XXI. KAṆIKĀRAPUPPHIYAVAGGO - PHẨM KAṆIKĀRAPUPPHIYA
201. Ký Sự về Trưởng Lão Kaṇikārapupphiya
2271. Sau khi nhìn thấy cây kaṇikāra đã được trổ hoa, khi ấy tôi đã hái xuống (bông hoa) và đã dâng lên (đức Phật) Tissa, bậc đã vượt qua dòng lũ như thế ấy.
2272. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2273. Trước đây ba mươi lăm kiếp, (tôi đã là) vị nổi danh tên Aruṇapāṇī, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2274. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kaṇikārapupphiya[1]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kaṇikārapupphiya là phần thứ nhất.
--ooOoo--
202. Ký Sự về Trưởng Lão Minelapupphiya
2275. Đức Thế Tôn Sikhī hùng tráng có màu da vàng chói, có trăm ánh hào quang, có sự huy hoàng, có tâm từ ái, đã bước lên con đường kinh hành.
2276. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, sau khi đảnh lễ bậc có trí tuệ tối thượng, tôi đã cầm lấy bông hoa minela và đã dâng lên đức Phật.
2277.(Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2278. Vào kiếp (thứ) hai mươi chín, (tôi đã là) vị tên Sumedhayasa, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2279. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Minelapupphiya[2]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Minelapupphiya là phần thứ nhì.
--ooOoo--
203. Ký Sự về Trưởng Lão Kiṅkiṇikapupphiya
2280. Bậc Toàn Tri, đấng Lãnh Đạo Thế Gian (sáng chói) trông tợ như cây cột trụ bằng vàng. Đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã lội xuống hồ nước lạnh và đã tắm.
2281. Với tâm phấn chấn, với ý vui mừng, tôi đã cầm lấy bông hoa kiṅkiṇi và đã dâng lên (đức Phật) Vipassassī, đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.
2263. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2283. Vào kiếp (thứ) hai mươi bảy, (tôi đã là) đức vua Bhīmaratha, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2284. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Kiṅkiṇikapupphiya[3]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Kiṅkiṇikapupphiya là phần thứ ba.
--ooOoo--
204. Ký Sự về Trưởng Lão Taraṇiya
2285. Đức Thế Tôn Atthadassī, bậc Chúa Tể của loài người, đấng Nhân Ngưu dẫn dầu các bậc Thinh Văn đã đi đến bờ sông Gaṅgā.
2286. Sông Gaṅgā đã tràn nước đến mé bờ khiến loài quạ có thể uống được, khó thể vượt qua. Tôi đã đưa đức Phật, bậc Tối Thượng của loài người, cùng với Hội Chúng tỳ khưu sang sông.
2287. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây một ngàn tám trăm kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc đưa sang (sông).
2288. Trước đây một ngàn ba trăm kiếp, năm vị (cùng tên) Sabbhogavā đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2289. Và trong kiếp sống cuối cùng này, tôi đã được sanh ra trong gia tộc Bà-la-môn. Cùng với ba người bạn, tôi đã xuất gia trong Giáo Pháp của bậc Đạo Sư.
xxxx. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Taraṇiya[4]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Taraṇiya là phần thứ tư.
--ooOoo--
205. Ký Sự về Trưởng Lão Nigguṇḍipupphiya
2290. Tôi đã người phụ việc tu viện của đức Thế Tôn Vipassī. Tôi đã cầm lấy bông hoa nigguṇḍi và đã dâng lên đức Phật.
2291. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi một kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2292. Trước đây ba mươi lăm kiếp, tôi đã là người độc nhất thống lãnh dân chúng tên Mahāpatāpa, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2293. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Nigguṇḍipupphiya[5]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Nigguṇḍipupphiya là phần thứ năm.
--ooOoo--
206. Ký Sự về Trưởng Lão Udakadāyaka
2294. Sau khi nhìn thấy vị Sa-môn có tâm ý thanh tịnh, không bị chộn rộn, đang thọ thực, tôi đã cầm lấy bình nước và đã dâng cúng đến (đức Phật) Siddhattha.
