10- KHI TU THIỀN CỦA PHẬT, NGHĨ GÌ VỀ LÝ BÁT NHÃ
(Trích từ trang Web: nguyenthuychonnhu.net Giáo án Tu Tập - Tập 1 năm 2000)
Khi đức Phật tại thế, rất nhiều đệ tử của Ngài tu hành chứng đạt, từ khi Ngài nhập diệt cho đến ngày nay, số người viên mãn đạo quả giải thoát là hiếm thấy. Hỏi Các qúy Thầy về vấn đề này, được các quý Thầy trả lời là phải tu nhiều đời, nhiều kiếp.
Phải chăng cứ phải tu như vậy mới thành tựu được đạo Phật?
Vậy thì đạo Phật ra đời có lợi ích gì cho con người, khi mà không giúp cho con người thoát ra khỏi những nỗi khổ đau sanh tử và luân hồi ngay trong hiện tại, mà phải chờ đến nhiều kiếp sau.
Có người bảo tại vì chưa thể nhập được vào trí tuệ Bát Nhã, nên người tu mới khó thành như vậy. Lý Bát Nhã ư?
Nghĩ lại hồi năm trước khi còn là tu sĩ Tịnh độ, Thiền tông, hàng ngày chăm chỉ tụng kinh, bái sám, cuối mỗi thời kinh A Di Đà, Phổ Môn, hay ngồi thiền xong lại đọc tụng Bát Nhã Tâm Kinh, đọc nhiều đến nỗi không cần giở sách cũng có thể đọc tụng vanh vách, rõ ràng không sai một chỗ. Thuộc nằm lòng như vậy, mà vẫn không hiểu Bát Nhã Tâm Kinh ý nghĩa ra sao, và tu tập bằng cách nào để thể nhập được vào nó.
Hỏi các quí Thầy thì được trả lời đó là tính không của vạn hữu gọi là chân không diệu hữu, có nghĩa là từ tính “không” này sinh ra muôn vật muôn sự, để rồi muôn vật muôn sự lại trở về với tính không này. Bát Nhã Tâm Kinh chính là bài kinh chỉ về tính không của tâm, cũng chính là tính không của vạn hữu. Được hiểu như vậy, nhưng hỏi thế nào để thể nhập vào nó thì các quý thầy cũng không thể trả lời được. Chỉ biết giải thích ý nghĩa của bài kinh là như vậy thôi.
Ta thử đọc lại ý văn của bài kinh đó xem sao?
Bài kinh viết:
“Có một ngài Bồ tát (người đang tu, chưa thành Phật) khi ngồi tự tại quán một cách chuyên sâu bằng trí tuệ, soi vào năm uẩn, thì thấy năm uẩn đều mang tính không, liền thoát hết thảy mọi sự khổ ách.
Xá lợi tử ơi! (xá lợi là cốt Phật, xá lợi tử là chỉ về sự giác ngộ là Phật tính ở mọi người) Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
Xá lợi tử ơi! Cái tướng chân không của các pháp ấy không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt. Bởi thế cho nên, trong chân không ấy không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; cũng không có ý thức giới; không có vô minh; cũng không có cái gọi hết vô minh; không khổ, tập, diệt, đạo; không chứng cũng không đắc, bởi chẳng có gì gọi là đắc cả.
Bồ tát ba đời nương vào trí tuệ Bát Nhã thời được đắc quả giải thoát. Vậy trí tuệ Bát Nhã là chú đại thần, là chú đại minh, là chú vô thượng, là chú vô đẳng đẳng, chân thực bất hư. Nên có bài chú ấy là: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết tế, tát bà ha”.
Có người dịch tạm bài chú là: “Tiến lên, tiến lên, hãy cố gắng tiến lên đến bờ giác ngộ bằng trí tuệ lớn”.
Những ngày trước, khi đọc tụng Bát Nhã, tôi có một khao khát vô cùng, cái khao khát của một một người mong được chứng ngộ lý Bát Nhã, cũng giống như một người đang bị cơn đói lả dày vò, nhìn thấy chiếc bánh dành cho mình để ở trước mặt, vậy mà cố với tay để lấy mà không bao giờ lấy được.
Sau này, khi theo học với một vị đạo sư đã đắc quả giải thoát, tôi mới tự nhận ra chiếc bánh đó chỉ là một chiếc bánh vẽ ở trong mộng và muốn thể nhập vào tính không của vạn hữu cũng chỉ là ảo mộng mà thôi.
