làm sao sai họ được? Bây giờ tâm họ muốn cái gì cũng không được hết, bởi vì họ đâu có tiền! Cho nên ông chủ tiền không sai họ được. Đó là họ đã xa lìa ông chủ.
Vì vậy mà chúng ta thấy những cái gương mà xả danh, xả lợi, xả tiền tài, thì những cái người đó là những bậc chân tu. Còn những người mà cất giữ tiền bạc thế này thế khác, họ nói là họ chân tu thì chắc chắn là không phải chân tu đâu!
Chúng ta nhìn, chúng ta phải xét được cái đúng, cái sai. Chúng ta biết được cái người đó là đang nô lệ tiền bạc hay là không nô lệ tiền bạc!
Bởi vì họ nô lệ tiền bạc, cho nên cái tâm họ muốn cái chùa to thì cái tiền đó nó sẽ sai họ phải cất cái chùa, cho nên họ bị nô lệ tiền, chớ họ không phải làm chủ tiền. Họ nghĩ là họ làm chủ tiền, họ lấy tiền ra họ bỏ để người ta cất cho họ cái chùa tốt, nhưng không ngờ tiền sai họ. Bởi vì họ có tiền!
Còn như một vị chân tu không có tiền bạc thì lấy cái gì mà sai họ được? Cho nên, họ xa lìa ông chủ họ.
Vì vậy mà cái câu này, các thầy phải nhớ kỹ để áp dụng vào cái pháp Như Lý Tác Ý, hàng ngày nhắc đi nhắc lại.
Vì chúng ta là những người tu, sau này chúng ta có những cái danh, cái lợi nó lớn như vậy, thì chúng ta nhớ rằng chúng ta không phải là một người tu sĩ nô lệ cho tiền bạc. Có như vậy quý vị mới thoát ra cái cảnh nô lệ của tiền bạc, của ông chủ độc tài này.
(07:33) Bây giờ quý thầy đã hiểu, phải biết được mà sửa mình từ bây giờ, răn nhắc mình để cho mình xa lìa tiền bạc của báu, từ đó cái giới luật của quý thầy rất là nghiêm chỉnh.
Hầu như quý thầy hiện giờ tu hành người nào cũng còn cất giữ tiền bạc, cho nên bây giờ muốn cái gì thì chúng ta dù ít dù nhiều thì chúng ta cũng thực hiện qua cái sự sai bảo của ông chủ này.
Còn trái lại, như một người không có gì hết, lấy gì sai bảo được? Cho nên, chúng ta là những người xa lìa ông chủ tiền bạc.
“Tiền bạc, vật chất thế gian càng có nhiều tâm ta càng lo sợ…
Quý thầy thấy không, có cái người nào giàu có mà họ không lo sợ trộm cướp đâu? Họ lo sợ cả vua chúa, cả nhà nước, chánh phủ nữa! Thấy mình tiền bạc đây nhiều quá đây, không biết mình làm cái gì đây, có gian có dối gì, sao mà ông này không có thấy làm gì mà sao mà có tiền đây? Người ta đi tìm, đi này kia, do đó, mình ăn không yên mà ngủ không yên, rất sợ hãi!
Thì các con thấy, các thầy thấy, cái đó là cái nguy hiểm nhất, cái đau khổ nhất. Cho nên Đức Phật ngày xưa nói với ông A Nan: “Nó là rắn độc đó!”, dạy cho ông A Nan thấy đó là rắn độc đó, nó sẽ cắn chúng ta chết ngày nào đó.
Đó, thì chúng ta thấy: Cái người mà có tiền bạc vật chất thế gian càng nhiều, nhà cửa đồ sộ vậy, cửa sắt cửa nẻo vậy, chớ ngủ ở trong nhà rất nơm nớp, nghe ở ngoài nghe cái “cộp” là ở trong quá là hoảng sợ rồi!
… mạng sống như chỉ mành treo chuông…
Mình tiền bạc nhiều, ăn cướp nó vô nó giết mình để lấy của chớ làm sao tha mình được? Tha mình đi tố cáo nó hay sao? Cho nên cái mạng sống của mình, tiền bạc nhiều, mạng sống của mình như là sợi chỉ mà treo chuông vậy.
… không biết kẻ trộm cướp, người tham lam giết chúng ta trong giờ phút nào!
Vì vậy, ta phải từ giã chúng, xả ly chúng, chẳng còn một chút nào ở trong tâm ta thì ta mới có ngủ yên giấc!”
Đó thì những cái lý đó, những cái câu đó, các thầy phải nhớ để mà khắc ghi, để trở thành một cái pháp hướng, trở thành một cái câu ám thị để nhắc tâm mình, để cho mình từ giã, xa lìa những cái thứ mà có thể giết người, giết mình trong chớp mắt.
(09:53) Lấy câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để ta vĩnh viễn xả ly tiền bạc, vật chất thế gian, trau dồi tâm Xả Vô Lượng.
Nghĩa là chúng ta xả được như vậy, đó là những của cải, tài sản lớn đó, chớ không phải là… Cái mà xả của cải tài sản lớn này còn dễ đó, chớ cái mà xả của cải tài sản nhỏ còn khó, nó không phải dễ đâu.
Ở đây lần lượt rồi Thầy sẽ dạy để mà quý thầy trau dồi cái tâm Xả Vô Lượng này, để chúng ta xả từ cái lớn rồi cho đến cái nhỏ. Nãy giờ đó, Thầy nói chuyện lớn không đó, chuyện xả cái lớn, rồi tới đây Thầy sẽ chỉ dạy cho xả cái nhỏ.
Chúng ta còn phải thêm những câu pháp hướng thêm để chúng ta trau dồi tâm Xả của chúng ta cho nó thấm nhuần.
Nó nhiều cái câu, để mà chúng ta thấy cái câu nào mà chúng ta tu tập có hiệu quả nhất thì chúng ta chọn lấy câu đó làm cái câu nhắc tâm chúng ta hằng ngày.
Còn cái câu nào mà chưa có hiệu quả, chưa hợp với tâm lý của mình thì những câu đó nó không hợp với đặc tướng của mình, thì mình hãy bỏ những câu đó đi để chọn lấy một trong những hai câu ở trong những gợi ý của Thầy.
Chớ Thầy biết đặc tướng của quý thầy là hợp với câu nào mà Thầy dạy?
Chẳng hạn bây giờ mỗi người đến xin Thầy một cái câu thì Thầy xem qua cái đặc tướng của người này như thế nào Thầy cho, còn ở đây là một cái bài giảng, Thầy phải giảng chung chung để cho quý thầy tự chọn lấy cái câu nào mà phù hợp với mình, mà mình thực tu có kết quả, thì mình lấy câu đó làm cái câu nhắc tâm của mình.
(11:35) Đây là một cái câu nữa:
“Vàng bạc, châu báu, của cải, tài sản thế gian là rắn độc, là ung nhọt truyền nhiễm, bệnh tật nan y, không trị được. Nếu ta gần gũi có ngày sẽ bị rắn độc cắn, sẽ bị vi trùng truyền nhiễm bệnh độc. Ta hãy xa lánh nó, đừng cất giữ, đừng tích trữ mà hãy cao bay xa chạy, tránh nó như bệnh cùi!”
Đó là một cái câu để mà chúng ta hướng, mà nó hợp với mình thì mình hãy lấy nó mà mình làm sự nhắc nhở tâm mình, sự trau dồi tâm mình hằng ngày.
Tóm lại, quý thầy siêng năng tu tập trau dồi tâm Xả Vô Lượng này đến khi thấm nhuần thì quý thầy mới viễn ly được tiền bạc, châu báu, của cải, vật chất thế gian.
Tuy Thầy dạy như vậy nhưng rất khó, không phải buông xả dễ đâu, phải bền chí, kiên nhẫn mà trau dồi tâm Xả này. Ai là người tinh tấn siêng năng thì chẳng bao lâu sẽ xả sạch, Xả Tâm Vô Lượng.
Đó, thì ở đây quý thầy thấy rằng, cái người mà siêng năng tinh tấn, tin tưởng ở nơi cái pháp này thì chúng ta bắt đầu chúng ta xả được.
Và xả được thì chúng ta hoàn toàn - khi mà tu cái câu này, thì bắt đầu chúng ta phải tìm một cái nơi nào mà có thể chúng ta đi xin ăn của mọi người được, do đó, chúng ta sẽ bỏ hết, không cất giữ tiền bạc, không gì hết, ai cho gì mình ăn nấy, hoàn toàn sống nhờ vào cái sự bố thí của người khác, chớ không còn nghĩ rằng mình phải mua cái này hay sắm cái kia.
Đau thì chỉ biết xin thuốc, mà có thuốc tốt thì uống mà thuốc xấu thì thôi. Chết là do nhân quả chớ không phải ai muốn chết mà được! Cho nên, chúng ta chẳng nề sợ.
Vì chúng ta còn sợ mình không có tiền rồi đau bệnh, ai cho tiền, cho thuốc mình uống đây? Cho nên do cái sự lừng chừng đó mà chúng ta xả chưa hết. Mà xả chưa hết một cái chuyện nhỏ thì làm sao cái chuyện lớn nó không còn dính?
Nếu mà xả chưa hết chuyện nhỏ này, đến khi mà có danh, có lợi thì nó lại dính mắc lớn chớ không còn dính mắc nhỏ nữa! Nhưng chúng ta có cái lý luận để che đậy cái sự dính mắc đó bằng cách này, bằng cách khác chớ đâu phải là thiếu lý luận!
Đó thì, chúng ta phải hiểu như vậy. Vì vậy mà khi hiểu được Phật Pháp rồi thì chúng ta phải giữ gìn cái giới cất giữ tiền bạc.
Từ ngày Thầy hiểu Phật pháp cho đến giờ, tiền bạc ai cúng dường Thầy giao cho cô Út toàn bộ, hoặc là giao những người cư sĩ họ làm gì thì làm Thầy chả biết. Đói Thầy xin cơm ăn. Quý thầy không có cơm ăn, Thầy chỉ viết thơ Thầy xin, Thầy gọi Thầy xin, chớ còn Thầy chẳng biết gì đến tiền bạc.
Cô Út sắm mua cái này kia để giúp cho quý thầy áo, y hoặc cái này kia, hoặc là dầu thuốc, điều đó là cô Út chi, làm gì làm Thầy chả biết. Có báo thì Thầy cũng “ừ hử”, mà không báo thì Thầy cũng “ừ hử”, Thầy cũng chả có biết quan trọng nó còn mất một cái đồng một xu một cắc nào hết, Thầy chả biết. Có thì cứ xài, mà không có thì đến cho Thầy hay, Thầy xin, có vậy thôi!
Đó là cái con đường mà từ khi mà Thầy nhập thất đến khi Thầy ra thất, đi đâu thì cô Út cho tiền Thầy, Thầy đi, còn bao nhiêu về Thầy trả lại.
(14:48) Có nhiều khi Mật Hạnh đến xin tiền Thầy đi bệnh viện, Thầy nói để Thầy xin cô Út, Thầy đâu có!
Cứ như vậy thôi. Nhiều khi quý thầy không hiểu, nói rằng Thầy cất giữ tiền, mà xin Thầy, Thầy cho ít quá! Thầy làm sao cho ít? Thầy xin người khác, người khác cho Thầy được bao nhiêu Thầy cho lại bấy nhiêu thôi! Nhưng mà quý thầy có vẻ không bằng lòng, coi như là Thầy quá bỏn xẻn.
Bởi vì Thầy có cất giữ tiền bạc đâu, nhiều ít Thầy đâu có biết, cho nên Thầy: “Bây giờ, thầy đó đau bệnh, Thầy xin cô hãy mua thuốc hay hoặc là cho tiền thầy đó đi bệnh viện!” - thì cô Út cho bao nhiêu thì Thầy đưa bấy nhiêu. Thầy không đòi hỏi thêm bớt.
Bởi vì người ta cho mà, cái quyền của người ta cất, người ta cho, chớ Thầy đâu có quyền gì trong tiền bạc?
Cho nên, nhiều khi ý quý thầy muốn xin 500 mà cô Út đưa 300 thì quý thầy buồn, quý thầy nói Thầy cho ít. Thực sự Thầy đâu có cho ít, Thầy chỉ xin được bao nhiêu Thầy cho bấy nhiêu!
Đó là những mà trong thực trạng ở trong cuộc sống Thầy đã bị dằn vặt trên vấn đề tiền bạc này rất nhiều, vì Thầy là một người không có tiền bạc. Thầy nói hết để cho quý thầy hiểu rõ được cái cuộc sống của Thầy. Từ khi mà Thầy giữ gìn giới luật đúng theo con đường của đạo Phật, Thầy không bị tiền bạc sai Thầy chút nào hết là vì Thầy không cất giữ nó.
Đó là cái chỗ mà Thầy đã thực thi trong cuộc đời sống của Thầy. Còn quý thầy, thật sự ra quý thầy có tiền bạc, quý thầy còn cất giữ, cho nên quý thầy bị tiền bạc sai, sai cái này, sai cái kia, sai cái nọ.
Bởi vì cái tâm thích của chúng ta còn có cái thích, cho nên chúng ta chưa có diệt sạch nó đâu. Cho nên, cái thích của chúng ta thì có tiền là nó sẽ sai chúng ta liền, nó không có để chúng ta mà chịu đựng với nó đâu! Đó là những cái tu hành mà chúng ta còn bị nô lệ, còn bị sự sai khiến.
1.2- XẢ VÔ LƯỢNG DANH
(16:21) Bây giờ đến cái vai trò để mà chúng ta biết Xả Vô Lượng Tâm danh, chớ không phải có một cái danh, cái danh nó rất nhiều!
Hồi nãy là mình xả cái tiền của, bây giờ tới cái danh. Sắc rồi tiền của, rồi danh, đó là năm cái thứ dục lạc, mà bây giờ mình tới được cái phần thứ ba là mình xả cái danh.
Danh là gì?
