XV. CHATTAVAGGO - PHẨM CHATTA
141. Ký Sự về Trưởng Lão Atichattiya
1941. Khi đức Thế Tôn, bậc Tối Thượng Nhân Atthadassī viên tịch đã Niết Bàn, tôi đã cho thực hiện chiếc lọng che ở thượng tầng và đã dâng lên ở ngôi bảo tháp.
1942. Tôi đã nhiều lần đi đến và đã lễ bái ngôi bảo tháp của bậc Đạo Sư. Tôi đã thực hiện mái che bằng bông hoa và tôi đã đặt ở phía trên chiếc lọng che.
1943. Tôi đã cai quản Thiên quốc (trước đây) một ngàn bảy trăm kiếp, tôi không đi đến bản thể loài người; điều này là quả báu của việc cúng dường ngôi bảo tháp.
1944. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Atichattiya[18]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Atichattiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
142. Ký Sự về Trưởng Lão Thambhāropaka
1945. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Nhân Ngưu Dhammadassī đã Niết Bàn, tôi đã dựng lên cột cờ ở ngôi bảo tháp của đức Phật tối thượng.
1946. Sau khi tạo lập cái cầu thang, tôi đã bước lên ngôi bảo tháp tối thượng. Tôi đã cầm lấy bông hoa nhài và đã dâng lên ở ngôi bảo tháp.
1947. Ôi đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi sự thành tựu của bậc Đạo Sư của chúng ta! Tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường ngôi bảo tháp.
1948. Trước đây chín mươi bốn kiếp, mười sáu vị vua (cùng) tên Thūpasikkhara đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1949. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Thambhāropaka[19]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Thambhāropaka là phần thứ nhì.
--ooOoo--
143. Ký Sự về Trưởng Lão Vedikāraka
1950. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian bậc Tối Thượng Nhân Piyadassī đã Niết Bàn, với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã thực hiện viền rào bằng ngọc trai.
1951. Sau khi cho rải quanh với các viên ngọc ma-ni, tôi đã thực hiện viền rào tuyệt hảo. Sau khi thực hiện lễ hội ở viền rào, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
1952. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, có các người cầm giữ những viên ngọc ma-ni ở trên không trung; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.
1953. Trước đây một ngàn sáu trăm kiếp, ba mươi hai vị vua (cùng) tên Maṇippabhā đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1954. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Vedikāraka[20]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vedikāraka là phần thứ ba.
--ooOoo--
144. Ký Sự về Trưởng Lão Saparivāriya
1955. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, bậc Toàn Giác, sau khi phát cháy như là khối lửa, đã viên tịch Niết Bàn.
1956. Và khi bậc Đại Hùng đã Niết Bàn, đã có ngôi bảo tháp rộng rãi. Người người túc trực ngày và đêm ở gian nhà xá-lợi cao quý tối thượng.
1957. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã thực hiện vòng rào chắn bằng gỗ trầm hương. Và khi ấy, có làn khói phù hợp với ngôi bảo tháp được nhìn thấy.
1958. Trong khi được sanh lên ở cõi hữu, dầu ở bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi không nhìn thấy tôi có sự thua kém; điều này là quả báu của nghiệp phước thiện.
1959. Trước đây mười lăm kiếp, đã có tám vị (vua), tất cả các vị ấy có (cùng) tên Samatta, là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1960. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saparivāriya[21]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saparivāriya là phần thứ tư.
--ooOoo--
145. Ký Sự về Trưởng Lão Ummāpupphiya
1961. Khi đức Thế Tôn Siddhattha, đấng Bảo Hộ Thế Gian, vị thọ nhận các vật hiến cúng đã Niết Bàn, đã có lễ hội ở ngôi đại bảo tháp.
1962. Trong khi lễ hội dành cho bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha đang được tiến hành, tôi đã cầm lấy bông hoa ummā và đã dâng lên ngôi bảo tháp.
1963. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường bảo tháp.
1964. Và trước đây vào kiếp thứ chín, tám mươi lăm vị vua (cùng) tên Somadeva đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1965. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ummāpupphiya[22]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ummāpupphiya là phần thứ năm.
--ooOoo--
146. Ký Sự về Trưởng Lão Anulepadāyaka
1966. Tôi đã thực hiện vòng rào chắn ở cội Bồ Đề của bậc Hiền Trí Anomadassī. Tôi đã dâng cúng khối vôi bột và đã làm công việc tô trét.