Chắc có người bảo rằng tôi dám khinh chê kinh Phật. Không dám đâu! Lời của Phật sao lại dám khinh chê. Ngài là hiện thân của trí tuệ vô thượng và của đức hạnh từ bi. Chỉ vì muốn cứu mình, cứu người ra khỏi bốn nỗi khổ lớn: sinh, già, bịnh, chết, mà Ngài từ bỏ giàu sang, danh vọng, đi tìm đường giải thoát cho mình và cho mọi người. Vì thế, lời nói của Ngài là chân lý, là hiện thực, làm sao lại dám khinh chê. Lời dạy của Ngài đáng để cho chúng ta phải kính trọng, ngưỡng mộ, học hỏi và tu tập, để noi theo gương hạnh của Ngài. Có một câu chuyện làm tôi thấm thía đức hạnh từ bi của Phật. Câu chuyện đó như sau:
Có một vị đệ tử của Phật suy nghĩ: “Không biết thế giới là vô thường hay thế giới là thường còn? Như Lai có tồn tại hay không tồn tại sau khi chết?” Người đó mang câu hỏi này đến để hỏi Phật, và nếu đức Phật không trả lời những câu hỏi đó làm cho vị ấy được thỏa mãn thì vị ấy sẽ không sống đời sống Phạm hạnh, trở về hoàn tục. Khi vị ấy đến gặp đức Phật, đức Phật nói: “Ta nào có nói với người thế giới là vô thường hay thế giới là thường còn, Như Lai có tồn tại hay không tồn tại sau khi chết thì người mới theo Ta sống đời sống Phạm hạnh. Nếu có ai có ý nghĩ ấy, thời này, người ấy sẽ chết vẫn không được Như Lai trả lời.
Ví như có một người bị mũi tên bắn, có tẩm thuốc độc. Bạn bè và bà con mời một thầy thuốc khoa mổ xẻ đến lấy mũi tên ra và săn sóc. Nhưng người ấy không cho rút mũi tên khi nào người ấy chưa biết được người bắn mũi tên là ai, cao hay thấp, béo hay gầy, thuộc giai cấp nào và ở đâu.
Người ấy không cho rút mũi tên ra, khi người ấy chưa biết được cây cung được làm bằng loại gỗ gì, mũi tên được làm bằng thứ gì. Người ấy sẽ chết mà vẫn không được biết gì.
Cũng vậy, dầu cho có quan điểm thế giới là vô thường hay thế giới là thường còn, Như Lai có tồn tại hay không tồn tại sau khi chết, thời vẫn có sinh, già, bịnh, chết, sầu, bi, khổ, não...” Chính vì vậy mà đức Phật đã không trả lời câu hỏi của vị đệ tử kia, mà đức Phật chỉ giảng dạy sự đoạn tận ngay trong hiện tại những nỗi khổ ấy.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy đức Phật rất thực tế, Ngài không nói lý luận, nếu lý luận ấy không nhằm vào mục đích giải thoát. Mọi người khi đến với Ngài, bằng những ví dụ, bằng những lời lẽ cụ thể, dễ hiểu. Ngài chỉ dạy thẳng vào vấn đề, để mọi người dễ nhận ra chân lý đâu là khổ, đâu là nguyên nhân gây ra khổ, và đâu là con đường diệt khổ, để bản thân có thể giải thoát ra khỏi những nỗi khổ đau.
Những năm trước, đọc tụng Bát Nhã thuộc nằm lòng như vậy, mà chẳng thấy nếm được mùi vị giải thoát. Nếu có ai đụng nhằm vào, làm trái ý nghịch lòng là nổi sân liền, hoặc gặp những chuyện bất toại nguyện trong cuộc đời là đau buồn khổ đau.
Quay trở lại bài Bát Nhã Tâm Kinh để xem xét bản kinh có đúng của Phật thuyết ra hay không? Nếu đúng là của Phật thuyết, thì bao giờ đức Phật cũng chỉ dạy cách thức tu hành cho mọi người.
Chúng ta thấy, bài kinh chỉ là một bài lý luận, giải quyết về mặt nhận thức giữa cái “không” và cái “có”. Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức đều cũng như vậy.
Mỗi quan hệ này chính là mối quan hệ nhân quả giữa cái “không” và cái “có”. Cái có được làm ra từ cái không nếu nó đủ nhân duyên. Cái có lại trở về cái không khi nhân duyên tan rã.
