Skip directly to content

43- CĂN BẢN CỦA ĐẠO PHẬT. CÂU HỎI HAY,.... Viên Hạnh

Cập nhật ngày : 09.07.2013    

Khái niệm căn bản của đạo Phật:

Hỏi 1: Lời dạy chính yếu của Đức Phật là gì?

BSD (Bhikkhu Shravasti Dhammika): Tất cả lời dạy chính yếu của Đức Phật tập trung vào giáo lý Tứ Diệu Đế, như một bánh xe nối các căm, niền và trục. Được gọi là "Bốn" vì tất cả có bốn điều. Gọi là "Diệu" vì người ta biết ngay đến sự quý báu và gọi là "Đế" vì phù hợp với hiện thực và chân thật.

VH (Viên Hạnh): Toàn bộ những lời dạy chính yếu của đức Phật là “Bốn Sự Thật” (Bốn Chân Lý) của loài người, còn được gọi là “Tứ Diệu Đế”. Tứ Diệu Đế đức Phật chỉ dạy một điều là khổ não và sự chấm dứt mọi đau khổ. Lời Phật dạy: “Như nước biển chỉ duy nhất có một vị là vị mặn của muối, Giáo lý của Như Lai chỉ có một vị là Giải thoát”.

Hỏi 2: Chân lý thứ nhất là gì?

BSD: Chân lý thứ nhất đề cập đến đời sống là khổ. Để sống bạn phải đau khổ. Không thể nào sống mà thiếu kinh nghiệm về khổ. Chúng ta phải chịu đựng cái khổ về thể xác như bệnh hoạn, mỏi mệt, chấn thương, già yếu và cuối cùng là chết. Chúng ta lại chịu đựng cái đau đớn về tâm lý như cô đơn, thất vọng, sợ hãi, chán nản, giận dữ, điên tiết....

VH: Chân lý thứ nhất là Khổ Đế. “Khổ đế là chân lý thứ nhất, tức là tâm Tham, Sân, Si. Tâm tham, sân, si là con người ai mà không có. Do tâm tham, sân, si mà con người đau khổ. Người giác ngộ được tâm tham, sân, si là khổ đau, là người giác ngộ được chân lý thứ nhất”. (TL Thích Thông Lạc – NLGPD tập IV). 

Kết luận: Tham, Sân, Si là Khổ Đế, đó là chân lý thứ nhất. 

Hỏi 3: Điều ấy có bi quan không?

BSD: Từ điển định nghĩa chữ bi quan là "một thói quen suy nghĩ về bất cứ việc gì xảy ra đều là xấu cả", hay "tin tưởng rằng cái xấu lúc nào cũng mạnh hơn cái tốt". Phật giáo không truyền dạy tư tưởng đó và cũng không bác bỏ sự hiện hữu của hạnh phúc. Một cách đơn giản Phật giáo cho rằng sống là phải trải qua khổ đau về thể xác và tâm lý, lời tuyên bố này rõ ràng không thể chối cãi được. Còn quan điểm của hầu hết các tôn giáo là hoang đường, một truyền thuyết hay một niềm tin khó có thể minh chứng được. Phật giáo bắt đầu bằng kinh nghiệm trên các sự kiện không thể phủ nhận, được mọi người cùng biết và tất cả những kinh nghiệm ấy, từng trải ấy phải cố gắng phấn đấu để vượt qua. Như vậy, Phật giáo đích thực là một tôn giáo phổ quát cho mọi người, bởi vì Phật giáo đã nhắm đúng vào mối quan tâm của mỗi cá nhân con người, khổ đau và làm sao để loại bỏ.

VH: Nhìn nhận cuộc đời là Khổ bằng tri kiến giải thoát và sự hiểu biết của trí tuệ soi sáng nên đạo Phật không bi quan yếm thế, cũng không lạc quan đắm nhiễm. Đạo Phật chấp nhận thực tiễn đời là khổ, thực sự khổ và quyết tâm trao dồi thân tâm để vượt thoát khỏi mọi khổ đau. Đức Phật dạy: “Đứng lại thì chìm (bi quan yếm thế), bước tới thì trôi dạt (lạc quan không tri kiến), chỉ có vượt qua (hiểu thấu nhân quả nên quyết vượt qua).  

Hỏi 4: Chân lý thứ hai là gì?