Là tiếng khen, tiếng ca ngợi, tiếng tán thán, tiếng tốt đẹp, vinh quang, hiển hách, chứng ngộ, chứng đạo, được trao truyền quan chức, trao truyền tâm ấn, cấp bằng này, cấp bằng nọ, Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng, sư bà, sư trưởng, giám đốc, phó giám đốc, viện trưởng, viện chủ, trưởng ban, phó ban, giáo chủ, pháp chủ, thiền đức, cao tăng, giới đức, thánh hiền, thần, thánh, tiên, Phật v.v… đều là những danh từ chỉ cho danh.
Đó thì, các thầy thấy rõ: Cái danh nó làm cho chúng ta mê thích lắm. Ai mà không muốn làm trụ trì? Ai không muốn làm viện trưởng? Ai không muốn làm viện chủ? Người nào mà gán cho mình giáo chủ, viện chủ, rồi thiền chủ, pháp chủ, rồi cao tăng, rồi giới đức… thích lắm, coi như là bậc vĩ đại rồi, hơn thiên hạ rồi, ngồi trên thiên hạ rồi. Đó là cái danh mà.
Cho nên thần, thánh, tiên người ta cũng ca ngợi. Vì vậy mà những cái danh đó làm cho con người thích lắm, mà khi được cái danh như vậy thì người ta khoái vô cùng lận! Người ta thấy mình trên hết rồi.
Do cái danh như vậy nên chúng sanh mê muội, bị cám dỗ, bị lôi cuốn, bị thu hút như đá nam châm, khiến cho con người chạy theo danh quá nỗi mệt mỏi, cuồng loạn trong tâm của mình, vì vậy có người thất vọng, tự tử, quyên sinh.
Chạy theo cái danh mà không đạt được, cho nên có nhiều người thi cử rớt cái thôi thôi đi tìm cách tự tử cho rồi! Có phải ngu si không? Đi cầu cái danh giả hão như vậy mà để quyên sinh cái thân mạng này!
Có người thì mệt mỏi, thất bại danh lợi rồi vô chùa để mà tu, thiệt là điên khùng! Chạy đi theo một cái danh giả! Đó là những sự cám dỗ của nó làm cho chúng ta quá u mờ, quá ngu mờ không có thấy được cái đó.
Danh nhỏ là thầy thợ - nghĩa là mình làm người tôi tớ thì thấy nó xấu xa quá, cho nên thấy làm ông thầy, nghe mình học, ráng học để làm ông thầy, thôi mình dở dở thôi làm ông thợ thì cũng ngon hơn là cái thằng đầy tớ! Cho nên đó là những cái danh nhỏ đó, nó cũng là cái danh.
Danh lớn là ông này bà kia, danh nhỏ là thầy thợ, thầy ký, thầy thông, thầy này thầy kia… nghe cũng thơm, thầy giáo, cô giáo thì nghe cũng khoái, còn hơn là người ta nói “con đầy tớ” hay là “thằng ở” thì nghe nó nhục nhã quá! Phải không? Cho nên ở đây chúng ta đều là bị nhầm ở trong cái danh lôi cuốn chúng ta.
(19:41) Rồi từ đó cái danh nhỏ nó lần lần, nó đi dần tới cái danh lớn để thành ông này bà kia, rồi người cai quản cái này, người cai quản cái kia, để coi như mình có chủ động được, điều khiển được một số người dưới bàn tay của mình.
Thí dụ như về quân đội thì có ông phó đội trưởng, rồi đội trưởng, rồi ông trung đội trưởng, ông phó đội trưởng, rồi đại đội trưởng, rồi trung đội trưởng…
Đó thì, các con thấy: Tất cả những cái đó là cái danh để cho thấy cái quyền hạn của người ta ở trong cái danh đó nó làm được những cái gì đó, cho nên người ta ham lắm.
Từ cái ông tiểu đội phó mà lên cho được ông đại tá, mà được ông đại tá thì cái mặt họ nghênh nghênh ở trên trời, họ coi như ở dưới đất này không còn ai hết!
Đó là cái danh đó, cái danh nó làm cho họ - cái ngã họ lớn lên. Điên khùng! Chớ họ cũng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt, cũng đau, cũng khổ, cũng buồn, cũng khổ, cũng nhức, cũng nhối cũng như mình, có khác gì đâu? Thế mà gán cho cái danh thì họ thấy họ là hơn hết.
Cho nên khi mà gán cho cái danh rồi thì có nhiều người thấy họ khúm núm, khúm núm. Họ là cái gì mà phải khúm núm? Họ cũng như mình, có gì đâu mà phải sợ! Chỉ có cái danh không mà chúng ta đã quá sợ rồi.
Đó thì ở đây, Thầy xác định để cho chúng ta thấy cái danh nó cám dỗ chúng ta rất mạnh như vậy, nó làm cho chúng ta phải sợ hãi như vậy. Từ những cái danh này mà người ta điên khùng, vào luồn ra cúi, nịnh bợ, ton hót để cầu cho được cái danh.
Có nhiều người đi thi mà phải đem tiền bạc để lo lót để cho đậu. Đó không phải là đem tiền để mua danh sao? Đó là những cái sai, cái không đúng mà người ta lầm chấp, vì cái danh nó cuốn họ quá, họ muốn cho họ có cái tên tuổi như thế này thế khác.
Cũng như bây giờ Thầy nói như thế này: Có nhiều người không ai biết đến hết, bây giờ đùng ra cái rồi tập trung một số người đi làm từ thiện, kêu gọi đóng góp nhau. Để làm gì? Đó cũng chẳng qua là cầu danh từ thiện, chớ chưa chắc đã họ là thương yêu người khác thật!
Những cái việc làm đó, người ta bỏ ra bố thí, người ta phải nhận giấy tờ này giấy tờ kia để đầy ắp lên, để làm gì? Để mai mốt khoe ra: “Tôi nè, tôi bố thí chỗ này, chỗ này!” Đó không phải là danh sao? Danh từ thiện, danh “tôi biết thương người”, nhưng mà thật sự ra, hở ra một chút thì mắng người không nhịn!
Các thầy có xét thấy không, có nhiều người làm từ thiện coi họ có nhịn ai không? Họ chửi người ta tát nước hết! Vậy mà họ thương người à? Hơi hơi chạm tới họ một cái là coi như họ muốn giết mình à! Mà là họ từ thiện?
(22:16) Bởi vì cái đời nó giả dối, nó đủ cái thứ giả dối ở trong đó hết!
Đi đâu cũng có tiền hô, hậu ủng, đầy đường, chật xá để chứng tỏ có nhiều người hầu hạ theo mình. Một ông thầy tu mà đi rần rần, rộ rộ năm, mười chục chiếc xe, để làm gì? Để tỏ cái danh của mình chớ gì? Để có người hầu, kẻ hạ chớ gì? Đi đâu cũng tổ chức Phật tử rần rần, rộ rộ. Một bậc chân tu mà đi như vậy à? Làm ra cái vẻ như là vua chúa, chớ đâu phải là người tu!
Thầy nói ra thì đụng chạm hết cả đám, nhưng phải nói! Tu phải ra tu, mà không tu thì không tu, chớ đừng làm cái trò trống là bệ vệ trong cái danh của mình, để khoe khoang cái giàu sang, cái tài ba của mình. Với cái sự tài ba của con người có nhằm nhò gì mà khoe khoang? Khoe tài sản, của cải là khoe danh giàu sang.
Tóm lại, danh là một thứ dục lạc cám dỗ và nuôi lớn bản ngã con người.
Đó thì, tóm lại thì các thầy thấy: Cái bản ngã con người nó lớn theo cái danh của nó, chớ không phải nó nhỏ đâu. Cho nên, từ cái mặt mới làm một người đầy tớ hôm qua mà bữa nay lên làm quan rồi cái mặt cái thằng đầy tớ nó ngước lên!
Cho nên Thầy nghe nói có câu chuyện như thế này: Có một thằng đánh xe ngựa cho Yến Anh. Yến Anh làm thừa tướng cho vua nhà Tề. Ông ta là chẳng (qua) thằng đánh ngựa thôi, mà ổng đi ra đường ổng đánh ngựa mà ổng hét la người ta tùm lum hết, ổng coi như ổng Yến Anh vậy!
Các thầy nghĩ như thế nào? Mượn cái oai danh của Yến Anh mà làm oai với thiên hạ, coi như mình là thằng ngon rồi. Đó là mượn, mà chưa phải là cái danh thật của mình mà còn làm như vậy.
Bà vợ về nẹt ổng, sau đó ổng mới rút đầu ổng lại. Thiệt ra thì cũng có bà vợ có trí, chớ nếu mà không, vợ chồng vênh váo nhau đó, tưởng là thằng đánh xe là quan thừa tướng của Yến Anh!
Đó thì hôm nay, Thầy nhắc lại những câu chuyện người xưa, nó có những cái điều đó là vì cái danh đó chớ đâu phải cái gì khác.
Cho nên cái người tu hành mà biết xả tâm Vô Lượng Danh này thì phải dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý.
(24:17) Đó, thì các con phải nhắc nó để cho nó biết cái danh nó là cái thứ gì, để không khéo một chút là cái ngã chúng ta bừng lên theo cái danh đó. Chúng ta phải đánh sập nó xuống, đánh nhẹp nó xuống, không có để cho nó ngóc cái đầu lên.
Nó ham danh lắm, mỗi mỗi, chút chút là nó ham danh. Bởi vậy, cái ham danh đó mới có những anh hùng cá nhân, cho nên người ta không có làm việc lớn cho xã hội được.
Từ lâu đến giờ vì anh hùng cá nhân đó mà tới bây giờ bao nhiêu thế kỷ, con người vẫn chém giết nhau. Trên thế giới này, nước này yên thì nước kia chém giết, nước kia chiến tranh, không bao giờ mà có một cái yên nào hết! Bởi vì cái anh hùng cá nhân này! Nếu mà anh hùng tập thể thì không bao giờ có sự giết chóc này.
Đạo Phật thì không có anh hùng. Cho nên ông Phật ổng đâu có nói rằng ổng là cái người ngon đâu? Trước ổng có bảy Đức Phật, sau ổng còn có Đức Phật Di Lặc. Cho nên, một đạo Phật mà có nhiều giáo chủ như vậy tức là cái sự khiêm nhượng của con người, như vậy mới chính là đạo Phật.
Muốn xả tâm vô lượng danh ta phải dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý ta thấy mà nhắc tâm:
“Danh là một dục lạc ảo giác, nuôi lớn ngã mạn, khiến tâm ta thường đau khổ, hay tranh cãi, lý luận, giận hờn, phiền não.
Ta hãy xả bỏ, từ bỏ, viễn ly, chẳng mong cầu danh gì cả, chỉ biết tu hành thanh tịnh tâm để ra khỏi sanh tử mà thôi!”
Đó, chúng ta chỉ biết giải thoát được mà thôi, không cầu ai gọi mình là Phật, là viện chủ, viện trưởng gì hết, không có cần biết ai gọi mình là chân tu, hay là không chân tu nữa! Chỉ biết mình làm sao mình làm chủ được sanh tử, chấm dứt được luân hồi mình mà thôi.
Đó là cái câu ám thị nó như vậy đó, cái câu hướng tâm tác ý như lý như vậy để chúng ta xả cho sạch cái danh.
Chớ cái danh nó ngầm lắm, nó ngầm ở trong tâm chúng ta, nó nuôi cái ngã chúng ta dữ lắm. Chúng ta chưa bộc lộ ra chớ khi mà chúng ta ngồi ở trên được cái ghế danh rồi thì đủ biết nó như thế nào.
(26:22) Cho nên Thầy hiện giờ Thầy chưa có ngồi trên cái ghế danh, cho nên Thầy đã xa lìa nó, sớm xa lìa nó, để không nó lôi Thầy xuống, nó nhận Thầy xuống cống đó! Rồi những cái lời Thầy mà đang nói ở đây thì Thầy sẽ ngược lại Thầy, sẽ chửi Thầy chớ không ai xa lạ hết!
Bởi vì Thầy không thực hiện đúng những cái lời mà Thầy nói ra cho quý thầy nghe thì ngày nào đó Thầy cũng sẽ là Viện trưởng, thì người ta sẽ nhận Thầy xuống ở trong cái lỗ cống liền!
Câu hướng tâm thứ hai:
“Danh là tên giặc hão huyền, không có thật. Nó thường lôi cuốn tâm ta tỏ ra những hạnh xấu, hiu hiu, tự đắc, tự cao, tự đại, cao ngạo.
Ta hãy xả xuống hết, không còn một cái danh gì trong ta, ta chỉ là một con người như bao con người khác!”
Đó, thì như vậy thì quý thầy mới thấy rằng những câu ám thị của Thầy nhắc nhở mình: Mình như mọi người khác, bình đẳng như mọi người khác, như những người mà nhỏ nhất, mà hạ tiện nhất, giai cấp nhỏ nhất ở trong thế gian này, mình cũng chỉ là những con người đó!
Nhắc như vậy mà không biết chúng ta có thấm nhuần hay không, hàng ngày phải đặt niệm trước mặt mà hướng tâm, không khéo hở ra một chút thì cái bản ngã chúng ta đồ sộ lên, nó chạy theo cái danh đó.
Đó thì những cái câu mà hướng tâm như vậy nó thực tế và cụ thể để giúp quý thầy diệt, xả cái tâm danh của quý thầy mà nó đương ở đeo đẳng ở trong lòng của quý thầy.
Người tu sĩ của đạo Phật chúng ta đã biết mặt năm cái thứ dục lạc này, cái danh nó không phải là dễ, nó rất mạnh, hơn tất cả những cái khác. Ai không muốn danh của mình hơn mọi người? Ai không muốn mình hơn người? Những cái hơn người đó là cái danh chớ không phải là cái gì khác hơn hết.
Cho nên biết rõ như vậy thì hàng ngày phải siêng năng đập cho mạnh những cái đối tượng danh này cho nó nhẹp, cho nó tiêu, cho nó đoạn tận, cho nó diệt trừ, nó không còn ngóc đầu lên được nữa, nó chết luôn, thì như vậy chúng ta mới có cơ duyên thành được một con người giải thoát hoàn toàn, không còn bị cái danh nó sai chúng ta làm những cái điều nô lệ.
Đó thì nó là cái danh.
