XXXVII. MANDĀRAVAPUPPHIYAVAGGO - PHẨM MANDĀRAVAPUPPHIYA
361. Ký Sự về Trưởng Lão Mandāravapupphiya
3180. Sau khi từ cõi trời Đạo Lợi đi đến nơi đây, người thanh niên tên Maṅgala đã cầm lấy bông hoa mandārava dành cho bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī.
3181. Tôi đã đặt ở trên đỉnh đầu của (đức Phật) đang ngồi nhập định. Sau khi đã duy trì bảy ngày, tôi đã trở về lại thế giới chư Thiên.
3182. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3183. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Mandāravapupphiya[60]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Mandāravapupphiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
362. Ký Sự về Trưởng Lão Kakkārupupphiya
3184. Sau khi từ cõi trời Dạ Ma đi đến vị Gotama vinh quang và quý trọng ở cõi người, tôi đã cầm lấy bông hoa kakkāru và đã dâng lên đức Phật.
3185. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường đức Phật trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3186. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kakkārupupphiya[61]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kakkārupupphiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
363. Ký Sự về Trưởng Lão Bhisamuḷāladāyaka
3187. Đấng Toàn Giác tên Phussa là bậc thông suốt về tất cả các pháp. Có ước muốn độc cư, bậc Trí Tuệ đã đi đến gần chỗ của tôi.
3188. Sau khi đã làm cho tâm được tịnh tín vào đấng Đại Bi, bậc Chiến Thắng ấy, tôi đã cầm lấy rễ và củ sen rồi đã dâng cúng đến đức Phật tối thượng.
3189. Kể từ khi tôi đã dâng cúng củ sen trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng củ sen.
3190. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Bhisamuḷāladāyaka[62]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Bhisamuḷāladāyaka là phần thứ ba.
--ooOoo--
364. Ký Sự về Trưởng Lão Kesarapupphiya
3191. Lúc bấy giờ, tôi đã là vị thầy về pháp thuật ở núi Hi-mã-lạp. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, vị có danh vọng lớn lao đang đi kinh hành.
3192. Khi ấy, tôi đã đặt ba bông hoa kesarī ở trên đầu, rồi đã đi đến gần và đã cúng dường đến bậc Toàn Giác Vessabhū.
3193. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3194. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kesarapupphiya[63]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kesarapupphiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
365. Ký Sự về Trưởng Lão Aṅkolapupphiya
3195. Lúc bấy giờ, bậc Giác Ngộ tên Paduma đã sống ở ngọn núi Cittakūṭa. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại ấy.
3196. Sau khi nhìn thấy cây aṅkola đã được trổ hoa, khi ấy tôi đã thu nhặt (bông hoa). Tôi đã đi đến gặp bậc Giác Ngộ và đã cúng dường đấng Chiến Thắng Paduma.
3197. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3198. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Aṅkolapupphiya[64]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Aṅkolapupphiya là phần thứ năm.
--ooOoo--
366. Ký Sự về Trưởng Lão Kadambapupphiya
3199. Đấng Toàn Giác có màu da vàng chói, tợ như cây cột trụ bằng vàng, có ba mươi hai hảo tướng, đang đi ở khu phố chợ.
3200. Sau khi ngồi xuống ở nơi cao quý của tòa lâu đài, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Tôi đã cầm lấy bông hoa kadamda và đã cúng dường đến đức Phật Vipassī.
3201. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3202. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kadambapupphiya[65]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kadambapupphiya là phần thứ sáu.
--ooOoo--
367. Ký Sự về Trưởng Lão Uddālapupphiya
3203. Lúc bấy giờ, đấng Giác Ngộ tên Anoma đã sống ở bờ sông Gaṅgā. Sau khi cầm lấy bông hoa uddālaka, tôi đã cúng dường đến bậc không bị đánh bại.
3204. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3205. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Uddālapupphiya[66]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Uddālapupphiya là phần thứ bảy.
--ooOoo--
368. Ký Sự về Trưởng Lão Ekacampakapupphiya
3206. Và bậc Giác Ngộ Upasanta sống ở trong vùng đồi núi. Tôi đã cầm lấy một bông hoa campaka và đã đi đến gần bậc Tối Thượng Nhân.
3207. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cầm lấy bằng hai tay và đã cúng dường đến đấng Hiền Trí Độc Giác tối thượng, bậc không bị đánh bại.
3208. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3209. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekacampakapupphiya[67]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekacampakapupphiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
369. Ký Sự về Trưởng Lão Timirapupphiya
3210. Tôi đi xuôi theo dòng nước ở bờ sông Candabhāgā. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, tợ như cây sālā chúa đã được trổ hoa.
3211. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cầm lấy bông hoa timira và đã rải rắc ở đỉnh đầu đấng Hiền Trí Độc Giác tối thượng.
3212. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3213. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Timirapupphiya[68]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Timirapupphiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
370. Ký Sự về Trưởng Lão Salalapupphiya
3214. Lúc bấy giờ, tôi đã là loài kim-sỉ-điểu ở bờ sông Candabhāgā. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu, đang đi kinh hành.
3215. Tôi đã thu hái bông hoa salala và đã dâng cúng đến đức Phật. Đấng Đại Hùng đã ngửi bông hoa salala có hương thơm của cõi trời.
3216. Sau khi thọ nhận, đấng Toàn Giác, bậc Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, đấng Đại Hùng đã ngửi (bông hoa), trong khi tôi đang nhìn xem.
3217. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đảnh lễ bậc Tối Thượng Nhân. Tôi đã chắp tay lên và đã leo lên ngọn núi lần nữa.
3218. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
3219. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Salalapupphiya[69]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Salalapupphiya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Phần Tóm Lược
Bông hoa mandārava, bông hoa kakkāru, củ sen, bông hoa kesara, bông hoa aṅkola, vị có bông hoa kadamba, bông hoa uddāla, một bông hoa campaka, bông hoa timira, và cả bông hoa salala nữa; (tổng cộng) có bốn mươi câu kệ.
Phẩm Mandāravapupphiya là phẩm thứ ba mươi bảy.
--ooOoo--