BSD: Chân lý thứ hai là tất cả khổ mọi đau đều có nguyên nhân của ái dục. Khi chúng ta quan sát về khổ đau của tâm lý, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra nguyên nhân của ái dục tạo ra. Khi ta muốn một điều gì đó mà ta không được toại nguyện thì ta cảm thấy thất vọng. Khi ta mong muốn một ai đó sống theo sự mong đợi của ta, nhưng họ không làm được, ta cảm thấy chán nản và thất vọng. Khi ta muốn mọi người giống mình mà họ lại không thì ta cảm thấy bị tổn thương. Thậm chí khi ta muốn một cái gì đó và có thể đạt được, nhưng nó cũng không luôn mang lại hạnh phúc vì không lâu sau đó chúng ta cảm thấy chán ngán, mất đi sự thích thú với nó và bắt đầu ham muốn cái khác. Nói chung, chân lý thứ hai đề cập đến những gì bạn muốn không đảm bảo được hạnh phúc. Thay vì liên tục nỗ lực để đạt được những gì mình mong muốn, tốt nhất bạn nên cố gắng làm giảm bớt lòng ham muốn của bạn. Ham muốn ấy đã tước mất đi sự niềm an lạc và hạnh phúc của chúng ta.

VH: Chân lý thứ hai là Tập Đế (tức là nguyên nhân của mọi sự khổ đau). “Tập đế là chân lý thứ hai tức là nguyên nhân sinh ra tâm tham, sân, si, đó là ÁI DỤC, ái dục tức là lòng ham muốn. Làm con người ai mà không có lòng ham muốn. Do tâm tham muốn mà sinh ra tâm tham, sân, si nên phải chịu nhiều khổ đau. Người giác ngộ được lòng ham muốn là nguyên nhân sinh ra khổ đau là người giác ngộ chân lý thứ hai. …” (TL Thích Thông Lạc – NLGPD tập IV).

Như vậy: Tập Đế tức là Nguyên Nhân sinh ra Khổ (Tham, Sân, Si). Nguyên Nhân của Khổ là Ái Dục (tức là lòng ham muốn).

Kết luận: Ái Dục là Tập Đế, đó là chân lý thứ hai. 

Hỏi 5: Nhưng làm thế nào niềm mong muốn và tham ái lại có thể đưa đến khổ đau về thể xác?

BSD: Trong đời người ta luôn muốn cái này, ham thích cái nọ và đặc biệt cái khát vọng liên tục đã tạo ra một hấp lực mạnh mẽ để rồi cuối cùng dẫn đến việc tái sinh. Khi chúng ta đã đầu thai thì chúng ta có thân thể và như đã nói ở trên, thân thể này dễ bị chấn thương, bệnh hoạn, già yếu và tử vong. Như vậy ái dục đã dẫn đến sự khổ cho thể xác, vì nó là nguyên nhân chính dẫn dắt ta vào trong vòng luân hồi.

VH: Vì mong muốn và tham ái lôi léo con người trở nên tham lam và đắm nhiễm, thích thú cái này, cái kia và cố gắng tìm mọi cách để đạt được những thứ mình mong muốn. Từ đấy họ hành động đôi khi vượt qua những giới hạn cho phép của con người, bất chấp những hành động đó là thiện hay ác, đã làm khổ mình, khổ người và khổ muôn loài hữu tình. Hành dộng như vậy, họ đã tạo ra bao nhiêu nghiệp xấu để rồi tiếp tục trôi lăn mãi mãi trong môi trường nhân quả. Dù dưới lốt nghiệp nào, con người hay những loài bàng sanh đều phải chịu muôn vàn đau khổ, không chỉ riêng thể xác mà cả tinh thần cũng luôn hoảng loạn âu lo.  

Hỏi 6: Điều đó rất hay, nhưng nếu ta gạt bỏ sự ham muốn thì chúng ta sẽ không bao giờ đạt được cái gì cả.

BSD: Đúng vậy, tuy nhiên Đức Phật muốn nói rằng khi sự ham muốn và tham ái, không thoả mãn những gì ta có và sự tham muốn không ngừng đó sẽ liên tục tạo ra nguyên nhân khổ đau. Do đó, ta nên loại bỏ sự tham muốn. Đức Phật khuyên chúng ta nên phân biệt rõ ràng giữa cái chúng ta cần và cái chúng ta thèm khát và hãy cố gắng vì nhu cầu giảm bớt sự ham muốn. Đức Phật dạy rằng nhu cầu của chúng ta có thể hoàn thiện nhưng lòng ham muốn của chúng ta thì vô cùng tận - như hố sâu không đáy. Có nhiều nhu cầu chính đáng, cơ bản, ta có thể đạt được và điều này khiến ta hướng tới. Vượt qua sự tham muốn bằng cách giảm đi lòng ham muốn ấy. Cuối cùng, mục đích của cuộc sống là gì? Hãy hài lòng và hạnh phúc với những gì mình có.