1.3- XẢ VÔ LƯỢNG ĂN LÀ LÀM CHỦ SỰ SỐNG CHẾT
(28:24) Bây giờ đến cái phần Thầy dạy các con Xả Tâm Vô Lượng ăn. Cái ăn nó cũng vô lượng lắm, bởi vì ăn món ăn này, ăn món ăn kia, ăn món ăn nọ đủ thứ hết mà! Mà nếu mà thèm một chút là chúng ta còn bị nó lôi cuốn đó.
Bởi vì cái ăn mà, lúc thi ăn đường, lúc ăn bánh, cho nên người ta làm đủ loại, lúc thì làm bánh mùi này, lúc làm bánh mùi kia, lúc thì làm nó ngọt, lúc thì làm lạt. Rồi thực phẩm ăn hàng ngày cũng vậy, cơm thì cơm chiên, cơm xào, cơm hầm, cơm nấu đủ loại. Nào là cơm nấu bằng nước dừa, cơm nấu bằng nước này nước kia để cho thay đổi những cái đó. Do đó, chúng ta phải Xả Vô Lượng cái thực phẩm này, cái thực phẩm ăn này.
Cho nên, nói là Xả Vô Lượng Tâm mà, mà Xả Vô Lượng Tâm này là Xả Vô Lượng Tâm ăn, cái tâm háo ăn nè, cái tâm thích ăn ngon nè, cái tâm thích đủ mọi loại nè. Đó, đó là xả nó đi.
Nhưng mà có nghĩa xả không phải là xã để mà chúng ta ăn muối. Chúng ta xả nghĩa là chúng ta không có để cho nó lôi cuốn chúng ta, không có để chúng ta đắm đuối nó, thì như vậy, chúng ta mới có cái điều kiện mà xả nó mới được.
Ăn là một dục lạc lớn trong ta.
Nghĩa là trong thân ta, ăn nó mới sống đó, nhưng nó lại là một cái dục lạc lớn.
Ăn mà còn cầu ngon, cầu dở thì đó là dục lạc ăn đã lôi cuốn ta.
Nghĩa là mình thấy ngon, thấy dở đó là mình đã bị dục lạc rồi đó. Ăn mà còn thấy bổ, thấy béo, thấy mập, thì đó là bị dục lạc ăn cám dỗ chúng ta rồi.
Chúng ta ăn là vốn để sống, để nuôi cái ghẻ đói, chớ không phải để cho mập, cho béo. Nghĩ rằng mình mập béo, khỏe mạnh là mình không chết sao? Có người nào mập béo, khỏe mạnh mà không chết? Cho nên, ăn nghĩ cho bổ, cho nó mập, cho nó béo để mà cho nó sống trường thọ, điều đó là điều hiểu lầm lạc, hiểu sai.
Phật nói cái thân này là vô thường, nó không thể nào mà kéo dài cái mạng sống nó quá cái số thời gian được. Mặc dù chúng ta ăn có đủ chất bổ nhưng nó cũng sẽ duy trì thêm một cái thời gian nào mà thôi.
Ăn mà thấy ớn, thấy ngán, nuốt không vô cũng đó là dục lạc ăn cám dỗ.
Chớ không phải nói chúng ta thấy ngon là nó cám dỗ đâu, mà thấy ớn, thấy ăn không vô cũng là bị cám dỗ rồi đó.
Ăn mà thấy ưa thích là bị dục lạc ăn cám dỗ. Ăn mà không thích ăn ngon, ăn dở, không ngán, không ớn, không chê…
Ăn mà không thích ngon, không thích dở, mà không ngán, không ớn, không chê là dục lạc ăn không cám dỗ.
(31:16) Đó, chúng ta phải phân biệt. Chúng ta có đồ ăn ngon mà chúng ta không thích, chúng ta ăn dở mà chúng ta không ngán, chúng ta không ớn thì đó là dục lạc ăn không cám dỗ, ăn để sống.
Đó thì chúng ta phân biệt được cái câu này để chúng ta hiểu rằng: Khi chúng ta ngồi ăn mà ngon thì chúng ta thấy cũng ăn như ăn món ăn dở, mà chúng ta thấy cũng không ngán, không ớn gì hết, thì đó là cái ăn của chúng ta không bị dục lạc ăn cám dỗ.
Tóm lại, ăn là một thứ dục lạc ghê gớm, thực phẩm tiếp xúc với vị giác của chúng ta gây sự cám dỗ, lôi cuốn rất mạnh. Người thế gian phàm phu chưa học Thánh Pháp và tùy theo pháp nên đều bị ngã gục trong mặt trận cám dỗ ăn uống này.
Nghĩa là cái người mà ở trong thế gian, mọi người nói chung hết là bị sự cám dỗ lôi cuốn, ngã gục ở trên cái mặt trận cám dỗ này chớ không còn người nào mà thoát ra khỏi hết. Chỉ có những bậc tu hành đúng giới luật của Phật mới thoát ra khỏi cái sự ăn uống, chớ còn lơ mơ là người nào cũng bị dính hết.
Cho nên các thầy thấy rất rõ, lâu ngày không có ăn đường, không có gì hết, thấy bắt đầu nó thèm rồi. Thì lúc bấy giờ là lúc mình chiến thắng lại cái chất ngọt đó. Không, thấy người ta mời một cái ly sữa hay hoặc ly nước ngọt là thấy nó nghe nó run người rồi, nó thèm quá chảy nước miếng rồi đó. Đó là cái ăn cám dỗ rất mạnh.
Có nhiều người họ thích me chua, khi mà người ta nói tới me thì nước miếng họ chảy ra ròng ròng rồi. Đó là cái gì? Cái đó là cái cám dỗ của cái chất chua đó. Nó làm cho chúng ta chảy nước miếng ra. Đó là làm cho chúng ta thích, nó cám dỗ chúng ta.
Thì chúng ta biết là cái ăn nó có cái sự lôi cuốn rất mạnh, ngay khi nghe cái tiếng thôi chứ chưa có thấy người ta nhai nữa. Chớ thấy người đó mà nhai miếng me mà “chắp chắp” đó, chắc chắn là nước miếng mình nó chảy, lau hoài nó không hết nữa! Đó là nó kích thích, nó làm cho chúng ta thèm.
(33:25) Không đây Thầy nói sự thật mà! Quý thầy đừng cười chớ! Nó là một sự thật, cho nên nó là có sự cám dỗ rất mạnh. Nó làm cho chúng ta khao khát, thèm muốn nó dữ lắm. Mà ngay trong cái thân của chúng ta, nó là cái chất đó là như vậy.
Cho nên, người tu sĩ đạo Phật chúng ta chiến thắng lại nó, không thèm. Mà không thèm thì chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải từng hướng tâm Như Lý Tác Ý, ám thị nó.
Cho nên người ta nhai me mà nước miếng mình không chảy là mình đã thành tựu rồi đó. Còn người ta nhai me mà mình ngồi đây mình nghe người ta nhai đó mà mình chảy nước miếng, thì chưa đâu, pháp của mình chưa viên mãn đâu, phải tập nữa, phải tu nữa!
Một ly nước ngọt, một ly sữa, một cái bánh, cây kẹo, một trái cây rất tầm thường mà quý vị không khéo giữ gìn là quý vị phạm lỗi phi thời, bị cám dỗ mà không biết còn lý luận che đậy tội lỗi.
Thậm chí, một viên thuốc vitamin C chua chua, ngọt ngọt và các loại thuốc khác có hình thức như kẹo để chống ho, chống viêm cổ mà đặt nó vào miệng để ngậm còn phạm tội phi thời thay, huống là theo dục lạc đã bị cám dỗ bởi vị giác của quý vị!
Đó thì Thầy nói từ cái viên thuốc thôi, nó có ngọt ngọt, chua chua, nó làm kẹo the này kia nọ, mà bỏ vào miệng mà phi thời, ngay đó là quý thầy đã bị phạm phải lỗi ăn phi thời!
Thầy kết luận như vậy để cho quý thầy thấy rằng cái sự tu hành chúng ta phải chiến thắng tận cùng, không có để chúng ta chạy theo cái vị giác cám dỗ chúng ta khi tiếp xúc với thực phẩm, và thực phẩm tức là ăn.
Người tu sĩ phải cảnh giác đến mức độ đó như vậy mới thấy được sự giải thoát thân tâm của mình.
Nó lý luận rằng bây giờ chúng ta khô cổ nè, chúng ta phải ngậm cho nó!
Cũng như Thầy nói như thế này, quý thầy làm cái ly nước chanh đường để cho Thầy thông cổ, đó là cái lý luận để mà lấy cái lý này, chớ Thầy nói suốt ngày Thầy có uống ly nước chanh nào, nhưng mà Thầy có khô cổ đâu?
Lý luận đó cứ lát nhấp chút, nhấp chút để nuôi dưỡng cái vị ngọt vị chua cho khoái khẩu chớ đâu phải là cái gì khác hơn! Tức là nuôi lớn cái dục chớ không phải gì hơn
Cho nên gọi là Xả Tâm Vô Lượng thì phải thấy được những cái vi tế của nó, thấy được cái sự che đậy vi tế của nó chạy theo dục của thế gian. Mà không lường được trước những cái tai họa sau này thì tất cả những cái dục lớn đều là nó thể hiện ra hết.
Từ một cái viên thuốc nhỏ mà không hàng (phục), không chặn đứng, không chấm dứt thì chúng ta sẽ bị tất cả những cái vật cám dỗ khác nó sẽ lôi cuốn chúng ta hết.
Người tu sĩ cảnh giác như vậy, đề phòng như vậy, phòng hộ sáu căn của mình như vậy, mà tu còn khó khăn thay, còn huống hồ những kẻ không phòng hộ, thì thử hỏi như một người tu hành mà ra chợ mà nhiếp thiền định, thì thiền định làm sao được?
Người ta sanh ra, ăn để sống chớ không phải sống để ăn. Thế mà kẻ không hiểu pháp Thánh Hiền, không tùy pháp nên trở thành sống để ăn.
(36:33) Chúng ta là những người hiểu được pháp Thánh Hiền, thì chúng ta biết ăn là để nuôi cái bệnh đói chớ không phải ăn mà để ngon, để ngọt nữa. Cho nên, người phàm phu không biết pháp cho nên sống để ăn.
Bây giờ, chúng ta sống ăn cho đã đi, ăn cho đầy đi, ăn cho ngon đi, chạy theo dục lạc ăn cho đã đi! Nghĩa là chúng ta không còn biết cái gì hết, miễn món ăn nào ngon ở trên thế gian này là cũng phải mua ăn cho được, thì những người đó là những người chạy theo dục lạc.
Người tu sĩ Phật giáo phải làm chủ cái ăn, không được ăn phi thời. Ăn uống phi thời là phi Phạm hạnh, là chạy theo dục lạc, chạy theo dục lạc ăn là ngạ quỷ, coi xem như là mình là loài ngạ quỷ, là loài quỷ sa tăng.
Phần đông tu sĩ Phật giáo hiện giờ từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc, từ trên xuống dưới đều bị quỷ dục lạc ăn cám dỗ và lôi cuốn xuống địa ngục tất cả.
Không khắc phục được ma dục lạc ăn thì làm gì tu tập Chánh Thiền, Chánh Định được? Tu tập sai một ly hào là cách xa đạo giải thoát một ngàn dặm!
Đi tìm đạo giải thoát mà trói mình trong ăn, uống thì giải thoát ở chỗ nào?
Người thế gian bị dục lạc ăn trói buộc đã đành, người tu sĩ Phật giáo - đạo giải thoát mà bị trói buộc thì có phải xấu hổ vô cùng, vô tận không đối với những người khác?
Ăn mà không giải thoát thì giải thoát cái gì đây? Giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết.
Nghĩa là Thầy nói ở đây là sự thật. Một người mà nhập thiền định là người ta giải thoát được cái ăn: Người ta không ăn mà người ta không chết, đó là giải thoát được cái ăn, chớ cái gì! Rồi người ta lại phục hồi cơ thể người ta sống lại người ta ăn, thì như vậy là người ta đã làm chủ được sống chết.
Còn mình không giải thoát được cái ăn thì làm sao gọi là mình làm chủ sống chết?
Cho nên cụ thể và rõ ràng, không thể nào là chối cãi được chỗ cái lời này.
(38:45) Cho nên Thầy nhắc lại:
Giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết.
Cụ thể, thứ nhất cho chúng ta thấy:
Một người tu thiền định mà ngồi bảy ngày mà không ăn uống là giải thoát được bảy ngày sống chết. Người ngồi thiền định mà nhập được một tháng không ăn uống là người đó đã làm chủ sống chết được một tháng. Mà người mà nhập thiền định mà không ăn uống một năm là người đó làm chủ sống chết trong một năm.
Đó, cái đó nó quá rõ ràng. Còn nữa thì cứ lên nữa, mà tới đó thì thôi không lên nữa được, thì tức là còn ăn uống lại sống thì tức là làm chủ thêm nữa chưa được, phải tu tập nữa. Tu tập chừng nào mà làm chủ, ngồi đây một ngàn năm, triệu năm mà không ăn mà không chết, đó là làm chủ được sống chết. Có như vậy cụ thể.
Nghĩa là bây giờ chúng ta làm chủ được sống chết trong một ngày, là chúng ta không ăn một ngày mà chúng ta không chết thì đó là làm chủ được sống chết. Mà 2 ngày, rồi 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 2 tháng… điều đó chứng minh cụ thể không thể nào mà ai chối cãi được.
Còn bây giờ tui nói thiền định gì mà ngày nào cũng ba bữa, thì chắc chắn là ông ta không làm chủ sống chết được đâu!
Đó thì, quý thầy hiểu rõ được con đường thiền định của đạo Phật thực tế và cụ thể để chứng minh qua cái chỗ ăn của quý vị, và ăn là một thứ dục lạc rất nặng ở trong thân con người.
Vì có thân phải có ăn. Cho nên ăn như thế nào để đúng cách là người tu sĩ, ăn như thế nào không đúng cách là người tu sĩ. Hầu người ta tu nhưng cái ăn người ta chưa đúng cách của người tu sĩ thì tức là chưa phải con người tu giải thoát.
Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống, đó là giải thoát cái chết, rồi phục hồi ăn uống trở lại đó là làm chủ cái sống. Đó thì, người tu sĩ mà thiền định nhập định thì người ta làm chủ được cái này rõ ràng, ở đây quý thầy cũng sẽ lần lượt quý thầy sẽ chứng minh điều đó.
1.4- GIẢI THOÁT NGŨ DỤC LẠC LÀ GIẢI THOÁT MỌI SỰ ĐAU KHỔ
(40:22) Còn làm chủ bệnh, già, ưu, bi, sầu, khổ là chỗ nào? Là chỗ lìa ba cái sự dục lạc cám dỗ ở trên kia: danh, sắc và lợi.
Đó thì, ở đây chúng ta lìa - chỉ có lìa cái ăn là chúng ta làm chủ được sự sống chết, mà lìa được cái chỗ mà ưu, bi, sầu, khổ, phiền não, đau khổ, giận hờn thì quý vị phải lìa ba cái sự dục lạc ở trên, tức là danh, sắc và lợi.
Nói cho rõ ra: Từ chỗ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn; từ bỏ danh thế gian nhỏ, quyền tước lớn, quyền tước nhỏ; vật chất lớn, vật chất nhỏ thế gian; chỉ sống tri túc thiểu dục một bát ba y mà thôi - đó là chỗ Đức Phật dạy “Sanh đã tận” - thì mới giải thoát được sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, là chấm dứt luân hồi tái sanh.
Đó thì, Đức Phật cũng dạy chúng ta “sanh đã tận”, tức là chúng ta phải xả bỏ ba cái thứ dục lạc kia đi, tức là danh, sắc, lợi đó - chúng ta xả bỏ ba cái thứ đó đi.
Mà ba thứ đó là những cái sợi dây triền phược trói buộc chúng ta, cho nên chúng ta xả bỏ tức là “sanh đã tận”, thì con đường giải thoát của chúng ta không còn luân hồi nữa, chấm dứt rồi!
Chúng ta thấy rất rõ ràng và cụ thể. Đứng ở trong góc độ của năm cái dục lạc này thì chúng ta đã phân được ra cái chỗ nào mà làm chủ được cái tâm không còn tái sanh luân hồi, mà cái chỗ nào mà làm chủ được cái thân sống chết, cụ thể rõ ràng. Tại vì… (Mất tiếng)
(42:21) Tại sao vậy? Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống, đó là giải thoát cái chết, rồi phục hồi ăn uống trở lại, đó là làm chủ cái sống.
Còn làm chủ bệnh già, ưu, bi, sầu, khổ là chỗ nào? Là phải lìa ba sự dục lạc cám dỗ ở trên gọi là danh, sắc, lợi.
Nói cho rõ ra: Từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn; từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn; từ bỏ danh thế nhỏ, quyền tước lớn; từ bỏ tất cả vật chất thế gian, chỉ sống tri túc thiểu dục, một bát ba y mà thôi - đó là chỗ Đức Phật dạy “sanh đã tận” - thì mới giải thoát được sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, sầu, khổ, là chấm dứt luân hồi sanh tử.
Tóm lại, người tu sĩ đạo Phật bằng mọi cách, bằng mọi phương pháp để đạt được sự xa lìa năm thứ dục lạc này là quý vị đã làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi khổ đau của kiếp con người.
Đó thì, hôm nay quý thầy thấy rất rõ ràng và cụ thể đạo Phật nhắm vào cái chỗ nào mà chúng ta đạt được cái mục đích để làm chủ cái kiếp sống khổ đau của con người, thì nhắm vào ở chỗ năm cái dục lạc này mà chúng ta biết được, chúng ta dứt được, chúng ta bỏ được, chúng ta xả được.
Vì vậy mà đến cái tâm Xả Vô Lượng này Thầy đã giảng cho quý thầy cách thức tu tập, hành pháp rất rõ ràng cụ thể để chúng ta xả cho toàn triệt nó, thì như vậy là quý thầy đã được cái giải thoát rõ ràng, chớ đâu cần gì phải nhiều!
Nhưng tất cả những pháp sau để bổ túc thêm cho cái pháp này, để chúng ta thực thi cho được là xả những cái dục lạc này, chớ có gì khác hơn?
Nếu quý vị Xả Vô Lượng Tâm dục lạc này không hết thì dù ngàn đời quý vị có tu thiền định nào cũng là ma thiền, tà thiền.
Nghĩa là cái tâm dục lạc của quý vị mà sống nhan nhản như vầy, quý vị có tu thiền định gì mà cao siêu đi nữa thì đó là ma thiền, tà thiền.
(44:46) Bởi vì, quý vị thấy rất rõ, ở trên cái thế gian này chúng ta nghe báo chí đăng vị đạo sĩ này, vị đạo sĩ kia trong những năm khổ công ở trên núi, sống khổ hạnh, không có cơm ăn, ăn toàn lá cây hoặc là luyện tập như thế nào đó, để cho đến cái mức mà người ta chôn mình ở trong đất mà không chết; để cho đến mức mà người ta dìm mình ở trong nước mà mình không chết; để cho đến lúc mình đi ở trên lửa mà không nóng; để cho đến lúc mà mình mặc một chiếc áo mỏng mà đi dưới trời rét dưới 37 độ mà không lạnh. Thế mà không khỏi cái sự cám dỗ của cái danh, cho nên đi biểu diễn từ nước này đến sang nước khác, đó là cái danh chớ gì?
Hình ảnh và báo chí đã đăng những cái vị tu sĩ này họ tu tập khổ hạnh để giải thoát chớ đâu phải mục đích để đi ra cầu cái danh! Nhưng rồi cái danh đó để cho thiên hạ biết, còn có ai mà có - nghĩ rằng có ai mà làm được đâu, chỉ là cái người đó chịu khổ hạnh làm vậy, chớ bao nhiêu người đã chịu khổ hạnh?
Còn Đạo Phật thực tế, đem cái đời sống chúng ta giải thoát hoàn toàn, chúng ta biết sống biết chết, biết cái tâm chúng ta dính mắc chỗ nào, khổ đau chỗ nào chúng ta gỡ ra được hết, do vì vậy mới thấy nó là thực tế, cụ thể. Cho nên nó không cầu danh, nó không cầu lợi, nó chỉ mong làm sao cho mọi người được giải thoát chính như bản thân của nó mà thôi.
Đó là cái hay của đạo Phật, cái tốt của đạo Phật, cái thương yêu của đạo Phật đối với muôn loài, không vì cá nhân mình.
Nếu quý vị Xả Vô Lượng Tâm, dù quý vị có lý luận như thế nào mà chúng ta thấy quý vị dính mắc năm thứ dục lạc này thì quý vị đã đi ngược lại Phật giáo, tức là không giải thoát. Không giải thoát, mọi người ai cũng thấy dễ dàng, nhận ra rõ ràng.
Nghĩa là khi mà mình đi ngược lại cái giáo lý, cái giới luật của Phật, thì mình sống ở trong năm thứ dục lạc này, thì mình có lý luận như thế nào, mình có giảng giải pháp như thế nào, thì người ta thấy cuộc sống của mình còn dính mắc trong năm thứ dục lạc này, thì người ta biết rằng mình chưa phải là giải thoát.
Dù mình có thần thông biến hóa, ngồi trên hư không, ngồi xếp bằng trên hư không, bay như chim, lặn xuống nước, độn thổ hoặc là phóng lửa, hóa mây, người ta cũng vẫn thấy mình còn sống trong năm thứ dục lạc này, thì người ta vẫn thấy mình là người chưa giải thoát.
Dù mình có bùa chú, thần linh, dù có kêu mưa hú gió, thì người ta vẫn thấy mình còn dính mắc trong năm thứ dục lạc này, thì người ta vẫn cho mình là người chưa giải thoát.
Đời sống ba y một bát là đời sống của Đức Phật, là đời sống giải thoát.
Đời sống chùa to tháp lớn, ăn uống phi thời, ngủ nghỉ phi thời, vật dụng đầy đủ, không thiếu món nào, là đời sống thế gian pháp, phàm phu tục tử, đời sống bị năm thứ dục lạc trói buộc rất chặt, đời sống phi giải thoát.
(47:35) Đó thì chúng ta thấy đời sống của người thế gian là đời sống phi giải thoát. Mà đời sống người tu sĩ mà ăn uống phi thời, vật dụng đầy đủ, là đời sống đó không phải là đời sống xuất thế gian mà đời sống thế gian pháp.
Đời sống như vậy chứng tỏ người tu sĩ chưa giải thoát, rất cụ thể và rõ ràng, ai cũng có thể nhận ra được cái đời sống này.
Đời sống đó là đời sống trong danh lợi, không phải đời sống của những bậc Phạm hạnh Phật giáo. Đời sống đó là đời sống phi Phật giáo. Đời sống đó khiến cho Phật giáo suy đồi, ngọn đèn Phật giáo tắt mất.
Nhìn đời sống tu sĩ Phật giáo quý vị sẽ biết Phật hưng thịnh hay suy tàn:
Đời sống tu sĩ ba y một bát, không chùa to tháp lớn kiên cố là Phật giáo hưng thịnh. Đời sống tu sĩ Phật giáo mà còn sống trong ngũ dục lạc thế gian là đời sống Phật giáo suy đồi.
Đó là những cái lời mà xác định và quyết định chắc chắn như vậy, không còn ai chối cãi được nữa.
Người tu sĩ Phật giáo mà không lấy ba Thánh Pháp này - Giới, Định, Tuệ của Đức Phật - làm thầy mình, làm chỗ nương tựa vững chắc, mà không giữ gìn tu hành nghiêm chặt, vi phạm lỗi lầm, không biết xấu hổ và sợ hãi khi phạm phải một lỗi nhỏ là Chánh Pháp của đạo Phật đã suy đồi.
(49:03) Ngược lại, người tu sĩ Phật giáo sống ba y một bát, thiểu dục tri túc, lấy ba Thánh Pháp Giới, Định, Tuệ làm khuôn vàng thước ngọc, mẫu mực cho sự hành trì nghiêm túc của mình thì đó là lúc Phật giáo hưng thịnh.
Nhìn qua đời sống ngũ dục lạc của tu sĩ là ta đã biết những người tu đó tu trong Chánh Pháp hay Tà Pháp. Nhìn qua đời sống ngũ dục lạc của các vị tu sĩ đó là ta đã biết họ lấy đạo làm đời, lấy đạo kinh doanh đời, sống theo lợi sống theo danh lợi bằng hình thức tôn giáo.
Đến đây quý vị đã hiểu ngũ dục lạc có sức cám dỗ và lôi cuốn rất mạnh, không có một sức nào cưỡng lại được. Nếu không phải là pháp môn của Đức Phật Giới - Định - Tuệ thì toàn cả tu sĩ trên thế gian này đều bị ma ăn, ma danh, ma sắc dục, ma lợi, ma ngủ lôi xuống địa ngục tất cả.
Có những tu sĩ khổ hạnh trong ăn uống, thế mà bị ma dục lạc danh…
Nghĩa là sống khổ hạnh trong ăn uống, họ không để cho ăn uống cám dỗ họ, nhưng mà ma danh cám dỗ họ.
… nên thường diễn những trò kỳ đặc, từ hình ảnh này đến hình ảnh kia cho quần chúng xem để ca ngợi khen tặng.
Đó là họ sống theo danh, họ thắng được cái dục lạc này thì họ bị cái dục lạc khác lôi cuốn.
Thật là buồn cười, tu dở chết, dở sống thế mà chỉ mua một cái danh hão của thiên hạ! Nếu ai đã từng theo Thầy tu hành thì biết tu không phải dễ. Thế mà tu được lại đem ra mua danh như vậy thì quý vị nghĩ sao? Vị tu sĩ có thoát khỏi ngũ dục lạc không? Mà không thoát khỏi ngũ dục lạc thì có giải thoát không?
Nhập định toàn cả cơ thể không còn hoạt động, gần giống như cái thây ma người chết, mời các nhà khoa học đến đem máy đo điện tâm đồ, họ sẽ kinh ngạc đến mực nào! Từng đó báo chí đăng khắp thế giới, như vậy không phải là người đại ngũ dục lạc thế gian sao? Như vậy có giải thoát hay không?
Người tu hành giải thoát là phải xa lìa năm thứ dục lạc, sống đời sống thiểu dục tri túc, không nhà, không cửa, sống vô gia đình, không có của cải tài sản nhỏ, tài sản lớn. Nhìn đời sống như vậy, chúng ta đã biết đó là những bậc chân tu, giới đức, thiền đức, những bậc đã giải thoát ra khỏi vòng thế tục.
Còn biểu diễn những trò kỳ đặc là mua danh, mua lợi, có gì là giải thoát đâu! Làm trò giải trí cho thiên hạ chơi, thiên hạ xem!
1.5- PHÁP HƯỚNG XẢ DANH - LỢI - ĂN UỐNG
(52:51) Đến phần thực hành này, ta phải “tâm chuyên nhất cảnh”.
Đây cái phần mà xả cái ăn này nó còn quan trọng lắm, chớ không phải là không quan trọng đâu. Cho nên ở đây Thầy nói: Đến cái phần thực hành này thì ta phải “tâm chuyên nhất cảnh” - nghĩa là chuyên nhất ở trong một cái pháp, tâm phải chuyên nhất ở trong đó, nếu quý vị xao nhãng một chút là quý vị đã chưa ly được nó đâu.
Đó thì, “tâm chuyên nhất cảnh” như thế nào?
Lựa một chỗ an trú thanh vắng…
Ở đây Thầy nhắc lại nè.
… một chỗ, một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một hang hốc, một bãi tha ma, một sơn lâm giữa trời không mông quạnh, một đống rơm, một chòi lá…
Lựa chỗ xong, sau khi ăn cơm xong, nghỉ ngơi độ hai giờ, ta ngồi kiết già lưng thẳng đứng, dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý:
Đó bây giờ chúng ta mới dùng nó - cái danh, cái lợi hay hoặc cái ăn cái uống - chúng ta đặt theo cái chỗ này mà Thầy cho pháp hướng.
