XII. MAHĀPARIVĀRAVAGGO - PHẨM MAHĀPARIVĀRA
111. Ký Sự về Trưởng Lão Mahāparivāra
1677. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Vipassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu đã đi vào thành Bandhuma cùng với sáu mươi tám ngàn vị.
1678. Sau khi rời khỏi thành phố, tôi đã đi đến ngôi bảo tháp ở trên đảo. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc Vô Nhiễm, vị thọ nhận các vật hiến cúng.
1679. Có tám mươi bốn ngàn Dạ-xoa ở lân cận (đã) phục vụ tôi một cách cung kính, tợ như các tập thể chư Thiên (phục vụ) vị thần Inda.
1680. Khi ấy, tôi đã đi ra khỏi cung điện và đã cầm lấy tấm vải. Tôi đã đê đầu đảnh lễ và đã dâng cúng đến bậc Đại Ẩn Sĩ.
1681. “Ôi đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi sự thành tựu của bậc Đạo Sư của chúng ta! Do nhờ năng lực của đức Phật, quả đất này đã rúng động.”
1682. Và sau khi nhìn thấy điều phi thường kỳ diệu khiến lông rởn ốc ấy, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín vào đức Phật, đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy.
1683. Sau khi làm cho tâm được tịnh tín và đã dâng cúng tấm vải đến bậc Đạo Sư, tôi đây cùng với các quan lại và đám tùy tùng đã đi đến nương nhờ (đức Phật).
1684. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1685. Trước đây mười lăm kiếp, đã có mười sáu vị tên Suvāhana, là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1686. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Mahāparivāra[50]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Mahāparivāra là phần thứ nhất.
--ooOoo--
112. Ký Sự về Trưởng Lão Sumaṅgala
1687. Đấng Chiến Thắng cao quý Atthadassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu sau khi rời khỏi trú xá đã đi đến hồ nước.
1688. Sau khi tắm và uống nước, bậc Toàn Giác, đức Thế Tôn, đã khoác lên một tấm y rồi đã đứng ở tại nơi ấy, quan sát khắp các phương.
1689. Tôi đã đi vào cung điện và đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian. Tôi đã trở nên mừng rỡ, với tâm mừng rỡ khi ấy tôi đã vỗ tay.
1690. Đức Phật đang chói sáng tợ như mặt trời, đang tỏa sáng tợ như khối vàng. Tôi đã ra sức trong điệu vũ lời ca và năm loại nhạc khí (cúng dường Ngài).
1691. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh, dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi vượt trội tất cả chúng sanh, danh tiếng của tôi là rộng khắp.
1692. “Bạch đấng Siêu Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch đấng Tối Thượng Nhân, con kính lễ Ngài! Bạch bậc Hiền Trí, sau khi làm cho bản thân được hoan hỷ Ngài đã làm cho những người khác được hoan hỷ. ”
1693. Sau khi xem xét rồi ngồi xuống, sau khi đã tạo niềm vui ở bậc có sự hành trì tốt đẹp, sau khi phục vụ đấng Toàn Giác, tôi đã sanh lên cõi trời Đẩu Suất.
1694. Trước đây một ngàn sáu trăm kiếp, đã có hai, rồi chín vị cùng tên Ekacintita, là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1695. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sumaṅgala đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sumaṅgala là phần thứ nhì.
--ooOoo--
113. Ký Sự về Trưởng Lão Saraṇagamaniya
1696. Cuộc giao chiến giữa hai vị Thiên Vương đang diễn tiến đã trở nên hỗn độn, tiếng kêu la ầm ĩ đã vang lên.
1697. Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, bậc Đạo Sư đứng ở không trung đã làm cho đám đông người bị giao động.
1698. Tất cả chư Thiên mừng rỡ, buông bỏ áo giáp và vũ khí, liền khi ấy đã đảnh lễ đấng Toàn Giác rồi ngồi xuống, có sự chăm chú.
1699. Biết được ý định của chúng tôi, Ngài đã cất cao giọng nói. Là bậc có lòng thương xót, đấng Hiểu Biết Thế Gian đã giúp cho đám đông dân chúng thành tựu Niết Bàn:
1700. “Người có tâm sân hận hãm hại một mạng sống, do sự sân hận ấy của tâm (người này) sanh vào địa ngục.
1701. Ví như con voi đối đầu trong chiến trận hãm hại nhiều mạng người, các ngươi hãy làm tâm của mình được tịnh lặng, chớ có giết hại lần này lần khác.”
1702. Ngay cả các binh đội của hai vị vua Dạ-xoa cũng đã bị kinh ngạc. Và họ đã đi đến nương nhờ đấng Trưởng Thượng của thế gian hoàn thiện như thế ấy.
