XIV. SOBHITAVAGGO - PHẨM SOBHITA
131. Ký Sự về Trưởng Lão Sobhita
1870. Đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu thuyết giảng về vị thế Bất Tử đến tập thể dân chúng đông đảo.
1871. Sau khi lắng nghe lời nói của Ngài, tôi đã bật thốt lên lời. Khi ấy, tôi đã chắp tay lên và có sự chăm chú.
1872. “Giống như biển cả là đứng đầu trong số các nguồn nước, núi đá Neru là cao quý trong số các ngọn núi, tương tợ y như thế những người nào vận hành năng lực của tâm những người ấy không đạt được một phần trí tuệ của đức Phật.”
1873. Sau khi qui định đường lối trong Giáo Pháp, đức Phật, đấng Bi Mẫn, bậc Ẩn Sĩ, đã ngồi xuống ở Hội Chúng tỳ khưu và đã nói lên những lời kệ này:
1874. “Người nào đã ca ngợi trí tuệ về đức Phật, đấng Lãnh Đạo Thế Gian, người ấy sẽ không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
1875. (Người ấy) sẽ thiêu đốt các phiền não, có sự chăm chú, khéo được định tĩnh, sẽ trở thành Thinh Văn của bậc Đạo Sư, với tên là Sobhita.”
1876. (Trước đây) năm mươi ngàn kiếp, bảy vị (cùng) tên Yasuggata đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1877. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch, tam minh đã được thành tựu, tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
1878. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sobhita đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sobhita là phần thứ nhất.
--ooOoo--
132. Ký Sự về Trưởng Lão Sudassana
1879. Ở bờ sông Vitatthā, cây pilakkha đã được kết trái. Trong khi tìm kiếm giống cây ấy, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
1880. Sau khi nhìn thấy cây ketaka đã được trổ hoa, khi ấy tôi đã cắt ở cuống hoa và đã dâng lên đức Phật Sikhī, đấng quyến thuộc của thế gian.
1881. “Bạch đức Phật tối thượng, bạch bậc Đại Hiền Trí, với trí tuệ nào Ngài đã đạt được vị thế trường tồn Bất Tử, con xin cúng dường trí tuệ ấy.”
1882. Sau khi cúng dường trí tuệ, tôi đã nhìn thấy cây pilakkha, tôi đã được chứng đạt tuệ ấy; điều này là quả báu của việc cúng dường trí tuệ.
1883. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường trí tuệ.
1884. Trước đây mười ba kiếp, mười hai vị (cùng) tên Phaluggata đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1885. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sudassana đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sudassana là phần thứ nhì.
--ooOoo--
133. Ký Sự về Trưởng Lão Candanapūjaka
1886. Lúc bấy giờ, tôi đã là loài kim-sỉ-điểu ở bờ sông Candabhāgā. Và tôi đã có thức ăn là bông hoa, tương tợ như vậy có y phục là bông hoa.
1887. Và đức Thế Tôn Atthadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã đi ra ở phía trên chóp đỉnh của khu rừng, tợ như chim thiên nga chúa ở trên bầu trời.
1888. “Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Tâm của Ngài khéo được thanh tịnh. Ngài có khuôn mặt và ánh mắt an tịnh, có khuôn mặt và các giác quan trong sáng.”
1889. Bậc Trí Tuệ có tuệ bao la đã từ bầu trời bước xuống. Ngài đã trải ra tấm y hai lớp rồi đã ngồi vào tư thế kiết già.
1890. Tôi đã cầm lấy trầm hương hòa tan rồi đã đi đến gần đấng Chiến Thắng. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng lên đức Phật.
1891. Sau khi đảnh lễ đấng Toàn Giác, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, sau khi làm cho sanh khởi niềm hưng phấn, tôi đã ra đi, mặt hướng phía bắc.
1892. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường trầm hương (trước đây) một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1893. Trước đây một ngàn bốn trăm kiếp, ba vị (cùng) tên Rohita ấy đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1894. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Candanapūjaka[10]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Candanapūjaka là phần thứ ba.
(Tụng phẩm thứ tám).
