Skip directly to content

XXIX. PAṆṆADĀYAKAVAGGO - PHẨM PAṆṆADĀYAKA

281. Ký Sự về Trưởng Lão Paṇṇadāyaka

2623. Tôi đã ngồi xuống trong gian nhà lá, có bữa ăn là vật thực bằng lá cây. Bậc Đại Hiền Trí đã đi đến gần tôi trong lúc tôi đang ngồi.

2624. Bậc Quang Đăng của thế gian Siddhattha là người thầy thuốc của tất cả thế gian. Khi Ngài đã ngồi xuống ở tấm thảm lá cây, tôi đã dâng cúng lá cây đến Ngài.

2625. Kể từ khi tôi đã dâng cúng lá cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng lá cây.

2626. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Paṇṇadāyaka[76]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Paṇṇadāyaka là phần thứ nhất.

--ooOoo--

282. Ký Sự về Trưởng Lão Phaladāyaka

2627. (Đức Phật Siddhattha) ấy có sự an tịnh sánh bằng núi Sineru, tợ như vật nâng đỡ trái đất, sau khi xuất khỏi thiền định đã đi đến gần tôi về việc khất thực.

2628. Và có những loại trái cây ngọt như trái harītaka, trái āmalaka, trái xoài, trái mận đỏ, trái vibhīṭaka, trái táo, trái bhallātaka, và trái billa.

2829. Với tâm ý trong sạch, tôi đã dâng cúng tất cả thức ấy đến bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha, vị có lòng thương tưởng đối với tất cả thế gian.

2630. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.

2631. Trước đây năm mươi bảy kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Ekajjha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2632. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Phaladāyaka[77]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

 Ký sự về trưởng lão Phaladāyaka là phần thứ nhì.

--ooOoo--

283. Ký Sự về Trưởng Lão Paccuggamaniya

2633. Bậc Nhân Ngưu đang đi đến, giống như loài sư tử lang thang ở trong rừng, giống như loài bò mộng thuần chủng, tợ như cây kakudha đang chói sáng.

2634. Với tâm ý trong sạch, tôi đã thực hiện việc đi ra tiếp đón đấng Quang Đăng của thế gian Siddhattha, vị thầy thuốc của tất cả thế gian.

2635. (Kể từ khi) tôi đã đi ra tiếp đón đấng Nhân Ngưu trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đi ra tiếp đón.

2636. Trước đây hai mươi bảy kiếp, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng tên Saparivāra, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

2637. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Paccuggamaniya[78]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Paccuggamaniya là phần thứ ba.

--ooOoo--

284. Ký Sự về Trưởng Lão Ekapupphiya

2638. Lúc bấy giờ, tôi đã là con yêu tinh ở cánh cổng phía nam. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, tợ như mặt trời có tia sáng màu vàng.

2639. Tôi đã dâng cúng một bông hoa đến bậc Tối Thượng Nhân Vipassī, vị có sự tầm cầu lợi ích cho tất cả thế gian, bậc Chúa Tể của loài người như thế ấy.

2640. Kể từ khi tôi đã dâng cúng bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

2641. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ekapupphiya[79]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ekapupphiya là phần thứ tư.

--ooOoo--

285. Ký Sự về Trưởng Lão Maghavapupphiya

2642. Ở bờ sông Nammadā, có đấng Tự Chủ là bậc không bị đánh bại. Ngài đã chứng đạt thiền định, được thanh tịnh, không bị chộn rộn.

2643. Sau khi nhìn thấy đấng Toàn Giác, bậc không bị đánh bại, tôi đã được tịnh tín, có tâm ý vui mừng, Khi ấy, tôi đã dâng cúng đấng Tự Chủ ấy với bông hoa maghava.

2644. Kể từ khi tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.

2645. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Maghavapupphiya[80]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Maghavapupphiya là phần thứ năm.

--ooOoo--

286. Ký Sự về Trưởng Lão Upaṭṭhākadāyaka

2646. (Tôi đã nhìn thấy) bậc Chúa Tể của loài người, đấng Long Tượng, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đang bước đi ở đường lộ.

2647. Sau khi cho người thỉnh mời bậc có sự tầm cầu lợi ích cho tất cả thế gian ấy, tôi đã dâng cúng người phục vụ đến bậc Đại Ẩn Sĩ Siddhattha.