1703. Bậc Hữu Nhãn đã khiến cho dân chúng suy tưởng, hơn nữa còn tiếp độ họ. Ngay trong khi đang cùng với chư Thiên xem xét, Ngài đã ra đi mặt hướng phía bắc.
1704. (Đây là) lần đầu tiên tôi đã đi đến nương nhờ đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy, tôi đã không đi đến khổ cảnh trong một trăm ngàn kiếp.
1705. (Trước đây) ba mươi ngàn kiếp, mười sáu vị vua lãnh đạo chiến xa tên Mahādundubhi đã là các đấng Chuyển Luân Vương.
1706. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Saraṇagamanīya[51]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Saraṇagamanīya là phần thứ ba.
--ooOoo--
114. Ký Sự về Trưởng Lão Ekāsaniya
1707. Lúc bấy giờ, tôi đã là vị Thiên Vương tên Varuṇa. Có binh lực và phương tiện di chuyển xứng đáng, tôi đã phục vụ đấng Toàn Giác.
1708. Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Tối Thượng Nhân Atthadassī đã Niết Bàn, tôi đã cầm lấy tất cả các nhạc cụ và đã đi đến cội Bồ Đề tối thượng.
1709. Tôi đã phối hợp (âm thanh của) chũm chọe vào lời ca và điệu vũ, tôi đã phục vụ cội Bồ Đề tối thượng tợ như (phục vụ) bậc Toàn Giác đang ở trước mặt.
1710. Sau khi phục vụ cội Bồ Đề ấy là loài thảo mộc mọc ở trên trái đất, tôi đã xếp chân vào thế kiết già và đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
1711. Được hài lòng với nghiệp của mình, tôi đã được tịnh tín đối với cội Bồ Đề tối thượng. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã sanh lên cõi Hóa Lạc Thiên.
1712. Trong khi luân chuyển ở cõi này cõi khác ở giữa loài người và ở giữa chư Thiên, có sáu mươi ngàn nhạc cụ luôn luôn vây quanh tôi.
1713. Trước đây năm trăm kiếp, đã có ba mươi bốn vị Sát-đế-lỵ tên là Subāhu, (các vị ấy) đã được thành tựu bảy loại báu vật.
1714. Đối với tôi, ba loại lửa đã được dập tắt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Tôi duy trì thân mạng cuối cùng ở Giáo Pháp của đấng Chánh Đẳng Giác.
1715. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Ekāsaniya[52]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Ekāsaniya là phần thứ tư.
--ooOoo--
115. Ký Sự về Trưởng Lão Suvaṇṇapupphiya
1716. Đức Thế Tôn tên Vipassī, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, đang ngồi thuyết giảng đạo lộ Bất Tử cho tập thể dân chúng.
1717. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài là đấng Chúa Tể của loài người như thế ấy, tôi đã dâng lên đức Phật bốn bông hoa bằng vàng.
1718. Khi ấy, đã có mái che bằng vàng (che) khắp cả hội chúng. Hào quang của đức Phật và vẻ sáng của vàng đã là nguồn ánh sáng bao la.
1719. Với tâm phấn chấn, với ý vui mừng, tràn đầy niềm phấn khởi, tôi đã chắp tay lên. Tôi đã là nguồn sanh lên niềm hạnh phúc, là sự đưa đến an lạc trong thời hiện tại cho những người ấy.
1720. Sau khi thỉnh cầu bậc Toàn Giác và đảnh lễ bậc có sự hành trì tốt đẹp, sau khi làm cho sanh khởi niềm hưng phấn, tôi đã đi về chỗ trú ngụ của mình.
1721. Bước vào chỗ ngụ, tôi đã tưởng nhớ đến đức Phật tối thượng. Do sự tịnh tín ấy ở trong tâm, tôi đã sanh lên cõi trời Đẩu Suất.
1722. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
1723. Trước đây bốn mươi ba kiếp, đã có mười sáu vị vua tên Nemisammata, là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1724. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Suvaṇṇapupphiya[53]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Suvaṇṇapupphiya là phần thứ năm.
--ooOoo--
116. Ký Sự về Trưởng Lão Citakapūjaka
1725. Tôi cư ngụ ở cội cây Rājāyatana cùng với các quan lại và đám tùy tùng. Khi ấy đức Thế Tôn Sikhī, đấng quyến thuộc của thế gian, Viên Tịch Niết Bàn.
1726. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đi đến nơi hỏa táng. Tại nơi ấy, sau khi trình tấu nhạc cụ, tôi đã đặt xuống vật thơm và tràng hoa.
