31- TU LÀ SỬA, CHỨ KHÔNG PHẢI TỤNG KINH, NIỆM CHÚ, NIỆM PHẬT, CÚNG BÁI, NGỒI THIỀN
Hỏi: Con nghe những người tu Tịnh Độ nói:
“Niệm Phật cũng là phương pháp xả tâm”. Có phải như vậy không thưa Thầy? Những người tu Tịnh Độ dẫn chứng rằng, khi đang giận, buồn, tức một điều gì đó, thì cứ nhớ niệm Phật là cơn tức giận buồn lo sẽ biến mất. Những người tu Tịnh Độ còn cho biết:
“Cứ niệm Phật mãi, niệm mãi” đến một ngày nào đó nó sẽ “vỡ ra” thì sẽ được tâm rỗng rang sáng suốt.
Đáp: Niệm Phật là một phương pháp ức chế tâm, chứ không phải niệm Phật là phương pháp xả tâm. Nhưng mọi người đã hiểu lầm ức chế và xả tâm. Chính ngay những vị Thầy dạy về pháp môn Tịnh Độ họ cũng chẳng biết pháp môn đó là pháp môn ức chế tâm huống là những tín đồ. Vậy ức chế tâm như thế nào? Và xả tâm như thế nào?
Ức chế tâm có nghĩa là nén tâm, chịu đựng, ép buộc, hay bắt buộc làm cho tâm không khởi niệm (vọng tưởng), v.v...
Pháp ức chế tâm gồm có: Niệm Phật A Di Đà, niệm thần chú, biết vọng liền buông, chẳng niệm thiện niệm ác, chăn trâu, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, Lục Diệu pháp môn, thiền Minh Sát tuệ, tham thoại đầu, tham công án, v.v... Những người tu Tịnh Độ hiểu lầm nên cho ví dụ: Khi đang giận, buồn, tức một điều gì đó thì cứ nhớ niệm Phật là cơn tức giận, buồn, lo sẽ biến mất. Đó là cách thức ức chế tâm bằng câu niệm Phật mà người tu Tịnh Độ không biết, cho rằng xả tâm. Tu theo Tịnh Độ như vậy dù một ngàn kiếp cũng chẳng bao giờ hết tham, sân, si, chỉ vì ức chế tâm.
Xả tâm có nghĩa là trước khi xả một niệm nào trong tâm, phải có sự tư duy suy nghĩ cho thấu đáo nghĩa lý của niệm đó, và còn phải biết áp dụng đức hạnh của giới luật vào niệm đó để chuyển hoá niệm. Sự chuyển hoá niệm gọi là xả tâm, cho nên đức Phật bảo: “Tri kiến ở đâu thì đức hạnh giới luật ở đó, đức hạnh giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh đức hạnh giới luật”.
Lời dạy trên đây là cách thức xả tâm rất tuyệt vời của kinh sách Nguyên Thuỷ, còn toàn bộ kinh sách phát triển đều dạy ức chế tâm, nên chẳng cần tư duy theo niệm, chỉ cố ức chế tâm vượt qua những lúc tâm giận hờn, phiền não mà thôi. Khi ức chế tâm, thấy tâm sân không còn tưởng là xả tâm, vì vậy tâm sân không bao giờ hết. Nếu bảo rằng niệm Phật xả tâm phiền não được, thì niệm Phật cũng xả được các cảm thọ, như khi bị bệnh đau nhức nơi thân thì niệm Phật phải hết đau. Hết đau sao người niệm Phật lại đi bác sĩ nằm nhà thương nhiều như vậy?
Các cảm thọ nơi thân là do bị bệnh đau nhức, đó là niệm thọ khổ của thân. Vậy niệm Phật có xả niệm thọ khổ của thân đó không? Hay lại phải đi bác sĩ, vào bệnh viện như trên đã nói.