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức (thân ngũ ấm) là con người cụ thể của chúng ta. Từ lúc chúng ta chưa có mặt ở cõi đời này, lúc còn là cái không, khi tinh cha huyết mẹ và nghiệp lực từ kiếp trước, gặp đủ nhân duyên để hội tụ, chúng ta được sinh ra và có mặt ở đời. Khi chúng ta từ giã cõi đời, các nhân duyên tứ đại tan rã, lúc đó chúng ta lại trở về với cái không.
Toàn bộ bài kinh chỉ giải thích được mối tương quan nhân quả của cái “có” và cái “không”, mà thiếu đi phần hướng dẫn tu tập. Cho nên, bài kinh không có ý nghĩa thực tiễn, giúp hành giả giải thoát ra khỏi những nỗi khổ đau và sinh tử luân hồi. Chính người viết bài kinh này là ngài Long Thọ cũng cảm thấy lúng túng, cho nên chỉ còn biết kêu gọi: “Tiến lên, tiến lên, hãy cố gắng tiến lên, đến bờ giác ngộ bằng trí tuệ lớn”.
Đó là những lời hô hào suông, hứa hẹn suông.
Nếu chỉ nương vào mặt nhận thức hiểu biết mối tương quan giữa cái “không” và cái “có”, cái “có” được sinh ra từ cái “không”, mà cho rằng đó là trí tuệ lớn: “Bồ tát ba đời nương vào trí tuệ Bát Nhã, thời được đắc quả giải thoát”, là một ngộ nhận tai hại và lầm lẫn rất lớn!!!
Vì dù có hiểu biết được mối tương quan nhân quả của cái “có” và cái “không” thì với sự hiểu biết ấy vẫn chỉ nằm trong trí hữu hạn nhờ suy tư, lý luận mà có, vẫn còn nằm trong cái ngăn che (thức ấm).
Bát Nhã Tâm Kinh là kinh sách của phái Đại thừa phát triển viết ra, không phải là của Phật thuyết, cho nên nó không có ý nghĩa thiết thực cho người tu hành để đi đến sự giải thoát cứu cánh viên mãn như lời kinh hứa hẹn.
Với những người đã có kinh nghiệm tu chứng, thì Bát Nhã Tâm Kinh chỉ là một hý luận nói chơi cho vui tai mà thôi. Còn với người chưa có kinh nghiệm tu chứng; không được gặp thầy sáng hoặc những thiện hữu tri thức chỉ trình bày, thì Bát Nhã Tâm Kinh là một lý cao siêu khó thể nhập. Ví như người ốm đói ăn bánh vẽ mà không thể nào ăn được...
Sau khi đức Phật nhập diệt, sau thời kỳ những vị Thánh đệ tử cũng nhập diệt, trong Tăng đoàn lúc ấy không có người chứng đắc để lãnh đạo đồ chúng, vì những quyền lợi và kiến giải khác nhau, Tăng đoàn hình thành hai bộ phái:
1. Thượng tọa bộ 2. Đại chúng bộ Thượng tọa bộ là phái của những vị Tỳ kheo thủ cựu, trung thành với những thuyết truyền thống và những giáo huấn của đức Phật để lại mà tu tập.
Đại chúng bộ là phái của vị Tỳ kheo trẻ, cho rằng khi đức Phật t?i thế, thì đức Phật là hiện thân của Pháp bảo, và bản thân Ngài tùy lúc, tùy nơi mà thuyết pháp khác nhau, cho phù hợp với căn cơ của chúng sanh có nhiều sự sai biệt khác nhau. Khi đức Phật diệt thì Tăng chúng thanh tịnh là hiện thân của Pháp bảo. Tăng chúng nhất trí thành lập Pháp bảo, để giáo hóa chúng sinh, kinh sách cũng cần thay đổi cho phù hợp với thời đại để phù hợp với chúng sinh.
Vì thế, những vị Tỳ kheo trẻ này đòi thay đổi một số trong kinh sách của phái Thượng tọa bộ, nhưng phái này không nhất trí, nên trong Tăng đoàn có sự chia rẽ. Phái Thượng tọa bộ ôm kinh sách Phật để về phương Nam, hình thành phái Nam tông. Đại chúng bộ phát triển về phía bắc, hình thành phái Bắc tông hay còn gọi là phái Đại thừa phát triển. Phái này tự viết lấy kinh sách để truyền bá. Những kinh sách của phái này viết ra trừu tượng siêu hình, miễn cứ có lý, nghe xuôi tai là được. Còn ai tu hành ra sao thì không cần biết. Bát Nhã Tâm Kinh cũng là sản phẩm như vậy.