--ooOoo--
134. Ký Sự về Trưởng Lão Pupphachadaniya
1895. Là vị giảng huấn, gắn bó với sự hiến cúng, vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật tên Sunanda đã cúng hiến cho lễ hiến cúng.
1896. Khi ấy, đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, bậc Cao Cả, đấng Bi Mẫn, bậc Ẩn Sĩ, trong lúc thương tưởng dân chúng đã đi kinh hành ở trên không trung.
1897. Sau khi đã đi kinh hành, bậc Toàn Giác, đấng Toàn Tri, bậc Lãnh Đạo Thế Gian, vị không còn mầm mống tái sanh, đã lan tỏa bằng tâm từ ái đến các chúng sanh một cách không giới hạn.
1898. Sau khi đã cắt các bông hoa ở cuống, vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật đã triệu tập lại tất cả các học trò rồi đã thảy (các bông hoa) lên không trung.
1899. Khi ấy, do nhờ năng lực của đức Phật, mái che của các bông hoa đã trải khắp cả thành phố và đã không biến mất trong bảy ngày.
1900. Do nhờ nhân tố trong sạch ấy, tôi đã thọ hưởng sự thành đạt. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi đã vượt qua sự ràng buộc ở thế gian.
1901. (Trước đây) 1100 kiếp, ba mươi lăm vị Sát-đế-lỵ có (cùng) tên Ambaraṃsa đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
xxxx. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Pupphachadaniya[11]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Pupphachadaniya là phần thứ tư.
--ooOoo--
135. Ký Sự về Trưởng Lão Rahosaññaka
1902. Ở không xa núi Hi-mã-lạp có ngọn núi tên là Vasabha. Ở chân ngọn núi ấy có khu ẩn cư đã được tạo lập.
1903. Khi ấy, là vị Bà-la-môn tôi đã chỉ dạy ba ngàn học trò. Sau khi triệu tập những người học trò ấy lại, tôi đã ngồi xuống ở một bên.
1904. Sau khi ngồi xuống ở một bên, là vị Bà-la-môn thông thạo về chú thuật, trong lúc tầm cầu về sự hiểu biết của đức Phật, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín ở trí tuệ (của Ngài).
1905. Tại nơi ấy, sau khi làm cho tâm được tịnh tín, tôi đã ngồi xuống ở tấm thảm bằng lá. Sau khi xếp vào tư thế kiết già, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
1906. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về trí tuệ.
1907. (Trước đây) hai mươi bảy kiếp, tôi đã là đức vua Siridhara, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1908. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Rahosaññaka[12]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Rahosaññaka là phần thứ năm.
--ooOoo--
136. Ký Sự về Trưởng Lão Campakapupphiya
1909. (Đức Phật) ngồi ở trong vùng đồi núi tợ như cây kaṇikāra đang cháy sáng, khiến cho tất cả các phương rực sáng tợ như vì sao osadhī.
1910. Đã có ba người thanh niên khéo được học tập về nghề nghiệp của mình cầm lấy túi vật dụng đi theo tôi ở phía sau.
1911. Có bảy bông hoa đã bị rụng xuống ở trong cái giỏ vì sức nóng. Tôi đã cầm lấy các bông hoa ấy và đã dâng lên (hướng tâm đến) trí tuệ của đức Vessabhū.
1912. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường trí tuệ.
1913. Trước đây hai mươi chín kiếp, (tôi đã là) vị tên Vipulābha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1914. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Campakapupphiya[13]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Campakapupphiya là phần thứ sáu.
--ooOoo--
137. Ký Sự về Trưởng Lão Atthasandassaka
1915. Tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian, bậc có lậu hoặc đã được đoạn tận, vị đã đạt năng lực, đang ngồi ở nơi khoảnh rừng rộng, được vây quanh bởi Hội Chúng tỳ khưu.
1916. “Một trăm ngàn vị có ba minh, có sáu thắng trí, có đại thần lực quây quanh bậc Toàn Giác, ai là người nhìn thấy mà không tịnh tín?
1917. Ở (thế gian) gồm cả chư Thiên, người có sự tương đương về trí tuệ không tìm thấy, ai là người nhìn thấy bậc Toàn Giác có trí tuệ vô biên mà không tịnh tín?