VH: “…nếu ta gạt bỏ sự ham muốn thì chúng ta sẽ không bao giờ đạt được cái gì cả”. Điều này chúng ta cần suy xét thêm rằng những gì chúng ta ham muốn và đạt được đó là “thiện” hay “bất thiện”, là “thiện hữu lậu” hay “thiện vô lậu”. Phân biệt được như vậy để chúng ta tùy chọn “ham muốn và đạt được” sao cho hợp lý.

Rõ ràng chúng ta cần chọn là “thiện” mà không nên “bất thiện”, bởi thiện thì bớt khổ đau, bất thiện thì khổ đau tràn ngập không bao giờ dứt. Càng nên chọn là “thiện vô lậu” chứ không nên “thiện hữu lậu”, vì thiện vô lậu là con đường chấm dứt khổ đau luân hồi sinh tử, còn thiện hữu lậu chỉ xoa dịu khổ đau chứ không bao giờ chấm dứt khổ.

Bước theo con đường Phật dạy “ly dục ly ác pháp” và tiến tới diệt tận hoàn toàn tâm “ái dục” là chúng ta đặt chân vào Niết-bàn. Niết-bàn là cái đạt được to lớn nhất mà con người ai cũng ước mong, ham muốn. Như vậy có ai ngờ “gạt bỏ sự ham muốn” là cái ta đạt được to lớn nhất không thể gì so sánh. Hỏi còn mong gì nữa? Nhưng “gạt bỏ ham muốn”, “ly dục ly ác” không phải việc dễ làm.

Hỏi 7: Ở Bạn có nói đến vấn đề tái sinh, nhưng có bằng chứng nào về việc này không?

BSD: Tất nhiên là có rất nhiều bằng chứng về điều này, nhưng chúng ta sẽ trở lại vấn đề này chi tiết ở chương sau.

VH: Về vấn đề tái sinh, đạo Phật dạy để mỗi người “đến để mà thấy”. Vậy thấy cái gì? Đó là “Trí tuệ Ba Minh”. Khi chứng đạt Tuệ Ba Minh thì xem biết vấn đề tái sinh như xem chỉ trong lòng bàn tay. Với “Thiên Nhãn thuần tịnh trong sáng…” đạo Phật thấy rất rõ sự tái sinh của muôn loài.

Đây lời Phật đã dạy: “…ví như mt tòa lu có thượng đài, gia ngã tư đường, mt người có mt đng trên y, s thy nhng người đi vào nhà, đi t nhà ra, đi qua li trên đường, ngi gia ngã tư hay trên đài thượng. Người y nghĩ: "Nhng người này đi vào nhà, nhng người này đi t nhà ra, nhng người này đi qua li trên đường, nhng người này ngi gia ngã tư, trên đài thượng". Cũng vy, này Ði vương vi tâm đnh tĩnh, thun tnh, không cu nhim, không phin não, nhu nhuyến, d s dng, vng chc, bình thn như vy, tỳ-kheo dn tâm, hướng tâm đến trí tu v sanh t ca chúng sanh. V y vi thiên nhãn thun tnh, siêu nhân, thy s sng và chết ca chúng sanh. V y biết rõ rng, chúng sanh người h lit, k cao sang, người đp đ, k thô xu, người may mn, k bt hnh, đu do hnh nghip ca chúng…” (Kinh Sa Môn Quả - Kinh Trường Bộ).

Hỏi 8: Chân lý thứ ba là gì?

BSD: Chân lý thứ ba nói về khổ đau có thể bị loại bỏ và đạt được hạnh phúc. Đây là điểm tối quan trọng trong Bốn Chân lý này, vì trong đó Đức Phật đã quả quyết rằng sự thỏa mãn và hạnh phúc thật sự sẽ có thể đạt được. Một khi chúng ta từ bỏ những ham muốn vô ích và học cách sống mới mỗi ngày một giờ, thưởng thức những kinh nghiệm cuộc sống đã cống hiến cho ta mà không bị những nhục dục quấy nhiễu và phá rối. Chúng ta kham nhẫn trước những rắc rối của cuộc đời mà không sợ hãi, sân hận, thù hằn, vì thế chúng ta được hạnh phúc và tự do. Như vậy và chỉ như vậy chúng ta mới sống trọn vẹn. Vì chúng ta không còn bị ám ảnh bởi việc thỏa mãn những ham muốn ích kỷ của riêng mình, nên chúng ta sẽ có nhiều thời gian để giúp đỡ người khác với những nhu cầu bức thiết của họ. Trạng thái này gọi là Niết-bàn. Chúng ta cũng không còn khổ đau về tâm lý. Đây là Niết-bàn tối hậu.