1727. Sau khi cúng dường ở giàn hỏa thiêu, tôi đã đảnh lễ nơi hỏa táng. Tôi đã đi về chỗ trú ngụ của mình, với tâm tịnh tín, với ý vui mừng.
1728. 1729. Bước vào chỗ ngụ, tôi đã tưởng nhớ đến sự cúng dường lễ hỏa táng. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, tôi đã thọ hưởng sự thành đạt ở giữa chư Thiên và ở giữa loài người. Sau khi từ bỏ sự hơn thua, tôi đã đạt được vị thế Bất Động.
1730. (Kể từ khi) tôi đã dâng lên bông hoa trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường lễ hỏa táng.
1731. Trước đây hai mươi chín kiếp, mười sáu vị vua (có cùng) tên Uggata đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1732. Bốn (tuệ) phân tích, ―nt― tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Citakapūjaka[54]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Citakapūjaka là phần thứ sáu.
--ooOoo--
117. Ký Sự về Trưởng Lão Buddhasaññaka
1733. Lúc bấy giờ, đấng Cao Cả của thế gian Vipassī đã buông bỏ sự duy trì tuổi thọ. Quả địa cầu là trái đất có nước bao quanh đã rúng động.
1734. Vào lúc chấm dứt tuổi thọ của đức Phật, chỗ ngụ được lợp mái, được trải rộng, có tràng hoa khéo được trang hoàng của tôi cũng đã rúng động.
1735. Khi chỗ ngụ bị rúng động, nỗi sợ hãi đã sanh khởi ở tôi. Việc đã xảy ra là do nguyên nhân gì? Nguồn ánh sáng bao la đã xuất hiện là do nguyên nhân gì?
1736. (Thiên Vương) Vessavaṇa đã đi đến nơi ấy và đã trấn an đám đông dân chúng rằng: “Không có điều lo ngại cho sanh mạng, các người hãy có sự chăm chú, bình tĩnh.”
1737. “Ôi đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi sự thành tựu của bậc Đạo Sư của chúng ta! Trong khi điều ấy sanh khởi, quả địa cầu đã tự rúng động.”
1738. Sau khi đã tán dương năng lực của đức Phật, tôi đã sướng vui ở cõi trời một kiếp. Trong những kiếp còn lại, việc tốt lành đã được tôi thực hiện.
1739. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.
1740. Trước đây mười bốn kiếp, tôi đã là vị vua có sự huy hoàng tên Samita, là đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1741. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Buddhasaññaka[55]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Buddhasaññaka là phần thứ bảy.
--ooOoo--
118. Ký Sự về Trưởng Lão Maggasaññaka
1742. Bị lạc lối ở trong khu rừng bạt ngàn, các vị Thinh Văn có hạnh sống ở rừng của đức Phật Padumuttara đi quanh quẩn tợ như những người mù.
1743. Sau khi suy tưởng về bậc Toàn Giác danh hiệu Padumuttara, những người con trai ấy của bậc Hiền Trí ấy đã bị lạc lối ở trong khu rừng lớn.
1744. Từ chỗ ngụ, tôi đã bước xuống và đã đi đến bên các vị tỳ khưu. Tôi đã chỉ đường và đã dâng cúng thức ăn đến các vị ấy.
1745. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, vào lúc bảy tuổi tính từ khi sanh, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
1746. Trước đây năm trăm kiếp, mười hai vị tên Sacakkhu đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật.
1747. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Maggasaññaka[56]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Maggasaññaka là phần thứ tám.
--ooOoo--
119. Ký Sự về Trưởng Lão Paccupaṭṭhānasaññaka
1748. Lúc bấy giờ, ngay sau khi đấng Thiện Thệ Atthadassī tịch diệt, tôi đã sanh vào dòng giống Dạ-xoa, và tôi đã đạt được danh tiếng.
1749. Đối với tôi, quả thật là khó được thành tựu, khó được chói sáng, khó được vươn lên, là việc đấng Hữu Nhãn đã viên tịch Niết Bàn trong khi tôi đang tìm kiếm của cải.
1750. Vị Thinh Văn tên Sāgara đã biết được ý định của tôi. Có ý định tiếp độ tôi, vị ấy đã đi đến gần bên tôi (nói rằng):
1751. “Điều gì khiến ngươi sầu muộn? Này người khôn ngoan, chớ lo ngại, ngươi hãy thực hành Giáo Pháp. Sự thành tựu về hạt giống (giác ngộ) đã được đức Phật ban phát cho tất cả.