Đây là Thầy đặt cho cái tên nó là “danh” đi:
“Danh là một thứ dục lạc vô hình, thu hút và cám dỗ con người rất mạnh, nuôi lớn ngã mạn, cống cao, do đó sanh ra Ngũ Triền Cái - tham, sân, si, mạn, nghi. Triền cái này trói buộc chúng ta muôn đời muôn kiếp sống đau khổ.
Vậy ta hãy lánh xa, từ bỏ, từ khước, viễn ly tất cả các loại danh!”
Đó là câu hướng tâm, cái câu trạch pháp này để chúng ta như cái lý này mà tác ý ra, mãi mãi làm cho chúng ta xa lìa những cái danh, những cái lợi, những cái ăn.
Câu thứ hai:
“Danh - dục lạc có một ma lực vô hình, cám dỗ và lôi cuốn con người vào chỗ sanh tử luân hồi.
Ta phải từ giã, từ khước, từ bỏ, lánh xa, viễn ly danh dù bất cứ mọi trường hợp nào!”
Nghĩa là bất cứ mọi trường hợp nào, nhỏ, lớn chúng ta đều phải nhận diện ra nó để mà chúng ta xa lánh nó. Chớ nó nhiều khi nó qua cái trường hợp khác, nó làm cho chúng ta không thấy đó là cái danh, nhưng mà chúng ta bị nó gạt! Hở ra một chút là chúng ta bị gạt.
Cho nên Đức Phật dạy chúng ta: “khi có danh, có lợi, có sự cung kính, hãy lánh mặt!” Lời ông Phật dạy Thầy khắc ghi trong lòng Thầy, nhớ mãi muôn đời không bao giờ Thầy quên. Thầy biết đó là cái ma danh, nó rất mạnh.
Câu thứ ba:
“Người tu sĩ lãnh đạo Tăng đoàn mà đón danh, lợi vào chùa là đón rắn độc, rắn sẽ cắn chúng tăng chết hết.
Vậy người lãnh đạo Tăng đoàn phải xa lánh, từ bỏ, từ khước danh, lợi để cứu lấy chúng tăng, để cứu lấy Phật giáo!”
Đó là cái câu để nhắc nhở cho những người mà lãnh đạo, những người tu như Thầy bây giờ. Đó là cái câu mà Thầy ám thị - ám thị cho Thầy đó. Cho nên cái câu này đã từng, đã nhắc đi nhắc lại Thầy rất nhiều. Không khéo thì dẫn danh dẫn lợi vô đây cắn quý thầy chết hết, không có người nào sống đâu!
(55:37) Đó là thấy những cái điều - mà Thầy đã thấy xa chớ không phải là thấy gần đâu, không phải đợi mà nó cắn chết hết cả đám nhau rồi đó, mà ngồi đây mà bật ngửa ra đó. Thấy xa như vậy cho nên quý thầy không bị rắn cắn đâu!
Đây là Xả Tâm Vô Lượng danh dục lạc thế gian. Quý thầy phải thường ngày một lần, hai lần, ba lần, bốn lần… tu tập Như Lý Tác Ý trau dồi tâm mình phải xả cho sạch danh lớn, danh nhỏ.
Vì danh là vô hình, vi tế rất khó xả, nên quý thầy phải đề cao cảnh giác, siêng năng tu tập thì mới Xả Vô Lượng Tâm này được.
Nó không phải dễ đâu, cho nên quý thầy phải cảnh giác, phải siêng năng, phải thường hằng. Nó mống một chút xíu, quý thầy không thấy nó đâu. Chừng nó lộ tướng lộ hình, thấy được thì ôi thôi, nó đã cắn mình rồi!
Khi Xả Tâm Vô Lượng danh dục lạc này được thì thân tâm quý vị thênh thang, nhẹ nhàng, an lạc, với đời sống ba y một bát, giải thoát hoàn toàn, Niết bàn tại thế!
Nghĩa là xả được cái tâm danh rồi quý thầy mới thấy được nó.
Còn tâm danh lợi này, quý vị dù ở núi cao khổ hạnh tối đa thì tâm hồn của quý vị nặng như treo đá.
Bây giờ có trốn đi đâu, quý vị có ở đâu, thôi Thầy nói đây như thầy Chơn Trí đây, thầy về thầy ở trong núi cao trắc trở đó, mà cái tâm của quý thầy - của thầy mà không xả được nó thì thầy ở trong đó cũng như là treo đá chớ nó không có giải thoát gì đâu.
1.6- PHẢI ĐỀ CAO CẢNH GIÁC, ĐỪNG XEM THƯỜNG DỤC LẠC
(57:11) Quý thầy nên lưu ý: Năm thứ dục lạc lớn dễ xả.
Năm thứ dục lạc nhỏ - tuy rằng vật chất tầm thường: một cuốn kinh sách, một bài thơ, một bài kệ, một bài văn, một kiến thức Phật Pháp, một kiến chấp, một chai dầu nhỏ, một cục xà bông, một cây kem, một bàn chải, một cây kim, một sợi chỉ… đều là ngũ dục lạc nhỏ, khó xả lắm quý vị!
Phải đề cao cảnh giác, hết sức thận trọng. Xem thì rất thường mà xả thì rất khó.
Đó, những cái lớn hồi nãy ở trên đó, thì thấy nó rõ ràng. Nhưng mà coi chừng những vật dụng xung quanh quý vị, coi chừng nó nhỏ đó, nó không ra gì đó chớ nó trói buộc quý vị lắm đó.
Đó, Thầy giảng như vậy là quý thầy phải để ý từng chút, từng chút, nếu là một người tu sĩ phải xả cho thật sạch. Một vật nhỏ còn thì một vật lớn nó sẽ dính, nó không tha quý vị đâu!
Bởi vì nó là một cái sức cám dỗ của ngũ dục lạc. Năm cái thứ dục lạc rất mạnh, một vật nhỏ mà còn dính quý thầy là quý thầy bị tiêu đó, chớ đừng nghĩ rằng tui giải thoát đâu!
Thấy mình chùa không to, tháp không lớn, ở chòi tranh vách lá, ở rừng, ở núi, ở hang, nhưng mà còn hai cây kim là quý vị đã bị dính, còn một cuộn chỉ to là quý vị đã bị tiêu, còn hai cái y là quý vị đã bị tiêu! Chớ không phải là - tưởng là cái chuyện nhỏ đó nó tầm thường, nhưng nó còn nuôi cái mầm của nó là chạy theo dục lạc đó!
Vì thế hôm nay Thầy ẩn bóng để Xả Vô Lượng tâm này cho thật sạch như một người đã chết bỏ xuống hết. Bây giờ Sanh đã tận, Phạm hạnh mới xong, những việc làm Thầy đã làm hết, không còn trở lui đời sống này nữa!
Đó thì bây giờ quý thầy mới hiểu được cái chỗ ẩn bóng của Thầy chứ gì? Đó là mục đích mà Thầy xả sạch, đó là Xả Tâm Vô Lượng sạch đó! Xả vô lượng cho sạch mà! Mà bây giờ mình còn như thế này là mình chưa xả, phải không?
Các thầy thấy rõ: Thầy bây giờ như vầy Thầy chưa xả. Chưa xả đồ chúng nè, chưa xả những cái chùa mình nè, chưa xả - chưa có ba y một bát mà, như vậy chưa xả sạch. Nó còn, còn vi tế. Coi chừng cái sự vi tế này nó sẽ trở thành cái lớn của nó đó! Cho nên ở đây thấy rất rõ.
Qua những cái bức thơ của thầy Thiện Thiền, thầy chưa nhận ra được cái ý chỉ của Thầy, cho nên thầy nghĩ rằng phải lợi ích chúng sanh, phải làm Bồ Tát Hạnh. Nhưng Bồ Tát Hạnh coi chừng mà Xả Vô Lượng Tâm chưa sạch!
Đó, để kết luận buổi giảng hôm nay. Chúng ta đã học tới đây thì nó cũng gần tới giờ ăn cơm, chúng ta phải xả nghỉ.
1.7- NGỦ LÀ TRẠNG THÁI NGU SI MÊ MUỘI VỚI NHIỀU HÌNH THỨC
(01:00:25) Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học.
Bây giờ xả cái ngủ. Hồi nãy là mình xả năm cái thứ kia rồi, bây giờ tới mình xả tới cái ngủ là cái cuối cùng, năm thứ dục lạc thì cái ngủ là cái cuối cùng. Bây giờ đến phần xả dục lạc ngủ.
Ngủ là một thứ dục lạc trong năm thứ dục lạc khiến cho con người thích thú, ham mê ngủ. Ngủ là một trạng thái ngu si mê muội, ngủ là một trạng thái bần thần, dã dợt, lười biếng, cho nên những người lười biếng là những người ham ngủ.
Ngủ có nhiều cấp độ:
Ở đây quý thầy thấy trong cái trạng thái ngủ là nó làm cho con người si mê lắm. Do đó mà Đức Phật gọi là thùy miên hay vô ký, đó là những cái danh từ để chỉ cho cái người mà lười biếng, hay ngủ; cái người mà ngu si; cái người không có thông minh. Cho nên gọi là hôn trầm thùy miên.
Vậy thì cái ngủ chúng ta cũng phải biết nó có nhiều cái cấp độ, chớ không phải trong có một cái - nói có hôn trầm thùy miên không thì nó chưa đủ. Vì vậy cho nên ở đây Thầy muốn chỉ cho chúng ta thấy nó có năm cái trạng thái mà nó đi vào ở trong cái gọi là ngu si.
Thì đó là:
Thứ nhất là hôn trầm;
Thứ hai là thùy miên;
Thứ ba là hôn tịch;
Thứ tư là vô ký;
Thứ năm là ngoan không.
Năm cái trạng thái này - mà cái người tu thiền thì thường phải gặp lấy những cái trạng thái này, cho nên cái người mà ngồi lâu luôn luôn lúc nào cũng bị rơi vào trong năm cái trạng thái này.
Và cái hôn trầm thì như thế nào?
Hôn trầm là một cái người ngồi một lúc thì lại vô ký đi, quên mất đi, rồi gục xuống một cái, rồi mới ngước cái đầu lên. Thì cái trạng thái mà gục xuống như vậy đó gọi là hôn trầm.
Còn thùy miên là như thế nào?
Thùy miên là cái người đó ngồi cúi cái đầu xuống, hay quẹo cái cổ qua một bên, rồi quên mất đi, ngủ say ở trong giấc ngủ đi, thì cái đó là thùy miên. Nghĩa là thùy là ngủ, mà miên thì nó tiếp tục miên man, miên mật ở trong đó, ở trong cái giấc quên nó đi, ở trong cái không biết đó, thì gọi là thùy miên.
(01:02:39) Thứ ba là hôn tịch.
Hôn tịch là một lúc thì mê, một lúc thì tỉnh tỉnh, mơ mơ, màng màng đó. Những cái người ngủ mà không say mà cũng không gục đó, mà lúc thì tỉnh lúc thì mê.
Cũng như quý thầy tu về hơi thở, lúc thì biết hơi thở, lúc thì không biết hơi thở, đó gọi là cái trạng thái hôn tịch. Nó cũng thuộc loại ngủ đó, nhưng mà ngủ - vừa ngủ mà vừa mê vừa tỉnh thì cái đó gọi là hôn tịch.
Còn thứ tư thì thuộc loại vô ký.
Vô ký là nó chợt nó quên đi. Thứ nhất là nó quên cái tâm, cho nên lúc bấy giờ vừa chợt quên thì nó mất cái tỉnh. Nó mất cái tỉnh thì cái niệm vọng tưởng nó xen vô liền. Cái đó gọi là vô ký. Nó quên, rồi nó mới có cái niệm khác xen vô.
Hoặc là nó quên, nếu mà cái thân nó quên đi, thì nó có một tiếng động hay một cái gì đó nó giật mình, hay hoặc là nó vừa quên cái nó giật mình, thì đó, cái thân nó cũng vô ký đó.
Đó là những cái nó vô ký. Nó kéo dài thì cái vô ký đó nó trở thành một cái trạng thái gọi là ngoan không.
Nó mới chợt mà vừa quên đó, thì đó là nó vô ký. Mà nó kéo dài một cái thời gian dài ra từ nửa tiếng, hai, ba tiếng mà không ngơ - nó không giống như ngủ, không giống như thùy miên, mà nó không ngơ ở trong đó - thì cái đó gọi là ngoan không.
Cho nên cái năm cái loại ngủ này thì nó gọi là cái ngu si. Cái người mà rơi vào trong những cái trạng thái đó nó không còn có thông minh nữa, mà nó càng ngày nó đi tới cái ngu si.
Nghĩa là cái người mà ngồi thiền nhập định vào cái ngoan không này thì lâu ngày họ phát ra cái trí tuệ của tưởng, họ tưởng giải. Họ tưởng là đúng nhưng sự thật ra họ nêu những cái kiến giải, tưởng giải đó ra làm cho lầm lạc tất cả những cái lối đi, làm cho phá những cái giới luật, làm cho những cái khuôn phép của Phật mất đi, để cho họ được tự tại ở trong cuộc sống chạy theo cái ngũ dục lạc.
Cho nên cái người rơi vào ngoan không này thường hay phát triển cái pháp tưởng. Vì thế mà người sau này dễ bị lầm lạc, tưởng là cái pháp đó là đúng, cho nên từng đó mà làm lệch đi con đường tu theo đạo Phật, làm tất cả những người sau này mất lối, không còn biết đường đi nữa.
(01:04:56) Đó là những cái người mà tu thiền sai, rơi vào những cái ngoan không, tạo thành những cái pháp tưởng. Vì vậy mà đời mất lối đi, mất cái đường tu giải thoát. Cho nên từ cái chỗ ngu si này nó đưa đi đến chỗ ngu si khác, mà tưởng rằng mình đã có trí tuệ. Đó là cái sai rất lớn trong sự tu tập theo đạo giải thoát.
Tất cả những loại ngủ này đều gọi chung là si thiền hay mê định.
Đó, thì nói chung là những cái loại này nó bắt đầu mà người mới vô tu mà không biết.
Cho nên Đức Phật dạy chúng ta vào bắt đầu tu thì tu cái Chánh Niệm Tỉnh Thức làm cho cái sức tỉnh của chúng ta, cho nên đi kinh hành nhiều để hành động theo cái hành động, trên thân quán nội thân theo cái hành tướng của nó để mà tu tập, để làm cho cái sức tỉnh. Vì vậy mà nó không rơi vào hôn trầm thùy miên, hôn tịch, vô ký, ngoan không.