VH: Chân lý thứ ba là Diệt Đế.“Chân lí thứ ba là một trạng thái tâm không còn tham, sân, si, tức là trạng thái bất động tâm trước các ác pháp và các cảm thọ. Chính là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Người giác ngộ được trạng thái tâm này là người giác ngộ chân lí thứ ba”. (NLGPD tập IV – TL Thích Thông Lạc).

Kết luận: Tâm Không Còn Tham, Sân, Si là Diệt Đế, đó là chân lý thứ ba.

Hỏi 9: Niết-bàn là gì và ở đâu?

BSD: Đây là một chiều kích vượt thời gian và không gian nên khó thể luận bàn hay cả đến suy tưởng. Những danh từ và tư tưởng chỉ thích hợp để mô tả chiều kích của thời gian và không gian. Nhưng vì Niết-bàn vượt thời gian, không chuyển vận và vì thế không già hoặc không chết. Vì thế Niết-bàn là bất diệt. Vì vượt không gian nên không có sự tạo tác, không có ranh giới, không có khái niệm của ngã và vô ngã và do đó Niết-bàn là vô hạn. Đức Phật cũng quả quyết cho chúng biết rằng Niết-bàn là kinh nghiệm của một niềm hạnh phúc cao cả. Ngài tuyên bố:

"Niết-bàn là hạnh phúc tối thượng" -- Kinh Pháp Cú, 204

VH: Niết-bàn là một trạng thái của tâm khi đã đoạn tận các lậu hoặc. Đó là sự chân thật của chân lý thứ ba: Diệt Đế.

“Niết-bàn (Dit Đế) là mt trng thái tâm đã đon dit lòng ham mun và các ác pháp, người sng trong trng thái này được xem là đã gii thoát hoàn toàn, tc là người đã làm ch s sng chết ca mình, người làm ch s sng chết ca mình là người hnh phúc nht trên thế gian này. Đó là người hết kh.

Người ta thường bo Dit Đế là Niết-bàn như thế này, như thế n, đó là tưởng tri ca các nhà hc gi, nht là các nhà hc gi Đi Tha thì li ba ra đ loi Niết-bàn. Dit Đế không phi là mt cnh gii siêu hình như các nhà Đi Tha thường tưởng tượng và cho đó là nơi chư Pht thường trú. Nếu mt người đon dit lòng tham mun và các ác pháp thì cuc sng ca h là Niết-bàn ch không phi nơi đâu c.

Đc Pht gi Dit Đế là mt chơn lý tht s, mt trng thái tâm lý tht s không còn kh đau ca kiếp người. Ch không ging như các nhà hc gi phát trin xây dng nhng cnh gii Niết-bàn mơ h, tru tượng, o tưởng, nhng loi Niết-bàn này không được gi là chân lý vì nó là nhng cnh gii tượng tưởng ca con người, cho nên nó không tht có, ch duy nht có Dit Đế ca đo Pht mi được gi là chơn lý ca loài người mà thôi vì nó có tht. Khi chúng ta quán xét Dit Đế rõ thu trng thái tht s gii thoát ca đo Pht là ch đon dit lòng ham mun và các ác pháp. Rõ thu được như vy chúng ta mi có phương hướng nhm vào tng giây, tng phút đy lui toàn b lòng tham mun và các ác pháp trong ta. Khi đy lui lòng tham mun và các ác pháp trong ta thì đó là Dit Đế; thì đó là chúng ta đã đt được chơn lý ca kiếp sng làm người…” (ĐVXP tập II – TL Thích Thông Lạc).

Hỏi 10: Nhưng có chứng cớ gì cho chiều kích hiện hữu đó chăng?

BSD: Không, không có. Tuy nhiên sự hiện hữu của Niết-bàn có thể suy luận ra được. Nếu có sự đo lường được về sự vận hành của thời gian và không gian thì đó mới chính là thật là sự đo lường. Thế gian mà chúng ta đang sống, chúng ta có thể suy lường mà không thể đo đạt được sự vận hành của không gian và thời gian.

Trở lại, dù chúng ta không thể chứng minh Niết-bàn là hiện hữu, nhưng theo lời Đức Phật dạy Niết-bàn hiện hữu.