1967. Sau khi nhìn thấy hành động đã được thực hiện khéo léo ấy, đấng Tối Thượng Nhân Anomadassī, bậc Đạo Sư, đứng ở Hội Chúng tỳ khưu đã nói lên những lời kệ này:
1968. “Do việc làm về vôi bột này và do các nguyện lực của tác ý, (người này) sẽ thọ hưởng sự thành đạt và sẽ chấm dứt khổ đau.”
1969. Tôi có vẻ mặt tịnh tín, có sự chăm chú, khéo được định tĩnh. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
1970. Trước đây tròn đủ một trăm kiếp không thiếu hụt, (tôi đã là) đức vua tên Sabbaghana, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1971. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Anulepadāyaka[23]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Anulepadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
147. Ký Sự về Trưởng Lão Maggadāyaka
1972. Bậc Hữu Nhãn vượt qua con sông nhỏ rồi đi vào khu rừng. Tôi đã nhìn thấy bậc Toàn Giác Siddhattha có ba mươi hai hảo tướng ấy.
1973. Tôi đã cầm lấy cuốc xẻng và cái giỏ rồi đã san bằng con đường ấy. Tôi đã đảnh lễ bậc Đạo Sư và đã làm cho tâm của mình được tịnh tín.
1974. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng đường đi.
1975. (Trước đây) năm mươi bảy kiếp, tôi đã là vị thống lãnh dân chúng độc nhất với tên Suppabuddha; vị lãnh đạo ấy là chúa tể loài người.
1976. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Maggadāyaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Maggadāyaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
148. Ký Sự về Trưởng Lão Phalakadāyaka
1977. Trong thời quá khứ, tôi đã là thợ đóng xe thuyền khéo được học tập về nghề mộc. Tôi đã thực hiện tấm ván bằng gỗ trầm hương và đã dâng cúng đến đấng quyến thuộc của thế gian.
1978. Cung điện bằng vàng khéo được hóa hiện ra này chói sáng. Phương tiện di chuyển bằng voi, phương tiện di chuyển bằng ngựa, phương tiện di chuyển của cõi trời được sẵn sàng.
1979. Các tòa lâu đài luôn cả các kiệu khiêng được sanh lên theo như ước muốn, châu báu của tôi không bị suy suyển; điều này là quả báu của tấm ván gỗ.
1980. (Kể từ khi) tôi đã dâng tấm ván gỗ trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của tấm ván gỗ.
1981. Trước đây năm mươi bảy kiếp, bốn vị (cùng) tên Nimmita đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1982. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Phalakadāyaka đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Phalakadāyaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
149. Ký Sự về Trưởng Lão Vaṭaṃsakiya
1983. Đấng Tự Chủ bậc không bị đánh bại tên Sumedha, trong khi thực hành hạnh độc cư, đã đi sâu vào khu rừng lớn.
1984. Sau khi nhìn thấy cây salala đã được trổ hoa, tôi đã buộc thành vòng hoa đội đầu. Tôi đã dâng lên đức Phật bằng cách đặt ở trước mặt đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
1985. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1986. (Trước đây) một ngàn chín trăm kiếp, mười sáu vị (cùng) tên Nimmita đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1987. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Vaṭaṃsakiya[24]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vaṭaṃsakiya là phần thứ chín.
--ooOoo--
150. Ký Sự về Trưởng Lão Pallaṅkadāyaka
1988. Tôi đã dâng cúng chiếc ghế bành có mái che ở phía trên đến đức Thế Tôn Sumedha, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy.
1989. Lúc bấy giờ, chiếc ghế bành ấy có đầy đủ bảy loại châu báu luôn luôn sanh lên cho tôi, đúng theo ý định của tôi.
1990. Kể từ khi tôi đã dâng cúng chiếc ghế bành trước đây ba mươi ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của chiếc ghế bành.
1991. (Trước đây) hai chục ngàn kiếp, ba người (cùng) tên Suvaṇṇābha (đã là) các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1992. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pallaṅkadāyaka[25]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pallaṅkadāyaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Phần Tóm Lược
Chiếc lọng che, cây cột (đèn), viền rào quanh, vị có nhóm tùy tùng, vị liên quan đến bông hoa umma, vị tô trét, vị dâng cúng đường đi, vị dâng cúng tấm ván gỗ, vị có vòng hoa đội đầu, vị dâng cúng chiếc ghế bành; (tổng cộng) có năm mươi sáu câu kệ đã được thuật lại.
Phẩm Chatta là phẩm thứ mười lăm.
--ooOoo--