Chính vì kinh sách viết ra tùy tiện, lại do những người không có kinh nghiệm tu chứng soạn thảo, cho nên nó rất nguy hại. Như người mù dẫn dắt người mù, cả lũ theo nhau chết chìm cả đám.
Lý Bát Nhã, nếu thực hiểu, chỉ là quan hệ tương quan nhân quả của cái “không” và cái “có”, cái “có” và cái “không”.
Nhưng ở đây, Ngài Long Thọ đưa ra một chân lý mới, đó là chân lý “Chân Không” và để tránh hiểu lầm cái “không” đối đãi với cái “có” nên gọi là “chân không diệu hữu”. Từ luận điệu chân không diệu hữu này, Ngài Long Thọ đã xóa bỏ đi chân lý của đức Phật, đó là chân lý Tứ Diệu Đế.
Đức Phật đã dạy chân lý này trong suốt quá trình từ khi Ngài ngộ đạo đến khi Ngài nhập diệt. Nhờ đó mà các đệ tử của Ngài tu hành đắc đạo. Ở đây, Ngài Long Thọ đã thay thế bằng luận điệu “trong tướng chân không ấy, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có chứng, không có đắc, bởi chẳng có gì gọi là đắc cả”.
Chúng ta đã biết, do tư tưởng tự do phóng túng, phái Đại chúng bộ từ bỏ những giáo pháp c bản của Như Lai, ra đi để thành lập phái Đại thừa phát triển. Họ tự do suy tưởng, tự do viết lấy kinh sách, tự do nghĩ ra pháp hành.
Bằng tưởng luận, họ cho rằng “có” và “không” là hai mặt đối lập của thế giới nhị nguyên. Hai mặt đối lập này cũng xuất phát từ “chân không” mà thành. Nếu còn bị kẹt trong thế giới nhị nguyên là con người không được giải thoát.
Cho nên, bằng suy luận, các nhà Đại thừa đã xây dựng Pháp môn “bất nhị” tức là không hai, có nghĩa là việc phân biệt các pháp vốn không hai.
Không có Phật, không có chúng sinh, không có sinh tử, không có Niết bàn, không có mê, không có ngộ, không có phá giới, không có giữ giới. Bởi vì “sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc”.
Quan điểm này chúng ta có thể thấy rất nhiều qua các kinh sách, qua các phương pháp tu tập của các nhà Đại thừa soạn ra. Ngài Long Thọ khi viết Trung Quán Luận là để xoá bỏ những quan niệm “có” và “không”, để xây dựng cái “không quán”, thực chất là để xây dựng cái chân lý “chân không” thay thế chân lý Tứ Diệu Đế của Phật thuyết ra. Vì các nhà Đại thừa chủ trương còn phân biệt cố chấp tức là còn điên đảo vọng tưởng, chưa thể chứng nhập bản thể chân tâm mầu nhiệm. Họ cho rằng càng lý luận, băn khoăn, thắc mắc thì lại càng kẹt cứng vào lý luận khái niệm, và vì thế lẽ đạo vẫn mịt mờ, tăm tối, mông lung.
Bồ đề Đạt Ma, khi đến Trung Hoa để xây dựng phái thiền Đông Độ đã tuyên bố: “Không lập văn tự, truyền ngoài giáo lý, chỉ thẳng vào tâm, thấy tính thành Phật”. Ngài đã lấy tính nghe, tính thấy, tính biết làm Phật tính. Chỉ cần người tu ngộ được tính nghe, tính thấy của mình là giải thoát liền. Vì tính nghe tính thấy là vượt ra ngoài đối đãi.
Cũng đồng một tư tưởng với ngài Long Thọ, các nhà Thiền tông cho rằng: Nếu còn nghĩ tới vấn đề làm sao giải thoát thì người ta đã bị rơi vào thế giới ngăn cách giữa tội và phúc, giữa mê và ngộ, giữa sinh tử và Niết bàn, giữa phàm phu và Thánh trí. Bởi nếu có lý luận suy diễn, phải diệt trừ cái này chứng đắc cái nọ, là người ấy bị rơi vào quan điểm lưỡng nguyên, là đã xa rời Phật tính.