1918. Và người ta không thể làm tổn hại Pháp Thân đang chiếu sáng (giống như) toàn bộ hầm mỏ châu ngọc, ai là người nhìn thấy (Ngài) mà không tịnh tín?”
1919. Với ba lời kệ này, vị Nārada Saragacchiya đã ngợi ca về đấng Toàn Giác bậc không bị đánh bại Padumuttara.
1920. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm và do sự ngợi ca đức Phật, tôi đã không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
1921. Trước đây ba ngàn kiếp, (tôi đã là) vị Sát-đế-lỵ tên Sumitta, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1922. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Atthasandassaka[14]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Atthasandassaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
138. Ký Sự về Trưởng Lão Ekapasādaniya
1923. Tên của tôi là Nārada, mọi người biết tôi là (dòng dõi) Kesava. Trong khi tìm hiểu về điều thiện và bất thiện, tôi đã đi đến gần bên đức Phật.
1924. Trong khi an ủi chúng sanh, bậc Đại Hiền Trí Atthadassī, đấng Bi Mẫn có tâm từ ái, bậc Hữu Nhãn ấy thuyết giảng Giáo Pháp.
1925. Sau khi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín, tôi đã chắp tay ở đầu. Sau khi đảnh lễ bậc Đạo Sư, tôi đã ra đi, mặt hướng phía đông.
1926. (Trước đây) một ngàn bảy trăm kiếp, tôi đã là đức vua chúa tể trái đất, là đấng Chuyển Luân Vương tên Amittatāpana có oai lực lớn lao.
1927. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekapasādaniya[15]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekapasādaniya là phần thứ tám.
--ooOoo--
139. Ký Sự về Trưởng Lão Sālapupphadāyaka
1928. Lúc bấy giờ, tôi đã là vua của loài thú, là con sư tử đã được sanh ra cao quý. Trong khi tìm kiếm chỗ hiểm trở ở ngọn núi, tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
1929. “Vị này ắt hẳn là đấng Đại Hùng, người giúp cho đám đông dân chúng được (giải thoát) Niết Bàn. Hay là ta nên hầu cận vị Trời của chư Thiên, đấng Nhân Ngưu?”
1930. Sau khi bẻ gãy nhánh cây sālā, tôi đã mang lại bông hoa còn lớp vỏ bọc. Tôi đã đi đến gần bậc Toàn Giác và đã dâng cúng bông hoa tối thượng.
1931. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng bông hoa.
1932. Và trước đây vào kiếp thứ chín, ba vị vua tên Virocana đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1933. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sālapupphadāyaka[16]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sālapupphadāyaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
140. Ký Sự về Trưởng Lão Piyālaphaladāyaka
1934. Lúc bấy giờ, tôi đã là kẻ đồ tể, là kẻ giết hại các sanh mạng khác. Tôi nằm ngủ ở sườn núi không xa bậc Đạo Sư Sikhī.
1935. Tôi nhìn thấy đức Phật, bậc Lãnh Đạo cao cả của thế gian vào ban đêm và ban ngày. Nhưng vật xứng đáng để dâng cúng đến đấng Chúa Tể của loài người thì tôi không có.
1936. Tôi đã cầm lấy trái cây piyāla và đã đi đến gần đức Phật. Đức Thế Tôn, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã thọ nhận.
1937. Kế từ đó về sau tôi đã theo phục vụ đấng Hướng Đạo. Với sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
1938. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường trái cây trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
1939. Trước đây mười lăm kiếp, ba vị (tên) Piyālī đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1940. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Piyālaphaladāyaka[17]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Piyālaphaladāyaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Phần Tóm Lược
Vị Sobhita, vị Sudassana, (vị dâng cúng) trầm hương, (vị dâng cúng) mái che bằng bông hoa, vị suy tưởng về nơi thanh vắng, vị có bông hoa campaka, cùng với vị chỉ dạy về mục đích, vị có một lần tịnh tín, vị dâng cúng bông hoa sālā, và vị dâng cúng trái cây là thứ mười; (tổng cộng) có bảy mươi hai câu kệ đã được tính đếm bởi các bậc trí.
Phẩm Sobhita là phẩm thứ mười bốn.
--ooOoo--