Trong thân chúng ta có bốn chỗ để xả: 1- Thân; 2- Thọ; 3- Tâm; 4- Pháp. Nếu niệm Phật xả tâm được thì xả thân được; xả thân được thì xả thọ được; xả thọ được thì xả pháp được. Như vậy các bạn có làm được chưa? Nếu chưa làm được như vậy thì các bạn chỉ ức chế tâm mà thôi.
Trên đời ai nói gì cũng được, nhưng làm cho được thì không phải dễ, nhất là hiểu sai chữ nghĩa thì làm sao tu hành đúng được. Phải không các bạn?
Từ xưa đến nay người ta đã hiểu sai Phật pháp, nên chẳng có ai tu chứng làm chủ bốn sự đau khổ. Đến giờ này các phật tử cũng còn hiểu sai là do các Thầy tổ khéo léo bưng bít che dậy, hướng dẫn một cách sai lầm.
Người ta không biết pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn ảo tưởng, nên bị các thầy lừa đảo như câu nói này: “Cứ niệm Phật mãi, niệm mãi, đến một ngày nào đó nó sẽ “vỡ ra” thì sẽ được tâm rỗng rang sáng suốt”. Theo lời dạy này thật là m hồ, trừu tượng, thiếu thực tế, không khoa học. Tôi xin hỏi các bạn, các bạn cứ thành thật trả lời.
Vậy “vỡ ra” là vỡ ra cái gì? Tâm rỗng rang sáng suốt để làm gì?
Những danh từ “vỡ ra” và “tâm rỗng rang sáng suốt”, là những danh từ của Thiền tông, mà Tịnh Độ tông đã chịu ảnh hưởng rồi vay mượn, chứ Tịnh Độ tông có biết vỡ ra là vỡ ra cái gì không? Như trên đã nói. Còn tâm rỗng rang là tâm như thế nào? Trong khi pháp môn Tịnh Độ dạy: “Thất nhật nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật”. Vậy thì làm sao mà rỗng rang được, thật là phi lý, bắt chước mà không hiểu nghĩa, cũng giống như người mù rờ voi, cũng giống như người ăn bánh mà không biết mùi vị.
Tu hành với mục đích là phải làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết, chứ tu hành đâu phải mục đích để tâm rỗng rang sáng suốt. Tâm rỗng rang sáng suốt để làm gì?
Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn ảo tưởng, nên tu hành không làm chủ sanh, già, bệnh, chết, nên các tổ Tịnh Độ chỉ còn biết cầu nguyện:
“Cầu cho tôi chết biết ngày, Biết giờ, biết khắc, biết rày tánh linh Cầu cho bệnh khổ khỏi mình” Đấy, các bạn có thấy những câu sám trên đây là một sự cầu nguyện và hy vọng, chứ không đủ niềm tin vào pháp niệm Phật của mình. Vậy mà bảo: “Niệm mãi, niệm mãi nó sẽ “vỡ ra” thì sẽ được tâm rỗng rang sáng suốt”. Bắt chước Thiền tông nói một cách mơ hồ không thực tế.
Ngược lại, pháp môn Tứ Niệm Xứ của Phật giáo Nguyên Thủy rất thực tế, đẩy lui các sự khổ đau trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm, pháp: “Này các Tỳ kheo, ở đây này các Tỳ kheo, trú quán thân trên thân, nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán tâm trên tâm, nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp nhục tham ưu ở đời; trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này các Tỳ kheo, là Tỳ kheo chánh niệm”.
Đoạn kinh trên đây, chứng tỏ đạo Phật có những phương pháp để khắc phục những sự khổ đau của đời người, chứ không phải cầu nguyện.
So sánh giữa hai pháp môn Tịnh Độ và Tứ Niệm Xứ, chúng ta thấy pháp môn niệm Phật của Đại thừa giống như một người mù dẫn một số người mù đi, thật là nguy hiểm, tốn công sức, tốn của cải tài sản một cách vô ích. Chỉ sống trong ảo tưởng, mộng mơ, làm gì có sự làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Tóm lại, pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn ảo tưởng, pháp môn mê tín, pháp môn lừa đảo.