Có thể nêu ví dụ để minh chứng phương pháp tu tập của truyền thống Thiền tông qua các cuộc đối thoại như sau:
Một vị sư đến tham vấn Hòa thượng Đông Sơn:
- Phật là gì?
Hòa thượng đáp - Ba cân mè.
Hoặc một vị sư đến hỏi Triệu Châu - Ý Sư tổ từ Tây vực đến là gì?
Sư đáp:
Cây Tùng ở trước sân.
Hoặc có người đến hỏi Tuệ Trung Thượng sĩ:
- Thế nào là Pháp Thân thanh tịnh?
Sư đáp:
- Ra vào trong vũng nước đái trâu, chui rúc giữa đống phân ngựa.
Những câu đối đáp như vậy khiến người nghe phải bạt vía, kinh hồn. Bằng những công án đó, các nhà Thiền tông muốn làm dứt bặt mọi thứ thắc mắc, suy luận của người hỏi, để đưa họ về với cái Phật tính của mình. Nếu họ nhận được và sống với nó là được giải thoát. Ta thấy từ tư tưởng tự do phóng túng trong nhận thức, đã dẫn các nhà Đại thừa đến tự do phóng túng trong hành động, trong lối sống. Với quan niệm các pháp vốn không hai, chỉ cần biết dừng lại quay về với chính mình, để chủ động tự tại trong cuộc sống. Có nghĩa là cuộc sống vốn thế nào, hãy tự nhiên đúng như thế là được giải thoát. Vì vậy, một số các nhà Đại thừa đã có những hành vi kỳ dị, khiến mọi người phải ngạc nhiên, chẳng hạn:
Khi Lâm Tế đến gặp Tháp Chủ, Tháp Chủ hỏi:
- Lễ Phật trước hay lễ Tổ trước?
- Không lễ Phật cũng chẳng phải lễ Tổ.
- Phật, Tổ có oan nghiệt gì mà không lễ?
- Khi cưỡi đầu cọp, chớ vuốt râu hùm.
Nói xong, Sư cười khẩy, vảy tay áo và ra đi.
Hoặc Tế Điên Hòa thượng uống rượu, ăn thịt chó tì lì, không sợ người đời cười chê.
Hoặc Ngài Tuệ Trung Thượng sĩ xuống nước tắm với mọi người bằng tấm thân trần truồng không sợ xấu hổ, vì có ý nghĩ: không phải không giữ lễ, mà chỉ vì tùy nghi.
Những hành động cuồng phóng đó, các nhà Đại thừa gọi là những hành động phá chấp.
Ngày trước, khi tu tập theo Đại thừa, bản thân tôi phải sững sờ khâm phục trước tài trí và những hành động phóng khoáng của những vị này, cho rằng các vị này đã đạt được Thánh trí và chứng ngộ giải thoát, nên tư tưởng và hành động mới kỳ đặc làm vậy.
Ngày nay, được gặp chánh pháp của Phật, tôi mới thấy những hành động đó vô lối làm sao.
Những người có hiểu biết về đạo Phật không thể nào chấp nhận được. Sự giải thoát mà các nhà Đại thừa xây dựng chỉ là pháp tưởng. Đó không phải là sự giải thoát thật sự, đưa con người thoát ra khỏi đau khổ và sinh tử luân hồi.
Theo lý duyên sinh duyên khởi của mười hai nhân duyên là thế giới quan của đạo Phật đã xác định: “Vô minh duyên với hành, hành duyên với thức, thức duyên với danh sắc, danh sắc duyên với lục nhập, lục nhập duyên với xúc, xúc duyên với thọ, thọ duyên với ái, ái duyên với thủ, thủ duyên với hữu, hữu duyên với duyên sanh, duyên sanh duyên với già, bịnh, chết, sầu bi khổ não”.
Như vậy, 12 duyên này được hình thành là toàn bộ khổ uẩn được hình thành, là thế giới khổ đau hiện bày. Nếu vô minh diệt, dẫn đến thức diệt, hành diệt, dẫn đến già, chết, sầu bi khổ não diệt.