2295. Giờ đây, tôi không còn bợn nhơ, được xa lìa ô nhiễm, sự hoài nghi đã được đoạn tận. Trong khi sanh lên ở cõi hữu, quả báu tốt đẹp phát sanh (đến tôi).
2296. Kể từ khi tôi đã cúng dường nước trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng nước.
2297. Trước đây sáu mươi mốt kiếp, tôi đã là (vị có tên) Vimala độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2298. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Udakadāyaka[6]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Udakadāyaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
207. Ký Sự về Trưởng Lão Salalamāliya
2299. (Tôi đã nhìn thấy) bậc Điều Phục Nhân Siddhattha ngồi ở trong vùng đồi núi đang chói sáng như là cây kaṇikāra, đang làm cho tất cả các phương rực sáng.
2300. Khi ấy, không do dự tôi đã dùng cây cung và đã dương lên mũi tên. Sau khi đã cắt đứt bông hoa có luôn cả cuống, tôi đã dâng lên đức Phật.
2301. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
2302. Trước đây năm mươi mốt kiếp, tôi đã là (vị có tên) Jutindhara độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2303. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Salalamāliya[7]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Salalamāliya là phần thứ bảy.
--ooOoo--
208. Ký Sự về Trưởng Lão Koraṇḍapupphiya
2304. Trong khi đi theo sau từng bước chân của bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī, tôi đã nhìn thấy bàn chân đang bước đi được điểm tô dấu hiệu hình bánh xe (của Ngài).
2305. Sau khi nhìn thấy cây koraṇḍa đã được trổ hoa, tôi đã cúng dường (bông hoa) ở dấu chân (Ngài). Trở nên mừng rỡ, tôi đã đảnh lễ dấu chân tối thượng với tâm mừng rỡ.
2306. (Kể từ khi) tôi đã cúng dường bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường dấu chân (đức Phật).
2307. Vào kiếp thứ bảy mươi lăm, tôi đã là Vītamala độc nhất, là đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
2308. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Koraṇḍapupphiya[8]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Koraṇḍapupphiya là phần thứ tám.
--ooOoo--
209. Ký Sự về Trưởng Lão Ādhāradāyaka
2309. Chân đế bình bát đã được tôi cúng dường đến đấng quyến thuộc của thế gian Sikhī. Tôi cai quản toàn bộ trái đất này cùng với tất cả tài nguyên.
2310. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
2311. Trước đây hai mươi bảy kiếp, bốn người (cùng) tên Samanta-caraṇa đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
2312. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ādhāradāyaka[9]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ādhāradāyaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
210. Ký Sự về Trưởng Lão Vātātapanivāriya
2313. Tôi đã cúng dường một chiếc lọng đến đức Thế Tộn Tissa, vị Trời của chư Thiên như thế ấy, với tâm ý trong sạch.
2314. Điều ác xấu của tôi được chận đứng, có sự thành tựu của điều thiện. (Chư Thiên) nắm giữ chiếc lọng ở không trung (che cho tôi), điều này là quả báu của nghiệp quá khứ.
2315. (Đây là) lần sau cùng của tôi trong sự luân chuyển, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
2316. Kể từ khi tôi đã dâng cúng chiếc lọng trước đây chín mươi hai kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc lọng.
2317. Trước đây bảy mươi hai kiếp, tám bậc thống lãnh dân chúng (cùng) tên Mahānidāna đã là các đấng Chuyển Luân Vương.
2318. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Vātātapanivāriya[10]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Vātātapanivāriya là phần thứ mười.
--ooOoo--
Phần Tóm Lược
Bông hoa kaṇikāra, bông hoa minela, bông hoa kiṅkiṇi, và với sự vượt qua, vị có bông hoa nigguṇḍi, vị cúng dường nước, bông hoa salala, và bông hoa kuraṇḍaka, (vị dâng cúng) chân đế bình bát, lọng che nắng; (tổng cộng) có bốn mươi tám câu kệ.
Phẩm Kaṇikārapupphiya là phẩm thứ hai mươi mốt.
--ooOoo--