Phật dạy: "Có vô sinh, vô hữu, vô tác, bất hòa hợp. Nếu nói không như vậy thì cái vô sinh, vô hữu, vô tác, bất hòa hợp này cũng không thể tạo thành bất cứ hành động nào từ cái gì được sanh, trở thành. Nhưng bởi có vô sinh, vô hữu, vô tác, bất hòa hợp cho nên được làm ra để biết cái gì sinh ra, trở thành và hòa hợp". -- Ud 80.

Chúng ta sẽ biết được Niết-bàn chỉ khi nào chúng ta thực hành và đạt được nó.

VH: Đạo Phật nguyên thủy không giống như Phật giáo phát triển Bắc tông và Nam tông. Phật giáo phát triển luôn lo đi tìm “chứng cớ cho chiều kích hiện hữu” ảo tưởng của họ nên không bao giờ nhận chân được sự thật của chân lý thứ ba: Diệt Đế (Niết-bàn).

Chứng cớ của Niết-bàn là người tu sĩ đạo Phật phải thấy rõ: “Tâm tôi có tham, có sân, có si tôi biết tâm tôi có tham, có sân, có si. Tâm tôi hết tham, hết sân, hết si tôi biết tâm tôi hết tham, hết sân, hết si…”. Niết-bàn là “Trạng thái tâm Bất động, Thanh thản, An lạc và Vô sự”, đó là sự nhận biết hiện hữu chân thực, rõ ràng, đâu cần phải đi tìm một chứng cớ, chiều kích gì nữa cho phức tạp thêm vấn đề.   

Hỏi 11: Chân lý thứ tư là gì?

BSD: Chân lý thứ tư là con đường đưa tới sự chấm dứt khổ đau. Con đường này gọi là Bát Chánh Đạo, bao gồm: kiến thức chân chánh, suy nghĩ chân chánh, lời nói chân chánh, hành động chân chánh, mạng sống chân chánh, siêng năng chân chánh, nhớ nghĩ chân chánh và tu tập thiền định chân chánh. Người Phật tử thực hành theo tám pháp này thì sẽ thành tựu được phúc lạc một cách viên mãn. Bạn sẽ thấy mỗi bước trong Bát chánh đạo này bao hàm mọi lĩnh vực trong cuộc sống: tri thức, đạo đức, xã hội, kinh tế, tâm lý và do đó nó tiềm tàng mọi nhu cầu mà con người cần hướng đến một cuộc sống yên bình hạnh phúc và thăng hoa đời sống tâm linh.

VH: Chân lý thứ tư là Đạo Đế. “Đo Đế là phương pháp dy người tu hành có kết qu gii thoát tht s. Đo Đế là phương pháp tu sa, rèn luyn thân tâm con người có đo đc nhân bn không làm kh mình kh người chân tht. Biến cnh sng thế gian thành cnh gii Thiên đàng Cc lc. Đo Đế còn là phương pháp tu tp có đ tâm lc tnh thc làm ch sanh, già, bnh, chết tht s.

Đo Đế là mt chân lý tht s đúng đn không di gt, không la đo người, mi người nếu ai có nhit tâm mun thoát ra cnh kh ca thế gian vi đy đ nhit tâm nhit huyết x b nhng ác pháp và xa lìa lòng ham mun ca mình thường đy lui các chướng ngi pháp trong tâm, c gng áp dng và thc hành như vy thì đu có kết qu gii thoát như nhau. (ĐVXP tập II – TL Thích Thông Lạc).

Đạo Đế là một chương trình đào tạo, rèn luyện con người để chứng quả A-la-hán bao gồm 8 lớp: 1. Chánh Kiến; 2. Chánh Tư Duy; 3. Chánh Ngữ; 4. Chánh Nghiệp; 5. Chánh Mạng; 6. Chánh Tinh Tấn; 7. Chánh Niệm; 8. Chánh Định. Tám lớp này còn gọi là “Tám Chánh Đạo” hay con đường “Giới – Định – Tuệ”. Trong đó 5 lớp đầu từ lớp Chánh Kiến đến Chánh Mạng thuộc cấp Giới, lớp thứ 6 (Chánh Tinh Tấn) là trung gian, lớp thứ 7 (Chánh Niệm) và lớp thứ 8 (Chánh Định) thuộc cấp Định. Khi hoàn mãn Bốn Thánh Định thì Trí Tuệ hiển bày (Định sinh Tuệ).  

Kết luận: Tám Chánh Đạo là Đạo Đế, đó là chân lý thứ tư.   

Tham khảo thêm từ nguồn:

http://vnthuquan.org/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn4nvnnn31n343tq...