Như vậy toàn bộ khổ uẩn này chấm dứt. Theo lý duyên sinh duyên khởi như trên, thì “cái này có thì cái kia có, cái này diệt thì cái kia diệt”. Vì vậy, nhà Phật chủ trương diệt trừ tham ái, vì tham ái là nguồn gốc, là động lực đưa con người đến khổ đau và tái sinh luân hồi. Đó là sự giải thoát thật sự mà đạo Phật mang đến cho chúng ta và phương pháp tu tập của đạo Phật chỉ nhằm vào một mục đích là diệt trừ tham ái mà thôi.
Xét lại toàn bộ kinh sách và các phương pháp tu tập của các nhà Đại thừa lấy trí tuệ Bát Nhã làm nòng cốt, đến bây giờ chúng ta có thể nhận thấy rằng đó không phải là giáo pháp của đức Phật. Các giáo pháp của các nhà Đại thừa soạn viết ra là để bóp méo đạo Phật và dìm mất những giáo pháp chân chính của đạo Phật bằng những giải pháp do suy tưởng, khiến người tu dở sống, dở chết vì đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo. Nhưng người đời cứ ngỡ rằng đó là lời của Phật thuyết, cho nên bao đời nay, người tu chứng ngày một hiếm thấy.
Nếu muốn được giải thoát, đạt tới Niết bàn, không có con đường nào khác là chúng ta phải quay về nương tựa vào những lời dạy thật sự là những lời dạy nguyên thủy của đức Phật. Những lời dạy này nằm trong các bộ kinh sách nguyên thủy như Trung bộ kinh, Trường bộ kinh, được dịch từ tiếng Pali sang tiếng Việt do Hòa thượng Thích Minh Châu làm dịch giả.
Đạo sư của tôi cũng nương tựa vào những bộ kinh này tu tập mà thành đạo.
Trong những tập kinh sách đó, nhiều bài kinh hướng dẫn hành giả qua tu tập, phần đông được an trú chứng ngộ bằng thượng trí, chứng đắc cứu cánh viên mãn, đạt tới Niết bàn. Ví dụ như bài MÃLUNKYÃPUTTA đại kinh (Trung bộ kinh tập 2 bài số 64) để dẫn chứng, xin được tóm tắt bài kinh đó như sau:
“Một thời, Thế Tôn trú tại tịnh xá của ông Cấp Cô Độc. Thế Tôn hỏi các chúng Tỳ kheo có thọ trì năm hạ phần kiết sử do Ngài giảng dạy hay không. Được hỏi như vậy, Tỳ kheo MÃLUNKYÃPU A nói : Con có thọ trì năm hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy (5 hạ phần kiết sử là: thân kiến, nghi hoặc, giới cấm thủ, tham dục, sân nhuế). Đức Thế Tôn hỏi MÃLUNKYÃPU A vì cớ gì, vì ai mà ông thọ trì năm hạ phần kiết sử? Có phải các tu sĩ ngoại đạo cật vấn ông về ví dụ đứa con nít còn ngây thơ, trong trắng thì làm sao biết được thân kiến, nghi hoặc, giới cấm thủ, tham dục, sân nhuế? Thật sự các tùy miên này sống tiềm tàng trong nó?”.
Được nghe nói như vậy, ông Anan thỉnh Phật thuyết giảng năm hạ phần kiết sử cho các Tỳ kheo thọ trì. Đức Thế Tôn đã giảng cho các Tỳ kheo nguyên nhân dẫn đến năm hạ phần kiết sử và cách thức đoạn từ năm hạ phần kiết sử.
Đức Thế tôn nói: “Và này Ananda, thế nào là lộ trình đưa đến sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử?
Ở đây A Nan Đa, vị tỳ kheo do viễn ly các sanh y trước, do đoạn trừ các bất thiện pháp, do làm cho an tịnh các thân ác hành một cách toàn diện, ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm có tứ. Diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm , chứng và trú thiền thú ba. Chứng và trú thiền thứ tư, vị này chánh quán mọi sắc pháp, thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã. Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy. Sau khi giải thoát tâm ra khỏi các pháp ấy, vị ấy hướng tâm vào các Bất tử giới (trạng thái thân tâm bất động), và nghĩ rằng đây là tịch tịnh, đây là vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả ý, sự ái diệt, vô tham, đoạn diệt, Niết bàn. Nếu an trú vững chắc ở đây, vị này đạt đến sự đoan tận, thời do sự tham pháp, hỷ pháp của mình, do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sinh ở cảnh giới đoạn tận năm hạ phần kiết sử.