1752. 1753. Người cúng dường bậc Toàn Giác đấng Lãnh Đạo Thế Gian (khi Ngài) đang còn tại tiền, và người cúng dường xá-lợi của Ngài khi Ngài đã tịch diệt dầu chỉ nhỏ bằng hạt mù-tạt, khi niềm tịnh tín ở trong tâm là tương đương thì phước báu đạt được lớn lao là tương đương; vì thế ngươi hãy cho xây dựng ngôi bảo tháp rồi hãy cúng dường các xá-lợi của đấng Chiến Thắng.”
1754. Sau khi lắng nghe lời nói của vị Sāgara, tôi đã cho thực hiện ngôi bảo tháp của đức Phật. Tôi đã phục vụ ngôi bảo tháp tối thượng của bậc Hiền Trí năm năm.
1755. Do việc làm ấy ở nơi đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, sau khi thọ hưởng sự thành đạt tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.
1756. Và trước đây bảy trăm kiếp, bốn vị (cùng) tên Bhūripañña đã là các đấng Chuyển Luân Vương được thành tựu bảy loại báu vật, có oai lực lớn lao.
1757. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Paccupaṭṭhānasaññaka[57]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Paccupaṭṭhānasaññaka là phần thứ chín.
--ooOoo--
120. Ký Sự về Trưởng Lão Jātipūjaka
1758. Khi đấng Vipassī đang đản sanh, có nguồn ánh sáng bao la đã xuất hiện. Và quả địa cầu cùng với biển cả và núi non đã rúng động.
1759. Và các nhà tiên tri đã dự báo rằng: “Đức Phật, bậc cao cả đối với tất cả chúng sanh, sẽ xuất hiện ở thế gian và sẽ tiếp độ dân chúng.”
1760. Sau khi nghe lời nói của các nhà tiên tri, tôi đã thực hiện việc cúng dường đản sanh. Không có sự cúng dường nào như là sự cúng dường đản sanh.
1761. Sau khi thực hành việc tốt lành, tôi đã làm cho tâm của mình được tịnh tín. Sau khi thực hiện việc cúng dường đản sanh, tôi đã mệnh chung ở tại nơi ấy.
1762. Nơi chốn nào tôi đi tái sanh dầu là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, tôi vượt trội tất cả chúng sanh; điều này là quả báu của việc cúng dường đản sanh.
1763. Những người vú nuôi chăm sóc tôi thuận theo năng lực tâm của tôi, những người ấy không thể nào làm tôi nổi giận; điều này là quả báu của việc cúng dường đản sanh.
1764. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc cúng dường trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đản sanh.
1765. Trước đây vào kiếp thứ ba, ba mươi bốn vị thống lãnh dân chúng (cùng) tên Supāricāriya đã là các đấng Chuyển Luân Vương có oai lực lớn lao.
1766. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Jātipūjaka[58]đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Jātipūjaka là phần thứ mười.
--ooOoo--
Phần Tóm Lược
Vị có tùy tùng, vị Sumaṅgala, vị nương nhờ, vị có chỗ ngồi, vị dâng bông hoa, vị cúng dường lễ hỏa táng, vị suy tưởng về đức Phật, vị chỉ đường, vị có sự phục vụ, vị với sự đản sanh; (tổng cộng) có chín mươi câu kệ đã được nói lên và đã được tính đếm bởi các bậc trí.
Phẩm Mahāparivāra là phẩm thứ mười hai.
--ooOoo--
[1] Vidhūpanadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cái quạt (vidhūpana).”
[2] Sayanadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chiếc giường (sayana).”
[3] Gandhodakiyanghĩa là “vị liên quan đến nước (udaka) có hương thơm (gandha).”
[4] Saparivārāsananghĩa là “vị có vật thực (asana) và các vật phụ thuộc (parivāra).”
[5] Pañcadīpakanghĩa là “vị có năm (pañca) cây đèn (dīpaka).”
[6] Dhajadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) cây cờ (dhaja).”
[7] Asanabodhiyanghĩa là “vị liên quan đến cội Bồ Đề (bodhi) là giống cây asana.”
[8] Sakacintaniyanghĩa là “vị có sự suy nghĩ (cintana) của chính mình (saka).”
[9] Paccāgamaniyanghĩa là “vị có sự quay trở lại (pati-ā-gamana).”
[10] Parappasādakanghĩa là “vị tạo cho người khác (para) có được đức tin (pasādaka).”
[11]Là vị thứ ba trong số ba vị Phật Toàn Giác Vipassī, Sikhī, Vessabhū (ApA. 389).
[12] Bhisadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) củ sen (bhisa).”
[13] Sucintita nghĩa là “vị đã suy nghĩ (cintita) khôn khéo (su).”