2648. Sau khi tiếp nhận, đấng Toàn Giác bậc Đại Hiền Trí đã gởi trả lại (người phục vụ cho tôi), rồi đã từ chỗ ngồi ấy đứng dậy và ra đi, mặt hướng phía đông.

2649. Kể từ khi tôi đã dâng cúng người phục vụ trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phục vụ.

2650. Trước đây năm mươi bảy kiếp, (tôi đã là) vị tên Balasena, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.

2651. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Upaṭṭhākadāyaka[81]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Upaṭṭhākadāyaka là phần thứ sáu.

--ooOoo--

287. Ký Sự về Trưởng Lão Apadāniya

2652. Tôi đã ca ngợi sự nghiệp của các đấng Thiện Thệ đến bậc Đại Ẩn Sĩ. Được tịnh tín, tôi đã đảnh lễ bằng đầu và bằng các bàn tay của mình ở bàn chân (của bậc Đại Ẩn Sĩ).

2653. (Kể từ khi) tôi đã ngợi ca sự nghiệp (của chư Phật) trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc ca ngợi.

2654. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Apadāniya đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Apadāniya là phần thứ bảy.

--ooOoo--

288. Ký Sự về Trưởng Lão Sattāhapabbajita

2655. Hội Chúng của đức Thế Tôn Vipassī là được tôn sùng kính trọng. Có điều bất hạnh đã xảy đến cho tôi là trước đây thân quyến đã có sự chia rẽ.

2656. Tôi đã đi đến sự xuất gia nhằm làm lắng dịu điều bất hạnh. Tại nơi ấy, do sự mong mỏi Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, tôi đã được thỏa thích trong bảy ngày.

2657. Kể từ khi tôi đã xuất gia trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc xuất gia.

2658. Trước đây sáu mươi bảy kiếp, bảy vị lãnh chúa được biết đến với tên “Sunikkhama” đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

2659. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Sattāhapabbajita[82]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Sattāhapabbajita là phần thứ tám.

--ooOoo--

289. Ký Sự về Trưởng Lão Buddhupaṭṭhāka

2660. Lúc bấy giờ, tên của tôi là Veṭambarī. Người cha của tôi đã nắm lấy cánh tay của tôi và đã đưa tôi đến bậc Đại Hiền Trí.

2661. (Nghĩ rằng): “Chư Phật này, các đấng Lãnh Đạo cao cả của thế gian, sẽ chỉ dạy cho ta.” Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình phục vụ các vị ấy một cách tôn kính.

2662. Kể từ khi tôi đã chăm sóc chư Phật trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc phục vụ.

2663. Trước đây hai mươi ba kiếp, bốn vị Sát-đế-lỵ (cùng) tên Samaṇupaṭṭhāka đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.

2664. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Buddhupaṭṭhāka[83]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Buddhupaṭṭhāka là phần thứ chín.

--ooOoo--

290. Ký Sự về Trưởng Lão Pubbaṅgamiya

2665. Nhằm đạt đến mục đích tối thượng, chúng tôi tám mươi bốn ngàn người đã xuất gia, không còn sở hữu gì. Trong số các vị ấy, tôi đã là người đứng đầu.

2666. Và các vị này được thanh tịnh, không bị chộn rộn, dầu còn tham ái và còn sự tái sanh. Được tịnh tín, các vị này đã tự tay phục vụ (chư Thánh nhân) một cách tôn kính.

2667. Có các lậu hoặc đã được đoạn tận, có sân hận đã được tống khứ, có phận sự đã được hoàn thành, không còn lậu hoặc, các đấng Tự Chủ không bị đánh bại đã lan tỏa với tâm từ ái.

2668. Sau khi phục vụ chư vị đã tự mình giác ngộ, tôi có được niệm, nhưng tôi đã gần kề sự chết. Và chúng tôi đã đi đến bản thể chư Thiên.

2669. (Kể từ khi) tôi đã gìn giữ giới hạnh trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc tự chế ngự.

2670. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Pubbaṅgamiya[84]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Pubbaṅgamiya là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

Phần Tóm Lược

Lá cây, (các) trái cây, sự đi ra tiếp đón, vị có một bông hoa, và (vị có) bông hoa maghava, người phục vụ, sự nghiệp (của chư Phật), sự xuất gia, vị phục vụ chư Phật, vị đứng đầu; (tổng cộng) có bốn mươi tám câu kệ đã được thuật lại.

Phẩm Paṇṇadāyaka là phần thứ hai mươi chín.

--ooOoo--