Ở đây, vị ấy tiếp tục đoạn tận các lậu hoặc và nhập Niết bàn, không phải trở lui đời này nữa”.
Con đường đi đến sự giải thoát là con đường thực hiện tam vô lậu học Giới, Định, Tuệ mà trong bài kinh đã chỉ ra cho chúng ta rất rõ. Khi chúng ta thực hiện giữ giới, là để xa rời các nương tựa trước đây đã làm cho chúng ta tham đắm và chấp trước (viễn ly các sanh y trước).
Do giữ giới, chúng ta xa rời những ham muốn, xa rời được các pháp ác, chúng ta bắt đầu đã làm chủ tâm mình.
Do giữ giới, chúng ta đã sống một nếp sống có đạo đức hơn.
Do tu tập các loại thiền định của Phật (Tứ Thánh định) chúng ta đang tập làm chủ cái thân của mình để an tịnh các thân hành một cách toàn diện và liên tục.
Khi đã nhập được vào Tứ thiền, thân và tâm trở thành bất động trước các pháp, vì lúc đó đã an chỉ tất cả hành, viễn ly tất cả ý (lúc đó trạng thái của thân không còn thở ra thở vào, tai không còn nghe thấy âm thanh bên ngoài nữa).
Nhập được vào trạng thái này, chúng ta không còn tham ái nữa (còn tham ái là còn động dục, dục sẽ tạo nghiệp làm nhân, làm duyên đưa chúng ta đi luân hồi tái sinh, chịu đau khổ).
An trú vững chắc trong Tứ thiền, hành giả hướng tâm tới sự đoạn tận các lậu hoặc, đoạn trừ các kiết sử trói buộc, hành giả hướng tâm đến Tam minh, thực hiện giai đoạn cuối cùng của Tam vô lậu học. Đó là tuệ chứng ngộ Vô thượng trí, chứng đắc cứu cánh viên mãn, thể nhập vào Niết bàn ngay trong cuộc sống.
Giáo pháp của Như Lai là để thực hành, chứ không phải là lý thuyết suông.
Nếu bằng con đường học vấn như các nhà Đại thừa hiện đang làm (mở những lớp đại học Phật giáo để học các kinh điển). Bằng con đường nhận thức đó, các vị chẳng bao giờ nếm được mùi vị giải thoát. Không những thế, các vị còn đang và sẽ hại những người khác, khiến cho biết bao phật tử bị lầm lạc đường tu.
Từ khi có các trường đại học Phật giáo ra đời, thì những nơi này chỉ đào tạo các ông Tiến sĩ.
Cho nên, những bậc Thánh tăng A La hán vắng bóng, không còn nữa. Vì thế mà các ông tăng Tiến sĩ sống bừa bãi, phạm giới, phá giới, sống một đời sống phi phạm hạnh.
Con đường tu chứng chân lý và giải thoát là con đường Thánh đạo tám ngành của đức Phật đã đề ra gồm có: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Trên các con đường đó, hành giả phải rèn luyện tu tập kiên trì thì sự chứng ngộ chân lý chắc chắn sẽ xảy ra.
Là một người trước đây bị nhiễm độc do kinh sách của Đại thừa đã làm tôi dở sống, dở chết, tụng kinh, niệm Phật, bái sám, ngồi thiền hoài hoài mà cuộc đời vẫn cứ khổ. Nay nhờ có nhân duyên gặp Thầy sáng, con đường tu của tôi đã rõ ràng, hiểu đúng hơn, hiểu rộng thêm về đạo Phật. Được Đại sư hướng dẫn, sự tu tập của tôi có được chút kết quả khiêm tốn.
Thấy rõ được cái đúng và lợi ích thiết thực của chánh pháp và cái nguy hại của tà pháp, tôi vô cùng thương những người còn bị kinh sách phát triển làm ảnh hưởng sai lệch đường tu.
Với những hiểu biết còn nông cạn, tôi viết những suy nghĩ này, mong rằng những ai đó có thiện duyên với tôi, đồng cảm với tôi thì những suy nghĩ này, nhận thức này cũng giúp được một phần lợi ích bé nhỏ.
Mong rằng những bậc cao minh hơn tôi chỉ dạy cho tôi những chỗ còn thiếu hiểu biết, để tôi càng ngày được hoàn thiện hơn. Xin chân thành tri ân.
Kinh ghi,
Tu Viện Chơn Như, ngày 12-7-2000
Thích Minh Đạo