Còn nếu mà chúng ta không tu tập cái này mà vội vào mà khép chân ngồi kiết già, rồi đặt một cái hơi thở, hoặc là một cái đề mục thiền nào đó rồi chúng ta ngồi, mà ngồi quá lâu thì cái cơ thể nó bị mệt mỏi, do đó nó thiếp dần đi ở trong những cái trạng thái ngủ, cái trạng thái si mê này, rồi nó tạo ra những cái cảnh giới, nó tạo ra những cái trí tuệ không đúng cách, làm cho nó lệch lạc cái sự tư duy, nó mất cái trí tuệ.
Bởi vì nó ngu si, nó là si thiền, si định, cho nên nó làm cho chúng ta ngu si mà cứ ngỡ tưởng rằng mình là trí tuệ. Từ đó mình dẫn mình đi trên con đường tu hành lạc nẻo, mà không hay biết.
Cho nên tất cả những loại ngủ này đều gọi chung là si thiền, mê định. Kẻ tu tà thiền, định tưởng thường rơi vào trạng thái này.
Nghĩa là cái người tu thiền mà thuộc về tà thiền, định tưởng thì họ thường rơi vào cái trạng thái năm cái loại ngủ này, không có thể nào mà mà sai.
Nghĩa là luôn luôn bây giờ quý thầy cứ nghiệm qua cái sự tu tập của quý thầy: Từ lâu đến giờ mà quý thầy không được sự hướng dẫn tu ở trong Chánh Niệm Tỉnh Thức kỹ lưỡng, bây giờ quý thầy ngồi lâu quý thầy vẫn bị rơi vào trong năm cái thứ loại ngủ ngu si này, trong năm cái thứ mê muội này, chớ không có thoát khỏi cái nanh vuốt của năm cái loại ngu si này.
Có dịp nói về thiền Thầy sẽ giảng tất cả những cái loại si thiền này để cho quý thầy rõ hơn.
Bây giờ Thầy dạy cách xả Tâm Vô Lượng ngủ.
Bởi vậy cho nên năm cái loại ngủ này nó biến ra vô lượng cái ngu si, tức là vô lượng cái ngủ của chúng ta, cái si mê của chúng ta.
1.8- XẢ VÔ LƯỢNG NGỦ TÙY THEO NGUYÊN NHÂN
(01:07:50) Bây giờ Thầy sẽ dạy quý thầy áp dụng cách nào để mà hành pháp cho nó đạt được xả cái Vô Lượng Tâm ngủ này để chúng ta được tỉnh táo, được sáng suốt, được thông minh, để lấy cái trí tuệ chúng ta dẫn lối cho chúng ta đi đến cái con đường giải thoát chân chính.
Khi một người tu hành đã bị năm thứ si thiền này thì phải tận dụng hết sức để phá nó.
Gặp nó rồi thì phải hết sức tận dụng phá nó chớ không có được theo nó mà hễ nghe mỏi mệt hay lười biếng là lo đi ngủ thì không được, hay hoặc là ngồi thiền mà nghe an lạc rồi thiếp dần ở trong đó, vô rơi vô cái trạng thái ngoan không, thì cũng không phải là tốt lắm đâu. Phải phá nó đi cho được, phải tìm mọi cách không có được để cho nó nhập vào tâm, vào thân của chúng ta.
Vì thế người cư sĩ mới trau dồi tâm mình thì ngay đây cũng phải trau dồi tâm Xả Vô Lượng ngủ. Vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau.
Bây giờ đó Thầy kể ra một cái số trạng thái ngủ để cho quý thầy biết. Chớ nếu mà quý thầy cứ nói nó là năm cái loại này rồi không biết nó xảy ra như thế nào để mà chúng ta thấy được năm cái trạng thái ngủ. Bởi vì ở đây Thầy nói nó có vô lượng cái ngủ chớ không có phải có một cái ngủ.
Vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau như:
Đi xe, tàu, bị sóng, như say say ngủ.
Đó, thì quý thầy có đi tàu đi xe rồi quý thầy biết rằng nó gật gà gật gù, nó làm chúng ta mệt nhọc cơ thể chúng ta, rồi hoặc là bị say sóng, say gió, do đó nó làm cho chúng ta ngây ngây, như ngủ mà không ngủ. Đó là cái những trạng thái nó làm cho chúng ta mê đó, mà không tỉnh đó.
(01:09:55) Bị cảm gió, thân lừ đừ nóng lạnh, buồn ngủ.
Đó, khi mà chúng ta bị cảm gió hoặc bị mưa, thì thân của chúng ta nóng, lạnh nó cũng làm chúng ta buồn ngủ.
Tất cả những bệnh khác đều có trạng thái không tỉnh táo.
Nghĩa là mọi cái bệnh tật nó nhiều khi nó làm cho cơ thể chúng ta uể oải khó chịu, do đó chúng ta lừ đừ. Đó là những cái trạng thái ngủ.
Cơ thể lờ đờ, tu sai cũng buồn ngủ.
Nghĩa là chúng ta tu sai nó cũng buồn ngủ nữa, nghĩa là không đúng nó cũng buồn ngủ đó. Cũng như trong cái pháp sổ tức mà nó sổ tức đến một cái mức độ nào đó mà quý vị sổ tức quá mức của nó, thì nó cũng sanh ra buồn ngủ cho quý vị nữa, chớ không phải quý vị sổ tức là nó tỉnh đâu.
Nó quá cái sức, thí dụ như bây giờ cái sức của chúng ta sổ tức đến một ngàn hơi thở đi, mà chúng ta tăng lên chừng một ngàn rưỡi, hai ngàn hơi thở, thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ bị buồn ngủ.
Rồi chúng ta không biết tìm ở đâu mà cái buồn ngủ này ra, nhưng mà do vì chúng ta đếm quá sức cho nên cái sức tập trung để ở trong cái số đếm mà tỉnh đến một ngàn, hai ngàn hơi thở như vậy, thì nó làm cho quý vị sẽ bị buồn ngủ. Rồi từ cái buồn ngủ đó quý vị không còn nhớ đếm nữa.
Trụ tâm không đúng chỗ là buồn ngủ.
Đó, nếu mà trụ tâm không có đúng chỗ nó sẽ sanh ra buồn ngủ. Nó phải đúng cái chỗ nó thì nó mới tỉnh, mà không đúng chỗ nó thì nó sẽ sanh ra buồn ngủ.
Làm quá sức cũng buồn ngủ.
Sống cô đơn một mình cũng buồn ngủ.
Lười biếng cũng buồn ngủ.
Rượu chè, bài bạc, trác táng cũng buồn ngủ.
Trai gái, dục lạc quá độ cũng làm buồn ngủ v.v..
Đó là những cái mà có thể đưa đi đến chúng ta vô lượng cái buồn ngủ đó, cái ngủ.
(01:11:51) Vậy muốn Xả Tâm Vô Lượng ngủ này phải làm sao?
Đó, thì bây giờ chúng ta phải hiểu được những cái trạng thái đó để mà chúng ta biết nó là cái trạng thái ngủ nó ở trong cái trạng thái nào, để mà chúng ta đối trị nó cho nó hết.
Cũng như bây giờ mình bị bệnh mà ngủ, thì mình phải tìm thuốc thang mình uống cho hết bệnh. Đằng này mình lại bắt nó đi kinh hành, mà đi hết muốn nổi nữa. Đi riết một hơi chắc là vô nằm đó ngủ luôn chớ còn không có bao giờ tỉnh lại được nữa!
Đó là cái sai. Trị nó phải trị cho đúng cách, không thể trị cái ngủ bằng có một phương pháp nào cả, mà phải tùy theo cái trường hợp ngủ đó mà trị thì nó mới hết.
Phải tùy theo những trạng thái cơ thể bệnh tật hoặc thuốc thang, hoặc nghỉ ngơi dài hạn, hoặc dứt bỏ những trò chơi trác táng, hoặc dứt bỏ không được làm quá sức lực cơ thể cũng như tinh thần.
Đó thì, quý thầy thấy ở đây Thầy dạy rất là rõ ràng cụ thể.
Phải xét cái buồn ngủ đó - cái mệt nhọc của cơ thể chúng ta nó ở cái chỗ nào, để rồi từng đó, tùy cái đó mà chúng ta trị cái bệnh buồn ngủ này, thì nó sẽ tỉnh táo và thông minh, sáng suốt. Chớ còn nếu mà cứ làm quá sức hoài vừa tinh thần mà vừa cơ thể của mình, thì cái người đó lừ đừ buồn ngủ, thì nói sao mà họ không thông minh?
Họ thông minh, nhưng mà họ làm quá sức thì làm sao mà họ còn thông minh nữa! Đầu óc tối ngày cứ suy tư hoài làm sao mà thông minh, ít ra họ cũng phải nghỉ ngơi. Như vậy, muốn cho chúng ta có thông minh thì đừng có làm quá sức!
Đó là những cái mà để đối trị lại, để làm cho chúng ta càng ngày có một cái trí tuệ, có một cái ý thức rất là thông minh, chính xác trong công việc làm.
Ở đây người muốn Xả Tâm Vô Lượng ngủ này phải hết sức thận trọng trong việc trau dồi tâm này.
Nghĩa là phải hết sức thận trọng, phải rõ ràng từng cái buồn ngủ nó để mà trau dồi cái tâm của chúng ta. Chớ không phải là muốn trau dồi nó, đặt nó ở chỗ nào, sai nó thì không thể được.
1. Phải biết buồn ngủ trong thân mình là loại nào;
Đó, thứ nhất là mình phải xét nó ở trong của thân mình nó thuộc về loại nào.
2. Tùy theo bệnh trạng buồn ngủ mà dùng thuốc thang trị bệnh;
3. Cương quyết, mạnh mẽ dứt bỏ những trò chơi không lành mạnh;
Nghĩa là như uống rượu chè hay hoặc là bài bạc thức thâu đêm, ca hát thâu đêm. Cái đó mình phải dứt bỏ, cương quyết dứt bỏ, để không khéo một đêm mà chơi vui vậy, sáng ra ngủ gà, ngủ gật suốt ngày mà không có thấy tỉnh, thì tức là cái người đó rất là mê si.
4. Phải rèn luyện nghị lực, chiến thắng với những trạng thái lười biếng;
Nghĩa là luôn luôn lúc nào mình cũng phải tìm mọi cách mà rèn luyện cái nghị lực của mình để mình chiến thắng lại những trạng thái lười biếng, vì trạng thái lười biếng nó cũng sẽ sanh ra buồn ngủ.
5. Lấy nước súc miệng, rửa mặt hoặc tắm cho lạnh;
Khi mà mình biết cái trạng thái lười biếng của mình thì làm cho nó lạnh, làm cho nó sợ thì nó mới hết. Cái thứ lười biếng thì lấy roi mà quất cho đau thì nó mới hết! Cái thứ lười biếng lấy cây mà đập cho nó khổ thì nó mới hết! Lấy muối mà xát ở trong những cái vết thương, lấy dao mà rạch, rồi lấy muối xát vô, thì do đó nó hết buồn ngủ à!
Đó là những cái trạng thái lười biếng thì làm như vậy thì nó sẽ hết.
(01:15:15) 6. Ngồi chỗ nguy hiểm cho tâm sợ hãi;
Nghĩa là mình ngồi ở trên ngã ba nhánh cây hay hoặc là ngồi ở trên cái tảng đá cheo leo làm cho nó tỉnh táo, nó không dám, nó sợ chết cho nên nó luôn lúc nào nó cũng cảnh giác.
Đó là những cái điều kiện như mình ở trên núi, mình thấy nó buồn ngủ thì mình trèo trên cái cục đá nào mà cheo leo, mình ngồi trên đó: “Nếu cho mày ngủ mày rớt dưới mày gãy cổ cho chết cho rồi!” Vì vậy nó sẽ tỉnh táo nó không dám ngủ.
Bởi vậy phải tìm mọi cách để phá nó, chớ nếu không thì chúng ta sẽ tìm cách mà chui mà trong thất hay hoặc là chui trong giường mà ngủ!
7. Hoặc đọc kinh sách;
Nếu mà mình thấy buồn ngủ thì mình lấy kinh sách mình đọc, rồi mình suy tìm nghĩa lý trong đó, thì một hơi nó tỉnh táo.
8. Hoặc ngồi quán xét, tìm cái ngủ ở đâu;
Đây là Thầy nêu ra tất cả để cho quý thầy thấy biết được cái mà phá ngủ. Quán xét coi cái ngủ nó từ đâu mà nó đến, từ đâu mà nó làm cho tay chân bần thần, lười biếng như thế này?
Đó là các thầy dùng cái sức quán xét, đặt cái niệm trước mặt rồi ngồi đó mà quán xét cái ngủ, một lúc thì cái ngủ nó mất.
9. Hoặc xem sao trên trời, tìm lý do diễn biến của vũ trụ;
Đó, cái người mà thích thiên văn, cái tâm mà thích thiên văn thì lúc bấy giờ buồn ngủ, thì mới đi ra nhìn trời, nhìn sao, rồi tìm hiểu những cái sự diễn biến thấy sao này xẹt qua, sao kia lặn mất, điều đó nó làm cho cái người đó thích thú, họ cũng quên ngủ.
10. Hoặc đem một số truyện hình ra xem;
Cái người mà thích xem hình ảnh đánh nhau hay hoặc là thế này thế khác, thì chúng ta đem những cái số truyện hình ra, chúng ta xem một hơi thì chúng ta hết buồn ngủ.
11. Hoặc đi kinh hành tu tập tỉnh thức;
Đó, tới cái thứ mười một này là cái điều kiện của người tu sĩ chúng ta đó. Chúng ta phải tập tỉnh thức, phải đi kinh hành, phải đi cho nhiều, đừng có lười biếng thì nó sẽ tỉnh thức được. Mà biết cách áp dụng pháp hướng để nhắc tâm chúng ta thì chúng ta sẽ tỉnh thức mà phá đi cái buồn ngủ.