[14] Vatthadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tấm vải (vattha).”
[15] Ambadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái xoài (amba).”
[16] Pupphacaṅgoṭiyanghĩa là “vị liên quan đến cái rương (caṅgoṭaka) có chứa đựng bông hoa (puppha).”
[17] Padasaññakanghĩa là “vị có sự suy tưởng (saññaka) về vết chân (pada) của đức Phật.”
[18] Bhisāluvadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) củ sen (bhisāluva).”
[19] Ekasaññakanghĩa là “vị có một lần (eka) suy tưởng (saññā).”
[20] Tiṇasantharadāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) tấm thảm (santhara) bằng cỏ (tiṇa).”
[21] Sūcidāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) kim khâu (sūci).”
[22] Pāṭalipupphiyanghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) pāṭali.”
[23] Ṭhitañjaliya nghĩa là “vị đã đứng (ṭhita) chắp tay (añjali).”
[24] Tipadumiya nghĩa là “vị liên quan đến ba (ti) đóa sen hồng (paduma).”
[25] Timirapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) timira.”
[26] Gatasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) đến con đường đức Phật đi qua (gata).”
[27] Adhopupphiyanghĩa là “vị liên quan đến bông hoa (puppha) adha.”
[28] Raṃsisaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) đến hào quang (raṃsi) đức Phật.”
[29] Bodhisiñcakanghĩa là “vị rưới nước (siñcaka) cội cây Bồ Đề (bodhi).”
[30] Padumapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến hoa (puppha) sen hồng (paduma).”
[31] Sudhāpiṇḍiya nghĩa là “vị liên quan đến cục (piṇḍa) vôi bột (sudhā).”
[32] Sucintitanghĩa là “vị đã suy nghĩ (cintita) khéo léo (su).”
[33] Aḍḍhacelakanghĩa là “vị liên quan đến một nửa (aḍḍha) mảnh vải (cela).”
[34] Sūcidāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) kim khâu (sūci).”
[35] Gandhamāliyanghĩa là “vị liên quan đến tràng hoa (māla) có hương thơm (gandha).”
[36]Ngài Vipassī đã chứng quả Phật tại cội cây pāṭali (TTPV 42, câu kệ 34, trang 189).
[37] Tipupphiyanghĩa là “vị liên quan đến ba (ti) bông hoa (puppha).”
[38] Madhupiṇḍikanghĩa là “vị liên quan đến khối (piṇḍa) mật ong (madhu).”
[39] Senāsanadāyaka nghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) chỗ nằm ngồi (senāsana).”
[40] Veyyāvaccaka nghĩa là “vị làm công việc phục dịch (veyyāvaccaka) đến đức Phật.”
[41] Buddhupaṭṭhākanghĩa là “vị là người phục vụ (upaṭṭhāka) của đức Phật (Buddha).”
[42] Ñāṇasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về trí tuệ (ñāṇa) của đức Phật.”
[43] Padapūjakanghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) ở bàn chân (pada).”
[44] Muṭṭhipupphiyanghĩa là “vị liên quan đến số bông hoa (puppha) ở nắm tay (muṭṭhi).”
[45] Udakapūjakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) nước (udaka).”
[46] Naḷamāliyanghĩa là “vị liên quan đến tràng hoa (mālā) sậy (naḷa).”
[47] Āsanūpaṭṭhāpakanghĩa là “vị thiết lập (upaṭṭhāpaka) bảo tọa (āsana) sư tử.”
[48] Biḷālidāyakanghĩa là “vị dâng cúng (dāyaka) trái cây biḷāli.”
[49] Reṇupūjakanghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bột phấn hoa (reṇu).”
[50] Mahāparivāranghĩa là “vị có đoàn tùy tùng (parivāra) đông đảo (mahā).”
[51] Saraṇagamanīya nghĩa là “vị liên quan việc đi đến (gamana) nương nhờ (saraṇa), tức là đã quy y.”
[52] Ekāsaniya nghĩa là “vị liên quan đến một (eka) chỗ ngồi (āsana).”
[53] Suvaṇṇapupphiya nghĩa là “vị liên quan đến đóa hoa (puppha) bằng vàng (suvaṇṇa).”
[54] Citakapūjakanghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) lễ hỏa táng (citaka).”
[55] Buddhasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về đức Phật (buddha).”
[56] Maggasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về con đường (magga).”
[57] Paccupaṭṭhānasaññaka nghĩa là “vị suy tưởng (saññaka) về sự chăm sóc phục vụ hầu hạ (paccupaṭṭhāna).”
[58] Jātipūjakanghĩa là “vị cúng dường (pūjaka) bông hoa nhài (jāti).”