12. Hoặc tu Vô Lậu, quán xét thân tâm, tìm vô thường, khổ, vô ngã và bệnh tật ở trong thân của chúng ta;
Đó chúng ta dùng cái Định Vô Lậu, dùng cái Định Chánh Niệm Tỉnh Thức, dùng cái Định Vô Lậu chúng ta cũng có thể phá được cái buồn ngủ.
13. Hoặc đi kinh hành trau dồi lòng Từ Tâm mình dưới bước chân đi, tránh tất cả giẫm đạp lên chúng sanh;
Đó, khi mà ban ngày cũng như khi ban đêm thì chúng ta lại hướng tâm chúng ta để nhắc tâm chúng ta để tránh giẫm đạp chúng sanh.
(01:17:43) Còn một cái câu ám thị mà Thầy chưa nhắc, là khi đi ban đêm con mắt chúng ta không có nhìn thấy chúng sanh ở dưới chân, thì chúng ta không có thể nào làm sao mà tránh được, vì vậy mà chúng ta phải nhắc.
Bởi vì Phật đã nói: “Đạo cảm ứng giao nan tư nghì” - tâm chúng ta có lòng thương thì cảm ứng được với chúng sanh. Cho nên chúng ta phải dùng câu hướng như thế này:
"Ban đêm tôi đi kinh hành, không thấy chúng sanh. Xin tất cả chúng sanh dưới chân tôi hãy tránh cho tôi đi!"
Đó, thì đó là mình phải hướng câu nói đó để giao cảm với nhau mà tất cả khi bước chân mình vừa đến là chúng sanh đã rời khỏi. Đó là vừa là phá cái buồn ngủ mà cũng vừa là tu trau dồi cái tâm Từ của chúng ta dưới bàn chân trong lúc đêm khuya thanh vắng, trong lúc tối mờ mà không thấy đường.
14. Dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý: "Cái ngủ này vốn là không có trong thân tứ đại này, chỉ do ngu si, mê muội, lười biếng, thiếu tinh tấn nên thọ sanh.
Thọ vốn vô thường, lúc có lúc không. Vậy thọ uẩn phải dừng trạng thái mê muội ngủ nghỉ này, không được tái diễn, phải chấm dứt ngay!"
Đó là cái câu pháp hướng cuối cùng để chúng ta phá cái thọ mê ngủ này, phá cái thọ ngu si này. Thường xuyên khi mà chúng ta đặt niệm nó như vậy phải là ngồi kiết già lưng thẳng hẳn hòi mới dùng cái câu này để mà hướng tâm ám thị một cách chắc chắn, đánh đuổi cái thọ ngu si này ra.
Chỗ chữ “phải chấm dứt” nói như truyền lệnh, càng mạnh càng tốt, làm cho tất cả sức tinh thần chúng ta dồn tại đó mà đuổi những cơn lừ đừ, say say, của cơ thể. Nói như truyền lệnh là dùng tâm lực của tinh thần mạnh bạo làm cho cơn ngủ mau lui bước.
Đó thì quý thầy thấy Thầy chỉ dạy cho quý thầy những cái pháp rất là cụ thể. Nếu quý thầy gằn nhiều lần ở cái chỗ “phải chấm dứt” cho nó mạnh bạo, thì từ cái cơn mà ở trong thân của quý vị, dùng cái lực mà đẩy ra, thì chừng hai ba câu như vậy là quý thầy đã tỉnh táo không còn buồn ngủ nữa.
(01:19:57) Đó là hôm nay Thầy dạy cho quý thầy xả Tâm Vô Lượng ngủ để cho biết cách để mà xả cho tận gốc nó.
Khi đối với bệnh buồn ngủ, phải thông minh sáng suốt.
Quý thầy phải sáng suốt, thông minh chớ không thể nào mà thiếu sự thông minh mà đối trị nó được.
Nếu không thông minh, sáng suốt thì buồn ngủ lại buồn ngủ nhiều hơn.
Nghĩa là mình trị nó mà mình lại buồn ngủ hơn. Còn thông minh, sáng suốt thì mình trị đúng bệnh của nó thì nó mau hết.
Nếu mà không thông minh, sáng suốt thì vất vả hơn. Cho nên quý thầy tu theo đạo Phật thì cái thứ nhất là bền chí siêng năng, đi kinh hành nhiều.
Đó là cách thức mà quý thầy theo đạo Phật như ông Phật ngày xưa luôn luôn đi kinh hành ở trong cái khu rừng của ông ta, và chúng ta nên bắt chước cái gương hạnh của Phật mà luôn luôn nên đi kinh hành như vậy để phá đi những cái mê muội này, làm cho tỉnh thức luôn luôn.
Luôn luôn phải trau dồi tâm phá ngủ dưới chân mình bằng hướng tâm Như Lý Tác Ý:
"Buồn ngủ, phải lui đi! Lười biếng, phải lui đi!"
Đó là những cái câu ám thị ngắn mà chúng ta vừa đi vừa nhắc nó khi biết tâm mình đang buồn ngủ, đang lừ đừ, đang không tỉnh táo.
Rồi tiếp tục chúng ta lại hướng tới nữa:
"Cơn mơ mơ, say say, phải lui đi! Thân tâm phải tỉnh táo!"
Chúng ta nhắc như vậy, nhiều lần như vậy, vừa đi vừa nhắc như vậy.
Ra lệnh như vậy, một lúc thì hết hôn trầm, thùy miên.
Đó thì, như vậy là quý thầy thấy mình có pháp để phá, nhưng mà từ lâu tới giờ chưa có ai triển khai ra được, cho nên mình không biết mà phá. Vì vậy mà cứ buồn ngủ phải chịu buồn ngủ thôi, không bao giờ hết được.
Hôm nay cái giáo án này Thầy sẽ dạy hết tất cả những cái kinh nghiệm để cho quý thầy tự mình về mà lấy pháp mà làm chỗ nương tựa vững chắc mà trau dồi thân tâm của mình để làm chủ sanh tử.
2- NHẬN ĐỊNH CÁCH TU TẬP CHO HIỆU QUẢ
2.1- HÀNH TRÌ ĐÚNG THÌ CÓ KẾT QUẢ NGAY
(01:21:58) Để kết thúc Tứ Vô Lượng Tâm, Thầy tóm lại để quý thầy nhận định cho rõ ràng:
Cách hành trì pháp môn tu tập phải chính xác thì mới có hiệu quả. Nếu tu tập không kết quả ngay liền hiện tại là do quý thầy tu tập sai, hoặc dùng pháp hướng sai, không đúng cách, không đúng chỗ nên không hiệu quả.
Nghĩa là trên cái bước đường tu tập chúng ta có pháp hành, nhưng mà pháp hành dùng không đúng chỗ, không đúng bệnh thì cái pháp hành đó sẽ không có hiệu quả.
Nếu quý vị biết hành đúng mọi trường hợp của nó thì cái pháp hành sẽ có hiệu quả ngay tức khắc, làm cho tất cả những cơn hôn trầm, thùy miên, buồn ngủ sẽ lui bước, và tâm quý vị được thanh thản, được tỉnh táo, rất là tỉnh táo.
2.2- PHÁP HƯỚNG CỤ THỂ VÀ PHÁP HƯỚNG TRỪU TƯỢNG
(01:22:53) 1. Các thầy nên lưu ý: Nếu pháp hướng của ý thức, ý thức dùng thì pháp hướng phải cụ thể, có đối tượng.
Đó, quý vị muốn dùng - cái ý thức của quý vị dùng thì cái pháp hướng đó phải có một cái đối tượng trước mặt của quý vị, thì quý vị dùng nó, nó mới đúng cách.
Nếu pháp hướng là tưởng thức dùng thì pháp hướng không cụ thể, phải trừu tượng.
Đây bây giờ Thầy nói như thế này: Người ta ngồi người ta quán cái thây ma, hay quán cái bộ xương trắng, thì cái bộ xương trắng không có thể nào là cái đối tượng trước mặt chúng ta được, mà phải là cái tâm chúng ta tưởng ra.
Do đó, cái đề mục đó nó thành ra một cái trừu tượng, nhưng chúng ta dùng cái pháp hướng mà nhắc cái tưởng đó, thì nó mới đúng cách là chúng ta biết dùng pháp hướng đúng với tưởng.
Còn bây giờ trước mặt chúng ta có một cái hơi thở ra vô, thì chúng ta hướng cái hơi thở đó, như vậy là nó là ý thức chớ không phải tưởng thức.
Quý thầy phải lưu ý cái phần này, nếu không quý thầy dùng tưởng mà quý thầy tưởng là ý thức, quý thầy dùng ý thức rồi quý thầy dùng đề mục tưởng trừu tượng, thì hai cái này sẽ không có hiệu quả. Và có hiệu quả thì nó tréo cẳng ngỗng, nó sẽ đưa quý thầy vào cái chỗ không có đúng cách, nó sẽ đi vào một con đường thiền sai, không đúng.
2.3- NỘI TÂM PHẢI AN TRÚ TRONG CHÁNH NIỆM
(01:24:25) 2. Các thầy tu tập nội tâm phải an trú trong Chánh Niệm.
Nghĩa là trong khi tu tập quý thầy phải giữ tâm mình ở trong chánh niệm.
Khi bây giờ mình đặt một cái niệm để cho mình tu, trau dồi cái tâm Từ của mình, thì luôn luôn mình phải ở trong cái lòng thương yêu mà mình đặt cái niệm, chớ đừng có ở trong một cái tâm mà dao động, nhớ cái này, nghĩ cái kia, ham cái nọ, thì cái Chánh Niệm đó nó không phải là Chánh Niệm.
Ở đây Thầy nhắc lại cho quý thầy nhớ: Khi làm một cái gì thì phải cho chính xác cái tâm của mình phải biết cái niệm đó nó ở cái chỗ nào. Như trau dồi tâm Từ thì phải ở cái lòng thương yêu như thế nào, tâm Bi thì nó phải ở cái lòng thương yêu như thế nào, để đặt cái đó gọi là cái Chánh Niệm.
Cái Chánh Niệm là cái niệm chân chánh ngay trong cái sự trau dồi đó, chớ không phải là cái Chánh Niệm bằng cái niệm đúng. Mọi cái niệm đều có niệm đúng, nhưng mà mình đặt nó không đúng cái chỗ mình trau dồi thì cái đó trật, không có đúng.
Cũng như bây giờ mình đang ở trong cái Chánh Niệm của cái thân bất tịnh, cái thân vô thường, mà mình trau dồi cái tâm Từ, thì đó là sai. Đó thì cái Chánh Niệm kia là Chánh Niệm ở trong cái chỗ khác chớ không phải là cái Chánh Niệm ở chỗ trau tâm Từ!
Muốn tu tập cho đúng cách phải hiểu được cái này thì quý thầy mới thấy được cái chỗ vi diệu của Phật Pháp.
Tức là pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý không được xao nhãng…
Nghĩa là lúc bấy giờ cái pháp hướng đó nhắc cái chỗ đó là cái tâm phải ở Chánh Niệm đó, cho nên nó không xao nhãng được cái chỗ đó.
… phải tỉnh thức cao độ.
Phải cái sức tỉnh thức ở chỗ đó không được mờ mờ, mà phải tỉnh thức ngay cái niệm chỗ đó, cho nên không bao giờ thất niệm.
Vì vậy mà Phật gọi người tu sĩ mà thất niệm là bị ma dẫn. Tức là bây giờ chúng ta có cái niệm Chánh Niệm nào đi nữa mà không đúng ngay cái đối tượng mà đang trau dồi cái pháp đó, thì cái đó chúng ta cũng vẫn bị ma dẫn.
Nếu tỉnh thức cao độ chưa có là quý vị phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định…
Thấy cái sức tỉnh mình chưa có, cứ một lát nó lại nhớ cái chuyện này, nhớ chuyện khác xen vô, nó làm thất niệm, thì phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.
… hoặc tu tập Vô Lậu Định.
Nghĩa là quý vị biết rằng khi mà cái tỉnh thức mình không có có cao độ là mình tu tập cái Chánh Niệm Tỉnh Giác Định ít hoặc là tu tập Định Vô Lậu ít, bây giờ phải tu tập hai cái định này nhiều thì quý vị mới có đủ sức tỉnh.
Bởi vì mình biết được cái thân và tâm của mình, cái sức tỉnh thức của mình cao hay thấp, mình vẫn biết mình hơn ai hết. Và biết thì mình phải lo tu cái định gì để cho cái sức tỉnh thức đó cao hơn, để rồi chúng ta sẽ trau dồi được thân tâm của chúng ta trong mọi pháp của Phật dạy.
2.4- GIỮ TÂM VỮNG TRÚ TRONG THIỆN PHÁP
(01:27:07) 3. Khéo léo giữ tâm vững trú trong các thiện pháp…
Nghĩa là luôn luôn lúc nào, khi mà thực hiện pháp của Phật rồi, thì giờ nào, phút nào chúng ta cũng phải giữ tâm mình vững trú ở trong các thiện pháp. Các thiện pháp như chúng ta học Thập Thiện đó, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải giữ nó ở trong các thiện pháp đó.
… không cho các ác pháp xâm chiếm tâm, và không cho các ác pháp đặt chân nơi tâm.
Nghĩa là chúng ta luôn luôn cảnh giác đến cái mức độ không cho nó xâm chiếm vô mà không cho nó đặt chân đứng ở trên nơi tâm ta nữa.
Đó là cái phần ba.
2.5- THƯỜNG XUYÊN TRAU DỒI TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
(01:27:43) 4. Từ Tâm Vô Lượng giải thoát phải được tu tập trau dồi thường xuyên, làm cho sung mãn, làm cho thành cỗ xe, làm cho thành cứ điểm, làm cho được kiên trì, làm cho được tích lũy, tích tập; khéo tinh cần, siêng năng thực hành theo lời chỉ dạy pháp hành trì của Phật, của Thầy thì kết quả giải thoát an lạc đến cho quý thầy rõ ràng.
Đó thì, cái phần bốn quý thầy phải cố gắng kiên trì tập luyện cái pháp Tứ Vô Lượng Tâm này. Như Thầy đã nói, đã nhắc hồi nãy:
Từ Tâm Vô Lượng giải thoát phải tu tập trau dồi thường xuyên, làm cho sung mãn…
Nghĩa làm cho chúng ta được cái lòng thương thật sự chớ không phải là sơ sơ đâu. Nghĩa là hằng ngày phải trau dồi nó liên tục chớ không có học rồi mà tu sơ sơ thì nó chẳng có làm gì được hết. Cho nên phải làm cho nó sung mãn.
… làm cho nó thành cỗ xe…
Nó thành một cái cỗ xe mà chở cái lòng thương của chúng ta ở trên đó mà đi rải cho tất cả chúng sanh đó.
… làm thành một cái cứ điểm chắc chắn…
Một cái lòng thương rất chắc chắn là một cái cứ điểm không có còn ai mà xâm chiếm được cái cứ điểm của chúng ta.
… làm cho được kiên trì…
Làm cho cái lòng thương yêu đó nó vững bền, nó không có bị thay đổi được.
… làm cho được tích tập…
Làm cho nó được nhiều lên, càng tốt, càng hay.
Ở đây thì tới cuối cùng thì chúng ta phải:
… khéo tinh cần…
Tức là siêng năng tinh cần.
… phải khéo léo thực hành theo lời chỉ dạy pháp hành trì này của Phật, của Thầy thì kết quả sẽ được giải thoát.
Nội tu bây nhiêu đó thì quý thầy cũng thấy rằng quý thầy đã được giải thoát rồi, chớ chưa nói gì tu là nhiều nữa.
(01:29:27) Nhưng đây là mới khởi sự mà thôi. Để bổ túc cho cái Tâm Vô Lượng giải thoát này, quý thầy còn phải tu nhiều cái nó mới tích tập được những cái thành cứ điểm, nó mới thành cỗ xe, nó mới làm cho sung mãn, chớ không phải bây giờ mà chúng ta tập như vậy mà nó ngay liền được.
Chúng ta còn phải học tập, tu tập nhiều cái khác nữa, cho nên từng đó cái sức tỉnh táo, cái sức mà an lạc, cái sức mà giải thoát, cái sức xả bỏ chúng ta mới đoạn dứt tất cả những cái khác, thì nó mới thành tựu được cái Từ Tâm Vô Lượng này.
5. Bi Tâm Vô Lượng giải thoát cũng tu tập như vậy.
Nghĩa là bây giờ đó, hồi nãy Từ Tâm mình cũng tu cho nó thành cỗ xe, thì Bi Tâm cũng tu cũng thành cỗ xe, cũng cho nó sung mãn, nó cũng thành cái cứ điểm.
Rồi Hỷ Tâm Vô Lượng chúng ta cũng tu như vậy
Cũng làm cho nó thành cỗ xe, thành cứ điểm, cho nó kiên trì, cho nó sung mãn. Đó tất cả những cái đó chúng ta phải tập, phải làm.
6. Xả Tâm Vô Lượng giải thoát cũng tu theo đúng như lời Thầy dạy.
Cũng làm cho nó thành cứ điểm, thành cỗ xe, sung mãn, nó tích tập cho nó sâu, vì vậy mà nó mới xả được tất cả các pháp ở trong thế gian này.
2.6- ĐẶT TRỌN NIỀM TIN VÀO GIỚI - ĐỊNH - TUỆ
(01:30:43) Cứ y chỉ theo lời dạy của Thầy, đặt trọn hết niềm tin ở Giới - Định - Tuệ…
Tức là cứ theo y chỉ cái lời mà Thầy dạy của Thầy đó, thì quý thầy đặt trọn ở niềm tin của ba pháp Giới, Định, Tuệ của Đức Phật.
… và tất cả các pháp môn của Phật, mà hôm nay Thầy đã triển khai thành một con đường có lý pháp, có hành pháp rất rõ ràng và cụ thể, vén sạch những màn mây kiến thức tưởng giải của thế nhân đang phủ trùm trên ba Thánh Pháp của đạo Phật: Giới - Định - Tuệ, khiến cho ba pháp này không còn ai thực hiện được, gần như chỉ còn là một danh từ suông, còn toàn bộ tu sĩ Phật giáo thì sống ngược lại và không thực hành đúng pháp này.
Đó thì, hầu như là quý thầy cũng nhận thấy rất rõ là người ta đi ngược lại với cái pháp Giới - Định - Tuệ của Phật.
Còn bây giờ Thầy vén ra để cho chúng ta thực hiện được từ Giới - Định - Tuệ, để cho nó rõ ràng cái sự giải thoát mà đạo Phật đã - mà Đức Phật vì lòng Từ Bi mà Ngài đã đem dạy lại cho chúng ta. Cho đến bây giờ chúng ta bị bỏ quên những cái pháp rất là cao quý này.
2.7- KẾT QUẢ GIẢI THOÁT VỚI LÒNG THƯƠNG YÊU VÔ TẬN
(01:32:07) 7. Nếu ai sống đúng và hành đúng lời dạy của Thầy thì kết quả lòng thương yêu rộng lớn của quý vị phải trùm cả không gian và thời gian.
Chừng đó thế gian này là thiên đàng; quý thầy là những du tăng khất sĩ, rày đây mai đó, đời sống ba y một bát không có chùa to, tháp lớn; quý thầy đã phủi sạch những sợi dây thằng phược vật chất, thế gian; đời sống của quý thầy rộng bước thênh thang, tâm hồn của quý thầy thương yêu chúng sanh như không gian phủ trùm vạn hữu.
Bấy giờ quý thầy không phải Phật, không phải Tổ, không phải A La Hán, không phải Bồ Tát, mà là một con người như bao nhiêu con người khác, nhưng tâm hồn quý thầy đã hòa cuộc sống của quý thầy với các cuộc sống của nhân thế, bên nhau mãi mãi, không xa lìa chúng sanh một bước.
Quý thầy là con người đã giải thoát với lòng thương vô tận.
Đó là kết thúc cái buổi học về Tứ Vô Lượng Tâm, để cho quý thầy thấy rằng cái pháp Tứ Vô Lượng Tâm tuyệt vời như vậy, làm cho tâm hồn chúng ta rộng lớn, bao la đối với muôn loài, muôn vật.
3- THÁNH TĂNG SUBHUTI - ĐỆ NHẤT HẠNH VỀ TỪ BI VÔ LƯỢNG
(01:33:30) Ở đây Thầy xin đọc lại một cái chuyện của một vị cao tăng ở trong thời Đức Phật mà đã thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm, mà Đức Phật đã ca ngợi rằng - ca ngợi Ngài là một người đệ nhất hạnh về Từ Bi Vô Lượng.
Đây, cái người đó như thế nào? Và ai? Tên gì? Thì Thầy sẽ thuật lại cho quý thầy nghe để kết thúc cái bài pháp này:
Để kết thúc bài pháp Tứ Vô Lượng Tâm, Thầy thuật lại cho quý thầy nghe một mẩu chuyện Thánh Tăng trong thời Đức Phật tu tập thiền quán hướng niệm trau dồi Bốn Tâm Vô Lượng để trở thành một vị Tỳ Kheo đệ nhất về hạnh Từ Bi Vô Lượng:
Ngài Subhuti.
Ngài là em trai của ông Cấp Cô Độc. Trong ngày ông Cấp Cô Độc cúng dường Kỳ Viên tịnh xá cho Đức Phật, ông có chứng kiến và nghe pháp. Sau đó, ông xin Phật xuất gia và thọ đại giới.
Ngài thâm hiểu hai loại giới luật, được Đức Phật cho một đề tài thiền quán hướng tâm tu tập, trau dồi thân tâm bằng pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm. Từ đó Ngài trở thành một người đệ tử của Phật có Từ Tâm đệ nhất .
Quý thầy nghe bài kệ của ngài:
Đây Thầy đọc cái bài kệ khi Ngài chứng đạt được Tứ Vô Lượng Tâm:
Từ Tâm ta trau dồi,
Phủ trùm khắp muôn phương.
Bi Tâm ta trau dồi,
Thương khắp hết quần sanh.
Hỷ Tâm ta trau dồi
Vui hòa cùng vạn pháp.
Xả Tâm ta trau dồi,
Vạn vật đều chung vui.
Tâm ta khéo định tỉnh,
Tinh cần sống giải thoát.
(01:35:33) Đó, nghĩa là ổng chỉ có tu bây nhiêu đó là ông đã giải thoát, ông chứng được Tam Minh liền tức khắc. Cái tâm mà nó thương yêu chúng sanh nó tới thanh tịnh đến cái mức độ đó.
Ông truyền lệnh một cái - bởi vì trong khi tu tập trau dồi này ông thường dùng pháp hướng, cho nên Phật nói Như Lý Tác Ý mà - cho nên đến khi đó ông chỉ cần bảo: “Các hành trong thân ngưng! Hơi thở ngưng!” - là nó ngưng liền, thì tức là ông nhập Tứ Thiền.
Từ ở Tứ Thiền ông hướng tâm ông nhắc đến: “Tâm phải hướng về quá khứ!” - thì Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh nó phải hiện ra tức khắc, không cần phải ngồi nhiếp tâm, ức chế tâm như chúng ta dùng hơi thở đâu.
Đó thì người ta tu có bây nhiêu đó người ta cũng đủ rồi. Vì vậy mà khi mà ông đã nghiên cứu về cái hai loại giới luật của Phật, thì ông đã thấy cái tâm Từ của ông đến cái mức độ nào. Bởi vì giới luật của Phật dạy là thiện pháp, cho nên thiện pháp thì tức là nó phải có tâm Từ rồi, tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả trong này rồi.
Cho nên do đó mà ông áp dụng vào cái bài pháp này mà ông thành tựu được đạo giải thoát. Cho nên ông là đệ nhất Từ Bi Vô Lượng. Đó, ông được Đức Phật xem như hàng đệ tử mà cái tâm Từ Bi rộng lớn nhất ở trong hàng đệ tử, đệ nhất đệ tử của Đức Phật.
Đó thì, hôm nay Thầy đem một cái mẩu chuyện, để lấy cái mẩu chuyện này làm một cái gương mà chúng ta thấy được. Trong khi Thầy tham cứu về cái phần lịch sử của các bậc Thánh Tăng, Thầy đã thấy được những cái điều kiện rất là tuyệt.
Vì vậy, muốn mà mình nương theo các bậc Thánh Tăng trong thời Đức Phật - bởi vì thời mình đâu có Thánh Tăng mà Phật bảo mình phải quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, mình phải theo những vị tăng, thì những vị tăng mà trong thời Đức Phật mới gọi là Thánh Tăng.
Do những cái hàng mà tu như vậy, chúng ta phải nghiên cứu qua cái hành trình, qua cái hành trạng của các Ngài, chúng ta mới theo đó mà chúng ta tu tập cho chính mình.
Chớ bây giờ mình nương quý thầy của mình thì phạm giới, phá giới hết rồi, mình nương làm sao cho được? Và cái hành động của quý thầy thì sống trong vật chất, thì mình nương làm sao được mà mình giải thoát?
Còn các vị Thánh Tăng ngày xưa người ta sống trong rừng, ba y một bát, đi xin ăn vất vả. Rồi đây rồi quý thầy sẽ thấy có nhiều vị người ta già cả mà người ta còn đi xin ăn, rồi người ta mệt nhọc, người ta nương gậy, người ta trèo trên núi hay hoặc thế này, thế khác.
Đọc tới những cái nỗi già yếu của những vị mà theo Đức Phật tu hành - phải đi xin ăn chớ còn không phải ngồi ở nhà mà người ta đem cơm đến cho ăn được - mà phải đi xin ăn hằng ngày, và đồng thời những cái xin ăn đó các ngài mới ngộ được và tu tập rèn luyện mình để cho được giải thoát.
Thì đó là những cái công trình rất lớn trong những bậc Thánh Tăng trong thời Đức Phật mà chúng ta không có được học và không có được nêu lên để làm cái gương hạnh tốt cho chúng ta noi theo mà chúng ta thực hiện trong cái đời sống của chúng ta.
Hôm nay, đây là lần đầu tiên mà Thầy dạy cho quý thầy một cái hành trạng của một bậc Thánh Tăng. Lần lượt rồi trong những cái bài giảng của giáo án này, Thầy sẽ cho nhiều cái gương hạnh Thánh Tăng để cho quý thầy lấy đó mà làm gương soi cho mình để trên bước đường tu tập đến khi giải thoát.
4- BÀI KỆ KẾT THÚC BÀI HỌC TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
(01:38:30) Hồi nãy kết thúc cái bài Tứ Vô Lượng Tâm thì Thầy thuật lại một cái mẩu chuyện của một vị cao tăng trong cái thời Đức Phật, và Ngài có để lại cho chúng ta một cái bài kệ, nhưng đó là bài kệ của Ngài.
Còn kết thúc cái buổi giảng cái bài Tứ Vô Lượng Tâm thì Thầy cũng có một cái bài kệ để nhắc nhở quý thầy tu tập, thì cái bài kệ của Thầy như thế này:
Trau dồi Từ Tâm tốt,
Lòng thương hòa vạn hữu.
Trau dồi Bi Tâm tốt,
Vạn hữu hết điêu linh.
Trau dồi tâm Hỷ tốt,
Lòng vui khắp muôn loài.
Trau dồi tâm Xả tốt,
Vạn vật sống an lành.
Đó là những cái câu kệ của Thầy thì nói lên được cái tâm trạng của Thầy như vậy. Thầy mong rằng quý thầy sẽ áp dụng cái câu kệ này mà làm một cái nhắc tâm của mình, để cho hằng ngày mình trau dồi bốn cái Tâm Vô Lượng này, để sống được với vạn hữu, với sanh linh bằng một cái cuộc sống an hòa và an lạc.
Đó là cái điều ước ao, ước mơ của Thầy để mong mọi người sống được như bốn cái Tâm Vô Lượng này.
Đó là kết thúc cái bài Tứ Vô Lượng Tâm mà Thầy đã giảng dạy cho quý thầy hiểu cái lý và cái hành - cái hành pháp của nó. Thì quý thầy đã biết cái hành và biết rõ được cái lý của nó như thế nào là xong cái bài Tứ Vô Lượng Tâm./.
HẾT BĂNG